Ngục trung nhât ký (tiếp)

Ngục trung nhât ký (tiếp)

楊濤病重
無端平地起波濤,
送你楊濤入坐牢。
城火池魚堪浩嘆,
而今你又咳成癆

Dương Đào bệnh trọng
Vô đoan bình địa khởi ba đào,
Tống nhĩ Dương Đào nhập toạ lao;
"Thành hoả trì ngư" kham hạo thán,
Nhi kim nhĩ hựu khái thành lao.
Dịch nghĩa
Không dưng đất bằng bỗng nổi sóng,
Đưa anh, Dương Đào, vào ngồi tù;
"Cháy thành vạ lây", đáng thở than biết mấy,
Mà nay, anh lại mắc chứng lao.
Dương Đào là một nông dân ở biên giới Quảng Tây, dẫn đường cho tác giả, bị bắt và bị giam cầm cùng với Người. Sau khi tác giả ra tù được ít lâu, ông cũng được ra tù và chết tại Liễu Châu vì bệnh lao. Tác giả rất thương tiếc, coi như anh em. Tháng 8-1963, Người đã mời 7 vị có công giúp đỡ cách mạng Việt Nam ở hai huyện Tĩnh Tây và Na Pha (Quảng Tây) sang thăm nước ta, trong đó có Dương Thắng Cường, em ruột Dương Đào.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Không dưng đất bằng nổi sóng trào
Nhập ngục lần ni bác Dương Đào
“Cháy thành lây vạ” đang than thở.
Nay càng thương anh mắc chứng lao!

Xem tiếp...

Mid-page advertisement

Đạo đức kinh (tiêp)- Laõ Tử

  •   17/07/2025 14:24
  •   2
  •   0
CHƯƠNG 3
AN DÂN
安 民
Hán văn:
不 尚 賢, 使 民 不 爭. 不 貴 難 得 之 貨, 使 民 不 為 盜. 不 見 可 欲, 使 民 心 不 亂. 是以 聖 人 之 治, 虛 其 心, 實 其 腹, 弱 其 志, 強 其 骨. 常 使 民 無 知 無 欲. 使 夫 知 不 敢 為 也. 為 無 為, 則 無 不 治.
Phiên âm:
1. Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quí nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn.
2. Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri vô dục. Sở phù trí giả bất cảm vi dã.
3. Vi vô vi, tắc vô bất trị.
Dịch nghĩa:
1. Không sùng thượng hiền tài, khiến cho dân không tranh. Không quí của khó được, khiến cho dân không trộm cướp. Không phô trương những gì kích thích lòng ham muốn, khiến cho lòng dân không loạn.
2. Vì vậy phép trị nước của thánh nhân là làm cho dân: Trống lòng; No dạ; Yếu chí; Mạnh xương. Thường khiến cho dân không biết, không ham. Khiến cho kẻ trí không dám làm gì cả.
3. Làm theo phép Vô vi, thời không gì là không trị.
Đỗ Hoàng dịch thơ
:Chớ sủng ái hiền tài quá đáng
Khiên cho dân sao lãng đua tranh
Đừng tìm của quí xa gần
Trộm cướp đạo tăc cũng dần tiêu tan
Đưng kích thích lòng ham muốn ước
Khiến cho dân không được bình yên
Trong lòng, no dạ, ấm êm
Kẻ trí cũng chẳng làm nên điều gì.
Đây là theo phép vô vi
Trị mà không trị việc gì cũng nên !

Ngục trung nhât ký (tiếp)

  •   17/07/2025 21:23
  •   2
  •   0
楊濤病重
無端平地起波濤,
送你楊濤入坐牢。
城火池魚堪浩嘆,
而今你又咳成癆

Dương Đào bệnh trọng
Vô đoan bình địa khởi ba đào,
Tống nhĩ Dương Đào nhập toạ lao;
"Thành hoả trì ngư" kham hạo thán,
Nhi kim nhĩ hựu khái thành lao.
Dịch nghĩa
Không dưng đất bằng bỗng nổi sóng,
Đưa anh, Dương Đào, vào ngồi tù;
"Cháy thành vạ lây", đáng thở than biết mấy,
Mà nay, anh lại mắc chứng lao.
Dương Đào là một nông dân ở biên giới Quảng Tây, dẫn đường cho tác giả, bị bắt và bị giam cầm cùng với Người. Sau khi tác giả ra tù được ít lâu, ông cũng được ra tù và chết tại Liễu Châu vì bệnh lao. Tác giả rất thương tiếc, coi như anh em. Tháng 8-1963, Người đã mời 7 vị có công giúp đỡ cách mạng Việt Nam ở hai huyện Tĩnh Tây và Na Pha (Quảng Tây) sang thăm nước ta, trong đó có Dương Thắng Cường, em ruột Dương Đào.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Không dưng đất bằng nổi sóng trào
Nhập ngục lần ni bác Dương Đào
“Cháy thành lây vạ” đang than thở.
Nay càng thương anh mắc chứng lao!

Phu đường

  •   15/07/2025 16:37
  •   3
  •   0
築路夫
餐風浴雨未曾休,
慘淡經營築路夫。
車馬行人來往者,
幾人感謝你功勞。


Trúc lộ phu
Xan phong dục vũ vị tằng hưu,
“Thảm đạm kinh doanh[1]” trúc lộ phu;
Xa mã hành nhân lai vãng giả,
Kỷ nhân cảm tạ nhĩ công lao?
Dịch nghĩa
Dãi gió dầm mưa chưa từng lúc nghỉ,
Người phu làm đường tận tuỵ với công việc;
Ngựa xe và khách bộ hành qua lại,
Mấy ai biết cảm tạ công lao của anh?
Chú thích:
[1]
Một thành ngữ Trung Quốc, ý nói dốc sức, mưu toan, tận tuỵ với công việc.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Một đời dãi gió với dầm sương.
Tận tụy tận tâm kiếp phu đường.
Ngựa xe, hành khách, người qua lại
Biết có ai người chút cảm thương?

Vịnh Đỗ Chu

  •   11/07/2025 21:38
  •   5
  •   0
Vịnh Đỗ Chu
Vịnh Đỗ Chu
Thứ năm - 31/12/2015 12:31
Ltg: Văn xuôi Đỗ Chu uyển chuyển, chữ nghĩa thanh thoát, nhẹ nhàng rất đặc trưng văn xuôi Bắc Hà nhưng rất nhạt với sự hời hợt, phớt Ăng lê trước nỗi đau tột cùng của nhân quần trong chiến tranh dai dẳng huynh đệ tương tàn xương chất thành núi, máu chảy thành sông! Và tiếc tác phẩm của ông không có tư tưởng gì, chỉ là một thứ tụng ca không mới! Ví như phim Bác Hồ năm 1946, Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, Biệt động Sải Gòn, Ván bài lật ngửa, Dòng sông phẳng lặng…
Vậy có thơ rằng:


Đỗ Hoàng


VỊNH ĐỖ CHU

Nhàn nhạt văn xuôi có Đỗ Chu.
Thuộc dòng xưng tụng loại ba xu!
Tum toe mấy chữ kênh bà,Đốp
Chóp chép vài lời đỡ Bố Cu!
Cứ tưởng đây là quầng điện sáng,
Nào ngờ đấy chính chóp đèn lu.
Văn chương Nam Việt mà như thế.
Không thẹn những thời rạng Đại Ngu!
Hà Nội, 2014
Đ - H

Người đăng: do hoang vào lúc 21:43 Không có nhận xét nào:

TRÁNH HÁO DANH

Nguyễn Tài Cẩn là một nhà nghiên cứu văn học có uy tính ở nước ta!

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập18
  • Hôm nay584
  • Tháng hiện tại35,707
  • Tổng lượt truy cập138,656
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi