BỎ BÀI “TIẾNG VỌNG” RA KHỎI SÁCH GIÁO KHOA

BỎ BÀI “TIẾNG VỌNG” RA KHỎI SÁCH GIÁO KHOA

BỎ BÀI “TIẾNG VỌNG” RA KHỎI SÁCH GIÁO KHOA
(Tiếng Việt - Lớp 5 tập một)
Những tác phẩm được tuyển chọn vào sách giáo khoa là những tác phẩm tinh hoa kinh điển có giá trị cao về nội dung tư tưởng, nghệ thuật được thử thách qua thời gian và phù hợp tâm lý lứa tuổi học sinh. Chúng ta ai cũng có tuổi thơ cắp sách đến trường và những bài văn, bài thơ từ thuở ấu trò được ăn sâu trong trí nhớ và đi theo suốt cuộc đời của chúng ta, nó là mẫu mực trong sáng về tình yêu quê hương, đất nước, về tình cảm yêu thương không thể xóa nhòa:
"Bờ cỏ còn hơi sương
Nắng vàng trải trên đường
Cành cao chim chào đón
Chúng em đi tới trường
Một hồi kẻng khua vang
Từng đội đứng xếp hàng
Mắt nghiêm nhìn cờ đỏ
Phấp phới ánh sao vàng
Em hứa thầm cùng Bác
Năm nay cháu học ngoan!"
(Tập đọc cấp một những năm học thập kỷ 60 thế kỷ trước)
Lứa tuổi năm sáu mươi hôm nay không ai là không nhớ bài thơ tới trường này!
Thế hệ sau này, các em cũng được học những bài thơ rất hay, những vần thơ chan chứa tình cảm, hàm súc, âm vang và ngân xa:
"Hôm qua em tới trường
Mẹ dắt tay từng bước
Hôm nay mẹ lên nương
Một mình em tới lớp
Hương rừng đưa thơm ngát
Nước suối trong thì thầm
Cọ xòe ô che nắng
Râm mát đường em đi!..."
Hay:
"Rừng cọ ơi rừng cọ
Lá đẹp xanh ngời ngời
Khi yêu thường vẫn gọi
Mặt trời xanh của tôi!"
Thế mà sang thế kỷ XXI, trong sách giáo khoa lại có tuyển chọn những bài thơ không ra thơ, văn không ra văn, có những bài đang ở dạng thể nghiệm chưa được công chúng thẩm định, thế mà lại được đưa vào sách giáo khoa ở tuổi ấu trò giảng dạy. Điển hình là bài "Tiếng vọng' của Nguyễn Quang Thiều - sách giáo khoa Tiếng Việt - lớp 5 tập một - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tái bản lần thứ 5 - tháng 1 năm 2011).
Nguyên bản:
Nguyễn Quang Thiều
TIẾNG VỌNG
Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Đêm ấy tôi nằm trong chăn nghe tiếng chim đập cửa
Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi
Và tôi ngủ ngon lành đến lúc bão vơi.
Chiếc tổ cũ trong ống tre đầu nhà chiều gió hú
Không còn nghe tiếng cánh chim sẻ về
Và tiếng hót mỗi sớm mai trong vắt
Nó chết trước cửa nhà tôi lạnh ngắt
Một con mèo hàng xóm lại tha đi
Nó để lại trong ổ những quả trứng
Những con chim non mãi mãi chẳng ra đời
Đêm đêm tôi vừa chợp mắt
Cánh cửa lại rung lên tiếng đập cánh
Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ
Tiếng lăn như đá lở trên ngàn ./.
ĐỖ HOÀNG DỊCH RA THƠ VIỆT
TIẾNG VỌNG
Chim sẻ mẹ mất rồi
Đêm bão về gần sáng
Tôi nằm trong chăn ấm
Ngon lành đến bão vơi!
Thế mà ở ngoài trời
Tổ chim đầy gió hú
Con mèo như thú dữ
Cắp sẻ mẹ chạy dài!
Từ nay không còn nữa
Cánh chim vờn ban mai!
Và vầng trăng của trứng
Mãi mãi chẳng ra đời!
Đêm đêm tôi chợp mắt
Cánh cửa nhà rung vang
Trứng lăn vào giấc ngủ
Như đá lở trên ngàn !
Hà Nội ngày 9 tháng 6 năm 2012
Đ - H
Bình giảng
Tiếng vọng là một bài viết trục trặc, lủng ca, lủng củng, thừa ý, thiếu lời, thừa lời thiếu ý, tư duy rối rắm, lộn xộn, không nhất quán, lại rắc rối, tù mù, tối nghĩa... Như nói ở trên nó không ra văn vần, không ra văn xuôi, thơ cũng không phải thơ, vè cũng không phải vè, văn tế cũng không ra văn tế, phú cũng không ra phú, hát ru em cũng không ru hát ru em, hát vui chơi cũng không ra hát vui chơi, triết học cũng không ra triết học.... Nó chính là loại Vô lối đặc trưng cách viết của Nguyễn Quang Thiều và nhiều người viết hôm nay thể hiện; rồi nhiều người, nhiều tổ chức lăng xê lên mây xanh, ngay cả Hội Nhà văn Việt Nam cũng trao tặng giải thưởng thơ năm 1993 cho tập "Sự mất ngủ của lửa" của Nguyễn Quang Thiều.
Tôi đọc bài này nhiều lần, nhiều năm. Lúc nào tôi cũng băn khoăn: - Vì sao các nhà làm sách lại chọn bài này vào sách giáo khoa dạy cho các em lớp 5 đầu học kỳ một tuổi mới lên 9, lên 10?
Nội dung của bài Tiếng vọng nói sự vô tình của một em bé về cái chết của con chim sẻ mẹ để cho bao thế hệ chim non không ra đời!
Con chim sẻ nhỏ vì cơn bão về gần sáng chết, tác giả xưng tôi vì ngủ quên trong sự ấm áp nên không biết nó chết, mèo hàng xóm lại tha chim đi, để những quả trứng không có chim mẹ ấp mãi mãi không nở thành chim con!
Chỉ từng ấy thôi nhưng Nguyễn Quang Thiều lại làm rắc rối đến nỗi nhiều thầy cô dạy bài không hiểu ra, chứ nói gì đến trẻ con!
Bài viết đầy những cái vô lý và thừa thải.
Nói chim là nói người, chim ở đây được nhân cách hóa, không ai nói con chim sẻ nhỏ chết rồi. Nghĩa tử là nghĩa tận, chim chết cũng như người chết, không ai táng tận lòng mình nói từ con và từ chết. Con dùng cho sự khinh miệt: con rận, con sâu, con đĩ, con phò, con ca ve...Chết dùng cho sự khinh miệt: con chó chết, con chuột chết, con sâu chết. Còn không ai nói con và chết cho người và vật, những gì mình yêu mến.
"Bác Dương thôi đã, thôi rồi
Nước non man mác ngậm ngùi lòng ta!"
( Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê)
Đọc bài Tiếng vọng thấy viết câu thứ nhất là "Con chim sẻ nhỏ chết rồi" và sau đó câu thứ mười một là "Nó để lại trong tổ những quả trứng" thì người đọc băn khoăn : "Con chim sẻ nhỏ mới toe toe mà biết đẻ"(!) Mà đẻ rất nhiều, đẻ ra cả ổ trứng (!). Đấy là sự vô lý.
Câu kể này rất bình thường, nó thua cả câu văn xuôi!
Chim sẻ ai chả biết là nó nhỏ. Tục ngữ nói " tấm cho sẻ ăn", tức là chỉ sự nhỏ bé của chim sẻ. Sẻ đã nhỏ thì con chim sẻ nhỏ, nhỏ biết chừng nào, chắc là nó mới ra ràng, sao lại gán cho nó một ổ trứng.
Có nhiều cách viết hợp lý hơn nhiều:
" Chim sẻ mẹ qua lúc bão về gần sáng"...
Những người chết trẻ, chết oan, bất đắc kỳ tức, người Việt hay dùng chữqua, như chị qua, anh qua, em qua...
Không ai nhẫn tâm nói:
"Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Nó chết trong đêm bão về gần sáng"
Nhiều câu trong bài Tiếng vọng vô nghĩa, thừa thải, và lộn xộn:
"Chiếc tổ cũ trong ống tre đầu nhà chiều gió hú".
Chiếc tổ cũ trong ống tre đầu nhà là đủ rồi, mặc chi đưa chiều gió hú vào đây? Chiều gió hú có thể một câu thơ được nhưng nó ở văn cảnh khác không thể đắp râu ông nọ chắp cằm bà kia!
Nếu sắp xếp câu kéo và hợp với lô gic thì câu thứ 9 trong bài phải đặt lên câu thứ ba mới đúng và hợp tình hợp lý, hợp văn cảnh'
" Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Nó chết trước cửa nhà tôi lạnh ngắt".
Ở đây thêm điều vô lý nữa. Chim sẻ mẹ đang ấp làm gì có chim trống đến hót như tác giả tưởng tượng ra:
"Và tiếng hót mỗi sớm mai trong vắt" (!)
"Và tiếng hót mỗi sớm mai trong vắt" Tiếng chim hót trong vắt hay "Ban mai trong vắt?
Tác giả khen tiếng chim trong vắt hay khen ban mai trong vắt? Học sinh 9, 10 tuổi mới lên lớp 5 làm sao biết được.
Rồi những kiểu nói cho lạ tai không thuần Việt:
"Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi" Tây thật cũng chẳng nói kiểu này! Dịch ra nghĩa Việt là " Việc ấm áp của gối chăn đã giữ chặt tôi" . Có thể có cách nói: chăn ấm, gối êm làm tôi ngủ yên!
Tiếng vọng dùng từ lặp lại đọc nghe câu thơ nặng nề:
"Một con mèo hàng xóm lại tha đi
Nó để lại trong tổ những quả trứng
.....
Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ..."
Tôi có hỏi nhiều nhà giáo dục, nhiều nhà sư phạm về bài Tiếng vọng của Nguyễn Quang Thiều được chọn in trong sách giáo khoa - Tiếng Việt - Lớp 5 tập một.
Thạc sỹ giáo dục, nhà thơ, dịch giả, Trưởng ban biên tập, phụ trách Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục Trần Hậu, ông cho biết: " Đây là bài đang dạng thể nghiệm nên không thể đưa vào sách giáo khoa nhất là sách Tiếng Việt lớp 5, tập một. Bài Tiếng vọng nhiều người lớn không hiểu, làm sao trẻ hiểu nổi. Sách giáo khoa bây giờ còn nhiều bài như thế này cần nên loại bỏ!"
Thầy Trần Đức Trung, tổ trưởng chuyên môn khối 5, cô giáo Nguyễn Thị Kim Yến, giáo viên dạy giỏi thành phố Huế dạy lớp 5, cô Thu Dung giáo viên dạy lớp 5 ở trường Tiểu học Thuận Lộc, thành phố Huế đều nói :
- "Tiếng vọng" là một bài ý tứ lủng cũng, ngôn từ lộn xộn, khó hiểu đổi với các em học sinh mới lên lớp 5. Bài viết không vần điệu, không đi sâu vào lòng người nhất là học sinh tiểu học! Các thầy cô giáo còn chưa hiểu được làm sao học sinh hiểu được!
Cũng rất may mắn là năm học vừa rồi (năm 2011 - 2012) ở Thừa Thiên - Huế tuân theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong kế hoạch giảm thiểu chương trình nặng nề đã loại bài Tiếng vọng không dạy cho học sinh.
Năm học tới sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 nên loại bỏ bài Tiếng vọng ra khỏi sách giáo khoa và nhiều bài phi văn chương khác!
Nhà thơ Đỗ Hoảng

Xem tiếp...

Mid-page advertisement

GỬI NGƯỜI TÌNH BÊN KIA ĐẠI DƯƠNG

  •   14/01/2025 15:36
  •   58
  •   0
Tôi biết chị Thương rục rịch chuẩn bị định cư ở Mĩ từ hai mươi năm trước. Con cái chị vượt biên từ những năm 80, qua Mĩ làm ăn được nên muốn đón cả nhà cùng sang. Ở Việt Nam chị chẳng còn người thân nào mà vướng bận nữa. Bố chị thì đã mất từ lâu, mẹ chị cũng qua đười sau giải phóng 1975 sau vài năm. Đà thành không phải quê hương bổn quán, chỉ là quê chồng, nhưng anh em, chú bác, con cháu họ cũng đã đi Mĩ từ trước giải phóng miền Nam. Ngoài quê cha, đất tổ chẳng còn ai nội thân, mấy người bà con, xa lắc, xa lơ gặp nhau vài lần rồi cơm ai nấy ăn, việc ai nấy mần, tàu xe cách trở nên tình cảm ứ nhạt dần, nhạt dần.

Gần 400 văn sĩ Việt ở Việt Nam Cộng hòa

  •   26/05/2025 17:06
  •   6
  •   0
GẦN 400 vị VĂN SĨ VIỆT NAM CỘNG HÒA
1- Bùi Giáng lục bát như kiều
Mưa nguồn thấm dịu những chiếu đảo điên
2- Du Tử Lê, phận mỏng manh
Lưu vong khi chết, biển xanh làm mồ!
3 - Cung Trầm Tưởng một cung đàn
Paris thu lạnh, thế gian hồng trần.
4 - Lừng danh kiêu hãnh Nhã Ca
Khăn sô cho Huế xót xa vạn đời!
5 - Cao Tần đồng loại đánh văng
Nhưng thó người ấy còn ngàn năm sau!
(còn nữa) - Trích trong Chân dung 810 vị Văn sĩ Việt - Đỗ Hoàng - NXB Hội Nhà văn năm 2018

BỎ BÀI “TIẾNG VỌNG” RA KHỎI SÁCH GIÁO KHOA

  •   03/06/2025 09:18
  •   1
  •   0
BỎ BÀI “TIẾNG VỌNG” RA KHỎI SÁCH GIÁO KHOA
(Tiếng Việt - Lớp 5 tập một)
Những tác phẩm được tuyển chọn vào sách giáo khoa là những tác phẩm tinh hoa kinh điển có giá trị cao về nội dung tư tưởng, nghệ thuật được thử thách qua thời gian và phù hợp tâm lý lứa tuổi học sinh. Chúng ta ai cũng có tuổi thơ cắp sách đến trường và những bài văn, bài thơ từ thuở ấu trò được ăn sâu trong trí nhớ và đi theo suốt cuộc đời của chúng ta, nó là mẫu mực trong sáng về tình yêu quê hương, đất nước, về tình cảm yêu thương không thể xóa nhòa:
"Bờ cỏ còn hơi sương
Nắng vàng trải trên đường
Cành cao chim chào đón
Chúng em đi tới trường
Một hồi kẻng khua vang
Từng đội đứng xếp hàng
Mắt nghiêm nhìn cờ đỏ
Phấp phới ánh sao vàng
Em hứa thầm cùng Bác
Năm nay cháu học ngoan!"
(Tập đọc cấp một những năm học thập kỷ 60 thế kỷ trước)
Lứa tuổi năm sáu mươi hôm nay không ai là không nhớ bài thơ tới trường này!
Thế hệ sau này, các em cũng được học những bài thơ rất hay, những vần thơ chan chứa tình cảm, hàm súc, âm vang và ngân xa:
"Hôm qua em tới trường
Mẹ dắt tay từng bước
Hôm nay mẹ lên nương
Một mình em tới lớp
Hương rừng đưa thơm ngát
Nước suối trong thì thầm
Cọ xòe ô che nắng
Râm mát đường em đi!..."
Hay:
"Rừng cọ ơi rừng cọ
Lá đẹp xanh ngời ngời
Khi yêu thường vẫn gọi
Mặt trời xanh của tôi!"
Thế mà sang thế kỷ XXI, trong sách giáo khoa lại có tuyển chọn những bài thơ không ra thơ, văn không ra văn, có những bài đang ở dạng thể nghiệm chưa được công chúng thẩm định, thế mà lại được đưa vào sách giáo khoa ở tuổi ấu trò giảng dạy. Điển hình là bài "Tiếng vọng' của Nguyễn Quang Thiều - sách giáo khoa Tiếng Việt - lớp 5 tập một - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tái bản lần thứ 5 - tháng 1 năm 2011).
Nguyên bản:
Nguyễn Quang Thiều
TIẾNG VỌNG
Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Đêm ấy tôi nằm trong chăn nghe tiếng chim đập cửa
Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi
Và tôi ngủ ngon lành đến lúc bão vơi.
Chiếc tổ cũ trong ống tre đầu nhà chiều gió hú
Không còn nghe tiếng cánh chim sẻ về
Và tiếng hót mỗi sớm mai trong vắt
Nó chết trước cửa nhà tôi lạnh ngắt
Một con mèo hàng xóm lại tha đi
Nó để lại trong ổ những quả trứng
Những con chim non mãi mãi chẳng ra đời
Đêm đêm tôi vừa chợp mắt
Cánh cửa lại rung lên tiếng đập cánh
Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ
Tiếng lăn như đá lở trên ngàn ./.
ĐỖ HOÀNG DỊCH RA THƠ VIỆT
TIẾNG VỌNG
Chim sẻ mẹ mất rồi
Đêm bão về gần sáng
Tôi nằm trong chăn ấm
Ngon lành đến bão vơi!
Thế mà ở ngoài trời
Tổ chim đầy gió hú
Con mèo như thú dữ
Cắp sẻ mẹ chạy dài!
Từ nay không còn nữa
Cánh chim vờn ban mai!
Và vầng trăng của trứng
Mãi mãi chẳng ra đời!
Đêm đêm tôi chợp mắt
Cánh cửa nhà rung vang
Trứng lăn vào giấc ngủ
Như đá lở trên ngàn !
Hà Nội ngày 9 tháng 6 năm 2012
Đ - H
Bình giảng
Tiếng vọng là một bài viết trục trặc, lủng ca, lủng củng, thừa ý, thiếu lời, thừa lời thiếu ý, tư duy rối rắm, lộn xộn, không nhất quán, lại rắc rối, tù mù, tối nghĩa... Như nói ở trên nó không ra văn vần, không ra văn xuôi, thơ cũng không phải thơ, vè cũng không phải vè, văn tế cũng không ra văn tế, phú cũng không ra phú, hát ru em cũng không ru hát ru em, hát vui chơi cũng không ra hát vui chơi, triết học cũng không ra triết học.... Nó chính là loại Vô lối đặc trưng cách viết của Nguyễn Quang Thiều và nhiều người viết hôm nay thể hiện; rồi nhiều người, nhiều tổ chức lăng xê lên mây xanh, ngay cả Hội Nhà văn Việt Nam cũng trao tặng giải thưởng thơ năm 1993 cho tập "Sự mất ngủ của lửa" của Nguyễn Quang Thiều.
Tôi đọc bài này nhiều lần, nhiều năm. Lúc nào tôi cũng băn khoăn: - Vì sao các nhà làm sách lại chọn bài này vào sách giáo khoa dạy cho các em lớp 5 đầu học kỳ một tuổi mới lên 9, lên 10?
Nội dung của bài Tiếng vọng nói sự vô tình của một em bé về cái chết của con chim sẻ mẹ để cho bao thế hệ chim non không ra đời!
Con chim sẻ nhỏ vì cơn bão về gần sáng chết, tác giả xưng tôi vì ngủ quên trong sự ấm áp nên không biết nó chết, mèo hàng xóm lại tha chim đi, để những quả trứng không có chim mẹ ấp mãi mãi không nở thành chim con!
Chỉ từng ấy thôi nhưng Nguyễn Quang Thiều lại làm rắc rối đến nỗi nhiều thầy cô dạy bài không hiểu ra, chứ nói gì đến trẻ con!
Bài viết đầy những cái vô lý và thừa thải.
Nói chim là nói người, chim ở đây được nhân cách hóa, không ai nói con chim sẻ nhỏ chết rồi. Nghĩa tử là nghĩa tận, chim chết cũng như người chết, không ai táng tận lòng mình nói từ con và từ chết. Con dùng cho sự khinh miệt: con rận, con sâu, con đĩ, con phò, con ca ve...Chết dùng cho sự khinh miệt: con chó chết, con chuột chết, con sâu chết. Còn không ai nói con và chết cho người và vật, những gì mình yêu mến.
"Bác Dương thôi đã, thôi rồi
Nước non man mác ngậm ngùi lòng ta!"
( Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê)
Đọc bài Tiếng vọng thấy viết câu thứ nhất là "Con chim sẻ nhỏ chết rồi" và sau đó câu thứ mười một là "Nó để lại trong tổ những quả trứng" thì người đọc băn khoăn : "Con chim sẻ nhỏ mới toe toe mà biết đẻ"(!) Mà đẻ rất nhiều, đẻ ra cả ổ trứng (!). Đấy là sự vô lý.
Câu kể này rất bình thường, nó thua cả câu văn xuôi!
Chim sẻ ai chả biết là nó nhỏ. Tục ngữ nói " tấm cho sẻ ăn", tức là chỉ sự nhỏ bé của chim sẻ. Sẻ đã nhỏ thì con chim sẻ nhỏ, nhỏ biết chừng nào, chắc là nó mới ra ràng, sao lại gán cho nó một ổ trứng.
Có nhiều cách viết hợp lý hơn nhiều:
" Chim sẻ mẹ qua lúc bão về gần sáng"...
Những người chết trẻ, chết oan, bất đắc kỳ tức, người Việt hay dùng chữqua, như chị qua, anh qua, em qua...
Không ai nhẫn tâm nói:
"Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Nó chết trong đêm bão về gần sáng"
Nhiều câu trong bài Tiếng vọng vô nghĩa, thừa thải, và lộn xộn:
"Chiếc tổ cũ trong ống tre đầu nhà chiều gió hú".
Chiếc tổ cũ trong ống tre đầu nhà là đủ rồi, mặc chi đưa chiều gió hú vào đây? Chiều gió hú có thể một câu thơ được nhưng nó ở văn cảnh khác không thể đắp râu ông nọ chắp cằm bà kia!
Nếu sắp xếp câu kéo và hợp với lô gic thì câu thứ 9 trong bài phải đặt lên câu thứ ba mới đúng và hợp tình hợp lý, hợp văn cảnh'
" Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Nó chết trước cửa nhà tôi lạnh ngắt".
Ở đây thêm điều vô lý nữa. Chim sẻ mẹ đang ấp làm gì có chim trống đến hót như tác giả tưởng tượng ra:
"Và tiếng hót mỗi sớm mai trong vắt" (!)
"Và tiếng hót mỗi sớm mai trong vắt" Tiếng chim hót trong vắt hay "Ban mai trong vắt?
Tác giả khen tiếng chim trong vắt hay khen ban mai trong vắt? Học sinh 9, 10 tuổi mới lên lớp 5 làm sao biết được.
Rồi những kiểu nói cho lạ tai không thuần Việt:
"Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi" Tây thật cũng chẳng nói kiểu này! Dịch ra nghĩa Việt là " Việc ấm áp của gối chăn đã giữ chặt tôi" . Có thể có cách nói: chăn ấm, gối êm làm tôi ngủ yên!
Tiếng vọng dùng từ lặp lại đọc nghe câu thơ nặng nề:
"Một con mèo hàng xóm lại tha đi
Nó để lại trong tổ những quả trứng
.....
Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ..."
Tôi có hỏi nhiều nhà giáo dục, nhiều nhà sư phạm về bài Tiếng vọng của Nguyễn Quang Thiều được chọn in trong sách giáo khoa - Tiếng Việt - Lớp 5 tập một.
Thạc sỹ giáo dục, nhà thơ, dịch giả, Trưởng ban biên tập, phụ trách Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục Trần Hậu, ông cho biết: " Đây là bài đang dạng thể nghiệm nên không thể đưa vào sách giáo khoa nhất là sách Tiếng Việt lớp 5, tập một. Bài Tiếng vọng nhiều người lớn không hiểu, làm sao trẻ hiểu nổi. Sách giáo khoa bây giờ còn nhiều bài như thế này cần nên loại bỏ!"
Thầy Trần Đức Trung, tổ trưởng chuyên môn khối 5, cô giáo Nguyễn Thị Kim Yến, giáo viên dạy giỏi thành phố Huế dạy lớp 5, cô Thu Dung giáo viên dạy lớp 5 ở trường Tiểu học Thuận Lộc, thành phố Huế đều nói :
- "Tiếng vọng" là một bài ý tứ lủng cũng, ngôn từ lộn xộn, khó hiểu đổi với các em học sinh mới lên lớp 5. Bài viết không vần điệu, không đi sâu vào lòng người nhất là học sinh tiểu học! Các thầy cô giáo còn chưa hiểu được làm sao học sinh hiểu được!
Cũng rất may mắn là năm học vừa rồi (năm 2011 - 2012) ở Thừa Thiên - Huế tuân theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong kế hoạch giảm thiểu chương trình nặng nề đã loại bài Tiếng vọng không dạy cho học sinh.
Năm học tới sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 nên loại bỏ bài Tiếng vọng ra khỏi sách giáo khoa và nhiều bài phi văn chương khác!
Nhà thơ Đỗ Hoảng

Nhà thơ Vũ Hiển

  •   19/05/2025 11:32
  •   9
  •   0
Chuyên mục: Nhà văn & Tác phẩm

VŨ HIỂN (VŨ ANH VŨ) SAY & TỈNH
Đỗ Hoàng
Tôi xin đi học khóa I trường Viết văn Nguyễn Du, nhưng mãi đến khóa III mới dứt được công việc cơ quan lều chõng ra Kinh kỳ thi đỗ và vào học khóa III, nhưng chưa tốt nghiệp. Đến khóa IV, tôi lại lều chõng ra Kinh thi lần nữa, được đỗ và học tiếp mớí thi tốt nghiệp.
Khóa này tôi gặp nhà thơ Vũ Anh Vũ tên thật là Vũ Hiển. Tôi không gọi bút danh mà thích gọi tên thật Vũ Hiển. Tôi thấy tên Vũ Hiển gây ấn tượng hơn. Vũ Hiển quê Hải Phòng, ăn sóng nói gió lại trải qua đời quân ngũ khá dài nên chất "hảo hán" trong anh rất đậm. Vũ Hiển dáng cân đối, cao vừa phải và rất cao đàm khoát luận! Tuy có thành tích trong chống Mỹ, anh có bằng chứng nhận" Dũng sĩ diệt Mỹ" nhưng khi đi học thì không có chế độ gì cả, phải tự lực cánh sinh. Nhờ bố làm thuốc Bắc nuôi ăn học. Anh bị thương sọ não nên bố anh phải chu cấp cho anh suốt đời! (Nghe nói bị thương sọ não nhưng chẳng có giấy tờ thương binh nào cả).Anh em bạn học giễu anh:" Bố 70 nuôi con 40, bố 80 nuôi con 50, bố 90 nuôi con 60...".Vũ Hiển đi học tự túc nên rất "bô nhếc". Anh nhảy tường qua Đại học Mỹ thuật và nhà hàng phố vặt là me, bầu bí về nấu canh ăn là chuyện thường. Anh thích rượu, nên việc cắm quán như cơm bữa. Ông bà Duẫn bán quán ngoài cổng trường thay nhau chân cao, chân thấp vào tận phòng ở của Vũ Hiển đòi nợ tửu! Mười lần xuống đòi nợ thì hết mười một lần về không. Bị vết thương sọ não đã hâm hấp rồi:lại mê rượu nên có khi anh"thẳng ruột ngựa"chẳng kiêng dè ai cả.
Một lần có nhà thơ đến nói chuyện rồi khoe đã in 5 tập thơ. Tất cả học viên mừng xã giao cho nhà thơ thì Vũ Hiển vỗ bụng bèm bẹp:
- Cung cấp giấy chùi đít làm gì, chỉ cần một bài thơ, một câu thơ là đủ!
Không ai bịt miệng được Vũ Hiển. May là Nhà thơ cười bỏ qua, không thì lớp bẻ mặt.
Sau khi anh hạ hỏa, không say tôi mớí trao đổi - Ai cũng muốn đời nhớ thơ mình, dù một câu hoặc một chữ cũng quý hóa lắm rồi. Khương Hữu Dụng "một tiếng chim kêu sáng cả rừng", người ta chỉ nhớ đúng có chứ "Sáng"! Nhưng muốn có một chữ, một câu đời nhớ, nhà thơ phải lao lực một đời viết ra hàng vạn bài may ra có còn lại một đôi chữ!
Vũ Hiển nghe xuôi tai im lặng.
Hôm cimine một bạn trong lớp, Vũ Hiển đứng lên phát biểu: "Bài thơ "Khóc Nguyên Hồng" này thay tên " Khóc Nguyên Ngọc" hay "Khóc Nguyễn Tuân" gì mà chả được. Thính giả cười ồ, Nguyên Ngọc ngồi dưới dự nghe mặt đỏ như gấc chín!
"Lợi danh ai chẳng hám
Riêng ta trời là vung
Ếch quen ngồi đáy giếng
Ngôn luận bàn lung tung"
(Chân dung tự họa - Giọt rơi đáy giếng)
Anh em trong trường Văn thông cảm không thể chấp! Nhưng có một lần mọi người không chịu được, cả lớp họp bàn đuổi học Vũ Hiển. Họ làm căng lắm, tôi phải đứng lên bênh vực bạn. Tôi nói: "Tôi thân anh Vũ Hiển, tôi biết anh vô cùng trung thực với bạn bè, với đất nước! Không nên đuổi một người mười năm ở chiến trường đánh giặc, có danh hiệu "dũng sĩ diệt Mỹ", bị thương sọ não ra khỏi trường Đại học Viết Văn Nguyễn Du! Mọi người im lặng, sau đó cũng êm chuyện! Vũ Hiển một lần hú hồn!
Khi tỉnh, anh hào hiệp như dân Nam bộ, hay mời bạn bè nhậu. Tôi và anh là đôi bạn nhậu rất "ăn rơ".
"Ta mới nhấp một chén
Người đã ba chén tàng
Nốc vào say ngất ngưởng
Tiên còn kém cô hàng.

Ta với người vui đó
Ơi! Người thơ dềnh dàng
Hết tiền ra cắm quán
Cạn ly, đừng từ nan."...
((Rượu cùng bạn - Giọt rơi đáy giếng)

Nhậu có gì đâu, vài bìa đậu, khô mực (loại cá biển rẻ tiền rất tanh), cút rượu ba xu, chuột uống phải, chuột "chết". Rượu vào thì lời ra, ai cũng nhất quả đất.Vũ Hiển nhất quả đất, Đỗ Hoàng nhất quả đất. Trên đời chỉ có một thằng nhất. Nên phải so găng! Tôi chẳng dũng sĩ, dũng siếc gì hết, dân trinh sát đặc công có cách hạ đối thủ "gia truyền", lấy " đoàn binh chế trường trận". Lúc ấy tôi mặc bộ pirama, áo rộng dễ múa,quần rộng dễ đá, tôi chơi chiêu "quyền cước liên hoàn" đá Vũ Hiển đang ngồi xếp bằng trên bàn phòng học văng ra ngoài cứa sổ!
Cư dân trong trường Văn mè nheo:" Trường Viết Văn Nguyễn Du học
võ chứ đâu phải học Văn" (!).
Từ đó ngôi thứ đã định đoạt, Vũ Hiển chuyên tâm học văn, không võ vai gì nữa!
Ở Hà Nội Vũ Hiển có nhiều bà con và người quen, tôi dân biên trấn ra học chẳng ai bà con, quen thân. Tuy tôi là cán bộ đi học có lương cao nhưng những lúc hết gạo, hết tiền cũng chớí với lại bám cậy nhờ "Gã Khờ" Vũ Hiển. Vũ Hiển dẫn đi ăn chực (ăn ké) khắp Hà Nội. Khi thì ăn ớ bà chị họ đường Trần Quý Cáp gần ga Hà Nội, khi thì bãi Phúc Xá, Phúc Tân...
Bà chị họ của Vũ Hiển buôn bán vặt ở ga Hà Nội, có nhà trong khu tập thể đường Sắt tiếp hai học viên Văn rất tận tình chu đáo.Bữa ăn có đủ món ăn nổi tiếng Hải Phòng: bùn cá cay, bún đa nem nâu, nem rán, thịt lợn luộc, rượu, bia...Món nào bọn tôi cũng thích.
Bà chị Vũ Hiển tâm tình:
-Họ em làm kỹ sư, bác sĩ đã có, bộ đội úy, tá đã có; bên chính trị nhiều người làm cán bộ cấp thành phố, nhưng chưa có ai nhà thơ. Cậu Hiển đi học Nhà thơ cả họ mừng. Nhiều người nói đi học nghề ăn mày, song tôi bảo chú tôi, cho cậu Hiển đi học,lên Hà Nội cháu nuôi ăn học!
Tôi vô cùng cảm kích lời tâm tình của bà chị họ Vũ Hiển.
Tôi nhớ buồn thương nhất lần Vũ Hiển dẫn tôi đi xin tiền một người thân ở phố Lò Đúc. Tôi nghĩ người này chắc lại đại gia "Tàu Viễn dương", "Địa ốc" hoặc "Chủ Sáu Kho" nổi tiếng của Hải Phòng...Ai ngờ leo lên đến tầng 5 vào phòng trọ của một sinh viên Nhạc viện Hà Nội. Anh sinh viên cao mà rất gầy, da trắng nhợt gần như bạch tạng suốt ngày ngồi bên cái máy đan len kiếm thêm tiền để học.. Thấy tôi và Vũ Hiển vào nhà, anh rời máy đứng lên pha nước tiếp khách, rồi ba anh em đàm đạo văn chương, âm nhạc. Anh hiểu âm nhạc đã đành, anh còn hiểu sâu văn chương. Anh thích văn chương bình dị, không kiểu cách. Anh rất yêu thơ Vũ Hiển. Anh thuộc nhiều bài và đọc cho chúng tôi nghe bài 'Thơ và em"
Thơ hay là đau khổ
Mà cuộc đời ngả nghiêng
Em hay là bão tố
Mà biển trời đảo điên

Mà thơ là đau khổ
Nên càng yêu cuộc đời
Và em là chân trời
Nên càng say bão tố

Hay đừng làm thơ nữa?
Để trong ta bình yên
Hay đừng yêu em nữa?
Cho biển trời dịu êm.

Thơ ơi! Dù đau khổ
Càng si mê không rời
Em ơi! Dù bão tố
Càng đắm say chân trời.

Thật là tri âm, trị kỷ!
Sau đó anh đưa tiền cho Vũ Hiển về tiêu pha. Tiễn hai anh em ra cửa, anh nhỏ lời: "Tôi khi chưa mua được máy đan len cũng vất lắm. Có nó tôi đỡ bấn, có thể bám học tốt nghiệp Nhạc viện. Anh Hiển và anh đừng ngại, khi nào túng thiếu đến tôi, tôi có thể giúp chút ít!
Vũ Hiển lúng túng cám ơn rối rít. Tôi ái ngai và xấu hổ quá. Hai thằng thân dài, vai rộng sức như trâu có thể quật voi chết mà đi xin tiền một sinh viên gầy yếu, xanh nhớt đan len kiếm sống nhiều hơn học nhạc!
Tôi bảo Vũ Hiển:
- Tưởng ông xin tiền đại gia, ai lại bóp nặn cánh sinh viên nghèo khổ như mình!
- Quân tử cố cùng bất câu liêm sỉ - Tao không còn chỗ nào xin nữa mày ạ! - Vũ Hiển chắc chẳng sướng sung gì nói.
Vũ Hiển thường bị chê hâm hâm, dở dở, "viêm túi mãn tính" (không có tiền) , chính anh cúng tự nhận "Hâm hấp rồi dở dở/ Dại dại, lại điên điên (Chân dung tự họa - Giọt rơi đáy giếng), nhưng khóa IV viết văn , Nguyễn Du, Vũ Hiển có nhiêu ấn tượng tốt để lại. Vũ Hiển được in thơ dự thi báo Văn nghệ năm 1989-1990 hai bài. Bài Tương Lê Chân và một bài thơ tình. Tôi đến thăm anh Bế Kiến Quốc, tổ trưởng tổ thơ báoVăn nghệ, nhà ở căn hộ khu Trung Tự ,nghe anh báo tin tuần tới báo ra có thơ Dự thi của Vũ Hiển. Anh khen thơ Hiển hay .Tôi về trường báo tin cho Hiển. Vũ Hiển sung sướng đến mức nhảy múa hát mấy vòng ở sân trường. Sau đó kéo tôi ra cắm quán Bà Duẩn hơn lít rượu " xếc" đắng như thuốc sâu:
"Ta mớí nhấp một chén
Người đã ba chén tàng
Mặt người vừa đo đỏ
Da ta chớm vàng vàng
...
Say rồi lăn ra ngủ
Hai đầu hai quả dừa
Ta biết đời quá ngắn
Dẫu chết, rượu không chừa..."
(Rượu cùng bạn - Giọt rơi đáy giếng)
Đến việc Vũ Hiển yêu người đẹp Thúy M, đứng thứ 6 vùng chung kết thi hoa hậu năm 1989 - 1990. Thúy M học năm cuối khoa Văn hóa quần chúng, Đại học Văn hóa Hà Nội. Tôi và Vũ Hiển có nhiều lần đến ký túc xá của Thúy M chơi. Yêu được hay không được, không quan trọng, nhưng Vũ Hiển có nhiều thơ tình hay về người đẹp là quý rồi.
"...Một mình giữa bến cô liêu
Lục tìm thương nhớ những điều vu vơ
Bên tai vẳng một vần thơ
Còn mong ai nữa đứng chờ ngoài hiên
Mắt buồn dõi ánh sao đêm
Một mình tâm sự sương mềm bờ vai

Bần thần đếm khắc canh dài
Bóng mình, cứ ngỡ bóng ai đợi mình!
(Cô đơn - Giọt rơi đáy giếng)

Ấn tượng nhất là ngày thi trắc nghiệm tốt nghiệp, học viên trả lời trực tiếp các câu hỏi do giáo sư, nhà văn hỏi. Vũ Hiển đối đáp rất lưu loát rồi đọc ngay thơ mình minh họa. Các giám khảo phải phì cười cho điểm cao:
"...Trẻ chi mà già chi
Rượu say rồi nói khoác
Tiền là Bạc lắm khi
Nợ đời không cần nhắc

Thàng ngày lam lũ đấy
Rảnh rỗi nhắp vài chung
Dở hay lời phải trái
Ngôn luận bàn lung tung

Lợi danh ai chẳng hám
Riêng ta trời là vung
Ếch quen ngồi đáy giếng
Vùng vẫy lắm coi chừng

Văn cũng không bằng vẽ
Tài cũng chẳng bằng tiền
Hâm hấp rồi dở dở
Dại dại , lại điên điên

Câu thần chen câu vụng
Thơ thẫn lẫn dại khờ
Áo cơm đời rẻ rúng
Tình riêng vẫn ơ hờ

Cần tìm mau con vợ
Sửa túi cùng nâng khăn
Cho dù là cái nợ
Mặc xác, ta cóc cần.
(Chân dung tự họa - Giọt rơi đáy giếng)
Từ đó đến nay anh cứ "tình riêng vẫn ơ hờ"
"Em ơi! Chiều rồi
Đêm đã`về, nắng sót
Em ơi! Muộn rồi
Cánh hoa sầu không nhặt

Đêm qua trong mơ
Thấy em về nhắc nhở
Em ơi! Chiều rồi
Ngủ
Tìm vĩnh cửu hư vô
Chẳng bao giờ đi tới
Chiều rồi!
Muộn rồi
(Chiều rồi - Giọt rơi đáygiếng)

*
Tốt nghiệp ra trường, anh em trong lớp đều có việc làm, riêng Vũ Hiển thì vẫn ông 90 nuôi ông 70. Mỗi lần công tác xuống Hải Phòng tôi đếu ghé thăm nhà Vũ Hiển. Bố Vũ Hiển bốc thuốc Bắc. Nhà cửa ở phố đàng hoàng. Bố Vũ Hiển đã cao tuổi. Lúc đó ngoại bát tuần. Nhưng trông cụ quắc thước, cao ráo, có chữ nghĩa. Hai cô con gái, một chị, một em gì đó của Vũ Hiển đang dạy cấp 3 gần nhà.
Đi làm có tiền, tôi mời bia Vũ Hiển. Hai đứa từng đã uồng khuynh thiên, đảo địa nên cuối tuần rỗi rải tha hồ lai rai!
- Drink beer, or drink alcohol?- (Uống bia chứ?, hay uống rươu?,)
- Drink beer (Uống bia!).
Uống mỗi đứa đã 6 vại, tôi hỏi vũ Hiển:
- Uống nữa không?
- "Thất tràm sớ chứ" ( Nghĩa là phải 7 vại)
- Ok! (Tốt thôi)
Nhưng phải đến ten, eleven, twelve, thirteen...(mười, mười một, mười hai, mười ba...) mới rời quán.
Sau khi tỉnh, một việc"quan trọng" khi về Hải Phòng là ra Đồ Sơn tìm người đẹp. Một địa nổi được nới lỏng cho du khách xả hơi.
Vũ Hiển nói: - Tớ có chỗ quen, khỏi phải ngủ độn (phải đeo capot).
Hồi trẻ khoản này, tôi năm bờ oăn (I am number one), số một - 180 phút không kể thời gian chép đề.
Tôi xong việc,Vũ Hiển chờ bạc tóc. Vừa bước ra cửa, Vũ Hiển hô to:
- Xây dựng Xã hội Chủ nghĩa ba mươi năm mà để thằng Huế ra khai hóa văn minh! Đúng là năm bờ oăn (số 1)
- Number one! Số 1!

*
Tôi viết chân 810 vị Văn sĩ Việt. Hải Phòng chọn nhiều nhiều người trong đó có nhà thơ Vũ Anh Vũ (Vũ Hiển). Trên mặt bằng văn chương được đăng tải, Vũ Anh Vũ không bằng một số người khác. Tên anh rất ít xuất hiện trên báo chí chính thống. Không chỉ anh, nhiều nhà thơ khác cũng chịu cảnh rủi ro trong cơn kinh tế thị trường. May cho anh, tôi người làm sách tôi biết anh, bạn học của anh, tôi đọc thơ anh nhiều nên tôi quyết định chọn anh. Nhiều vị thời thượng được công luận công kênh nhưng tôi cho là thùng sắt tây rỗng, tôi không chọn. Tôi làm cuốn sách này tránh được hai điều, nếu nhà nước làm thì họ đưa cán bộ tuyên huấn, cán bộ chính trị chay vào đứng trong danh sách nhà văn; nêu tư nhân làm vì không có tiền nên các đại gia, doanh nghiệp gia đứng trong hàng các nhà văn (!).
Không hiểu sao Vũ Anh Vũ biết tôi làm sách kẹt tiền, Vũ gửi lên Hà Nội hai lần độ trên 5 triệu đồng. Tôi vô cùng càm kích tấm lòng tốt của bạn, không biết bạn đào đâu ra tiền?
"Vũ Hiển ngơ ngơ ngẩn ngẩn
Hâm hâm dở dở, tàng tàng
Chén rượu trắng tay xin bạn..."


*
Chắt lọc một đời thơ, anh xuất bán tập thơ "Giọt rơi đáy giếng" - Nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2017. Tập thơ có nhiều bài hay: Tượng Lê Chân, Thu phải sang, Chân dung tự họa, Nhìn, Tìm xuân, Uống rượu một mình, Thơ và em, Chiều rồi, Rượu cùng bạn...Điều đó thật đáng mừng cho Nhà thơ Vũ Anh Vũ (Vũ Hiển). Đời không phụ lòng tốt của anh. Anh không bị lãng quên:
"Vũ Hiển không thể nào quên
Lê Chân nữ tướng dựng nên Hải thành"
Hà Nội 2020
Đ - H

DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT- DỊCH NGUYỄN QUANG THIỀU

 Người mua, mua lại từ một ông già. Quà tặng của con trai

Thăm dò ý kiến

Bạn biết gì về NukeViet 4?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập3
  • Hôm nay192
  • Tháng hiện tại1,253
  • Tổng lượt truy cập55,264
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi