Đỗ Hoàng phê bình thơ Hoàng Vũ Thuật...

Đỗ Hoàng phê bình thơ Hoàng Vũ Thuật...

ĐỖ HOÀNG PHÊ BÌNH THƠ HOÀNG VŨ THUẬT
Đỗ Hoàng
Thứ bảy, 09:19 Ngày 30/01/2021
Trong cuộc sống, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật sống chân tình chung thủy vợ con, cưu mang bạn bè, người thân; nhưng trong sáng tác thì Hoàng Vũ Thuật rất ưa làm hàng giả. Giả trong cách lập tứ, chọn từ, đặt câu, thi tứ, mô phỏng. Cái giả nó đeo theo nhà thơ từ khi chập chững vào nghề cho đến hôm nay đã thất thập cổ lai hy, đầu suy tứ chi!
Nghĩ cho cùng không phải lỗi của Hoàng Vũ Thuật, mà nói như từ thông dụng bây giờ là lỗi cả một hệ thống. Cả thế hệ cứng như một thỏi sắt (Lưu Quang Vũ). Nhiều lớp lớp làm nhà ca học, hót học, hát học, cười học… Trùng trùng điệp điệp cổ động viên tự giác và không tự giác.
Đến nỗi như nhà thơ Phạm Tiến Duật nổi tiếng nhất trong thơ chống Mỹ cũng làm “nhà cười học” khi viết bài thơ tình Cái chao đèn duyên tình thế mà phải thêm hai câu kết rất dở hơi mới được in và mới được phổ biến:
CÁI CHAO ĐÈN
Con trai đội nón bao giờ
Vì mưa nên phải đi nhờ nón em
Bấy lâu mũ sắt đội quen
Buồn cười cái nón tòn ten trên đầu.
Khoảng râm là ánh sáng màu
Của tình yêu đội trên đầu đó em.
Hông hồng khuôn mặt xinh quen,
Nón bài thơ cái chao đèn của anh!
Khi đưa in, nhà biên tập không đồng ý vì cả nước đang đánh giặc mà nhà thơ lại làm thơ tình thuần túy. Bất đắc dĩ, Phạm Tiến Duật phải viết thêm hai câu kết không ăn nhập gì để được in:
Mũ va vào mũ lanh canh
Đường xa nhớ nón che anh buổi nào!
Rồi tiếp đến nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ suốt thời chống Mỹ nằm hầm ở thôn Phú Vinh (Trụ sở Hội Văn nghệ Quảng Bình đóng) cũng phịa, tưởng tượng ra mình là bộ đội hoặc thanh niên xung phong hành quân:
Đơn vị tôi hành quân qua con đường mòn
Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái
(Khoảng trời và hố bom)
Và dùng nhiều câu đại ngôn, hô khẩu hiệu sáo mòn để cổ động:
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa.
(Bài đã dẫn)
Nhà văn Dương Thu Hương cũng vậy. Tưởng tượng mình là chiến sỹ lái xe đi trên đường gặp nhiều hoa Trâm Lê (hoa phịa) hứa sẽ làm tròn nhiệm vụ ngoài tiền tuyến cho hậu phương yên tâm sản xuất…
Thế hệ Hoàng Vũ Thuật là thế hệ chống Mỹ. Cả nước gồng lên đánh một đế quốc giàu mạnh nhất thế gới nên văn chương cũng gồng lên nhiều lần để phục vụ cho mục đích đánh giặc:
Ta lại viết bài thơ báng súng
Con đứng lên viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.
(Hoàng Trung Thông)
Tố Hữu nhà thơ của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng viết:
Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương!
Cho nên cả nước từ văn chương, thơ ca, nhạc, họa đều phải vót chông trước khi vót văn.
Hồi ấy in ấn rất khó khăn từ trung ương đến địa phương. Văn thơ không nói về bom đạn, hỏa tuyến, đánh giặc, bắn máy bay, bộ đội, thanh niên xung phong, ta thắng địch thua… thì rất khó in.
Hội văn nghệ Quảng Bình có tờ Văn nghệ Quảng Bình, anh em phải xếp hàng nhiều năm mới có bài đăng.
Một lần Hoàng Vũ Thuật đưa bài “Quả ổi trong vườn chín sớm” đến Ban biên tập để duyệt.
Nội dung là tả trái ổi trong vườn bị viên bom bi găm vào nên nó chín sớm. Ban biên tập mới phê rằng: “Sự việc có thật nhưng người viết đã chọn không điển hình nên nó thành giả. Bom đạn Mỹ ném bom, bắn súng hàng ngày để bao nhiêu người chết, súc vật chết, không viết, mà viết quả ổi bị bom bi chín sớm vừa sến, vừa nhẹ tênh, gượng gạo thế nào! Có sự việc không có thật nhưng nhà thơ điển hình hóa nó lên thì đọc như là thật.”
Từ đó Hoàng Vũ Thuật đi tìm cái điển hình hóa không thật để làm cho nó thật. Nhưng tai hại thay, sau khi văn chương cổ động tuyên truyền qua đi thì những cái giả nó lại lai hoàn giả, không thể chấp nhận được:
Qua ải Bắc, đèo Nam
Qua Trường Sơn nắng mưa dằng dặc
Anh thành người con trai suốt đời đi đánh giặc
(Cây Nhạc ngựa)
Hoàng Vũ Thuật thì không một ngày mặc áo lính, không biết khẩu AK lắp đạn như thế nào, một băng đạn có mấy viên và bắn liên thanh hay bắn ba phát một thì địch mới sợ, nhưng Hoàng Vũ Thuật hay thay lời người ra trận làm thơ cổ động chiến đấu, hay đánh giặc trên giường(!). Điều này cũng không vấn đề gì, xưa nay mọi người vẫn làm, miễn là hay xúc động là được. Đằng này bài Cây nhạc ngựa vừa giả vừa dở, vừa không có một chút gì gọi là thi pháp nên nó rất phản cảm. Mặc dầu bài này được giải thưởng thơ báo Văn nghệ đâu năm 1986. Rồi tập Tháp nghiêng cũng được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Giải thưởng dù giải địa phương, dù giải trung ương đều đáng trân trọng. Nhưng lấy giải thưởng mà đo chất lượng một đời thi ca là một việc hoàn toàn sai lầm. Vì giải thưởng chỉ phục vụ cho một giai đoạn, một hoàn cảnh nhất định, một chính thể cụ thể. Bài Cây nhạc ngựa vừa giả dối, vừa kém thi pháp, vừa gần như mô phỏng nhiều câu của Phạm Ngọc Cảnh trong bài thơ Lý ngựa ô ở hai vùng đất:
Mai xa rồi, em nhớ anh không?
Trăng lại tròn vầng trăng biên cương
Ngựa tung bờm trắng thảo nguyên gió.
….
Cỏ vô tận cho lòng anh rong ruổi
(Cây nhạc ngựa – Hoàng Vũ Thuật)
Ngựa tung bờm bay qua biển lúa
Ngựa ghìm cương nơi sông xòe chín cửa

Gặp câu hát bền lòng rong ruổi mãi
(Lý ngựa ô ở hai vùng đất - Phạm Ngọc Cảnh)
Cha ông ta đã từng viết về người lính suốt đời đánh giặc một cách nghệ thuật tài tình:
Ban Siêu quy thời mấn dĩ hoa
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm)
Là biết chàng Siêu suốt đời đánh giặc rồi, cần gì mà nói:
Anh thành người con trai suốt đời đánh giặc!
Viết thế, vừa không thơ, vừa không thật, vừa ảnh hưởng thơ người khác:
Cái giả của Hoàng Vũ Thuật đi vào cả đề tài tình yêu:
…Rồi em làm quan tòa
Đưa anh ra xử án
Và có thể cao hơn
Đem pháp trường xử bắn.
Mặc tất anh chẳng cần
Sợ gì giây xích sắt
Nếu đạn bắn vào anh
Sẽ làm em chết mất!...
(Không đề)
Lúc đầu Hoàng Vũ Thuật viết câu kết Nếu đạn bắn vào anh/ Sẽ làm em chết ngất
Anh em góp ý là chết ngất là chết giả. Hoàng Vũ Thuật sửa lại chết mất cũng là chết giả nốt. Mình như thế nào, là vua chăng, là thượng đế chăng mà người tình có thế chết(!). Vua và thượng đế đầy quyền lực đấy nhưng người tình chưa chắc đã thèm chết. Ngay thần Juipite bá chủ Olimpơ mà đã có người tình nào chết đâu!
Hoàng Vũ Thuật rất chủ quan, rất không thực chút nào. Thật ra nhà thơ chẳng hiểu gì quy luật tâm lý. Chín con chưa thật mặt chồng, huống gì mới tình tang đôi lứa ngoài đường, người con trai trộm yêu người con gái. Việc này vô cùng giả dối.
Giang Nam thật tình hơn:
Hôm nay nhận được tin em
Dù không tin đó là sự thật
Giặc giết em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi.
Đau xé lòng anh chết nửa con ngươi!
(Quê hương – Giang Nam)
Chết nửa con người của Giang Nam là chủ thể, nó thực nên thuyết phục người đọc, đọc xúc động đến hôm nay.
Hoàng Vũ Thuật viết đã giả lại quá cũ như hai nghìn năm trước:
Giữa bãi cát vàng em là cây
Bóng em đổ xuống hai vai gầy
Anh ngồi trưa nắng như thiêu đốt
Mỗi chiếc lá xanh một bàn tay…
(Em là)
Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường
Trân châu liêm bạc yểm lan đường
Hoành thùy bảo ác đồng tâm kết
Bán phất quỳnh diên tô hợp hương…
(Đảo thiên y – Lý Bạch)
Trăng sáng cao vời giờ điểm đây.
Nhà lan châu ngọc ánh vơi đầy.
Tấm lòng cùng kết bên màn liễu,
Phảng phất chiếu quỳnh hương ngất ngây!...
(Đỗ Hoàng dịch)
Gần bảy mươi tuổi, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật tự lột xác mình, cố gắng đổi mới, phá bỏ cách viết cũ và giả của mình gần 60 năm qua. Nếu thế thì đáng quý biết bao, dù còn sống một giây cũng phải đổi mới, nhưng tiếc thay Hoàng Vũ Thuật chẳng có đổi mới gì mà chỉ sa đà vào tắc tỵ, bí hiểm, cầu kỳ rắc rối, tù mù, hũ nút, không còn một chút rung động thi ca. Chỉ có rặt những kiểu nói tắc tỵ, bí hiểm, đánh đố mình, đánh đố người đọc vì một kiến văn thiển cận, kiến thức hạn hẹp, rất nhiều chỗ hỏng trong học vấn, ít từng trải, sai cả quy luật tâm lý, quy luật tự nhiên, xã hội…
Được các bác sỹ đỡ đẻ hải ngoại quanh năm ngồi trong phòng sản phụ đỡ con Mỹ đen, các học giả, học thật, tiến sỹ bò tung hô… nên Hoàng Vũ Thuật càng dấn sâu vào quái thai, kỳ quặc, lởm khà lởm khởm, tắc tỵ…
Đặt tựa đề một cách tù mù, đánh đố:
Mãi viên trà, K, Ly, Hoàng An, Lá, Đo, Cõi, Ngược, Màu, Kiến
Cầu kỳ, rắc rối:
Mưa trên mười ngón tay dài, Trưa lệch phai…
Những câu vô lối như bị tâm thần, nhạt nhẽo vô vị, không ai hiểu mô tê răng rứa, viết cho bạn mà như viết cho kẻ không ăn ngũ cốc, cho kẻ ở ngoài hành tinh hoặc quỷ dạ xoa dưới Long cung:
ngày mẹ đưa chúng mình xuống sông quẫy đạp
tình yêu dội lên hai bờ vai
đẫm vào da thịt
tia chớp sáng của ngọn sao khuya
chúng mình đứng như trời trồng khi tình yêu tới
những câu thơ vọt máu phát cuồng quất vào bức tranh
đớn đau khát cháy
(Viết cho bạn)
tù mù, vô nghĩa:
giờ thì anh trồng thêm gốc cây
thuộc loài bạch dương chờ đông sang phủ tuyết
nào có gì ổn định
rồi con sóng tiếp xô đổ anh
lúc anh là cát
những con sóng siêu hình lau sạch gương mặt cũ
như chén rượu đêm ấy
chặng cuối
(Hoàng An)
Viết sai cả quy luật tâm lý, quy luật xã hội, tình cảm:
người di gan không buồn
chỉ biết hát
nhiệt cuồng và mê loạn
người di gan không đau
chỉ biết múa
vũ điệu ngả nghiêng phố xá
rạch ríu làm xiếc diễn tuồng
người di gan không khóc
chỉ biết cười
chào mời đổi chác
giơ tay xin giơ tay vẫy mặt trời
(người Di gan)
Đáng khóc mà ta vẫn hát tràn
(Hồ Chí Minh)
Người Di gan phải như thế chứ mà thật như thế. Sao người Di gan lại không khóc, chỉ biết cười. Hoàn toàn khiên cưỡng!
Bí hiểm không ra bí hiểm, mù mịt, tâm thần không ra tâm thần, ngớ ngẩn, rất thiểu năng trí tuệ:
Một nghìn ba trăm năm mươi mét cao ly hồng nở
đôi mắt bồ câu
vô biên im lặng
cơn mưa đồng phạm
con chó thảo hiền không biết sủa dẫn tôi đi cùng
bài thơ tình ăn theo mưa
ly thơm vào trưa
xấu hổ tôi cúi mặt
(Ly)
Viết về một quán Mãi viên trà chỉ có bà mẹ và cô con gái mà Hoàng Vũ Thuật chế biến ra ba người là một thiếu nữ, một cô gái, một bà mẹ. Ai cũng biết đã dùng thiếu nữ thì thôi dùng cô gái, mà dùng cô gái thì thôi dùng thiếu nữ. Không hiểu ra làm sao:
nấp dưới cánh lá bồ đề màu phật
một cô bé một thiếu nữ một người mẹ
cô bé vắt tuổi thơ qua đồi sim
thiếu nữ mười sáu lần trăng đỏ
người mẹ đội nước lên chùa
(Mãi viên trà)
Viết rất điên rồ:
xóa đi rồi vẽ lại
ngẹt thở
thêm một nét gầy thêm một nét
chết lặng dưới chân cầu thang
nàng khóc
(Họa sỹ)
Mượn cái gọi là hậu hiện đại, cách tân, siêu thực, xuống dòng một cách vô lối, bệnh hoạn tùy tiện:
thỏi hình hài bẹp dí
long lóc
thở
ẩn dụ giữa rừng khô
héo
bày bán cùng
hoa
(trong tập Màu)
tìm nơi di trú
bằng chìa khóa mẹ
trao
(tiếng chim)
nhôm nhoam nhiều câu viết lớm khởm, tối nghĩa, kiểu cách lên gân giả vờ, điệu đàng, sống sượng, triết lý vặt:
chẳng thể bắt níu những sợi tóc vào mùa
không người tuốt chải gặt hái
anh cắt dán cánh đồng lên thân thể em
điều phối cơn mưa
vá víu vết thương cuối hạ.
(hoàng an)
rừng mọc dưới bờ mi
(viết dưới tượng Exenhin)
đếm tiếng trái tim khuya
(điều ấy có ý nghĩa gì)
huyền ảo uốn cong hiện thực
nhịp cầu tượng trưng gãy vụn
ẩn dụ giữa rừng khô
héo…
(ý nghĩ vụt hiện)
Kể mãi không bào giờ hết.
Rồi Hoàng Vũ Thuật sa đà mượn hệ đếm, con số, thuật ngữ toán học nhét vào các bài vô lối phá hỏng thơ ca:
nằm dưới kia
một ông vua một hoàng hậu một người hầu
một thanh gươm một tuấn mã một mê nón
một lệnh truyền một trống giục một lời van
nằm dưới kia
một hộp sọ một ống xương một đốt lóng tay
một trung thực một đớn hèn một điên loạn
một ngọn lửa một đêm tối một chiều tà
một vận hạn một thức thời một nguyền rủa…
(lăng tẩm)
Hoàng Vũ Thuật đã dùng đến 21 chữ một để diễn tả một sự việc chỉ cần một con số một là đủ:
Dưới kia có một đế vương
Tàn tro bụi bặm lóng xương chẳng còn.
(Đỗ Hoàng phóng dịch)
Trong thơ cổ kim có dùng con số, nhưng dùng khéo thì làm cho bài thơ hay lên rất nhiều:
MƯỜI THƯƠNG
Một thương bỏ tóc đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Bảy thương tính nết đoan trang
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương em ở một mình
Mười thương con mắt có tình với anh!
(Ca dao)
Một canh, hai canh lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm và chợp mắt
Sao vang năm cánh mộng hồn quanh.
(Hồ Chí Minh)
Không chỉ nước ta mà nhiều nước, nhất là Trung Quốc nhiều nhà thơ dùng con số để diễn ý, diễn tình. Từ con số khô khan biến hóa muôn vẻ làm nên thi phẩm lung linh, bất hủ:
LÃO SƯ KHỐN
Nhất thân bình giả bố
Lưỡng tụ phấn bút khôi
Tam xan ngật bất bảo
Tứ quý thường sô mi
Ngũ canh tựu khởi sàng
Lục đườngyếm nhĩ ngật
Thất thiên nhất tinh kỳ
Bát phương cuồng kỷ hồi
Cửu thiên bất phát hưởng
Thập gia giai đoạn xuy.
(Khuyết danh)
ĐỜI GIÁO VIÊN XƯA
Một thân áo quần bố
Hai tay áo phấn đầy
Ba bữa ăn không đủ
Bốn mùa ủ mặt mày
Năm canh đã trở dậy
Sáu giờ mới ăn chay
Bảy ngày tròn tuần lễ
Tám phương biết gì đây
Chín ngày lương không có
Mười nhà đói lắt lay!
(Đỗ Hoàng dịch)
TUYỆT CÚ
Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liều
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền
(Đỗ Phủ)
Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc
Một hàng cò trắng vút trời xanh
Nghìn năm tuyết núi sông in sắc
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
(Dịch – Khuyết danh)
Bài trên có các con số: Hai, một, vạn, nghìn.
Trong những người làm thơ vô lối, Hoàng Vũ Thuật cũng là người dùng một cách lạm phát từ ngữ nước ngoài nhất là âm Hán Việt ít Việt hóa như: điều phối, thảo hiền, hiển lộ, mê lộ, tẩy trần, trùng phùng, mãi viên trà, di trú, vô chủ, tấu khúc, miền hiển thủy, miền thiên hư,vô cư, vũ điệu, di hài, thuần khiết, tạ từ, nguyên thủy, cuồng thảo, mãn nguyện, nguyện cầu, hoan lạc, hoang phế, biến thể… hằng hà vô số. Đọc vô cùng khó chịu!
Tôi đã từng viết tặng nhà thơ Hoàng Vũ Thuật để nói lên cái “việc làm tốt nghĩa vụ của người công dân thì người thi sỹ rất đau khổ” của anh (ý của nhà thơ Nhêkarêxốp – Nga)::
Anh là nhà thơ Nhà nước
Có việc làm ăn hẳn hoi
Thế mà đời thật cơ cực
Thơ anh nén khóc để cười…
(Lang thang chiều Huế)
Và nhà thơ Hoàng Vũ Thuật cũng khắc họa chân dung của mình một cách đúng nhất:
như người điên đi trong dầm dã
hai mươi năm sau
không biết nơi nào để dừng
(mưa trên mười ngón tay dài)
Cần gì đến hai mươi năm, ngay bây giờ kiểu viết vô lối, tắc tỵ, bệnh hoạn của Hoàng Vũ Thuật đã không chốn nương thân, bị loại bỏ ra khỏi tâm hồn Việt như bao loại Vô lối khác!
Hà Nội, ngày 16-02-2013
ĐH.
Facebook Đỗ Hoàng ngày 29-01-2021.
*
Hoa trinh khiết – một kiểu phi thơ ca
Trong chuyên luận "Vô lối Hoàng Vũ Thuật" tôi đã viết khá kỹ về cái gọi là tìm tòi, cách tân của Hoàng Vũ Thuật, nay chỉ nói về bài "Hoa trinh khiết" mà báo in và nhiều kẻ bốc thơm!
Nhóm anh em nhập môn thơ ca Quảng Bình năm 1970 thế kỷ trước, Hoàng Vũ Thuật là kém nhất. Anh nhiệt tâm thấp, lại hay viết giả nên tác phẩm rất xoàng! Đến nỗi Nguyễn Khắc Phê là nhà văn rất chê thơ Hoàng Vũ Thuật.
Đợt đi thực tế sáng tác về các vùng biển, vùng quê, thấy nhiều loại hoa đẹp mà chưa có tên, thế là các nhà thơ tương lai sáng tạo ra tên cho chúng. Trần Nhật Thu đặt cỏ lông chông là "Hoa Mặt Trời", hoa cây chạc chìu là "Hoa Chắt Chiu", tôi đặt một loài hoa dại đẹp là hoa "Kiều Kiều"... Chỉ tiếc là những bài thơ được in báo, sách cấp tỉnh nó chỉ nằm ở cấp tỉnh, rồi người ta quên tên các nhà thơ đặt tên cho nó. Mọi người vẫn gọi "cỏ lông chông", hoa chạc chìu, hoa muống biển... Nó không được như lá "Diêu Bông" của Hoàng Cầm. Vì bài thơ "Lá Diêu Bông" quá nổi tiếng nên cái lá phịa sống mãi trong lòng mọi người!
Hoàng Vũ Thuật đặt tên hoa "Trinh Khiết" cũng là hoa phịa nhưng quá kém! Kém là do cái bài vô lối "Hoa Trinh Khiết" rất vớ vẩn, vô duyên không vào lòng người đọc nên người ta chẳng nhớ cái "hoa trinh khiết" là gì! Cái nữa nó chẳng mới. Đã có hoa Trinh Nữ đẹp, thực như thế, đặt hoa Trinh Khiết vô lối thừa ra!
Tên các loài hoa cỏ rất Việt, rất hay, nó gợi tính chất vùng quê, hình dáng mùi hương của hoa như các bạn đã biết đấy: cỏ lông chông, hoa muống biển, hoa chạc chìu, hoa vung vang, hoa dành dành, hoa thị, hoa bưởi, hoa cam, hoa quì..
"Hoa Trinh Khiết", Hoàng Vũ Thuật đặc hai chữ nguyên Hán ngữ làm cho cái hoa phịa vốn đã khô cứng nay lại càng khô cứng nặng nề hơn đá!
Chữ 貞(trinh) có 15 chữ, nghĩa ở đây là trinh bạch, trinh trắng, trong trắng, chữ 潔 (khiết ) có 20 chữ, nghĩa ở đây là thánh thiện, trong sạch!
Hoa phịa "Trinh Khiết" ngay cái tựa đề đã không Việt chút nào!
Từ đó vào bài Hoàng Vũ Thuật viết ba lăng nhăng, ỡm ờ, mập mờ, lung mung, lang mang, kiểu cách uốn éo như gái dở hơi mới lớn!...
"không theo mùa nở trên những nhánh mây
nồng nàn vạt áo"
Trong câu văn Việt có chủ ngữ ẩn là tùy theo văn cảnh, nhưng "không theo mùa nở trên những nhánh mây", người ta sẽ hỏi cái gì "không theo mùa nở trên những nhánh mây"? Hoàng Vũ Thuật chuyên viết tắc tỵ, đánh đố, ỡm ờ điển hình như đặt tên bài thơ "Mãi viên trà", "Ly", "Hoàng An", "Lỗ Thủng", "Mùi"...
Tây có thể viết "những đám mây không mặc quần" (Maiacopxki) nhưng Việt, phương Đông không nên viết như thế!
Rồi thì đưa vào câu "nồng nàn vạt áo" vô duyên, vô lối. Không biết nồng nàn vạt áo của ai?
Chưa hết lại còn học đòi mấy cái anh "hải ngoại" làm thơ đưa các dấu tắt toán học vào như: "&", "%", "$" "+", xuống dòng, cắt câu vô tội vạ:
"hương thơm ngôi sao xanh & rất
nhiều sợi mưa lấp lánh"
Viết: "hương thơm ngôi sao xanh và rất nhiều sợi mưa lấp lánh" có sao đâu? Hay viết có dấu "&" để cho hậu hậu hiện đại (!)
Tiếp câu "hàng tỷ năm mới gặp mùi hương ấy". Viết thế này phóng đại lên, phịa ra ngỡ là làm mới nhưng chứng tỏ mình rất vô học! "Hàng tỷ năm", bét cũng ba tỷ năm trở lên. Tuổi trái đất chưa đầy ba tỷ năm, ai nghe mùi hương ấy? Trong khi ngửi mùi hương ấy là con người. Con xuất hiện mới một triệu năm thôi!
Chưa hết, Hoàng Vũ Thuật lại chơi tiếp những câu dở dơi, dở chuột, điệu đàng, phách lối, dục tính:
"bay cùng ánh sáng
hổn hển của tiếng ca"...
Có thể nói "hổn hển" thở, "hổn hển" nói, ai lại tiếng ca "hổn hển". Những ca sĩ như Hồng Nhung, Thanh Lam, Thùy Dung... "hổn hển" ca thì có chó nó nghe!
Phải nói Hoàng Vũ Thuật tư duy rất lớm khởm!
Càng lởm khờm hơn "sau cánh mỏng là thiên đường". Sao anh lại quả quyết như vây? Sau cánh mỏng cái gì chứ? Sau cánh mỏng tà áo hay vạt váy, hay màn nhung, hay đăng ten? Sau cánh mỏng ấy còn nhiều thứ nữa chứ!
Đọc "Hoa trinh khiết" của Hoàng Vũ Thuật phải nói thật rất buồn nôn! Chúng ta nên quét sạch "Thơ Vô lối" như diệt vi rut Covid 19 hiện nay đang làm bải hoại nhân loại!
Hà Nội, ngày 25 tháng 1 năm 2021
ĐH.
Facebook Đỗ Hoàng ngày 03-02-2021.
Ảnh: Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật (ngồi, phải)

Xem tiếp...

Mid-page advertisement

GỬI NGƯỜI TÌNH BÊN KIA ĐẠI DƯƠNG

  •   14/01/2025 03:36
  •   41
  •   0
Tôi biết chị Thương rục rịch chuẩn bị định cư ở Mĩ từ hai mươi năm trước. Con cái chị vượt biên từ những năm 80, qua Mĩ làm ăn được nên muốn đón cả nhà cùng sang. Ở Việt Nam chị chẳng còn người thân nào mà vướng bận nữa. Bố chị thì đã mất từ lâu, mẹ chị cũng qua đười sau giải phóng 1975 sau vài năm. Đà thành không phải quê hương bổn quán, chỉ là quê chồng, nhưng anh em, chú bác, con cháu họ cũng đã đi Mĩ từ trước giải phóng miền Nam. Ngoài quê cha, đất tổ chẳng còn ai nội thân, mấy người bà con, xa lắc, xa lơ gặp nhau vài lần rồi cơm ai nấy ăn, việc ai nấy mần, tàu xe cách trở nên tình cảm ứ nhạt dần, nhạt dần.

Chuyện máu thành sông

  •   30/04/2025 08:26
  •   5
  •   0
Thơ tự do của Đỗ Hoàng (Bài 14)
CHUYỆN SÔNG MÁU, NÚI XƯƠNG (*)
Mới vào lính,
Họ chưa biết đâu!
Con gái lớn lên buổi đầu xa mẹ.
Tôi xót xa nhìn những cô gái ngây thơ, trươi trẻ.
Ái ngại cuộc đời chinh chiến xâm lăng!
Họ ngủ êm lành đêm nay,
Họ có biết không?
Những miền rừng xa xôi đang há mồm chờ họ đến.
Những miền rừng của chúa sơn lâm và thần sốt rét.
Sẽ làm cho những thân thể kiện cường thành xanh tái, vàng rơ!
Họ có biết không?
Những vùng rừng họ đi qua.
Trăm năm hút hun đừng hòng mong ngày trở lại
Trăm năm quay cuồng chẳng nhìn đâu ra dáng mẹ!
Và anh mắt người trai từng thuở yêu đương!
Họ đã kinh hoàng chưa?
Hai chữ Trường Sơn!
Đã chôn vùi biết bao nhiêu thế hệ
Đã lấy mất biết bao nhiêu tuổi trẻ.
Những binh đoàn rủi số đi qua!
Rồi còn biết bao nhiêu điều cay đắng xót xa.
Trong bom đạn, người với người là thú dữ.
Trong bom đạn máu tim hồng thành máu quỷ.
Cái chết oán thù còn mang hận đến nghìn năm!
Kẻ nào dù có mệnh số may mắn hơn.
Được sống sót trở về sau vạn nghìn ngày chinh chiến,
Thì mẹ già quê hương không thể nào nhận diện
Con gái minh ngày xưa yêu kiều nay còm cõi ma tàn!
Tôi biết các cô gái dịu hiền, ngây thơ không suy nghĩ gì hơn
.
Khi cái bịp đã nâng lên thành chủ nghĩa.
Khi cái ác đã lên ngôi hoàng đế.
Khi cuộc đời bị ngự trị bất công!
Lần đầu tiên xa nhà
Chạm mặt với chiến tranh!
Thấy cảnh đạn bom, thấy máu đào rơi họ giật mình khủng khiếp
Thực trạng cuộc đời họ chưa hiểu hết.
Sẽ là mối hận nghìn thu!
Tôi bần thần nhìn những cô gái ngây thơ,
Con gái tuổi mộng mơ độ trăng tròn lẻ,
Con gái nhà quê buổi đầu xa mẹ.
Sẽ sống thế nào trong năm tháng chiến tranh?
Lòng riêng tôi như biển cả đau ngầm!
Khi nghĩ đến những vùng rừng đầy sọ người và xương cốt.
Những vùng rừng người ta không mong sống sót,
Để trở về nhìn sông nước quê nhà.
Họ sẽ đến những vùng rừng tử địa tha ma.
Con gái ngây thơ lỡ phải choàng áo lính,
Họ sẽ tận mắt nhìn chiến trận,
Như nhìn những cái chết hôm nay!
Hết lớp này lại lớp khác lên thay.
Chuyện máu thành sông,
Chuyện xương thành núi.
Không phải chuỵện hoang đường văn chương diệu vợi.
Mà chuyện cuộc đời, chuyện thật hôm nay!
Ôi con gái rộn ràng
Lứa tuổi đắm say.
Sẽ sống ra sao?
Người nào sống sót!
Riêng tôi
Tôi mong cho họ trở về được hết.
Để gặp lại mẹ hiền
Gặp lại quê hương.
Chứ sự thật thì
Sự thật…
Đừng nghĩ chuyện sông máu,
núi xương!
20 – 11 – 1973
Đ - H
(*) Rút trong tập thơ Tâm sự người lính - NXB Văn học 1996 - NXB Hội Nhà văn 2018 (tái bản)

Đỗ Hoàng phê bình thơ Hoàng Vũ Thuật...

  •   06/05/2025 05:01
  •   3
  •   0
ĐỖ HOÀNG PHÊ BÌNH THƠ HOÀNG VŨ THUẬT
Đỗ Hoàng
Thứ bảy, 09:19 Ngày 30/01/2021
Trong cuộc sống, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật sống chân tình chung thủy vợ con, cưu mang bạn bè, người thân; nhưng trong sáng tác thì Hoàng Vũ Thuật rất ưa làm hàng giả. Giả trong cách lập tứ, chọn từ, đặt câu, thi tứ, mô phỏng. Cái giả nó đeo theo nhà thơ từ khi chập chững vào nghề cho đến hôm nay đã thất thập cổ lai hy, đầu suy tứ chi!
Nghĩ cho cùng không phải lỗi của Hoàng Vũ Thuật, mà nói như từ thông dụng bây giờ là lỗi cả một hệ thống. Cả thế hệ cứng như một thỏi sắt (Lưu Quang Vũ). Nhiều lớp lớp làm nhà ca học, hót học, hát học, cười học… Trùng trùng điệp điệp cổ động viên tự giác và không tự giác.
Đến nỗi như nhà thơ Phạm Tiến Duật nổi tiếng nhất trong thơ chống Mỹ cũng làm “nhà cười học” khi viết bài thơ tình Cái chao đèn duyên tình thế mà phải thêm hai câu kết rất dở hơi mới được in và mới được phổ biến:
CÁI CHAO ĐÈN
Con trai đội nón bao giờ
Vì mưa nên phải đi nhờ nón em
Bấy lâu mũ sắt đội quen
Buồn cười cái nón tòn ten trên đầu.
Khoảng râm là ánh sáng màu
Của tình yêu đội trên đầu đó em.
Hông hồng khuôn mặt xinh quen,
Nón bài thơ cái chao đèn của anh!
Khi đưa in, nhà biên tập không đồng ý vì cả nước đang đánh giặc mà nhà thơ lại làm thơ tình thuần túy. Bất đắc dĩ, Phạm Tiến Duật phải viết thêm hai câu kết không ăn nhập gì để được in:
Mũ va vào mũ lanh canh
Đường xa nhớ nón che anh buổi nào!
Rồi tiếp đến nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ suốt thời chống Mỹ nằm hầm ở thôn Phú Vinh (Trụ sở Hội Văn nghệ Quảng Bình đóng) cũng phịa, tưởng tượng ra mình là bộ đội hoặc thanh niên xung phong hành quân:
Đơn vị tôi hành quân qua con đường mòn
Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái
(Khoảng trời và hố bom)
Và dùng nhiều câu đại ngôn, hô khẩu hiệu sáo mòn để cổ động:
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa.
(Bài đã dẫn)
Nhà văn Dương Thu Hương cũng vậy. Tưởng tượng mình là chiến sỹ lái xe đi trên đường gặp nhiều hoa Trâm Lê (hoa phịa) hứa sẽ làm tròn nhiệm vụ ngoài tiền tuyến cho hậu phương yên tâm sản xuất…
Thế hệ Hoàng Vũ Thuật là thế hệ chống Mỹ. Cả nước gồng lên đánh một đế quốc giàu mạnh nhất thế gới nên văn chương cũng gồng lên nhiều lần để phục vụ cho mục đích đánh giặc:
Ta lại viết bài thơ báng súng
Con đứng lên viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.
(Hoàng Trung Thông)
Tố Hữu nhà thơ của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng viết:
Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương!
Cho nên cả nước từ văn chương, thơ ca, nhạc, họa đều phải vót chông trước khi vót văn.
Hồi ấy in ấn rất khó khăn từ trung ương đến địa phương. Văn thơ không nói về bom đạn, hỏa tuyến, đánh giặc, bắn máy bay, bộ đội, thanh niên xung phong, ta thắng địch thua… thì rất khó in.
Hội văn nghệ Quảng Bình có tờ Văn nghệ Quảng Bình, anh em phải xếp hàng nhiều năm mới có bài đăng.
Một lần Hoàng Vũ Thuật đưa bài “Quả ổi trong vườn chín sớm” đến Ban biên tập để duyệt.
Nội dung là tả trái ổi trong vườn bị viên bom bi găm vào nên nó chín sớm. Ban biên tập mới phê rằng: “Sự việc có thật nhưng người viết đã chọn không điển hình nên nó thành giả. Bom đạn Mỹ ném bom, bắn súng hàng ngày để bao nhiêu người chết, súc vật chết, không viết, mà viết quả ổi bị bom bi chín sớm vừa sến, vừa nhẹ tênh, gượng gạo thế nào! Có sự việc không có thật nhưng nhà thơ điển hình hóa nó lên thì đọc như là thật.”
Từ đó Hoàng Vũ Thuật đi tìm cái điển hình hóa không thật để làm cho nó thật. Nhưng tai hại thay, sau khi văn chương cổ động tuyên truyền qua đi thì những cái giả nó lại lai hoàn giả, không thể chấp nhận được:
Qua ải Bắc, đèo Nam
Qua Trường Sơn nắng mưa dằng dặc
Anh thành người con trai suốt đời đi đánh giặc
(Cây Nhạc ngựa)
Hoàng Vũ Thuật thì không một ngày mặc áo lính, không biết khẩu AK lắp đạn như thế nào, một băng đạn có mấy viên và bắn liên thanh hay bắn ba phát một thì địch mới sợ, nhưng Hoàng Vũ Thuật hay thay lời người ra trận làm thơ cổ động chiến đấu, hay đánh giặc trên giường(!). Điều này cũng không vấn đề gì, xưa nay mọi người vẫn làm, miễn là hay xúc động là được. Đằng này bài Cây nhạc ngựa vừa giả vừa dở, vừa không có một chút gì gọi là thi pháp nên nó rất phản cảm. Mặc dầu bài này được giải thưởng thơ báo Văn nghệ đâu năm 1986. Rồi tập Tháp nghiêng cũng được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Giải thưởng dù giải địa phương, dù giải trung ương đều đáng trân trọng. Nhưng lấy giải thưởng mà đo chất lượng một đời thi ca là một việc hoàn toàn sai lầm. Vì giải thưởng chỉ phục vụ cho một giai đoạn, một hoàn cảnh nhất định, một chính thể cụ thể. Bài Cây nhạc ngựa vừa giả dối, vừa kém thi pháp, vừa gần như mô phỏng nhiều câu của Phạm Ngọc Cảnh trong bài thơ Lý ngựa ô ở hai vùng đất:
Mai xa rồi, em nhớ anh không?
Trăng lại tròn vầng trăng biên cương
Ngựa tung bờm trắng thảo nguyên gió.
….
Cỏ vô tận cho lòng anh rong ruổi
(Cây nhạc ngựa – Hoàng Vũ Thuật)
Ngựa tung bờm bay qua biển lúa
Ngựa ghìm cương nơi sông xòe chín cửa

Gặp câu hát bền lòng rong ruổi mãi
(Lý ngựa ô ở hai vùng đất - Phạm Ngọc Cảnh)
Cha ông ta đã từng viết về người lính suốt đời đánh giặc một cách nghệ thuật tài tình:
Ban Siêu quy thời mấn dĩ hoa
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm)
Là biết chàng Siêu suốt đời đánh giặc rồi, cần gì mà nói:
Anh thành người con trai suốt đời đánh giặc!
Viết thế, vừa không thơ, vừa không thật, vừa ảnh hưởng thơ người khác:
Cái giả của Hoàng Vũ Thuật đi vào cả đề tài tình yêu:
…Rồi em làm quan tòa
Đưa anh ra xử án
Và có thể cao hơn
Đem pháp trường xử bắn.
Mặc tất anh chẳng cần
Sợ gì giây xích sắt
Nếu đạn bắn vào anh
Sẽ làm em chết mất!...
(Không đề)
Lúc đầu Hoàng Vũ Thuật viết câu kết Nếu đạn bắn vào anh/ Sẽ làm em chết ngất
Anh em góp ý là chết ngất là chết giả. Hoàng Vũ Thuật sửa lại chết mất cũng là chết giả nốt. Mình như thế nào, là vua chăng, là thượng đế chăng mà người tình có thế chết(!). Vua và thượng đế đầy quyền lực đấy nhưng người tình chưa chắc đã thèm chết. Ngay thần Juipite bá chủ Olimpơ mà đã có người tình nào chết đâu!
Hoàng Vũ Thuật rất chủ quan, rất không thực chút nào. Thật ra nhà thơ chẳng hiểu gì quy luật tâm lý. Chín con chưa thật mặt chồng, huống gì mới tình tang đôi lứa ngoài đường, người con trai trộm yêu người con gái. Việc này vô cùng giả dối.
Giang Nam thật tình hơn:
Hôm nay nhận được tin em
Dù không tin đó là sự thật
Giặc giết em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi.
Đau xé lòng anh chết nửa con ngươi!
(Quê hương – Giang Nam)
Chết nửa con người của Giang Nam là chủ thể, nó thực nên thuyết phục người đọc, đọc xúc động đến hôm nay.
Hoàng Vũ Thuật viết đã giả lại quá cũ như hai nghìn năm trước:
Giữa bãi cát vàng em là cây
Bóng em đổ xuống hai vai gầy
Anh ngồi trưa nắng như thiêu đốt
Mỗi chiếc lá xanh một bàn tay…
(Em là)
Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường
Trân châu liêm bạc yểm lan đường
Hoành thùy bảo ác đồng tâm kết
Bán phất quỳnh diên tô hợp hương…
(Đảo thiên y – Lý Bạch)
Trăng sáng cao vời giờ điểm đây.
Nhà lan châu ngọc ánh vơi đầy.
Tấm lòng cùng kết bên màn liễu,
Phảng phất chiếu quỳnh hương ngất ngây!...
(Đỗ Hoàng dịch)
Gần bảy mươi tuổi, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật tự lột xác mình, cố gắng đổi mới, phá bỏ cách viết cũ và giả của mình gần 60 năm qua. Nếu thế thì đáng quý biết bao, dù còn sống một giây cũng phải đổi mới, nhưng tiếc thay Hoàng Vũ Thuật chẳng có đổi mới gì mà chỉ sa đà vào tắc tỵ, bí hiểm, cầu kỳ rắc rối, tù mù, hũ nút, không còn một chút rung động thi ca. Chỉ có rặt những kiểu nói tắc tỵ, bí hiểm, đánh đố mình, đánh đố người đọc vì một kiến văn thiển cận, kiến thức hạn hẹp, rất nhiều chỗ hỏng trong học vấn, ít từng trải, sai cả quy luật tâm lý, quy luật tự nhiên, xã hội…
Được các bác sỹ đỡ đẻ hải ngoại quanh năm ngồi trong phòng sản phụ đỡ con Mỹ đen, các học giả, học thật, tiến sỹ bò tung hô… nên Hoàng Vũ Thuật càng dấn sâu vào quái thai, kỳ quặc, lởm khà lởm khởm, tắc tỵ…
Đặt tựa đề một cách tù mù, đánh đố:
Mãi viên trà, K, Ly, Hoàng An, Lá, Đo, Cõi, Ngược, Màu, Kiến
Cầu kỳ, rắc rối:
Mưa trên mười ngón tay dài, Trưa lệch phai…
Những câu vô lối như bị tâm thần, nhạt nhẽo vô vị, không ai hiểu mô tê răng rứa, viết cho bạn mà như viết cho kẻ không ăn ngũ cốc, cho kẻ ở ngoài hành tinh hoặc quỷ dạ xoa dưới Long cung:
ngày mẹ đưa chúng mình xuống sông quẫy đạp
tình yêu dội lên hai bờ vai
đẫm vào da thịt
tia chớp sáng của ngọn sao khuya
chúng mình đứng như trời trồng khi tình yêu tới
những câu thơ vọt máu phát cuồng quất vào bức tranh
đớn đau khát cháy
(Viết cho bạn)
tù mù, vô nghĩa:
giờ thì anh trồng thêm gốc cây
thuộc loài bạch dương chờ đông sang phủ tuyết
nào có gì ổn định
rồi con sóng tiếp xô đổ anh
lúc anh là cát
những con sóng siêu hình lau sạch gương mặt cũ
như chén rượu đêm ấy
chặng cuối
(Hoàng An)
Viết sai cả quy luật tâm lý, quy luật xã hội, tình cảm:
người di gan không buồn
chỉ biết hát
nhiệt cuồng và mê loạn
người di gan không đau
chỉ biết múa
vũ điệu ngả nghiêng phố xá
rạch ríu làm xiếc diễn tuồng
người di gan không khóc
chỉ biết cười
chào mời đổi chác
giơ tay xin giơ tay vẫy mặt trời
(người Di gan)
Đáng khóc mà ta vẫn hát tràn
(Hồ Chí Minh)
Người Di gan phải như thế chứ mà thật như thế. Sao người Di gan lại không khóc, chỉ biết cười. Hoàn toàn khiên cưỡng!
Bí hiểm không ra bí hiểm, mù mịt, tâm thần không ra tâm thần, ngớ ngẩn, rất thiểu năng trí tuệ:
Một nghìn ba trăm năm mươi mét cao ly hồng nở
đôi mắt bồ câu
vô biên im lặng
cơn mưa đồng phạm
con chó thảo hiền không biết sủa dẫn tôi đi cùng
bài thơ tình ăn theo mưa
ly thơm vào trưa
xấu hổ tôi cúi mặt
(Ly)
Viết về một quán Mãi viên trà chỉ có bà mẹ và cô con gái mà Hoàng Vũ Thuật chế biến ra ba người là một thiếu nữ, một cô gái, một bà mẹ. Ai cũng biết đã dùng thiếu nữ thì thôi dùng cô gái, mà dùng cô gái thì thôi dùng thiếu nữ. Không hiểu ra làm sao:
nấp dưới cánh lá bồ đề màu phật
một cô bé một thiếu nữ một người mẹ
cô bé vắt tuổi thơ qua đồi sim
thiếu nữ mười sáu lần trăng đỏ
người mẹ đội nước lên chùa
(Mãi viên trà)
Viết rất điên rồ:
xóa đi rồi vẽ lại
ngẹt thở
thêm một nét gầy thêm một nét
chết lặng dưới chân cầu thang
nàng khóc
(Họa sỹ)
Mượn cái gọi là hậu hiện đại, cách tân, siêu thực, xuống dòng một cách vô lối, bệnh hoạn tùy tiện:
thỏi hình hài bẹp dí
long lóc
thở
ẩn dụ giữa rừng khô
héo
bày bán cùng
hoa
(trong tập Màu)
tìm nơi di trú
bằng chìa khóa mẹ
trao
(tiếng chim)
nhôm nhoam nhiều câu viết lớm khởm, tối nghĩa, kiểu cách lên gân giả vờ, điệu đàng, sống sượng, triết lý vặt:
chẳng thể bắt níu những sợi tóc vào mùa
không người tuốt chải gặt hái
anh cắt dán cánh đồng lên thân thể em
điều phối cơn mưa
vá víu vết thương cuối hạ.
(hoàng an)
rừng mọc dưới bờ mi
(viết dưới tượng Exenhin)
đếm tiếng trái tim khuya
(điều ấy có ý nghĩa gì)
huyền ảo uốn cong hiện thực
nhịp cầu tượng trưng gãy vụn
ẩn dụ giữa rừng khô
héo…
(ý nghĩ vụt hiện)
Kể mãi không bào giờ hết.
Rồi Hoàng Vũ Thuật sa đà mượn hệ đếm, con số, thuật ngữ toán học nhét vào các bài vô lối phá hỏng thơ ca:
nằm dưới kia
một ông vua một hoàng hậu một người hầu
một thanh gươm một tuấn mã một mê nón
một lệnh truyền một trống giục một lời van
nằm dưới kia
một hộp sọ một ống xương một đốt lóng tay
một trung thực một đớn hèn một điên loạn
một ngọn lửa một đêm tối một chiều tà
một vận hạn một thức thời một nguyền rủa…
(lăng tẩm)
Hoàng Vũ Thuật đã dùng đến 21 chữ một để diễn tả một sự việc chỉ cần một con số một là đủ:
Dưới kia có một đế vương
Tàn tro bụi bặm lóng xương chẳng còn.
(Đỗ Hoàng phóng dịch)
Trong thơ cổ kim có dùng con số, nhưng dùng khéo thì làm cho bài thơ hay lên rất nhiều:
MƯỜI THƯƠNG
Một thương bỏ tóc đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Bảy thương tính nết đoan trang
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương em ở một mình
Mười thương con mắt có tình với anh!
(Ca dao)
Một canh, hai canh lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm và chợp mắt
Sao vang năm cánh mộng hồn quanh.
(Hồ Chí Minh)
Không chỉ nước ta mà nhiều nước, nhất là Trung Quốc nhiều nhà thơ dùng con số để diễn ý, diễn tình. Từ con số khô khan biến hóa muôn vẻ làm nên thi phẩm lung linh, bất hủ:
LÃO SƯ KHỐN
Nhất thân bình giả bố
Lưỡng tụ phấn bút khôi
Tam xan ngật bất bảo
Tứ quý thường sô mi
Ngũ canh tựu khởi sàng
Lục đườngyếm nhĩ ngật
Thất thiên nhất tinh kỳ
Bát phương cuồng kỷ hồi
Cửu thiên bất phát hưởng
Thập gia giai đoạn xuy.
(Khuyết danh)
ĐỜI GIÁO VIÊN XƯA
Một thân áo quần bố
Hai tay áo phấn đầy
Ba bữa ăn không đủ
Bốn mùa ủ mặt mày
Năm canh đã trở dậy
Sáu giờ mới ăn chay
Bảy ngày tròn tuần lễ
Tám phương biết gì đây
Chín ngày lương không có
Mười nhà đói lắt lay!
(Đỗ Hoàng dịch)
TUYỆT CÚ
Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liều
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền
(Đỗ Phủ)
Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc
Một hàng cò trắng vút trời xanh
Nghìn năm tuyết núi sông in sắc
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
(Dịch – Khuyết danh)
Bài trên có các con số: Hai, một, vạn, nghìn.
Trong những người làm thơ vô lối, Hoàng Vũ Thuật cũng là người dùng một cách lạm phát từ ngữ nước ngoài nhất là âm Hán Việt ít Việt hóa như: điều phối, thảo hiền, hiển lộ, mê lộ, tẩy trần, trùng phùng, mãi viên trà, di trú, vô chủ, tấu khúc, miền hiển thủy, miền thiên hư,vô cư, vũ điệu, di hài, thuần khiết, tạ từ, nguyên thủy, cuồng thảo, mãn nguyện, nguyện cầu, hoan lạc, hoang phế, biến thể… hằng hà vô số. Đọc vô cùng khó chịu!
Tôi đã từng viết tặng nhà thơ Hoàng Vũ Thuật để nói lên cái “việc làm tốt nghĩa vụ của người công dân thì người thi sỹ rất đau khổ” của anh (ý của nhà thơ Nhêkarêxốp – Nga)::
Anh là nhà thơ Nhà nước
Có việc làm ăn hẳn hoi
Thế mà đời thật cơ cực
Thơ anh nén khóc để cười…
(Lang thang chiều Huế)
Và nhà thơ Hoàng Vũ Thuật cũng khắc họa chân dung của mình một cách đúng nhất:
như người điên đi trong dầm dã
hai mươi năm sau
không biết nơi nào để dừng
(mưa trên mười ngón tay dài)
Cần gì đến hai mươi năm, ngay bây giờ kiểu viết vô lối, tắc tỵ, bệnh hoạn của Hoàng Vũ Thuật đã không chốn nương thân, bị loại bỏ ra khỏi tâm hồn Việt như bao loại Vô lối khác!
Hà Nội, ngày 16-02-2013
ĐH.
Facebook Đỗ Hoàng ngày 29-01-2021.
*
Hoa trinh khiết – một kiểu phi thơ ca
Trong chuyên luận "Vô lối Hoàng Vũ Thuật" tôi đã viết khá kỹ về cái gọi là tìm tòi, cách tân của Hoàng Vũ Thuật, nay chỉ nói về bài "Hoa trinh khiết" mà báo in và nhiều kẻ bốc thơm!
Nhóm anh em nhập môn thơ ca Quảng Bình năm 1970 thế kỷ trước, Hoàng Vũ Thuật là kém nhất. Anh nhiệt tâm thấp, lại hay viết giả nên tác phẩm rất xoàng! Đến nỗi Nguyễn Khắc Phê là nhà văn rất chê thơ Hoàng Vũ Thuật.
Đợt đi thực tế sáng tác về các vùng biển, vùng quê, thấy nhiều loại hoa đẹp mà chưa có tên, thế là các nhà thơ tương lai sáng tạo ra tên cho chúng. Trần Nhật Thu đặt cỏ lông chông là "Hoa Mặt Trời", hoa cây chạc chìu là "Hoa Chắt Chiu", tôi đặt một loài hoa dại đẹp là hoa "Kiều Kiều"... Chỉ tiếc là những bài thơ được in báo, sách cấp tỉnh nó chỉ nằm ở cấp tỉnh, rồi người ta quên tên các nhà thơ đặt tên cho nó. Mọi người vẫn gọi "cỏ lông chông", hoa chạc chìu, hoa muống biển... Nó không được như lá "Diêu Bông" của Hoàng Cầm. Vì bài thơ "Lá Diêu Bông" quá nổi tiếng nên cái lá phịa sống mãi trong lòng mọi người!
Hoàng Vũ Thuật đặt tên hoa "Trinh Khiết" cũng là hoa phịa nhưng quá kém! Kém là do cái bài vô lối "Hoa Trinh Khiết" rất vớ vẩn, vô duyên không vào lòng người đọc nên người ta chẳng nhớ cái "hoa trinh khiết" là gì! Cái nữa nó chẳng mới. Đã có hoa Trinh Nữ đẹp, thực như thế, đặt hoa Trinh Khiết vô lối thừa ra!
Tên các loài hoa cỏ rất Việt, rất hay, nó gợi tính chất vùng quê, hình dáng mùi hương của hoa như các bạn đã biết đấy: cỏ lông chông, hoa muống biển, hoa chạc chìu, hoa vung vang, hoa dành dành, hoa thị, hoa bưởi, hoa cam, hoa quì..
"Hoa Trinh Khiết", Hoàng Vũ Thuật đặc hai chữ nguyên Hán ngữ làm cho cái hoa phịa vốn đã khô cứng nay lại càng khô cứng nặng nề hơn đá!
Chữ 貞(trinh) có 15 chữ, nghĩa ở đây là trinh bạch, trinh trắng, trong trắng, chữ 潔 (khiết ) có 20 chữ, nghĩa ở đây là thánh thiện, trong sạch!
Hoa phịa "Trinh Khiết" ngay cái tựa đề đã không Việt chút nào!
Từ đó vào bài Hoàng Vũ Thuật viết ba lăng nhăng, ỡm ờ, mập mờ, lung mung, lang mang, kiểu cách uốn éo như gái dở hơi mới lớn!...
"không theo mùa nở trên những nhánh mây
nồng nàn vạt áo"
Trong câu văn Việt có chủ ngữ ẩn là tùy theo văn cảnh, nhưng "không theo mùa nở trên những nhánh mây", người ta sẽ hỏi cái gì "không theo mùa nở trên những nhánh mây"? Hoàng Vũ Thuật chuyên viết tắc tỵ, đánh đố, ỡm ờ điển hình như đặt tên bài thơ "Mãi viên trà", "Ly", "Hoàng An", "Lỗ Thủng", "Mùi"...
Tây có thể viết "những đám mây không mặc quần" (Maiacopxki) nhưng Việt, phương Đông không nên viết như thế!
Rồi thì đưa vào câu "nồng nàn vạt áo" vô duyên, vô lối. Không biết nồng nàn vạt áo của ai?
Chưa hết lại còn học đòi mấy cái anh "hải ngoại" làm thơ đưa các dấu tắt toán học vào như: "&", "%", "$" "+", xuống dòng, cắt câu vô tội vạ:
"hương thơm ngôi sao xanh & rất
nhiều sợi mưa lấp lánh"
Viết: "hương thơm ngôi sao xanh và rất nhiều sợi mưa lấp lánh" có sao đâu? Hay viết có dấu "&" để cho hậu hậu hiện đại (!)
Tiếp câu "hàng tỷ năm mới gặp mùi hương ấy". Viết thế này phóng đại lên, phịa ra ngỡ là làm mới nhưng chứng tỏ mình rất vô học! "Hàng tỷ năm", bét cũng ba tỷ năm trở lên. Tuổi trái đất chưa đầy ba tỷ năm, ai nghe mùi hương ấy? Trong khi ngửi mùi hương ấy là con người. Con xuất hiện mới một triệu năm thôi!
Chưa hết, Hoàng Vũ Thuật lại chơi tiếp những câu dở dơi, dở chuột, điệu đàng, phách lối, dục tính:
"bay cùng ánh sáng
hổn hển của tiếng ca"...
Có thể nói "hổn hển" thở, "hổn hển" nói, ai lại tiếng ca "hổn hển". Những ca sĩ như Hồng Nhung, Thanh Lam, Thùy Dung... "hổn hển" ca thì có chó nó nghe!
Phải nói Hoàng Vũ Thuật tư duy rất lớm khởm!
Càng lởm khờm hơn "sau cánh mỏng là thiên đường". Sao anh lại quả quyết như vây? Sau cánh mỏng cái gì chứ? Sau cánh mỏng tà áo hay vạt váy, hay màn nhung, hay đăng ten? Sau cánh mỏng ấy còn nhiều thứ nữa chứ!
Đọc "Hoa trinh khiết" của Hoàng Vũ Thuật phải nói thật rất buồn nôn! Chúng ta nên quét sạch "Thơ Vô lối" như diệt vi rut Covid 19 hiện nay đang làm bải hoại nhân loại!
Hà Nội, ngày 25 tháng 1 năm 2021
ĐH.
Facebook Đỗ Hoàng ngày 03-02-2021.
Ảnh: Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật (ngồi, phải)

Thư Phan Nhật Nam gửi...

  •   28/04/2025 22:25
  •   7
  •   0
Đỗ Hoàng
Phóng tác thư Hữu Thính gửi Phan Nhật Nam và thư từ chối Phân Nhật Nam gửi Hữu Thỉnh
PHONG TÁC THƯ ĐIỆN TÍN HỮU THỈNH MỜI PHAN NHẬT NAM VỀ DỰ HÒA HỢP DÂN TỘC
Xin gửi tiên sinh điện tính này.
Nước nhà tổ chức nối vòng tay.
Anh Kha gặp bác bia nghiêng ngả,
Mỗ Thỉnh thấy hình tửu ngất ngây!
Đỏ lửa mùa hè tôi đọc biết, (*)
Trường ca tới biển bác xem hay! (**)
Hận thù quá khứ ta găm lại
Đại diện Đáng, Đoàn hân hạnh thay!
Hà Nội ngày 20 – 9 – 2017
Đ - H
(*) Mùa hè đỏ lửa ký Phan Nhật Nam
(**) Trường ca Biển thơ Hữu Thỉnh
Đỗ Hoàng
PHÓNG TÁC THƯ TỪ CHỐI CỦA PHAN NHẬT NAM
Trước hết là tôi từ chối bay!
Gửi về quốc nội để ông hay.
Một trăm năm cộng dân tan tác,
Hai thế kỷ ma đảng đọa đày!
Mồ mả quê nhà tàn tán tác,
Thân già hải ngoại còm còm cay!
Bao giờ cộng sản không còn nữa
Khỏi khiến chúng tôi sẽ đến ngay!
Hà Nội 20 – 9 – 2017
Đ - H
Đỗ Hoàng
BÀY CHỌI GÀ MẠT KẾ MOI TIỀN CHÙA
Chúng trói gà nhà khóa cẳng tay
Mời gà rừng tới đá lăn quay!
Phổng phao mái bự xiên bơ rán,
Núc níc trống cồ xé thịt phay!
Huyết đổ nghìn đời, sông suối nghẽn,
Xương phơi vạn thuở, núi đồi lay!
Chọi gà trò cũ moi hào mới
Cách kiếm tiền chùa mạt kiếp thay!
Hà Nội 30 – 9 – 2017
Đ - H

TÂM TÌNH VỚI CÁC NHÀ THƠ TRẺ

Tam tinh voi cacs nha tho tre, tacs gia Do Hoang muon nhacs nhow nguoi lam tho   

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập11
  • Hôm nay755
  • Tháng hiện tại2,370
  • Tổng lượt truy cập19,794
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi