Kiều Thư (trích)

Kiều Thư (trích)

Kết Kiều Thơ
Đoạn kết
Ngẫm ra ân oán tại người. (808)
Hiền tâm, ác bá cũng nơi lòng mình.
Đã rằng vì nghĩa, vì tình.
Sá chi cái lũ yêu tinh hung tàn.
6105- Xưa nay dưới chốn trần gian,
Núi xương, sông máu non ngàn trắng phơi.
Mệnh tài đầy đoạ kiếp người. (809)
Tơ duyên nghiệp chướng nợ đời phải mang.
Cửu tuyền còn chuyến đò ngang. (810)
6110- Nợ chưa trả hết sao sang bến chiều.
Càn khôn hoang lạnh cô liêu.
Càng gây oan trái, càng nhiều tội danh.
Cõi trần mờ mịt mong manh,
Con người, con ngợm cố giành giật nhau.
6115- Nhãn tiền trông thấy mà đau!
Đời nay đã vậy, muôn sau thế nào?
Lại mơ có những anh hào.
Hùng tài đại lược, chí cao phi thường.
Cho Kiều không phải đoạn trường.
6120- Cho bao cây cỏ bên đường bình yên.
Chỉ còn tìm đến cõi tiên. (811)
Đỗ Hoàng thử hỏi có nên dịch Kiều?
Hà Nội, 6 giờ 37 phút ngày 17 tháng 5 năm 2009
Đ-H

Xem tiếp...

Mid-page advertisement

VÔ LỐI - THI TẶC NGUYỄN KHOA ĐIỀM

  •   15/10/2025 20:59
  •   2
  •   0
VÔ LỐI - THI TẶC NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Đỗ Hoàng
Tập Cõi Lặng của Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm do Nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2007.
Tập có 56 bài, 9 bài thơ viết theo hình thức truyền thống (có bài lỗi vận – Tắm bến Hà Khê, Đọc thơ tứ tuyệt của Đỗ Mục, Người nằm bên Hồ Tây...), 44 bài viết theo “tân hình thức”, không vần không điệu, tức là Vô lối, 3 bài theo thể hiện đại – thơ tự do.
Nhiều người tìm đọc vì sự tò mò là chính.
Họ xem ông nhà thơ làm quan to tột đỉnh khi hồi hưu có như những ông quan xưa hồi hưu, có khác gì thường dân đang quằn quại khổ đau dưới một sự toàn trị không. Hoá ra ông “quan to” hồi hưu lại hậm hực, ấm ức, tiếc rẻ, khẩu khí có khi còn quá đáng hơn cả dân thường, bài Vô lối sau:
“Bây giờ là lúc có thể chia tay với điện thoại để bàn, cạc vi- dít, nắm đấm mi – crô.
Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường...
...Anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ...”
(Bây giờ là lúc).
Ông quan to, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không dấu sự nuối tiếc, bực bội, cả căm tức khi mình bị buộc về hưu giữa chừng, đang lúc kiếm ra nhiều bỗng lộc. Tiếc không thay đổi được thời gian, thời gian đã đóng đinh lên thân thể; hối không làm được như gã quan Tàu trước đây đổi 83 tuổi ra 38 tuổi để tại vị nhiều thập kỷ nữa, để hốt vàng, hốt bạc. Bao nhiêu cái tiếc, bao nhiêu cái tức, cái căm.
(Nghĩ về mất chức mà đau
Từ nay thôi hết xe tàu vi vo
(Vè cụ Thượng mất chức – Dân gian)
Làm quan đời nay nó hái ra toàn ngọc tạ vàng tấn, chứ không phải chỉ ba đấu gạo như tri huyện, nhà thơ Đào Tiềm xưa, và 40 đô la/tháng như Phó tổng thống, nhà thơ Bungari , Đimi trô va... nên các quan khát chức, khát quyền điên dại, oán trách đồng liêu hảm hại, oán trách tạo hoá phôi pha tuổi tác. Sự hồi hưu ở quê là một sự đi đày, chứ không phải là từ quan về vui thú điền viên như quan xưa:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Mà:
“Tóc trắng như thời gian thích chữ lên trán
Đày anh về quê
Không thể chạy trốn số phận”
(Nhặt ghi)
Và như vậy hoá ra những bài thơ viết về quê hương, cố quận như: Làng Phao Võng, Cánh đồng buổi chiều, Thành phố sớm xuân, Viết cuối năm, Về quê đón tết... đều giả hết!
Nguyễn Khoa Điềm không dấu mình nỗi đam mê quyền lực, đam mê làm quan đến nỗi Huế và Hà Nội thời giao thông hiện đại, xe con đời mới to chỉ đỉ 7 tiếng đồng hồ là đến nhà mà để lỡ cả mùa thu, lỡ cả mùa đông. Lỡ cả mùa thu, lỡ cả mùa đông không phải lo dân chống bão lụt, chống hạn hán, lo cầm quân đánh giặc ngoài biên thuỳ, mà lỡ cả mùa thu, lỡ cả mùa đông là cấm mạng, chặn tường lửa, cấm tư tưởng dân chủ, cấm những người” nhìn ra bốn phương rực rỡ văn minh, tức tối nước nhà cam đường hủ bại” lỡ vì:
“Đã lâu anh chưa về Huế
Hẹn vào thu rồi lỡ cả mùa đông
Anh mải mê trên đường hoạn lộ
Ngảnh về quê hư ảo một vầng trăng”
(Viết cuối năm)
Vì đam mê làm quan, đam mê quyền lực nên ông quan Nguyễn Khoa Điềm không dấu một thủ đoạn chính trị nào để đạt quyền chức:
“Nhiều khi đá đá dạy ta mềm mỏng”
(Hy vọng)
Đến đây chúng ta nhớ tích cũ tay quan Lưu Sử Đức cũng bên Tàu. (Làm quan thì phải học Tàu).
Ông bố muốn con làm quan to nên ra tình huống như nền giáo dục tiên tiến các nước hay ra tình huống cho sinh viên thực hành.
Ông bố nói:
- Nếu quan trên mắng mỏ nhổ nước bọt vào mặt con thì con phải làm sao?
Lưu Sử Đức thành thực trả lời:
- Con im lặng và sẽ lấy khăn lau đi!
Ông bố giật nảy mình như đỉa phải vôi:
- Không được! Không được! Hỏng hết bánh kẹo! Hỏng hết bánh kẹo! Cứ để vậy, cứ để vậy, cho nó tự khô!
Nếu Lưu Sử Đức sồng lại thì phải đến học ông quan “mềm mỏng” Việt Nam Nguyễn Khoa Điềm thêm mấy chiêu nữa!
Vì đam mê quyền lực, vì súng đẻ ra chính quyền (Mao Trạch Đông) nên tình thương con người trong thơ Nguyễn Khoa Điềm nhạt nhẽo, sống sượng, sáo rỗng, vô tình, không thật một chút nào. Những câu đại ngôn sau vừa kém thi pháp, vừa kém nhân đạo:
“Người ơi, tôi yêu người tha thiết
Tôi sống với người, chết vì người”
(Cõi lặng)
Nhiều nhà thơ ở Huế bình và chê Cõi Lặng là tình cảm vờ vịt. Thật không sai chút nào!
Nhiều bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm viết theo kiểu Vô lối dưới vè như: Anh đợi, Ngồi với cây long não nhà bạn, Hoa quỳ vàng...
“Vứt hết sách vở
Hai tay bụi trần
Núi cao anh trèo
Sông sâu anh lội...
(Anh đợi)
Cõi lặng có nhiều bài thua cả những bài ở các tập thơ trước như bài Tháng tư:
“ Tháng tư lá xà cừ xào xạc mặt đường
Dãy tường cổ nảy những chùm lá mới
Hà Nội thì thầm nghìn tuổi
Mừng Đảng qua một mùa đại hội”
(Tháng tư)
“Tháng tư dông chuyển bồn chồn
Hạt mưa vây ấm, nỗi buồn cách xa
Phía em, phía của quê nhà
Trắng là tóc mẹ, xanh là áo em!”
(Đất ngoại ô)
Trong Cõi Lặng Nguyễn Khoa Điềm lạm dụng từ Hán Việt chưa Việt hoá như: Vô ngôn, Hoạn lộ, Hư tự...
“Bao giờ, nơi nào anh đọc được mình
Qua nỗi đau nhân loại
Vô ngôn
Hư tự”
(Những quyển sách)
Khách quan mà nói thì những bài thơ mà Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết theo thể thơ truyền thống khá hơn một chút, có thơ hơn một chút không phải như các bài ôp lối hủ nút, lởm khởm như: Mưa thu, Bạn thơ, Người nằm bên Hồ Tây, Lên núi thăm chùa...”
“Ta ngồi như cội trúc
Gội mưa thu bốn bề
Nghĩ mình không lỗi hẹn
Với người đang xa quê
Chỉ mong em trở lại
Kịp hái chùm tóc tiên
Cắm lên bình lam ngọc
Mừng một ngày lãng quên”
(Mưa thu)
Cõi lặng là một tập sách yếu kém dưới mức trung bình.
Hà Nội ngày 1-2 – 2012
Đỗ Hoàng
(*) Nhà xuất bản Văn học năm 2007
DỊCH VÔ LỐI CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Nguyên bản:
CÕI LẶNG (*)
Cõi lặng. Anh soi thấy mặt mình
Với nỗi buồn trong sạch
Cõi lặng. Không tiếng động nào khác
Người ơi, tôi yêu người tha thiết
Tôi sống vì người, chết vì người
Cõi lặng. Tôi vượt qua ghềnh thác
Đến những miền trong xanh...
Ngày 17.1.2003
--
(*) In trong tập Cõi Lặng – NXB Văn học năm 2007
Viết liền văn xuôi:
CÕI LẶNG
Cõi lặng. Anh soi thấy mặt mình với nỗi buồn trong sạch. Cõi lặng, không một tiếng động nào khác - Tiếng đập trái tim anh. Người ơi, tôi yêu người tha thiết. Tôi sống với người, chết vì người. Cõi lặng, tôi vượt qua ghềnh thác đến những miền trong xanh.
Nhận xét:
Đây là điển hình cho loại Vô lối đang thịnh hành. Nó tù mù, tờ mờ, chuột không ra chuột dơi không ra dơi. Nếu gọi là thơ thì là một sự xúc phạm rất lớn với thi ca!
Khi chuyển những bài Vô lối qua cách viết kiểu văn xuôi mới biết các bài Vô lối ấy thì thấy nó kệch cỡm, bệnh hoạn biết nhường nào. Đúng là một quái thai của văn chương.
Đấy là mới nhìn hình thức biểu hiện, chứ soi vào ý tứ, câu chữ và tu từ ( hay là thi pháp) thì không biết gọi chúng là gì!
Riêng hai câu đại ngôn “Người ơi, tôi yêu người tha thiết/ Tôi sống vì người, chết vì người” thì giống như con sói hú lên: “Cừu ơi, ta yêu Cừu tha thiết/ Ta sống vì Cừu, ta chết vì Cừu!”
Dịch sang thơ Việt:
Đỗ Hoàng dịch:
CÕI LẶNG
Cõi lặng, anh soi thật mình
Nỗi buồn trong sạch, trắng trinh giữa trời.
Cõi lặng, không tiếng nào rơi,
Tiếng tim anh đập muôn đời nào yên!
Yêu người tha thiết, thiêng liêng,
Nguyện cùng sống chết, đảo điên vì người!
Cõi lặng, ghềnh thác vượt rồi,
Đến miền trong sạch, tuyệt vời xanh trong!
Hà Nội ngày 29 - 1 – 2012
Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên bản
ANH ĐỢI (*)
Đến sớm một ngày
Vượt trước thôi đường
Cao hơn thói thường
Anh đợi
Đánh đổ một đời
Cuối đất cùng trời
Anh đợi
Anh tìm em
Từ cõi hư vô
Đến phiên chợ trời
Âm dương xanh thẳm
Thương nhớ bồi hồi
Anh đợi
Vứt hết sách vở
Hai tay bụi trần
Núi cao anh trèo
Sông sâu anh lội
Anh đi tìm em
Mây chiều bạc tóc
Thương nhớ lao lung
Một thời trận mạc
Một thời cấy trồng
Anh là hạt thóc
Em là cánh đồng
Gieo bao thương nhớ
Vẫn còn mênh mông
Còn chăng điều tốt
Trong cuộc đời này?
Còn bao nông mặn
Em dành hai ta?
Ngàn năm, trăm năm
Anh mong, anh đợi
Một ngày xuôi tay
Đường xa để lại
Anh còn ngoái lại
Những lời hôm qua:
Anh đợi!
Ngày 27 – 9 -2006
Nhà thơ Vũ Quần Phương có bài Đợi
“Anh đứng một giờ
Đất lạ thành quen”
Một sự phát giác từ hiện thực, rất hay, ai cũng biết nhưng không ai nói được. Bài Anh đợi của Nguyễn Khoa Điềm vô duyên hết chỗ nói. Nó vừa quê, vừa cổ lỗ sỉ, không có phát hiện gì mới, lại dưới cả vè thì độc giả làm sao chấp nhập được!
Đỗ Hoàng Tạm dịch qua vè truyền thống người Việt:
VÈ ANH ĐỢI
Vè vẻ, vè ve
Nghe vè anh đợi.
Đến sớm một ngày
Không thì trời tối.
Vượt trước thôi đường
Cao hơn thói thường
Anh chờ, anh đợi
Anh tìm, tìm em
Từ cõi hư vô
Đến phiên chợ trời
Âm dương sáng tối
Thương nhớ bồi hồi
Anh chờ, anh đợi.
Vở sách trôi nổi
Hai tay bụi trần
Núi cao anh lần
Sông sâu anh lội
Anh đi tìm em
Mây chiều tóc rối
Thương nhớ lao lung
Chiến trường lạc lối
Một thời cấy trồng
Anh hạt thóc thối
Em là cánh đồng
Gieo bao thương nhớ
Vẫn còn mênh mông!
Còn chăng điều tốt,
Trong cuốc đời này?
Còn bao nồng mặn
Dành ta, ai hay?
Ngàn năm, ngàn năm
Anh mong, anh đợi
Một ngày xuôi tay.
Đường xa để lại
Anh ngoái lần này,
Những lời hôm qua!
Vẫn còn chói lọi!
Vè vẻ, vè ve
Nghe vè anh đợi!
Hà Nội ngày 29 – 1 - 2012
Ngyễn Khoa Điềm
Nguyên bản:
NGỒI VỚI CÂY LONG NÃO NHÀ BẠN
Ngồi với tôi mỏi mê
Anh quay vào bếp
Xong nồi lục đục
Mỗi âm thanh dễ nhận ra
Củi – diêm - nước mắm
Và những gì gian khó
Không âm thanh
Tôi một mình
Một nình với cây long não
Cây long não già mà lá trẻ
Như ta giữa cuộc đời này
Cây long não lặng im
Cây long não trịu trần
Năm tháng bên nhau
Nhận lấy phấn bụi bặm
Trả ta hương lành
Và một chút gì sâu xa
Không rõ nữa nữa
Bây giờ cây tiếp chuyện tôi
Gác một chân lên hè phố
Chúng tôi nói về anh
Những trang chứa biết đến của một người cầm bút...
Bên cầu Phủ Cam, tháng 5 năm 1982
Đỗ Hoàng dịch:
VỚI BẠN
Ngồi với tôi mỏi mê
Anh lại quay vào bếp
Tiếng song nồi, nhôm thép
Âm thanh dễ nhận ra
Nước mắm, muối, diêm, cà...
Vì những gì gian khó
Chắng có một âm thanh!
Còn tôi chỉ một manh
Một mình với long não
Long não già lá trẻ
Như ta cuộc đời này.
Cây long não lặng im
Một thân hình trần trụi
Năm tháng ta bên nhau
Nhận lấy phần bậm bụi
Trả cho ta hương lành
Chút sâu xa vời vợi
Mà không còn rõ nữa.
Bây giờ cây tiếp tôi
Gác chân lên hè phố
Chúng tôi nói về anh
Trang sách còn viết dở!...
Hà Nội ngày 29- 1 – 2012
Nhà thơ Đỗ Hoàng
Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên bản:
HOA QUỲ VÀNG
Thông đã mọc nghìn năm
Thành phố trăm năm
Anh đến một ngày
Đà Lạt trẻ
Mà anh thì quá tuổi
Hoa quỳ vàng
Lặng im bên cửa
Hoa quỳ vàng
Ái ngại
Nở chờ anh
Đã sang thu?
Là hạ?
Vẫn là đông?
Không cao thấp
Sao chập chùng
Ẩn hiện
Hoa quỳ vàng
Nghiêng nghiêng
Cánh mỏng
Hồn cao nguyên
Nương náu đến bao dung
Em thanh xuân
Anh quá đỗi
Ngại ngùng với sương gió
Đượm buồm từng tấc cỏ
Đà Lạt
Anh có gì
Để nhớ
Sao âm thầm lưu luyến
Tôi muôn xưa
Hoa quỳ vàng
Em chợt đến
Sau mưa
Để chợt héo
Trước ngày đông
Tháng giá
Anh chợt đến
Và chợt về
Xa lạ
Chợt trăm năm
Một khoảnh khắc
Giao mùa
Hoa quỳ vàng
Hoa quỳ nở
Như mưa.
Ngày 22 .1. 1993
Nhận xét:
Một ông trên 70 tuổi mang danh nhà thơ, giữ trọng trách quốc gia mà viết như thế này thì hoạ là điên loạn.
Dịch dễ hiểu:
HOA QUỲ VÀNG
Thông đã nghìn năm
Phố thị trăm năm
Anh đến một ngày
Ơi! Đà Lạt trẻ.
Anh thì quá thể
Mà hoa quỳ vàng
Lặng im bên cửa
Là hoa quỳ vàng
Chút gì ái ngại
Nở chờ anh sang!
Là đã tới thu?
Hay là đang hạ?
Hay vẫn là đông
Mịt mùng sương giá.
Không cao, không thấp
Mà sao vẫn chập chùng!
Mờ mờ ẩn hiện
Ơi, hoa quỳ vàng
Nghiêng nghiêng cánh mỏng
Hớp hồn cao nguyên
Chút gì nương náu
Bao dung nhân duyên!
Em mãi thanh xuân
Anh thì quá đỗi
Ngại ngùng sương núi
Tấc có đượm buồm
Đà Lạt tơ vương.
Anh có gì nhớ
Mà sao âm thầm
Mà sao lưu luyến
Tới buồn muôn xưa!
Ơi hoa quỳ vàng
Và em chợt đến
Sau mưa mặn nồng
Và để chợt héo
Tháng giá ngày đông
Và anh chợt đến
V à lại chợt về
Xa lạ buồn không!
Bất chợt trăm năm
Trong một khoảnh khắc
Trời đất giao mùa
Hoa quỳ vàng nở
Rỡ ràng như mưa...
Hà Nội ngày 29 – 1- 2012
Đỗ Hoàng
Nhận xét:
Bài này kém đến mức không muốn bàn nữa! Chí nguy! Chí nguy!
Hà Nội ngày 29- 1 – 2012
Đỗ Hoàng
lối này. Em đây chọn lối này.

Kiều Thư (trích)

  •   15/10/2025 21:04
  •   2
  •   0
Kết Kiều Thơ
Đoạn kết
Ngẫm ra ân oán tại người. (808)
Hiền tâm, ác bá cũng nơi lòng mình.
Đã rằng vì nghĩa, vì tình.
Sá chi cái lũ yêu tinh hung tàn.
6105- Xưa nay dưới chốn trần gian,
Núi xương, sông máu non ngàn trắng phơi.
Mệnh tài đầy đoạ kiếp người. (809)
Tơ duyên nghiệp chướng nợ đời phải mang.
Cửu tuyền còn chuyến đò ngang. (810)
6110- Nợ chưa trả hết sao sang bến chiều.
Càn khôn hoang lạnh cô liêu.
Càng gây oan trái, càng nhiều tội danh.
Cõi trần mờ mịt mong manh,
Con người, con ngợm cố giành giật nhau.
6115- Nhãn tiền trông thấy mà đau!
Đời nay đã vậy, muôn sau thế nào?
Lại mơ có những anh hào.
Hùng tài đại lược, chí cao phi thường.
Cho Kiều không phải đoạn trường.
6120- Cho bao cây cỏ bên đường bình yên.
Chỉ còn tìm đến cõi tiên. (811)
Đỗ Hoàng thử hỏi có nên dịch Kiều?
Hà Nội, 6 giờ 37 phút ngày 17 tháng 5 năm 2009
Đ-H
A D H 1

Nguyễn Quang Thiêu (tiếp)

  •   22/09/2025 14:19
  •   13
  •   0
NGUYÊN QUANG THIỀU – TÀM VĂN HÓA QUẤ THÂP – HỌC HÀNH LỔ MỔ - KHÔNG NÊN LÀM CHỦ BÚT.(tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Mấy ông công an khi đeo dao găm, súng lục, giày đính, kiếm mác, tua dãi… trông rất hùng dũng;;nhưng khi viết lách thể hiện ý đồ, quan điểm thì lòi lổ hỏng kiên thức vô học rất trầm trọng! Nguyễn Quang Thiều là một người như thế!
Khác những người cùng thế hệ, Thiều dược Công an cho học tiếng Anh tận Cu Ba do Mễ Tây Cơ dạy. Méo mó có hơn không. Về nước làm công an ngoại tuyến (mật vụ). Thiều làm cái gọi là “thơ” – vô lối, được cài caì cắms vào văn nghệ, trở thành “nhà thơ” (thi tăc)! Thiều lamf gims đốc nhà xuất bản Hội nhà văn, có cấu Chủ tịch Hội Nhà văn. Thiều ra cái càng viêt càng sai, chuyên đề Viết & Đọc. Bằng hữu gọi là “tạp chí”! Thế là Thiều tha hồ tung tẩy viêtt mọi thứ. Càng viết càng sai, càng thể hiện cây gdường là cái xa mờỗ mục!
Xin trích dẫn bài”đít cua”, thông điệp “Chúng ta đi qua thiên đường với đôi mắt mù lòa’ in chuyên đề “Viết & Đọc mùa thu 2024”. Bài này co cùng hàng trăm bài như thế hiện tỏ rỏ lổ hỏng trong kiên thức văn chương của Thiều!
Thiên đường là nơi hạnh phúc đạt được trọn vẹn theo quan niệm của Công giáo, cũng như nó đã có hình thù chưa miền cực lac bên đạọ Phật.
"Thiên đường" (hea ven) là một khái niệm chỉ về một thế giới lý tưởng, hạnh phúc và viên mãn, thường được mô tả là nơi cư ngụ của các đấng tối cao, thần tiên, hoặc nơi an nghỉ cuối cùng của những linh hồn tốt đẹp sau khi qua đời. Ngoài ra, từ này còn có thể chỉ một Vườn địa đàng (nơi Adam và Eva cư ngụ).
Thiên đường là cái không có thực trong cuộc đời chỉ có thánh thần may mắn mới lên được. Người cộng sản lạc quan tếu nhất cũng mới nghĩ tới ” thiên đường cộng sản”. Nó đã có hình thù ra sao thi cũng chưa bết!.
Chỉ có ông hót hoc Tố Hữu Việt Nam bốc phét “miền Bắc thiên đường của các con tôi” chứ không phải thiên đường của nhân loại!!. Nay có ông cộng con Nguyễn Quang Thiều mới khẳng định có thật “thiên đường” “Chúng ta đi qua thiên đường vớ bằng đôi mắt mù lòa”! Thật diệu kỳ ‘thiên đường của Nguyễn Quang Thiều đã đi qua, dù di qua với đôi mắt dũ mù lóa!. Thiên đường đã có thật rồi.. Người cộng sản đâu phải vẽ hượu, vẽ vượn!” Ngườ主要的i người đế quốc biêt hay chăng/ Trai đát già nua, ta trẻ măng/ Trai đât ngươi ôm ôm chẳng nổi/ Trời kia ta với tới cung trăng” Vờ òa sung sướng chưa bà con công nông!
“Đã có lần tôi mơ thấy mình bay lơ lững trên cao (高) và nhìn xuống thê gian(.世界) Tôi chăc không chỉ minh tôi mơ như thế.. Và từ trên cao tôi nhìn thây chính (主要)tôi đang進行中)(cùng biêt bao người khác đang chen chuc trên những con đường trên mặt đát . Một cảnh tượng hổn lọạn (混亂)và thật tội nghiệp(職業) hiện ra (出現)trước măt tôi. Khi chúng ta thoát khỏi chúng ta để quay đầu lại nhìn chính (chúng ta, chúng ta mới thật kinh haĩ về những năm chúng ta đã sông và đang sống. Chẳng lẽ chúng ta những kẻ đươc quyền(正正確)cất giữ những giấc mơ đẹp , lại hiện ra thật tồi tệ và đày đọa (折磨) đến như thê kia.
Vì trong đám đông bât tận đang chen chúc , đang nguyền rủa nhau, đang mưu mô, đang độc ác, đang lầm lạc, đang tuyệt vọng, tôi thây dôi mắt đang ngước lên. Họ cầu xin và mơ ước đến Thiên đường(天堂) một ngày nào đó. Và trong những người ngước mắt lên mơ đến một Thiên đường đã có quá nhiều người gục xuống bởi tuyệt vọng vì chính điều họ mơ đên. Họ không đủ kiên nhẫn đợi chờ cái ngày họ được đến Thiên đường.. Họ guc gã trong bóng tôi của vô vọng (絕望)ở phía thẳm xa (邊緣c) húng ta, chỉ cách một lớp áo, một làn da và nói cho đúng hơn thì Thiên đường ở trong lòng bàn tay của chúng ta. Nhưng chúng ta đã không tin vì không nhìn thấy điều ấy….”
Ông Nguyễn Quang Thiều trên ông Mác, ông Ăng ghen, ông Lên nin… hàng triệu cái đầu. Chỉ mở lòng bàn tay Thiên đường đã có rồi. Không phải các ông vô sản đót cháy hêt núi non, thiêu trọi hàng trăm triệu mạng sống mà không thấy “Thiên đường”
Nguyễn Quang Thiều là thần tuyên truyền viên tuyên huấn bịp bợm, láo khoét, ngu độn đến Gơ ben (phát xit Đức) phải gọi bằng Cụ!
P/s: Bài viết ngăn đầy chất Tầu ô, lối câu văn nhan nhản!
Đ – H
Kỳ sau: Hãy ngước mắt lên dù chỉ một lần

Nguc trung nhật ký (tiếp)

  •   15/08/2025 08:06
  •   65
  •   0
Ngục trung nhật ký là tập thơ gồm các bài chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943 dưới dạng một quyển sổ tay nhỏ. Tác phẩm được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay tác phẩm đã được xuất bản nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật... Ngày 1-10-2012, thủ tướng đã ra quyết định công nhận đây là bảo vật quốc gia. Tôi dịch thơ Hồ Chí Minh khi học chữ Hán ở trường trung học và khi ra công tác. Đây là ghi chép nhật ký nôm na, đơn giản. Khi trừng trải thấy ý nghĩ lớn lao, có nhiều bài rất hay.Giới thiệu để bạn đọc tham khảo! – Đỗ Hoàng
開卷
老夫原不愛吟詩,
因為囚中無所為。
聊借吟詩消永日,
且吟且待自由時。
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Dịch nghĩa
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm.
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ta đây người chẳng thích ngâm thơ
Trong ngục ngồi không chỉ vật vờ.
Hãy mượn ngâm nga tiêu ngày rộng
Vừa ngâm, vừa đợi tự do chờ!

VănNhà thơ Triệu Lam Châu gửi nhà thơ Đỗ Hoàng (*)

Hơn một năm trước, tôi có đọc dịch thơ Việt ra thơ Việt của anh.đăng trên tạp chí Nầ văn thòi anh Nguyễn Trác làm Tổng biên tập

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập1
  • Hôm nay286
  • Tháng hiện tại111,837
  • Tổng lượt truy cập743,318
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi