Thơ Nguyễn khoa Đièm

Thơ Nguyễn khoa Đièm

Đỗ Hoàng
Cảm xúc giả tạo
Bình giảng
Tháng Chạp ở Hồng Trường
Nguyên bản:
Tháng Chạp Ở Hồng Trường
Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm
Những viên đá đứng theo chiều nhân loại
Và tuyết bay như năm tháng bay qua
Tháng chạp, ở Hồng Trường, tôi trở lại
Nghe ngân chuông trên tháp Xpat-xkai-a...
Chào ngọn tháp mới lần đầu gặp mặt
Mà tiếng chuông đã vang biết bao lần
Trong tâm tư, những ngày trăn trở nhất
ở miền Nam bùn máu dưới bàn chân
"Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian"
Lời chuông nhắc-lời Lênin kêu gọi
Ôi có phải khi miền Nam thắng lợi
Chinh chúng ta đang đi suốt bài ca
Ba phần tư thế kỷ sắp đi qua
Những bão táp và ngọn trào cách mạng
Chiếc đồng hồ vàng như vành hào quang tỏa sáng
Cho những ai biết sống ngẩng cao đầu
Mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu
Tôi đã hát trong buổi mình kết nạp
Tôi nhớ bạn bè phút giây sống chết
Nhớ quê hương cuộc sống mới bắt đầu
Nghe chuông ngân trên tháp Xpat-xkai-a
Tháng chạp, ở Hồng Trường, tôi trở lại
Và tuyết bay như năm tháng bay qua...
Maxcơca, 12-1975
Hồi trước, Matxcơva hơn cả thiên đường, nên được đi Nga, học tập ở Nga là vinh dự của một đời người! Học sinh, sinh viên đấu tranh trong vùng tạm bị chiếm miền Nam ra Bắc mới được ưu tiên tham quan nước Nga. Nguyễn Khoa Điềm là một trong số đó.
Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu biết viết thơ khi về báo Chiến Thắng – báo của Khu ủy Trị - Thiên – Huế do tổng biên tập Nguyễn Cúc bảo lãnh rút Điềm từ trại lao động A cơi về Khu bộ. Điềm ở trong lao Thừa Phủ can gián nhiều tội: giẫm cớ Tổ quốc, xé ảnh Bác Hồ, chào cờ ba que, khai nhiều cơ sở cách mạng, bị chi bộ nhà tù tẩy chay. Điềm ra tù là nhờ quân giải phóng tết nguyên tiêu năm 1968 phá lao, người có công là đại đội trưởng hai đại đội Nguyễn Phúc Thanh đã đưa tù giao cho Cách mạng (Nguyễn Phúc Thanh sau này là Trung tưởng, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 2, nguyên Chủ nhiêm Tổng cục Hậu cần, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội…). Điềm là người có văn bằng Đại học, là của hiếm trên núi thời đó nên cấp trên chiếu cố và bỏ qua nhiều lỗi lầm trong tù. Điềm đoái công chuộc tội nên ra sức viết thơ ca ngợi Cách mạng. Hồi ấy, thơ truyện “từ miền Nam gửi ra” quý hơn cả vàng nên thơ Điềm được in trang trọng trên các báo lớn, ở miền Bắc như: Văn nghệ, Nhân dân, Tác phẩm mới, Tổ quốc, Đại đoàn kết. Chất lượng thì miễn bàn vì “dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ, hơn nghin trang giấy luận văn chương”. Thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng có tiếng trong nhà trường. Không có ai có con mắt tinh đời để nhận ra thơ Điềm là loại ba voi không ngọt bát xáo, ồn ào, lấp lững, giả vờ, lên gân, sáo sượng, khô khan, điệu đàng, biểu tượng hai mặt….Loại thơ “vờ vịt”
“Thơ vờ vịt Nguyễn Khoa Điềm
Nên đem tất cả búa liềm lại phang!”
(Chân dung 810 Văn sĩ việt đương đại – Đỗ Hoàng)”
Bài “Tháng chạp ở Hồng Trường là một bài như thế.
Khổ một và cả bài thơ là khổ viết rất sáo mòn, xơ cứng “những viên đá đứng theo chiều nhân loại”, chung chung, cũ rích : “và tuyết bay như năm tháng bay qua” và nịnh tiếng chuông tháp Mười trên tháp Xpat-xkai-a
“Tháng chạp, ở Hồng Trường, tôi trở lại
Nghe ngân chuông trên tháp Xpat-xkai-a...”
nhưng không phải lối !
Không cần đến Hồng Trường, viết như Nguyễn Khoa Điềm, người ở nhà nằm xem ti vi cũng viết được , có khi viết hay hơn:
“Đá xếp đá máu mồ hôi nhân loại
Tuyết bay, tuyết bay thanh sạch trời xa
Thàng chạp cội nguồn , Hồng Trường tôi trở lại
Tiếng chuông tháng Mười ngân chuông trên tháp Xpat-xkai-a”
Khổ thứ hai tù mù, lập lững, không ai biết những ngày trăn trở nhất là trăn trở cái gì? Trăn trở vì chi bộ nhà tù Lao Thừa Phủ cô lập, hay trăn trở bị đưa đi lao đông cải tạo ở trại A Cơi? Chả biết lý do gì cả?. Rồi câu “ ở miền Nam bùn máu dưới bàn chân” cũng là cau sáo mòn, cũ ríc…
"Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian"
Lời chuông nhắc - lời Lênin kêu gọi
Ôi có phải khi miền Nam thắng lợi
Chinh chúng ta đang đi suốt bài ca
Ba phần tư thế kỷ sắp đi qua
Những bão táp và ngọn trào cách mạng
Chiếc đồng hồ vàng như vành hào quang tỏa sáng
Cho những ai biết sống ngẩng cao đầu
Khổ thứ 3 và khổ thứ tư là đại ngôn sáo rỗng “ba tấc đến giời như không”. “Chiếc đồng hồ vàng, ánh hào quang tỏa sáng, Cho những ai biết sống ngẩng cao đầu”
Tiếp khổ 5, gần cuôi:
“Mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu
Tôi đã hát trong buổi mình kết nạp
Tôi nhớ bạn bè phút giây sống chết
Nhớ quê hương cuộc sống mới bắt đầu”
Là khổ thơ gian manh, giả dối. . “Quốc tế ca”, người bình thường cũng thuộc, nhưng “mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu” là nước mắt cá sấu rưng rưng. “ Tôi đã hát trong buổi đầu kết nạp”. Kết nạp cái gì? Hội hè nào Đoàn thể nào? Đảng nào? Nó phải rõ ra chứ. Thơ thì không cần chính xác hai cộng hai bằng bốn
nhưng “kết nạp” vào cái gì thì phải rõ ràng!
Nhà thơ Chế Lan Viên rất rõ ràng:
“Giã mẹ ra đi kháng chiến bốn phương trời
Kết nạp Đảng, bỗng quay về quê mẹ!
Có phải quê hương gọi ta về đấy nhỉ?
Dặn dò ta, khuyên nhủ ta thêm
Trong buổi đầu, ta theo Đảng đi lên
Ngày vào Đảng đất trời như đổi khác
Những vật vô tri cũng làm rưng nước mắt
Đá sỏi cây cằn, sao bỗng thấy thiêng liêng?
Giọng nói quen nghe, màu đất quen nhìn
Bỗng chan chứa trăm điều chưa nói hết!
Tôi cúi đầu nghe, dặt dìu, tha thiết
Cây cỏ trời mây, kẻ mất người còn
Trong mơ hồ, trăm tiếng của quê hương”…
….
Tôi đứng trước Đảng kỳ, rưng mắt lệ
Phút mơ ước, sao thiếu hình bóng mẹ?
Giặc bao vây ngăn lối chặn đường
Thiếu cả gia đình ngay giữa đất quê hương!
Mẹ ơi! mẹ không là đồng chí
Nhưng Đảng kỳ đây chính là của mẹ
Đời khổ đau mẹ đứng dưới cờ này
Mẹ đói nghèo, hàng ngũ bên con đây
Mẹ xem, con mặc áo nâu sồng xưa mẹ mặc
Mai con hát khúc bình dân xưa mẹ hát
Đảng mến yêu, có phải mẹ giới thiệu con vào? »…
(Kết nạp Đảng trên quê mẹ - Chế Lan Viên)
Chế Lan Viên nói việc mình vào Đảng rất đúng đắn, chính xác, « kết nạp Đảng bỗng uay về quê Mẹ ». Nguyễn Khoa Điềm chưa một ngày vào Đảng (Cộng sản) nên lập lững, mập mờ, giả dối đánh lận con đen « tôi rưng rưng trong buổi đầu kết nạp », người ta tưởng Điềm kết nạp Đảng (Cộng sản ) thật. Và Điềm lừa cho được đến hôm nay khi người chuẩn bị trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho Điềm năm 2021 ( !)
Vì sao Nguyễn Khoa Điềm mập mờ, bưng bít như vậy ? Vì hồi này những người như Nguyễn Cúc đang Giám đốc đài truyền hình Huế, Nguyễn Đức Đạo đang Bí thư Đảng bộ Đài truyền hình Huế, (Nguyễn Đứinh Tâm , Trưởng Ban tổ chức tỉnh ủy, Hồ Như Ý, giám đốc Đài phát thanh Bình Trị Thiên, Bảy khiêm, giám đốc công an Binyhf Trị Thiên…. Điềm không dám viết « Tôi rưng rưng trong buổi đầu kết nạp Đảng » được !
Bài « Tháng chạp ở Hồng Trường » là một bài viết giả dối , lưu manh của Nguyễn Khoa Điềm, một tên ngụy tạo Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam luồn sâu leo cao làm đến Ủy viên Bộ Chính trị (Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa) của Đảng này , nhân dân cần loại bỏ nó ra khỏi tâm thức ! Rất nguy hại ! Rất nguy hại !
Hà Nội ngày 26 tháng 5 năm 2021
Đ - H

Xem tiếp...

Mid-page advertisement
Thơ Nguyễn khoa Đièm

Thơ Nguyễn khoa Đièm

  •   15/10/2025 20:55
  •   0
  •   0
Đỗ Hoàng
Cảm xúc giả tạo
Bình giảng
Tháng Chạp ở Hồng Trường
Nguyên bản:
Tháng Chạp Ở Hồng Trường
Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm
Những viên đá đứng theo chiều nhân loại
Và tuyết bay như năm tháng bay qua
Tháng chạp, ở Hồng Trường, tôi trở lại
Nghe ngân chuông trên tháp Xpat-xkai-a...
Chào ngọn tháp mới lần đầu gặp mặt
Mà tiếng chuông đã vang biết bao lần
Trong tâm tư, những ngày trăn trở nhất
ở miền Nam bùn máu dưới bàn chân
"Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian"
Lời chuông nhắc-lời Lênin kêu gọi
Ôi có phải khi miền Nam thắng lợi
Chinh chúng ta đang đi suốt bài ca
Ba phần tư thế kỷ sắp đi qua
Những bão táp và ngọn trào cách mạng
Chiếc đồng hồ vàng như vành hào quang tỏa sáng
Cho những ai biết sống ngẩng cao đầu
Mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu
Tôi đã hát trong buổi mình kết nạp
Tôi nhớ bạn bè phút giây sống chết
Nhớ quê hương cuộc sống mới bắt đầu
Nghe chuông ngân trên tháp Xpat-xkai-a
Tháng chạp, ở Hồng Trường, tôi trở lại
Và tuyết bay như năm tháng bay qua...
Maxcơca, 12-1975
Hồi trước, Matxcơva hơn cả thiên đường, nên được đi Nga, học tập ở Nga là vinh dự của một đời người! Học sinh, sinh viên đấu tranh trong vùng tạm bị chiếm miền Nam ra Bắc mới được ưu tiên tham quan nước Nga. Nguyễn Khoa Điềm là một trong số đó.
Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu biết viết thơ khi về báo Chiến Thắng – báo của Khu ủy Trị - Thiên – Huế do tổng biên tập Nguyễn Cúc bảo lãnh rút Điềm từ trại lao động A cơi về Khu bộ. Điềm ở trong lao Thừa Phủ can gián nhiều tội: giẫm cớ Tổ quốc, xé ảnh Bác Hồ, chào cờ ba que, khai nhiều cơ sở cách mạng, bị chi bộ nhà tù tẩy chay. Điềm ra tù là nhờ quân giải phóng tết nguyên tiêu năm 1968 phá lao, người có công là đại đội trưởng hai đại đội Nguyễn Phúc Thanh đã đưa tù giao cho Cách mạng (Nguyễn Phúc Thanh sau này là Trung tưởng, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 2, nguyên Chủ nhiêm Tổng cục Hậu cần, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội…). Điềm là người có văn bằng Đại học, là của hiếm trên núi thời đó nên cấp trên chiếu cố và bỏ qua nhiều lỗi lầm trong tù. Điềm đoái công chuộc tội nên ra sức viết thơ ca ngợi Cách mạng. Hồi ấy, thơ truyện “từ miền Nam gửi ra” quý hơn cả vàng nên thơ Điềm được in trang trọng trên các báo lớn, ở miền Bắc như: Văn nghệ, Nhân dân, Tác phẩm mới, Tổ quốc, Đại đoàn kết. Chất lượng thì miễn bàn vì “dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ, hơn nghin trang giấy luận văn chương”. Thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng có tiếng trong nhà trường. Không có ai có con mắt tinh đời để nhận ra thơ Điềm là loại ba voi không ngọt bát xáo, ồn ào, lấp lững, giả vờ, lên gân, sáo sượng, khô khan, điệu đàng, biểu tượng hai mặt….Loại thơ “vờ vịt”
“Thơ vờ vịt Nguyễn Khoa Điềm
Nên đem tất cả búa liềm lại phang!”
(Chân dung 810 Văn sĩ việt đương đại – Đỗ Hoàng)”
Bài “Tháng chạp ở Hồng Trường là một bài như thế.
Khổ một và cả bài thơ là khổ viết rất sáo mòn, xơ cứng “những viên đá đứng theo chiều nhân loại”, chung chung, cũ rích : “và tuyết bay như năm tháng bay qua” và nịnh tiếng chuông tháp Mười trên tháp Xpat-xkai-a
“Tháng chạp, ở Hồng Trường, tôi trở lại
Nghe ngân chuông trên tháp Xpat-xkai-a...”
nhưng không phải lối !
Không cần đến Hồng Trường, viết như Nguyễn Khoa Điềm, người ở nhà nằm xem ti vi cũng viết được , có khi viết hay hơn:
“Đá xếp đá máu mồ hôi nhân loại
Tuyết bay, tuyết bay thanh sạch trời xa
Thàng chạp cội nguồn , Hồng Trường tôi trở lại
Tiếng chuông tháng Mười ngân chuông trên tháp Xpat-xkai-a”
Khổ thứ hai tù mù, lập lững, không ai biết những ngày trăn trở nhất là trăn trở cái gì? Trăn trở vì chi bộ nhà tù Lao Thừa Phủ cô lập, hay trăn trở bị đưa đi lao đông cải tạo ở trại A Cơi? Chả biết lý do gì cả?. Rồi câu “ ở miền Nam bùn máu dưới bàn chân” cũng là cau sáo mòn, cũ ríc…
"Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian"
Lời chuông nhắc - lời Lênin kêu gọi
Ôi có phải khi miền Nam thắng lợi
Chinh chúng ta đang đi suốt bài ca
Ba phần tư thế kỷ sắp đi qua
Những bão táp và ngọn trào cách mạng
Chiếc đồng hồ vàng như vành hào quang tỏa sáng
Cho những ai biết sống ngẩng cao đầu
Khổ thứ 3 và khổ thứ tư là đại ngôn sáo rỗng “ba tấc đến giời như không”. “Chiếc đồng hồ vàng, ánh hào quang tỏa sáng, Cho những ai biết sống ngẩng cao đầu”
Tiếp khổ 5, gần cuôi:
“Mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu
Tôi đã hát trong buổi mình kết nạp
Tôi nhớ bạn bè phút giây sống chết
Nhớ quê hương cuộc sống mới bắt đầu”
Là khổ thơ gian manh, giả dối. . “Quốc tế ca”, người bình thường cũng thuộc, nhưng “mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu” là nước mắt cá sấu rưng rưng. “ Tôi đã hát trong buổi đầu kết nạp”. Kết nạp cái gì? Hội hè nào Đoàn thể nào? Đảng nào? Nó phải rõ ra chứ. Thơ thì không cần chính xác hai cộng hai bằng bốn
nhưng “kết nạp” vào cái gì thì phải rõ ràng!
Nhà thơ Chế Lan Viên rất rõ ràng:
“Giã mẹ ra đi kháng chiến bốn phương trời
Kết nạp Đảng, bỗng quay về quê mẹ!
Có phải quê hương gọi ta về đấy nhỉ?
Dặn dò ta, khuyên nhủ ta thêm
Trong buổi đầu, ta theo Đảng đi lên
Ngày vào Đảng đất trời như đổi khác
Những vật vô tri cũng làm rưng nước mắt
Đá sỏi cây cằn, sao bỗng thấy thiêng liêng?
Giọng nói quen nghe, màu đất quen nhìn
Bỗng chan chứa trăm điều chưa nói hết!
Tôi cúi đầu nghe, dặt dìu, tha thiết
Cây cỏ trời mây, kẻ mất người còn
Trong mơ hồ, trăm tiếng của quê hương”…
….
Tôi đứng trước Đảng kỳ, rưng mắt lệ
Phút mơ ước, sao thiếu hình bóng mẹ?
Giặc bao vây ngăn lối chặn đường
Thiếu cả gia đình ngay giữa đất quê hương!
Mẹ ơi! mẹ không là đồng chí
Nhưng Đảng kỳ đây chính là của mẹ
Đời khổ đau mẹ đứng dưới cờ này
Mẹ đói nghèo, hàng ngũ bên con đây
Mẹ xem, con mặc áo nâu sồng xưa mẹ mặc
Mai con hát khúc bình dân xưa mẹ hát
Đảng mến yêu, có phải mẹ giới thiệu con vào? »…
(Kết nạp Đảng trên quê mẹ - Chế Lan Viên)
Chế Lan Viên nói việc mình vào Đảng rất đúng đắn, chính xác, « kết nạp Đảng bỗng uay về quê Mẹ ». Nguyễn Khoa Điềm chưa một ngày vào Đảng (Cộng sản) nên lập lững, mập mờ, giả dối đánh lận con đen « tôi rưng rưng trong buổi đầu kết nạp », người ta tưởng Điềm kết nạp Đảng (Cộng sản ) thật. Và Điềm lừa cho được đến hôm nay khi người chuẩn bị trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho Điềm năm 2021 ( !)
Vì sao Nguyễn Khoa Điềm mập mờ, bưng bít như vậy ? Vì hồi này những người như Nguyễn Cúc đang Giám đốc đài truyền hình Huế, Nguyễn Đức Đạo đang Bí thư Đảng bộ Đài truyền hình Huế, (Nguyễn Đứinh Tâm , Trưởng Ban tổ chức tỉnh ủy, Hồ Như Ý, giám đốc Đài phát thanh Bình Trị Thiên, Bảy khiêm, giám đốc công an Binyhf Trị Thiên…. Điềm không dám viết « Tôi rưng rưng trong buổi đầu kết nạp Đảng » được !
Bài « Tháng chạp ở Hồng Trường » là một bài viết giả dối , lưu manh của Nguyễn Khoa Điềm, một tên ngụy tạo Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam luồn sâu leo cao làm đến Ủy viên Bộ Chính trị (Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa) của Đảng này , nhân dân cần loại bỏ nó ra khỏi tâm thức ! Rất nguy hại ! Rất nguy hại !
Hà Nội ngày 26 tháng 5 năm 2021
Đ - H

Ngục Trun nhật ký (tiếp)

  •   28/09/2025 14:43
  •   9
  •   0
入靖西縣獄
獄中舊犯迎新犯,
天上晴雲逐雨雲。
晴雨浮雲飛去了,
獄中留住自由人。
Nhập Tĩnh Tây huyện ngục
Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm
Thiên thượng tình vân trục vũ vân
Tình vũ phù vân phi khứ liễu
Ngục trung lưu trú tự do nhân
Dịch nghĩa
Trong ngục tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa.
Mây tạnh, mây mưa, mấy đám mây nổi bay đi hết,
Chỉ còn lại người tự do trong ngục.
Tĩnh Tây là một huyện thuộc Quảng Tây, gần biên giới Trung - Việt. Tác giả bị bắt ở huyện Thiên Bảo cách Tĩnh Tây khá xa nhưng lại bị đưa ngược về Tĩnh Tây giam giữ.
Đỗ Hoàng dịch:
Trong lao tù cũ đón tù mới
Trên trời mây trắng rượt mây tro
Mây tro, mây trắng đều xua hết
Trong tù chỉ có khách tự do!
A D H 1

Nguyễn Quang Thiêu (tiếp)

  •   22/09/2025 14:19
  •   13
  •   0
NGUYÊN QUANG THIỀU – TÀM VĂN HÓA QUẤ THÂP – HỌC HÀNH LỔ MỔ - KHÔNG NÊN LÀM CHỦ BÚT.(tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Mấy ông công an khi đeo dao găm, súng lục, giày đính, kiếm mác, tua dãi… trông rất hùng dũng;;nhưng khi viết lách thể hiện ý đồ, quan điểm thì lòi lổ hỏng kiên thức vô học rất trầm trọng! Nguyễn Quang Thiều là một người như thế!
Khác những người cùng thế hệ, Thiều dược Công an cho học tiếng Anh tận Cu Ba do Mễ Tây Cơ dạy. Méo mó có hơn không. Về nước làm công an ngoại tuyến (mật vụ). Thiều làm cái gọi là “thơ” – vô lối, được cài caì cắms vào văn nghệ, trở thành “nhà thơ” (thi tăc)! Thiều lamf gims đốc nhà xuất bản Hội nhà văn, có cấu Chủ tịch Hội Nhà văn. Thiều ra cái càng viêt càng sai, chuyên đề Viết & Đọc. Bằng hữu gọi là “tạp chí”! Thế là Thiều tha hồ tung tẩy viêtt mọi thứ. Càng viết càng sai, càng thể hiện cây gdường là cái xa mờỗ mục!
Xin trích dẫn bài”đít cua”, thông điệp “Chúng ta đi qua thiên đường với đôi mắt mù lòa’ in chuyên đề “Viết & Đọc mùa thu 2024”. Bài này co cùng hàng trăm bài như thế hiện tỏ rỏ lổ hỏng trong kiên thức văn chương của Thiều!
Thiên đường là nơi hạnh phúc đạt được trọn vẹn theo quan niệm của Công giáo, cũng như nó đã có hình thù chưa miền cực lac bên đạọ Phật.
"Thiên đường" (hea ven) là một khái niệm chỉ về một thế giới lý tưởng, hạnh phúc và viên mãn, thường được mô tả là nơi cư ngụ của các đấng tối cao, thần tiên, hoặc nơi an nghỉ cuối cùng của những linh hồn tốt đẹp sau khi qua đời. Ngoài ra, từ này còn có thể chỉ một Vườn địa đàng (nơi Adam và Eva cư ngụ).
Thiên đường là cái không có thực trong cuộc đời chỉ có thánh thần may mắn mới lên được. Người cộng sản lạc quan tếu nhất cũng mới nghĩ tới ” thiên đường cộng sản”. Nó đã có hình thù ra sao thi cũng chưa bết!.
Chỉ có ông hót hoc Tố Hữu Việt Nam bốc phét “miền Bắc thiên đường của các con tôi” chứ không phải thiên đường của nhân loại!!. Nay có ông cộng con Nguyễn Quang Thiều mới khẳng định có thật “thiên đường” “Chúng ta đi qua thiên đường vớ bằng đôi mắt mù lòa”! Thật diệu kỳ ‘thiên đường của Nguyễn Quang Thiều đã đi qua, dù di qua với đôi mắt dũ mù lóa!. Thiên đường đã có thật rồi.. Người cộng sản đâu phải vẽ hượu, vẽ vượn!” Ngườ主要的i người đế quốc biêt hay chăng/ Trai đát già nua, ta trẻ măng/ Trai đât ngươi ôm ôm chẳng nổi/ Trời kia ta với tới cung trăng” Vờ òa sung sướng chưa bà con công nông!
“Đã có lần tôi mơ thấy mình bay lơ lững trên cao (高) và nhìn xuống thê gian(.世界) Tôi chăc không chỉ minh tôi mơ như thế.. Và từ trên cao tôi nhìn thây chính (主要)tôi đang進行中)(cùng biêt bao người khác đang chen chuc trên những con đường trên mặt đát . Một cảnh tượng hổn lọạn (混亂)và thật tội nghiệp(職業) hiện ra (出現)trước măt tôi. Khi chúng ta thoát khỏi chúng ta để quay đầu lại nhìn chính (chúng ta, chúng ta mới thật kinh haĩ về những năm chúng ta đã sông và đang sống. Chẳng lẽ chúng ta những kẻ đươc quyền(正正確)cất giữ những giấc mơ đẹp , lại hiện ra thật tồi tệ và đày đọa (折磨) đến như thê kia.
Vì trong đám đông bât tận đang chen chúc , đang nguyền rủa nhau, đang mưu mô, đang độc ác, đang lầm lạc, đang tuyệt vọng, tôi thây dôi mắt đang ngước lên. Họ cầu xin và mơ ước đến Thiên đường(天堂) một ngày nào đó. Và trong những người ngước mắt lên mơ đến một Thiên đường đã có quá nhiều người gục xuống bởi tuyệt vọng vì chính điều họ mơ đên. Họ không đủ kiên nhẫn đợi chờ cái ngày họ được đến Thiên đường.. Họ guc gã trong bóng tôi của vô vọng (絕望)ở phía thẳm xa (邊緣c) húng ta, chỉ cách một lớp áo, một làn da và nói cho đúng hơn thì Thiên đường ở trong lòng bàn tay của chúng ta. Nhưng chúng ta đã không tin vì không nhìn thấy điều ấy….”
Ông Nguyễn Quang Thiều trên ông Mác, ông Ăng ghen, ông Lên nin… hàng triệu cái đầu. Chỉ mở lòng bàn tay Thiên đường đã có rồi. Không phải các ông vô sản đót cháy hêt núi non, thiêu trọi hàng trăm triệu mạng sống mà không thấy “Thiên đường”
Nguyễn Quang Thiều là thần tuyên truyền viên tuyên huấn bịp bợm, láo khoét, ngu độn đến Gơ ben (phát xit Đức) phải gọi bằng Cụ!
P/s: Bài viết ngăn đầy chất Tầu ô, lối câu văn nhan nhản!
Đ – H
Kỳ sau: Hãy ngước mắt lên dù chỉ một lần

Nguc trung nhật ký (tiếp)

  •   15/08/2025 08:06
  •   65
  •   0
Ngục trung nhật ký là tập thơ gồm các bài chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943 dưới dạng một quyển sổ tay nhỏ. Tác phẩm được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay tác phẩm đã được xuất bản nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật... Ngày 1-10-2012, thủ tướng đã ra quyết định công nhận đây là bảo vật quốc gia. Tôi dịch thơ Hồ Chí Minh khi học chữ Hán ở trường trung học và khi ra công tác. Đây là ghi chép nhật ký nôm na, đơn giản. Khi trừng trải thấy ý nghĩ lớn lao, có nhiều bài rất hay.Giới thiệu để bạn đọc tham khảo! – Đỗ Hoàng
開卷
老夫原不愛吟詩,
因為囚中無所為。
聊借吟詩消永日,
且吟且待自由時。
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Dịch nghĩa
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm.
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ta đây người chẳng thích ngâm thơ
Trong ngục ngồi không chỉ vật vờ.
Hãy mượn ngâm nga tiêu ngày rộng
Vừa ngâm, vừa đợi tự do chờ!
Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập9
  • Hôm nay945
  • Tháng hiện tại111,404
  • Tổng lượt truy cập742,885
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi