Dấu chân qua trngr cỏ...

Dấu chân qua trngr cỏ...

Đỗ Hoàng: “Dấu chân qua trảng cỏ” của Thanh Thảo- Dở, kém toàn diện
Thứ Ba, 6 tháng 1, 2015
Nhà thơ Thanh Thảo tham gia chiến cuộc kháng chiến chống Mỹ với tư cách dân sự. Ông xếp sau Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm… Ông được cưng nựng và lăng xê khá đều đặn trên văn đàn chính thống. Để có cái nhìn khách quan công bằng chúng tôi xin đăng bài viết của nhà thơ, nhà phê binh hậu hiện đại Đỗ Hoàng về bài thơ DẤU CHÂN QUA TRẢNG CỎ của nhà thơ Thanh Thảo.
Thông tin cá nhân: (VanDanVietNet)
Tác giả nhà thơ Đỗ Hoàng
Địa chỉ: Hoàng Mai - Hà Nội
ĐT: 0913369652
Email: donguyenhn@yahoo.com
______
DẤU CHÂN QUA TRẢNG CỎ CỦA THANH THẢO- DỞ KÉM TOÀN DIỆN
Đỗ Hoàng
Nguyên bản:
Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lói mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhòe?
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân nho nhỏ không lời không tên
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần ai đi xa
Những gì gửi lại chỉ là dấu chân
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường
(Nhà thơ Thanh Thảo)
Nhà thơ Thanh Thảo tham gia chiến cuộc kháng chiến chống Mỹ với tư cách dân sự. Ông xếp sau Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm… Ông được cưng nựng và lăng xê khá đều đặn tên văn đàn chính thống.
Để khỏi mất thì giờ của độc giả, tôi đi thẳng vào phân tích nhận xét luôn bài này. Đây là một bài thơ dở, yếu kém toàn diện từ nội dung cho đến nghệ thuật ngôn từ.
Tuy viết cổ động tuyên truyền, nhưng Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân còn khắc họa phần nào người chiến sỹ Giải phóng quân:
Không cần nghỉ lái trăm cây số nữ
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
(Tiếu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
Máu tin anh phun theo lửa đạn cầu vồn
(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Nhà thơ Thanh Thảo không được như vậy. Hai bài được lăng xê nhiều nhất Dấu chân qua trảng cỏ và Bài ca ống cống là hai bài thơ làm nhem nhuốc hình ảnh người lính chiến thắng của phe được cuộc!
Viết về thảo nguyên có bào nhiêu câu thơ hay thơ đẹp truyền lại từ ngàn năm nay:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Thơ cổ Trung Quốc)
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
Thanh Thảo có nhiều câu dở dưới mức trung bình:
Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Anh dân sự, bưu tá giao liên trong thơ Thanh Thảo giữa chiến trường sao cô quanh, trơ trọi “tôi thích thất thểu” như một gã cái bang thua bạc thời nay trong các chiếu bạc ở Campuchia vậy!
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Chiếc bòng đựng nhiều nhất chỉ bộ áo quần bà ba là cùng hoặc nữa là hai bơ gạo(!)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, bên ta phải đối đầu với với đế quốc hùng mạnh, giàu nhất thế giới mà chi một anh Vệ túm như vậy làm sao mà đánh đấm, mà chiến thắng !)
Hình ảnh người lính ra trận từ cổ chí kim, phương Đông hay phương Tây đều là những hình ảnh đẹp, kiêu hùng sang trọng, có thực trong cuộc đời. Có thế mới làm nên chiến thắng:
“Trượng phu thiên lý chí mã cách
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
Tiện từ khuê khốn tùng chinh chiến
Tây phong minh tiêu xuất Vị kiều”
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn)
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã từ đeo bức chiến bào
Thét roi Cầu Vị ào ào gió thu
(Đoàn Thị Điểm dịch)
Trai anh hùng nấm mồ da ngựa
Coi chết chóc nhẹ tựa tơ hồng
Theo quân xa biệt khuê phòng
Vung roi Cầu Vị, bềnh bồng gió Tây
(Đỗ Hoàng dịch)
Thân dũng sỹ không thua sức vóc
Sóng đục lờ sóng đục ngày đêm
Kìa quân giặc đến bờ bên
Mài con dao sắc ở trên đá này
Như cha con dạn dày chiến trận
Suốt một đời lận đận binh đao
À ơi, con ngủ cho lâu
Mai sau khôn lớn mẹ cho diệt thù!
(Bài ca Cô dắc – Bằng Việt dịch)
Còn cái anh giao liên cái bang của Thanh Thảo:
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn có nhòe?
Đi không nổi nữa thì đòi làm được cái gì (!)
Các hình ảnh được Thanh Thảo chọn làm đặc trưng trong bài thơ là những hình ảnh hạ cấp không tiêu biểu. Anh chiến sỹ giao liên thuộc dạng cái bang (ăn mày), con chim két thuộc loài mồng két trên đồng trảng là loại hạ điểu kêu choe chóe chứ chẳng linh điểu cất lên tiếng vang chin tầng mây. Loại cỏ voi là loại cỏ ngoại lai nhập đầu thời Mỹ vào miền Nam, cũng là loại hạ thảo, bần tiện không phải linh thảo.
Tất cả đều ở trên cái đồng không mông quạnh lạnh lẽo trơ trọi, rách nát, hèn kém!
Bài thơ lục bát chỉ 24 câu mà Thanh Thảo dùng nhiều vần thông khiên cưỡng và đầy lỗi vận, lỗi vần (10 lỗi):
Những gì gửi lại chỉ là dấu chân
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Hay:
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Hay:
Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Hay:
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhòe?
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Kết bài thơ là tai hại nhất là hỏng toàn bộ bài thơ:
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường.
Sao nhà thơ Thanh Thảo lại xui dại con cháu vào chỗ chết như vậy? Thời chiến tranh chống Mỹ có bom nổ chậm đều có bảng cảnh báo – warning để cho người đi sau nhằm tránh hướng khác chứ không lao vào chỗ chết. Ngay em bé trong phim Chim vành khuyên biết mình hô to mình sẽ bị giặc giết nhưng em vẫn kêu lên cho mọi người tránh giặc: “Đò giặc đừng qua! Đò giặc đừng qua!”. Sao nhà thơ xui như xui trẻ con ăn cứt ca (gà) như vậy nhỉ?
Cho người sau biết đường ra chiến trường
Đáng ra phải viết:
Cho người sau biết tránh xa chiến trường chứ?
Bởi vì dù chính nghĩa hay phi nghĩa vào chiến trường đánh nhau là vào chỗ chết. Ngày cả ra đi cũng đã vào chốn bụi bờ, là chết một ít:
C’ est toujours le deuil d’un voeu
Le dernier vers d’un poème
Partir, c’est mourir un peu
(Rondel de L’adieu – Edmond Harau court 1858 -1942 - France)
Để tang mãi những câu cầu khẩn
Lời cuối cùng vẫn ánh tình thơ
Đi là chết chốn bụi bờ
(Đỗ Hoàng dịch)
Nếu biết học tiền nhân một chút thì có thể viết khổ kết bài thơ trên có sức khái quát hơn, nâng tầm thơ lên hơn:
“Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý
Hảo thu ngô cốt Chướng giang biên”
(Tả thiên chí Lam Quan thị diệt tôn Trương – Hàn Dũ)
Biết cháu từ xa vào có ý
Nhặt nắm xương ta bến Chướng này!
(Bị giáng chức bị đổi đi xa đến ải Lam viết cho cháu là Trương – Hàn Dũ – Đỗ Hoàng dịch thơ (*)
Kết- DẤU CHÂN QUA TRẢNG CỎ:
Vẫn còn nhắc tận sau xa
Nhớ vào gom nhặt thịt da, xương tàn
Đưa về đặt những nghĩa trang
Nhớ thời nước Việt cơ hàn giết nhau!
----
(*) Tham khảo: Hàn Dũ
----
TẢ THIÊN CHÍ LAM QUAN THỊ DIỆT TÔN TRƯƠNG
(Hàn Dũ)
Nhất phong triêu tấu cửu trùng thiên
Tịch biếm Triều Châu lộ bát thiên
Bản vị thánh triều trừ tệ chính
Khẳng trương suy hủ tích tàn iên
Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại
Tuyết ủng Lam Sơn mã bất tiền
Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý
Hảo thu ngô cốt Chướng giang biên.
BỊ GIÁNG CHỨC ĐÀY ĐI XA ĐẾN ẢI LAM VIẾT CHO CHÁU LÀ TRƯƠNG
Sớm gửi Cứu trùng lời thẳng ngay
Chiều Triều nghìn dặm lệnh đi đày
Thành tâm lo nước giúp vua sáng
Tận dạ vì dân sá thân gầy
Mây che Tần Lĩnh quê mờ mịt
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khói bay
Biết cháu từ xa vào có ý
Nhặt nắm xương ta bến Chướng này!
(Đỗ Hoàng dịch thơ)
Hà Nội, ngày 04.01 2015
Đỗ Hoàng
Sửa chữa nâng cao Dấu chân qua trảng cỏ
Đặt tựa đề:
QUA TRẢNG CỎ
Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn sợi chỉ dọc ngang
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lối mòn cảnh báo đường ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn đã lì!
Chiếc bòng – trái đất đương thì
Mà đi bùng biển mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân cho đất, cho đời có tên
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần ai đi xa
Những gì gửi lại chỉ là dấu chân
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải ngút ngàn mắt ta
Vẫn còn gửi tới sau xa
Cho người sau biết tránh xa chiến trường!
Đoạn kết có thể viết như thế này:
Vẫn còn nhắc nhở sau xa
Xin vào nhặt chút thịt da xương tàn
Đem về táng ở nghĩa trang
Nhớ thời nước Việt cơ hàn giết nhau!
Hà Nội, ngày 04.01.2015
Đỗ Hoàng

Xem tiếp...

Mid-page advertisement

Dấu chân qua trngr cỏ...

  •   15/10/2025 20:46
  •   0
  •   0
Đỗ Hoàng: “Dấu chân qua trảng cỏ” của Thanh Thảo- Dở, kém toàn diện
Thứ Ba, 6 tháng 1, 2015
Nhà thơ Thanh Thảo tham gia chiến cuộc kháng chiến chống Mỹ với tư cách dân sự. Ông xếp sau Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm… Ông được cưng nựng và lăng xê khá đều đặn trên văn đàn chính thống. Để có cái nhìn khách quan công bằng chúng tôi xin đăng bài viết của nhà thơ, nhà phê binh hậu hiện đại Đỗ Hoàng về bài thơ DẤU CHÂN QUA TRẢNG CỎ của nhà thơ Thanh Thảo.
Thông tin cá nhân: (VanDanVietNet)
Tác giả nhà thơ Đỗ Hoàng
Địa chỉ: Hoàng Mai - Hà Nội
ĐT: 0913369652
Email: donguyenhn@yahoo.com
______
DẤU CHÂN QUA TRẢNG CỎ CỦA THANH THẢO- DỞ KÉM TOÀN DIỆN
Đỗ Hoàng
Nguyên bản:
Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lói mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhòe?
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân nho nhỏ không lời không tên
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần ai đi xa
Những gì gửi lại chỉ là dấu chân
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường
(Nhà thơ Thanh Thảo)
Nhà thơ Thanh Thảo tham gia chiến cuộc kháng chiến chống Mỹ với tư cách dân sự. Ông xếp sau Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm… Ông được cưng nựng và lăng xê khá đều đặn tên văn đàn chính thống.
Để khỏi mất thì giờ của độc giả, tôi đi thẳng vào phân tích nhận xét luôn bài này. Đây là một bài thơ dở, yếu kém toàn diện từ nội dung cho đến nghệ thuật ngôn từ.
Tuy viết cổ động tuyên truyền, nhưng Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân còn khắc họa phần nào người chiến sỹ Giải phóng quân:
Không cần nghỉ lái trăm cây số nữ
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
(Tiếu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
Máu tin anh phun theo lửa đạn cầu vồn
(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Nhà thơ Thanh Thảo không được như vậy. Hai bài được lăng xê nhiều nhất Dấu chân qua trảng cỏ và Bài ca ống cống là hai bài thơ làm nhem nhuốc hình ảnh người lính chiến thắng của phe được cuộc!
Viết về thảo nguyên có bào nhiêu câu thơ hay thơ đẹp truyền lại từ ngàn năm nay:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Thơ cổ Trung Quốc)
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
Thanh Thảo có nhiều câu dở dưới mức trung bình:
Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Anh dân sự, bưu tá giao liên trong thơ Thanh Thảo giữa chiến trường sao cô quanh, trơ trọi “tôi thích thất thểu” như một gã cái bang thua bạc thời nay trong các chiếu bạc ở Campuchia vậy!
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Chiếc bòng đựng nhiều nhất chỉ bộ áo quần bà ba là cùng hoặc nữa là hai bơ gạo(!)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, bên ta phải đối đầu với với đế quốc hùng mạnh, giàu nhất thế giới mà chi một anh Vệ túm như vậy làm sao mà đánh đấm, mà chiến thắng !)
Hình ảnh người lính ra trận từ cổ chí kim, phương Đông hay phương Tây đều là những hình ảnh đẹp, kiêu hùng sang trọng, có thực trong cuộc đời. Có thế mới làm nên chiến thắng:
“Trượng phu thiên lý chí mã cách
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
Tiện từ khuê khốn tùng chinh chiến
Tây phong minh tiêu xuất Vị kiều”
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn)
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã từ đeo bức chiến bào
Thét roi Cầu Vị ào ào gió thu
(Đoàn Thị Điểm dịch)
Trai anh hùng nấm mồ da ngựa
Coi chết chóc nhẹ tựa tơ hồng
Theo quân xa biệt khuê phòng
Vung roi Cầu Vị, bềnh bồng gió Tây
(Đỗ Hoàng dịch)
Thân dũng sỹ không thua sức vóc
Sóng đục lờ sóng đục ngày đêm
Kìa quân giặc đến bờ bên
Mài con dao sắc ở trên đá này
Như cha con dạn dày chiến trận
Suốt một đời lận đận binh đao
À ơi, con ngủ cho lâu
Mai sau khôn lớn mẹ cho diệt thù!
(Bài ca Cô dắc – Bằng Việt dịch)
Còn cái anh giao liên cái bang của Thanh Thảo:
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn có nhòe?
Đi không nổi nữa thì đòi làm được cái gì (!)
Các hình ảnh được Thanh Thảo chọn làm đặc trưng trong bài thơ là những hình ảnh hạ cấp không tiêu biểu. Anh chiến sỹ giao liên thuộc dạng cái bang (ăn mày), con chim két thuộc loài mồng két trên đồng trảng là loại hạ điểu kêu choe chóe chứ chẳng linh điểu cất lên tiếng vang chin tầng mây. Loại cỏ voi là loại cỏ ngoại lai nhập đầu thời Mỹ vào miền Nam, cũng là loại hạ thảo, bần tiện không phải linh thảo.
Tất cả đều ở trên cái đồng không mông quạnh lạnh lẽo trơ trọi, rách nát, hèn kém!
Bài thơ lục bát chỉ 24 câu mà Thanh Thảo dùng nhiều vần thông khiên cưỡng và đầy lỗi vận, lỗi vần (10 lỗi):
Những gì gửi lại chỉ là dấu chân
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Hay:
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Hay:
Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Hay:
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhòe?
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Kết bài thơ là tai hại nhất là hỏng toàn bộ bài thơ:
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường.
Sao nhà thơ Thanh Thảo lại xui dại con cháu vào chỗ chết như vậy? Thời chiến tranh chống Mỹ có bom nổ chậm đều có bảng cảnh báo – warning để cho người đi sau nhằm tránh hướng khác chứ không lao vào chỗ chết. Ngay em bé trong phim Chim vành khuyên biết mình hô to mình sẽ bị giặc giết nhưng em vẫn kêu lên cho mọi người tránh giặc: “Đò giặc đừng qua! Đò giặc đừng qua!”. Sao nhà thơ xui như xui trẻ con ăn cứt ca (gà) như vậy nhỉ?
Cho người sau biết đường ra chiến trường
Đáng ra phải viết:
Cho người sau biết tránh xa chiến trường chứ?
Bởi vì dù chính nghĩa hay phi nghĩa vào chiến trường đánh nhau là vào chỗ chết. Ngày cả ra đi cũng đã vào chốn bụi bờ, là chết một ít:
C’ est toujours le deuil d’un voeu
Le dernier vers d’un poème
Partir, c’est mourir un peu
(Rondel de L’adieu – Edmond Harau court 1858 -1942 - France)
Để tang mãi những câu cầu khẩn
Lời cuối cùng vẫn ánh tình thơ
Đi là chết chốn bụi bờ
(Đỗ Hoàng dịch)
Nếu biết học tiền nhân một chút thì có thể viết khổ kết bài thơ trên có sức khái quát hơn, nâng tầm thơ lên hơn:
“Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý
Hảo thu ngô cốt Chướng giang biên”
(Tả thiên chí Lam Quan thị diệt tôn Trương – Hàn Dũ)
Biết cháu từ xa vào có ý
Nhặt nắm xương ta bến Chướng này!
(Bị giáng chức bị đổi đi xa đến ải Lam viết cho cháu là Trương – Hàn Dũ – Đỗ Hoàng dịch thơ (*)
Kết- DẤU CHÂN QUA TRẢNG CỎ:
Vẫn còn nhắc tận sau xa
Nhớ vào gom nhặt thịt da, xương tàn
Đưa về đặt những nghĩa trang
Nhớ thời nước Việt cơ hàn giết nhau!
----
(*) Tham khảo: Hàn Dũ
----
TẢ THIÊN CHÍ LAM QUAN THỊ DIỆT TÔN TRƯƠNG
(Hàn Dũ)
Nhất phong triêu tấu cửu trùng thiên
Tịch biếm Triều Châu lộ bát thiên
Bản vị thánh triều trừ tệ chính
Khẳng trương suy hủ tích tàn iên
Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại
Tuyết ủng Lam Sơn mã bất tiền
Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý
Hảo thu ngô cốt Chướng giang biên.
BỊ GIÁNG CHỨC ĐÀY ĐI XA ĐẾN ẢI LAM VIẾT CHO CHÁU LÀ TRƯƠNG
Sớm gửi Cứu trùng lời thẳng ngay
Chiều Triều nghìn dặm lệnh đi đày
Thành tâm lo nước giúp vua sáng
Tận dạ vì dân sá thân gầy
Mây che Tần Lĩnh quê mờ mịt
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khói bay
Biết cháu từ xa vào có ý
Nhặt nắm xương ta bến Chướng này!
(Đỗ Hoàng dịch thơ)
Hà Nội, ngày 04.01 2015
Đỗ Hoàng
Sửa chữa nâng cao Dấu chân qua trảng cỏ
Đặt tựa đề:
QUA TRẢNG CỎ
Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn sợi chỉ dọc ngang
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lối mòn cảnh báo đường ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn đã lì!
Chiếc bòng – trái đất đương thì
Mà đi bùng biển mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân cho đất, cho đời có tên
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần ai đi xa
Những gì gửi lại chỉ là dấu chân
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải ngút ngàn mắt ta
Vẫn còn gửi tới sau xa
Cho người sau biết tránh xa chiến trường!
Đoạn kết có thể viết như thế này:
Vẫn còn nhắc nhở sau xa
Xin vào nhặt chút thịt da xương tàn
Đem về táng ở nghĩa trang
Nhớ thời nước Việt cơ hàn giết nhau!
Hà Nội, ngày 04.01.2015
Đỗ Hoàng

Ngục Trun nhật ký (tiếp)

  •   28/09/2025 14:43
  •   9
  •   0
入靖西縣獄
獄中舊犯迎新犯,
天上晴雲逐雨雲。
晴雨浮雲飛去了,
獄中留住自由人。
Nhập Tĩnh Tây huyện ngục
Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm
Thiên thượng tình vân trục vũ vân
Tình vũ phù vân phi khứ liễu
Ngục trung lưu trú tự do nhân
Dịch nghĩa
Trong ngục tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa.
Mây tạnh, mây mưa, mấy đám mây nổi bay đi hết,
Chỉ còn lại người tự do trong ngục.
Tĩnh Tây là một huyện thuộc Quảng Tây, gần biên giới Trung - Việt. Tác giả bị bắt ở huyện Thiên Bảo cách Tĩnh Tây khá xa nhưng lại bị đưa ngược về Tĩnh Tây giam giữ.
Đỗ Hoàng dịch:
Trong lao tù cũ đón tù mới
Trên trời mây trắng rượt mây tro
Mây tro, mây trắng đều xua hết
Trong tù chỉ có khách tự do!
A D H 1

Nguyễn Quang Thiêu (tiếp)

  •   22/09/2025 14:19
  •   13
  •   0
NGUYÊN QUANG THIỀU – TÀM VĂN HÓA QUẤ THÂP – HỌC HÀNH LỔ MỔ - KHÔNG NÊN LÀM CHỦ BÚT.(tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Mấy ông công an khi đeo dao găm, súng lục, giày đính, kiếm mác, tua dãi… trông rất hùng dũng;;nhưng khi viết lách thể hiện ý đồ, quan điểm thì lòi lổ hỏng kiên thức vô học rất trầm trọng! Nguyễn Quang Thiều là một người như thế!
Khác những người cùng thế hệ, Thiều dược Công an cho học tiếng Anh tận Cu Ba do Mễ Tây Cơ dạy. Méo mó có hơn không. Về nước làm công an ngoại tuyến (mật vụ). Thiều làm cái gọi là “thơ” – vô lối, được cài caì cắms vào văn nghệ, trở thành “nhà thơ” (thi tăc)! Thiều lamf gims đốc nhà xuất bản Hội nhà văn, có cấu Chủ tịch Hội Nhà văn. Thiều ra cái càng viêt càng sai, chuyên đề Viết & Đọc. Bằng hữu gọi là “tạp chí”! Thế là Thiều tha hồ tung tẩy viêtt mọi thứ. Càng viết càng sai, càng thể hiện cây gdường là cái xa mờỗ mục!
Xin trích dẫn bài”đít cua”, thông điệp “Chúng ta đi qua thiên đường với đôi mắt mù lòa’ in chuyên đề “Viết & Đọc mùa thu 2024”. Bài này co cùng hàng trăm bài như thế hiện tỏ rỏ lổ hỏng trong kiên thức văn chương của Thiều!
Thiên đường là nơi hạnh phúc đạt được trọn vẹn theo quan niệm của Công giáo, cũng như nó đã có hình thù chưa miền cực lac bên đạọ Phật.
"Thiên đường" (hea ven) là một khái niệm chỉ về một thế giới lý tưởng, hạnh phúc và viên mãn, thường được mô tả là nơi cư ngụ của các đấng tối cao, thần tiên, hoặc nơi an nghỉ cuối cùng của những linh hồn tốt đẹp sau khi qua đời. Ngoài ra, từ này còn có thể chỉ một Vườn địa đàng (nơi Adam và Eva cư ngụ).
Thiên đường là cái không có thực trong cuộc đời chỉ có thánh thần may mắn mới lên được. Người cộng sản lạc quan tếu nhất cũng mới nghĩ tới ” thiên đường cộng sản”. Nó đã có hình thù ra sao thi cũng chưa bết!.
Chỉ có ông hót hoc Tố Hữu Việt Nam bốc phét “miền Bắc thiên đường của các con tôi” chứ không phải thiên đường của nhân loại!!. Nay có ông cộng con Nguyễn Quang Thiều mới khẳng định có thật “thiên đường” “Chúng ta đi qua thiên đường vớ bằng đôi mắt mù lòa”! Thật diệu kỳ ‘thiên đường của Nguyễn Quang Thiều đã đi qua, dù di qua với đôi mắt dũ mù lóa!. Thiên đường đã có thật rồi.. Người cộng sản đâu phải vẽ hượu, vẽ vượn!” Ngườ主要的i người đế quốc biêt hay chăng/ Trai đát già nua, ta trẻ măng/ Trai đât ngươi ôm ôm chẳng nổi/ Trời kia ta với tới cung trăng” Vờ òa sung sướng chưa bà con công nông!
“Đã có lần tôi mơ thấy mình bay lơ lững trên cao (高) và nhìn xuống thê gian(.世界) Tôi chăc không chỉ minh tôi mơ như thế.. Và từ trên cao tôi nhìn thây chính (主要)tôi đang進行中)(cùng biêt bao người khác đang chen chuc trên những con đường trên mặt đát . Một cảnh tượng hổn lọạn (混亂)và thật tội nghiệp(職業) hiện ra (出現)trước măt tôi. Khi chúng ta thoát khỏi chúng ta để quay đầu lại nhìn chính (chúng ta, chúng ta mới thật kinh haĩ về những năm chúng ta đã sông và đang sống. Chẳng lẽ chúng ta những kẻ đươc quyền(正正確)cất giữ những giấc mơ đẹp , lại hiện ra thật tồi tệ và đày đọa (折磨) đến như thê kia.
Vì trong đám đông bât tận đang chen chúc , đang nguyền rủa nhau, đang mưu mô, đang độc ác, đang lầm lạc, đang tuyệt vọng, tôi thây dôi mắt đang ngước lên. Họ cầu xin và mơ ước đến Thiên đường(天堂) một ngày nào đó. Và trong những người ngước mắt lên mơ đến một Thiên đường đã có quá nhiều người gục xuống bởi tuyệt vọng vì chính điều họ mơ đên. Họ không đủ kiên nhẫn đợi chờ cái ngày họ được đến Thiên đường.. Họ guc gã trong bóng tôi của vô vọng (絕望)ở phía thẳm xa (邊緣c) húng ta, chỉ cách một lớp áo, một làn da và nói cho đúng hơn thì Thiên đường ở trong lòng bàn tay của chúng ta. Nhưng chúng ta đã không tin vì không nhìn thấy điều ấy….”
Ông Nguyễn Quang Thiều trên ông Mác, ông Ăng ghen, ông Lên nin… hàng triệu cái đầu. Chỉ mở lòng bàn tay Thiên đường đã có rồi. Không phải các ông vô sản đót cháy hêt núi non, thiêu trọi hàng trăm triệu mạng sống mà không thấy “Thiên đường”
Nguyễn Quang Thiều là thần tuyên truyền viên tuyên huấn bịp bợm, láo khoét, ngu độn đến Gơ ben (phát xit Đức) phải gọi bằng Cụ!
P/s: Bài viết ngăn đầy chất Tầu ô, lối câu văn nhan nhản!
Đ – H
Kỳ sau: Hãy ngước mắt lên dù chỉ một lần

Nguc trung nhật ký (tiếp)

  •   15/08/2025 08:06
  •   65
  •   0
Ngục trung nhật ký là tập thơ gồm các bài chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943 dưới dạng một quyển sổ tay nhỏ. Tác phẩm được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay tác phẩm đã được xuất bản nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật... Ngày 1-10-2012, thủ tướng đã ra quyết định công nhận đây là bảo vật quốc gia. Tôi dịch thơ Hồ Chí Minh khi học chữ Hán ở trường trung học và khi ra công tác. Đây là ghi chép nhật ký nôm na, đơn giản. Khi trừng trải thấy ý nghĩ lớn lao, có nhiều bài rất hay.Giới thiệu để bạn đọc tham khảo! – Đỗ Hoàng
開卷
老夫原不愛吟詩,
因為囚中無所為。
聊借吟詩消永日,
且吟且待自由時。
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Dịch nghĩa
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm.
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ta đây người chẳng thích ngâm thơ
Trong ngục ngồi không chỉ vật vờ.
Hãy mượn ngâm nga tiêu ngày rộng
Vừa ngâm, vừa đợi tự do chờ!

TRÁNH HÁO DANH

Nguyễn Tài Cẩn là một nhà nghiên cứu văn học có uy tính ở nước ta!

Thăm dò ý kiến

Bạn biết gì về NukeViet 4?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập9
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm8
  • Hôm nay937
  • Tháng hiện tại111,396
  • Tổng lượt truy cập742,877
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi