Thơ vô lối - thi tặc Việt Nam

Thứ tư - 02/04/2025 02:43
THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶN VIỆT NAM.(tiếp theo)
Đỗ Hoàng

Bạch Đằng giang phú 白藤江賦 •
Phú sông Bạch Đằng
Bạch Đằng giang phú 白藤江賦 • Phú sông Bạch Đằng
Thơ » Việt Nam » Trần » Trương Hán Siêu
白藤江賦
客有:
掛汗漫之風帆,
拾浩蕩之海月。
朝嘎舷兮沅湘,
暮幽探兮禹穴。
九江五湖,
三吳百粵。
人跡所至,
靡不經閱。
胸吞雲夢者數百而,
四方壯志猶闕如也。
乃舉楫兮中流,
縱子長之遠遊。
涉大灘口,
溯東潮頭。
抵白藤江,
是泛是浮。
接鯨波於無際,
蘸繇尾之相繆。
水天一色,
風景三秋。
渚获岸蘆,
瑟瑟颼颼。
折戟沉江,
枯骨盈丘。
慘然不樂,
佇立凝眸。
念豪傑之已往,
嘆蹤跡之空留。
江邊父老,
謂我何求。
或扶黎杖,
或棹孤舟。
揖余而言曰:
此重興二聖擒烏馬兒之戰地,
與昔時吳氏破劉弘操之故洲也。
當期:
舳艫千里,
旌旗旖旎。
貔貅六軍,
兵刃蜂起。
雌雄未決,
南北對壘。
日月昏兮無光,
天地凜兮將毀。
彼:
必烈之勢強,
劉龔之計詭。
自謂投鞭,
可掃南紀。
既而:
皇天助順,
凶徒披靡。
孟德赤壁之師談笑飛灰,
符堅合淝之陣須臾送死。
至今江流,
終不雪恥。
再造之功,
千古稱美。
雖然:
自有宇宙,
故有江山。
信天塹之設險,
賴人傑以奠安。
孟津之會鷹揚箬呂,
濰水之戰國士如韓。
惟此江之大捷,
猶大王之賊閒。
英風可想,
口碑不刊。
懷古人兮隕涕,
臨江流兮厚顏。
行且歌曰:
大江兮滾滾,
洪濤巨浪兮朝宗無盡。
仁人兮聞名,
匪人兮俱泯。
客從而賡歌曰:
二聖兮並明,
就此江兮洗甲兵。
胡塵不敢動兮,千古昇平。
信知:不在關河之險兮,
惟在懿德之莫京。
Bạch Đằng giang phú
Khách hữu:
Quải hạn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên, Tương,
Mộ u thám hề Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nhân tích sở chí,
Mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách nhi,
Tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
Nãi cử tiếp hề trung lưu,
Túng Tử Trường chi viễn du.
Thiệp Đại Than khẩu,
Tố Đông Triều đầu.
Để Bạch Đằng giang,
Thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế,
Trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc,
Phong cảnh tam thu.
Chử địch ngạn lô,
Sắt sắt sâu sâu.
Chiết kích trầm giang,
Khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc,
Trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng,
Thán tung tích chi không lưu.
Giang biên phụ lão,
Vị ngã hà cầu.
Hoặc phù lê trượng,
Hoặc trạo cô châu.
Ấp dư nhi ngôn viết:
“Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã.”
Đương kỳ:
Trục lô thiên lý,
Tinh kỳ ỷ nỉ.
Tỳ hưu lục quân,
Binh nhẫn phong khỉ.
Thư hùng vị quyết,
Nam Bắc đối luỹ.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang,
Thiên địa lẫm hề tương huỷ.
Bỉ:
Tất Liệt chi thế cường,
Lưu Cung chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên,
Khả tảo Nam kỷ.
Ký nhi:
Hoàng thiên trợ thuận,
Hung đồ phi mỵ.
Mạnh Đức Xích Bích chi sư đàm tiếu phi hôi,
Bồ Kiên Hợp Phì chi trận tu du tống tử.
Chí kim giang lưu,
Chung bất tuyết sỉ.
Tái tạo chi công,
Thiên cổ xưng mỹ.
Tuy nhiên:
Tự hữu vũ trụ,
Cố hữu giang san.
Tín thiên tạm chi thiết hiểm,
Lại nhân kiệt dĩ điện an.
Mạnh Tân chi hội ưng dương nhược Lã,
Duy Thuỷ chi chiến quốc sĩ như Hàn.
Duy thử giang chi đại tiệp,
Do đại vương chi tặc nhàn.
Anh phong khả tưởng,
Khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Hành thả ca viết:
“Đại giang hề cổn cổn,
Hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận.
Nhân nhân hề văn danh,
Phỉ nhân hề câu dẫn.”
Khách tòng nhi canh ca viết:
“Nhị thánh hề tịnh minh,
Tựu thử giang hề tẩy giáp binh.
Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề,
Duy tại ý đức chi mạc kinh.”
Lời dẫn của tác giả:
Cuối đời nhà Đường trong thời Ngũ Đại, Lưu Cung tiếm ngôi, xưa quốc hiệu là Hán. Giữa lúc Nam Bắc phân tranh, nước ta chưa có thông thuộc, Dương Đình Nghệ cầm quyền cai trị trong châu, bị kẻ con nuôi là Kiều Công Tiễn giết để lên thay chân. Tướng của Đình Nghệ là Ngô Quyền dấy binh đánh Công Tiễn. Tiễn cầu cứu với Lưu Cung, Cung bèn sai con là Hoằng Thao đem quân sang cứu. Thao đem chiến thuyền từ sông Bạch Đằng kéo vào. Lúc ấy Quyền đã giết được Công Tiễn, và đã ngầm cắm những cây gỗ nhọn ở hai bên cửa bể, rồi dụ Hoằng Thao vào bên trong, đến khi nước thuỷ triều rút lui, ông mới tung quân ra đánh, giết được Hoằng Thao.
Đời vua Nhân Tông nhà Trần, niên hiệu Trùng Hưng năm thứ 4 (1288), vua Thế Tổ nhà Nguyên sai Ô Mã Nhi sang xâm lược, kéo binh vào sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương là Trần Quốc Tuấn cũng trồng cột nhọn ở lòng sông từ trước, rồi chờ lúc thuỷ triều lên thì ra khiêu chiến rồi giả cách thua chạy, đến lúc thuỷ triều xuống mới tung ra đánh, phá vỡ được quân địch, bắt sống được Ô Mã Nhi. Trận này vua Nhân Tông và thái thượng hoàng là Thánh Tông cùng ra cầm quân.
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than,
Ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng,
Thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa:
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Bản dich Ngô Tất Tố
Khách có kẻ:
Chèo quế bơi trăng
Buồm mây giong gió
Sớm ngọn Tương kia
Chiều hang Vũ nọ
Vùng vẫy Giang, Hồ
Tiêu dao Ngô, Sở
Đi cho biết đây
Đi cho biết đó

Chằm Vân, Mộng chứa ở trong kho tư tưởng, đã biết bao nhiêu:
Mà cái chí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở
Mới học thói Tử Trường
Bốn bể ngao du
Qua cửa Đại Thần
Sang bến Đông Triều
Đến sông Bạch Đằng
Đủnh đỉnh phiếm chu
Trắng xoá sóng kình muôn dặm
Xanh rì dặng ác một màu
Nước trời lộn sắc
Phong cảnh vừa thu
Ngàn lau quạnh cõi
Bến lách đìu hiu
Giáo gãy đầy sông
Cốt khô đầy gò
Ngậm ngùi đứng lặng
Ngắm cuộc phù du
Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá?
Mà đây dấu vết vẫn còn lưu
Kìa kìa bên sông, lão phủ người đâu?
Lượng trong bụng ta, chừng có sở cầu
Hoặc gậy chống trước, hoặc thuyền bơi sau.

Vái tạ mà thưa rằng:
Đây là chỗ chiến địa của vua Trần bắt giặc Nguyên,
Và là nơi cố châu của vua Ngô phá quân Lưu đấy.

Đương khi:
Muôn đội thuyền bày, hai quân giáo chỉ
Guơm tuốt sáng loè, cờ bay đỏ khé
Tướng Bắc quân Nam
Đôi bên đối luỹ
Đã nổi gió mà bay mây
Lại kinh thiên mà động địa
Kìa Nam Hán nó mưu sâu
Nọ Hồ Nguyên nó sức khoẻ

Nó bảo rằng:
Phen này đạp đổ nước Nam, tưởng chừng cũng dễ.

May thay:
Trời giúp quân ta
Mây tan trận nó

Khác nào như:
Quân Tào Tháo bị vỡ ở sông Xích Bích khi xưa.
Giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp Phì thuở nọ
Ấy cái nhục tầy trời của họ, há những một thời
Mà cái công tái tạo của ta, lưu danh thiên cổ
Tuy vậy, từ thuở có trời có đất, vẫn có giang san
Trời đất ra nơi hiểm trở
Người tính lấy cuộc tôn an
Hội nào bằng hội Mạnh Tân như vương sư họ Lã
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ như quốc sĩ họ Hàn

Kìa trận Bạch Đằng này mà đại thắng
Bởi chưng Đại vương coi thế giặc nhàn
Tiếng thơm còn mãi
Bia miệng bao mòn
Nhớ ai sa giọt lệ
Hổ mình với nước non

Rồi vừa đi vừa hát rằng
Sông Đằng một giải dài ghê
Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông
Trời Nam sinh kẻ anh hùng
Tăm kình yên lặng, non sông vững vàng
Khách lại nối mà hát rằng
Triều ta hai vị thánh nhân
Sông kia còn dấu tẩy trần giáp binh
Nghìn xưa gẫm cuộc thăng binh
Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao.
THƠ KHÔNG VẦN ĐÁM VÔ LỐI - THI TẶC HÔM NAY
Ý kiến Nam Sơn Lê: ”Quả thật, ngày nay có một phong trào "cách tân" thơ quá đà sinh ra hàng loạt những bài thơ không chủ đề không ý tưởng không lề lối thơ phú ...mà chỉ như những câu văn của kẻ say rượu, nói lung tung, vừa hát vừa nói, pha trộn cả chèo, chầu văn, cải lương, tuồng ...nghe nực cười lắm ! Thế rồi tung hô nhau lên tận mây xanh, đạp đổ không thương tiếc, trơ trẽn nền văn thơ truyền thống giầu bản sắc dân tộc. Thế mà, cơ quan hữu trách, nhất là QH cứ lờ lớ lơ, mặc anh có thóc mặc chị có gà, tha hồ chọi nhau nảy lửa, phá tan nền thơ ca Việt Nam. Thật là vô tâm vô cảm vô nhiệm !”
BÀI VÔ LỐI "THỜI SỰ CUỐI NGÀY" CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Bài này đã in trên các trang mạng xã hội một vài năm trước. Nó là một trong những bài theo khuynh hướng Vô lối, mà Nguyễn Khoa Điềm là một trong những đại biểu. Nói chung Vô lối là sự bất lực của sáng tạo thi ca. Tôi không muốn động bút vì trang mạng xã hội thì hòa cả làng, không ai chấp. Nhưng nay nó được Tạp chí Nhà văn & Tác phẩm của Hội Nhà văn Việt Nam in trang trọng chùm thơ Nguyễn Khoa Điềm gồm 7 bài trên số 2 /2013 nên buộc tôi phải dịch nó ra thơ Việt để mọi người hiểu.
Cách đây mấy năm nhà thơ Triệu Nguyễn có viết cho tôi đại ý là:
“Thiều chi thơ Tống, thơ Đường
Mà sao ngửi cái mắm tương thối trời
Thương cho bác Đỗ bạn tôi
Lại đi dịch cái dở hơi thơ nhà!...”
Tôi vẫn dịch cho mọi người rõ.

Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên văn:
THỜI SỰ CUỐI NGÀY

5 giờ chiều. Từ trên cầu Tràng Tiền
Một cô gái nhảy xuống sông tự tử
Ngay lập tức có hai chàng trai
Từ cầu lao xuống nước
Vớt cô lên
Cả ba ra về. Không một lời để lại

Tôi chỉ muốn nói to:
Tôi mừng cho sông Hương
Trong sạch
Tôi mừng cho nước tôi
Vẫn còn Thạch Sanh
Dù không ít tên Lý Thông đĩ bợm
3 – 6 -2013
Ng – Kh – Đ

Đỗ Hoàng: Bài Vô lối này rất kém, thua Bản tin tối ngày tiếng Anh. Các bạn học văn chương đã biết bài “Chuyện hai người tự tử” của Lê Đạt nổi tiếng làm thay đổi những trường phái thơ tụng ca thời 1956 – 1957 ở miền Bắc Việt Nam.

Đỗ Hoàng
Dịch ra thơ Việt:

GÁI TRINH TỰ TỬ

Tràng Tiền chiều muộn dòng Hương
Gái trinh tự tử nát xương còn gì
Hai chàng trai trẻ đang đi
Từ cầu lao xuống tức thì vớt lên.

Ra về không để tuổi tên
Tôi gào muốn vỡ hai bên bên bờ:
"Mừng Hương Giang sạch đường tơ
Mừng cho đất nước như thơ trong lành.
Vẫn còn hảo hán Thạch Sanh
Lý Thông đĩ bợm gian manh vẫn còn!"
Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2013
Đ –H

Vi Thùy linh
Nguyên bản (1)

Mùa thụ mầm

Đêm song song phố uớt – cặp đùi dài
Nàng đếm ngày người yêu về lại
Đếm bằng ngón tay như những phím cầm nâu của anh
Đôi chân ch¬a nhìn thấy
Chỉ những dấu chân vân nhấn trời mang bầu vĩnh cửu

Từ kiếp trước
Chúng mình đã yêu cẫn mẫn . Và im lặng

Đời người thì ngắn
Giấc mơ lại dài
Anh giấu đôi tay trước sự chờ đợi của em

Ngoài kia
Tất cả thành phố cây xanh bỗng rạc vàng cành khô. Lá vàng ngân nga nhu¬ những át – cơ hồi hộp

Căn phong say mềm tay
ánh vàng toát từ những lọ gốm nh¬ mồ hôi mặt trời chiều
Níu anh, em sóng.
Không thể đu lên giữ chiếc kim giờ hiện thực
Vì khuôn mặt chúng ta là chiếc đồng hồ

Gửi cho anh hai mơi búp ngọc lan ủ bên ngực em từ đêm anh choáng ngợp
Vốc tay đầy hương linh
Mạch mạch nước nấc lên vì nhớ
Bừng từng đêm lỡi như ngọn lửa
Liếm vào thân sóng nóng
Nguyên một mùa đắm đuối
Tình yêu sinh ra Con người

Khi em lúng túng không cất tiếng, là lúc nỗi sợ hãi xa cách quất lên
Ngôn ngữ không quyền uy cho diễn đạt yếu đuối
Đôi mắt ôi mùi nồng nàn ơi

Tạo hóa cho chúng ta ánh sáng mới tinh sau một đêm mê man còn váng sữa Mảnh trăng như miếng dưa hấu đỏ
Bỏ lạc giữa trời
Váng vất cơn cơn mùa mê sảng
Những giọt mưa tuột ra từ những đám mây bụng mang dạ chửa
Khiến cái túi ni lon tứ tung bỗng vỡ nước ối từ một số mái nhà
Vỡ không gian rối tung bê tông cọc sắt
Muưa tới tấp vừa rơi, vừa yêu

Không phải Phật nghìn mắt, nghìn tay
Anh ủ em trong im lặng đầy hơi ấm bằng đôi tay xuất thần
Con đường khểnh theo chiếc răng bên trái
Cầu vồng mọc từ hai ngón tay cái
Em ngập vào ngân gió
Ngân anh
Giữa nỗi lạc lõng

Trong ánh sáng đỏ của mặt trăng dưa hấu đang hồi lại màu thu non vì được bú dịu dàng
Những chiếc máy bay nhu¬ bầy chuồn chuồn ớt
Cắn rồn Ngày và Đêm

Thế mà Đêm chẳng biết bơi băng qua những ngăn cách, khủng hoảng của loài người
Đêm một mình và đêm yêu nhau. Lúc nào cũng tóc
Tóc ươớt trong phòng tắm tóc khô héo gối
Dòng sông đầy tóc rụng đang ngân gió
Gọi xanh

Kìa búp sen xanh mắt quyền uy khép đêm giao linh
Ôm cơn khát để anh tung vó
Chỉ hơi thở và tiếng hân hoan tới đầy mặt đất
Hằng hà mầm cây như những núm vú bật lên từ hoang hóa đất đai
Tiếng lục lạc tràn hoang mạc
Ngày sinh của chúng : sự nhân chia đôi tiền định hai người tháng Tư
Em nấp vào vết tay anh để lại trên bàn vàng căn phòng quen lạ ấy
Nơi lỡi nến phập phồng vươn cả khi sắp tắt trong cái nhìn hình phễu của chiếc lới chụp bên nụ hồng vàng khô nép cánh giống đôi môi em

Ngày anh về, chưa biết rõ
Phố đầy cây phượng gọi anh từ mùa hoa này
Nơi bay lên bầy vú thiếu nữ
Con đường đêm héo như quả phượng già
Tháng 9 nhớ về chín nhịp phồn sinh trong tiếng gọi đóa hoa kèn tháng Tư nở vào mùa thu tinh khiết.

Con đường trỗi cặp chân dài

(1) Theo Đặc Trưng – Thơ
Dịch:
Mùa sinh sôi

Đêm đôi ngã trải dài phố ướt
Nàng tính ngày người yêu trở về.
Bấm đốt tay như bấm phím cầm mơ u¬ớc,
Chưa thấy người trong khoảng trời quê!

Từ kiếp trước tình đôi ta im lặng
Với lời yêu gửi chốn địa đàng.
Đời thì ngắn, ước mơ thì dài rộng,
Anh có bồi hồi trước nỗi em mong?

Ngoài kia là nhiệt nồng phố xá,
Hàng cây xanh bỗng rực rỡ thắm vàng
Những chiếc là hoe ngân nga trong gió
Như lá bài hồi hộp âm vang!

Nhớ căn phòng mềm say tay ấm,
Ánh vàng như nuớc giọt trời chiều
Dập dìu níu anh em như sóng
Giữa thì giờ hiện thực phiêu diêu.

Gương mặt ta, chiếc đồng hồ báo thức
Giữ cho anh những búp ngọc lan
Ủ ngực em làm anh choáng ngợp
Vốc tay đầy lan hương linh thơm!

Ngầm mạch đời cuộn sôi nỗi nhớ
Lưỡi mềm như ngọn lửa rực hồng
Đi đến tận ngọn nguồn sóng vỗ
Tình yêu sinh nhân loại kiêu hùng!

Lúc bối rối, em làm sao nói hết.
Em sợ nhiều hoang vắng cách xa.
Chút yếu mềm làm em mỏi mệt
Đôi mắt đầy nồng thắm thiết tha.

Dêm thăm thẳm giữ giùm ta ánh sáng
Mảnh trăng thanh tựa mảnh dưa hồng,
Ai bỏ lạc giữa trời cao rộng
Từng cơn mưa váng vất rót thinh không.

Mưa rơi xuống trên mây mờ sủng nu¬ớc,
Nước tứ tung gõ những mái nhà,
Làm vỡ cả bê tông, cốt thép.
Mưa nồng nàn tình cảm đôi ta!

Không phải Phật nghìn tay, nghìn mắt.
Anh ủ em bằng cả tâm hồn
Đu¬ờng đời ấy còn biết bao trở trắc
Ngón tay anh như ánh cầu vồng!

Em ngụp lặn trong anh ngàn gió,
Giữa cô đơn lạc lõng lứa đôi.
Trong ánh sáng mặt trời dưa đỏ
Dòng sữa thơm bú mớm tuyệt vời.

Đêm ồn tiếng máy bay chuồn ớt,
Cố băng qua khoảng cách loài ngu¬ời
Đêm nồng nàn yêu mùi hương tóc,
Ngân gió ngàn, xanh gọi sông trôi.

Đêm giao linh, mắt quyền uy khép mở
Em phi thân trên cơn khát đời anh,
Tươi mặt đất phút hân hoan ngẹt thở
Mầm cây lên cho bằng địa êm lành!

Trên hoang mạc rung vang lục lạc,
Ngày tháng Tu của ta sinh sôi.
Em ngập vào tay anh thân thuộc
Ngọn nến mềm dịu ấm làn môi.

Ngày trở về, em chưa tường tỏ
Phượng hồng ơi! Anh của mùa này
Sẽ bay lên như bầy thiếu nữ
Nở mùa thu tinh khiết đắm say!
Hà Nội ngày 10 – 9 - 2007
Ngưới viết không có tâm hôn, kiến thức hạn hẹp lai nhiều sai trai. Văn xuôi không ra văn xuôi, thơ không phải thơ. Nó là đúng la thi tặc!

Tác giả: duyprint

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

VănNhà thơ Triệu Lam Châu gửi nhà thơ Đỗ Hoàng (*)

Hơn một năm trước, tôi có đọc dịch thơ Việt ra thơ Việt của anh.đăng trên tạp chí Nầ văn thòi anh Nguyễn Trác làm Tổng biên tập

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập4
  • Hôm nay347
  • Tháng hiện tại1,648
  • Tổng lượt truy cập19,072
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi