Trần Đăng Khoa nói:...

  •   17/06/2025 11:19:00
  •   Đã xem: 33
  •   Phản hồi: 0
Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói :
“Vô Lối Nguyễn Quang Thiều nốc ao!”
Mấy năm trước công tác ơ tạp chí Nhà văn, tôi có nhiệm vụ làm tiêu binh cho các cuộc quy tiên của các nhà văn là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Hôm ấy có đám tang của nhà văn Kim Lân ở nhà tang lễ Trần Thánh Tông, Hà Nội.
Tôi vừa gửi xe đi bách bộ vào chỗ tang lễ thì gặp nhà thơ Trần Đăng Khoa. Trần Đăng Khoa nổi tiếng từ bé, nên tôi hay gọi Thần Đồng để xưng hô, vì tôi lớn hơn Khoa 10 tuổi mà chẳng danh giá gì!
Trần Đăng Khoa là người kỳ tài trong việc thẩm thơ.
Hồi tôi đang làm biên tập ở tờ Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, một lần đến nhà riêng anh xin bài thơ “Lính trẻ” để in trên Tạp chí.
Nhà Thần Đồng lúc ấy đang là căn hộ tập thể được quân đội phân cho trên đường Lý Nam Đế.
Vào nhà thấy tập thơ “ Sóng Reo” hay “Suối Reo:” gì đó của Nguyễn Đình Thi tặng Trần Đăng Khoa.
Tôi chưa nói gì thì Khoa đã mỉa:
- Bác thấy đó, tập này dở hết chỗ nói.
Tôi trăm phần trăm khâm phục:
- Thần Đồng thật là có con mắt xanh hơn người!
Tôi càng phục Khoa từ đó.
Nhưng Khoa không bao giờ làm mất lòng ai. Chắc Khoa đã học cách ứng xử của các nhà thơ tài danh lớp trước như Xuân Diệu, Huy Cận. Không thích thì cười cho qua.
Rồi Khoa làm được mấy cai chức còi nên Khoa càng im lặng. Kiểu mặc mẹ chùng mày, ông phải lo cơm ăn áo mặc, việc gì chen vào bình phẩm ba cái Vô lối của chúng mày!
Đi lên gần Khoa, tôi nói: - Thần Đổng cũng đi đưa tang nhà văn Kim Lân à?
Khoa cũng cười nhưng không vào chủ đề mà lại nói:
- Bác đả Nguyễn Quang Thiều hay đấy!
- Thần Đồng cũng đọc mạng sao? – Tôi hơi ngạc nhiên.
Khoa cười: - Bác tưởng bọn chúng tôi không đọc mạng đấy chắc? Tôi là một cư dân mạng!
Hóa ra vừa rồi, nhân Nguyễn Quang Thiều đưa lên cái bài “Tấm Thảm Thổ Nhĩ Kỳ” bị la ó, tôi đọc nó tôi thấy đúng là một thứ bà dằn vô tích sự, thơ không ra thơ, văn không ra văn, một loại quái thai của văn chương mà lại được đám ba đầu sáu tay tung hô hết cỡ, tôi liền chuyển nó ra thể thơ song thất lục bát và lục bát để cho mọi người còn biết nó là cái gì. Tôi không ngờ Khoa lại đọc nó.
Tôi nói: - Tôi định viết một bài phê phán hoàn chình nhưng chưa làm xong!
Khoa nói ngay: - Bác đả thế là Nguyễn Quang Thiều nốc ao rồi, không cần nhiều lời nữa!
Hà Nội ngày 15 - 5 -2012
Đỗ Hoàng
Trích bài tham khảo
Dịch vô lôi - Nguyễn Quang Thiều
CÓ THẬT " THƠ KHÔNG ĐỂ HIỂU..." ?
Trần Mạnh Hảo
Báo Văn Nghệ tết Canh Dần ( số 6+7+8 -2010) trang 54 có in bài "Thơ không để hiểu..." của tác giả Nguyễn Chí Hoan, ghi chú dưới "tít" bài : "Đọc "cây ánh sáng", tập thơ của Nguyễn Quang Thiều, NXB Hội Nhà Văn 2008". Cũng cần phải nói thêm, cuối "tít" bài thấy xuất hiện ba chấm chấm (...) dụng ý tác giả muốn đưa ra một khái niệm đầy đủ nối với ba chấm chấm đầu bài viết ...rằng : " THƠ KHÔNG ĐỂ HIỂU MÀ ĐỂ TƯỞNG TƯỢNG". Khái niệm quá mới mẻ của Nguyễn Chí Hoan : " Thơ không để hiểu mà để tưởng tượng" dùng làm công cụ giải mã tập thơ "Cây ánh sáng" của Nguyễn Quang Thiều; người đọc, tất nhiên phải hiểu đấy là một sự khái quát bàn về thơ nói chung. Nếu tác giả muốn dùng thước đo quá riêng biệt của mình là : "Thơ không để hiểu mà để tưởng tượng" để lý giải riêng trường hợp thơ Nguyễn Quang Thiều, thì cái "tít" phải là : " Thơ Nguyễn Quang Thiều sinh ra không để hiểu mà để tưởng tượng"...
Trong bài viết này, chúng tôi không bàn về tập thơ "Cây ánh sáng" của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều mà chỉ xin phép bàn về quan niệm thơ rất khác thường của Nguyễn Chí Hoan : " Thơ không để hiểu..." và vế thứ hai của mệnh đề : "...Mà để tưởng tượng" của ông mà thôi.
Văn học nói chung và thơ nói riêng vốn là nghệ thuật ngôn từ, sinh ra để truyền cảm, làm xúc động trái tim con người, đi từ TÌNH CẢM tới NHẬN THỨC. Hay nói một cách khác : văn học được nhận thức bằng tình cảm. Một tác phẩm văn học không hướng tới chân thiện mỹ, không có tính thẩm mỹ, dù tư tưởng của nó cao siêu đến đâu cũng quyết không phải là một tác phẩm nghệ thuật. Khác với toán học, vật lý học, hóa học...dùng công cụ duy nhất là hiểu biết để khám phá quy luật khách quan của thế giới vật chất, một tác phẩm thi ca đề cao sự sáng tạo chủ quan của người nghệ sĩ không đặt vấn đề cốt lõi "hiểu" hay "không hiểu" ra làm tiêu chí tối hậu, mà đặt ra lý do tồn tại của nó rằng thẩm mỹ hay không thẩm mỹ ? Một tác phẩm văn học nói chung, một tác phẩm thi ca nói riêng nếu đã đặt được cái "mỹ" ( Cái Đẹp), tức nhiên nó đã bao hàm cả cái "chân" ( hiện thực) và cái "thiện" ( cái tốt).
Dùng thước đo "hiểu" hay "không hiểu" để tìm bản chất của nghệ thuật thi ca, chúng tôi ngờ tác giả Nguyễn Chí Hoan đã đi lạc vào lĩnh vực khoa học tự nhiên, hay chí ít cũng lạc vào khu rừng triết học nơi các đệ tử của Socrate dùng sự hiểu biết để khám phá ra quy luật của các quy luật sinh tồn...chăng ?
Tiêu chí HAY hay dở, truyền cảm hay không truyền cảm mới là thước đo định giá trị của thi ca chứ không phải "không hiểu" hay "dễ hiểu" là phương pháp tiếp cận thơ lầm lạc của Nguyễn Chí Hoan. Do sự hiểu sai bản chất của thi ca như thế, nên khi Nguyễn Chí Hoan áp dụng vào trường hợp cụ thể là bài "thơ" dưới đây, dùng làm dẫn chứng của bài viết, rằng thơ Nguyễn Quang Thiều sinh ra để chống lại sự hiểu, chống lại nhận thức, cốt chỉ để tưởng tượng mà thôi, xin trích lại sự trích dẫn của tác giả bài viết :
"...Một thí dụ tiêu biểu về câu chuyện trong thơ ở tập này là bài thơ "Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ", toàn văn như sau :
Bài " thơ " Nguyễn Quang Thiều
Lịch sử Tấm thảm Thổ Nhỹ Kỳ
" Người hướng dẫn : Được dệt thủ công bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
"Người mua : Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm"
21 năm tấm thảm không thay đổi chỗ treo
Người đàn ông 50 tuổi thường trở về và đứng
Trong ngôi nhà nửa bóng tối
Tràn ngập tấm thảm tiếng hô hoán
Và phía sau tấm thảm
Một lưỡi dao lạnh lùng đợi
Và một cái chảo sùng sục sôi
Người hướng dẫn : Những ngón tay người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt
Người mua : ông già da đen Cuba đã tự vẫn
Chủ nhân : Tôi chỉ nhớ gương mặt con trai tôi khi nó mở bức thảm ra
Có một người lúc nào cũng rét
Đứng nhìn tấm thảm
Hai bàn chân bị đông cứng trong vũng máu
Ở chân tường
Người hướng dẫn : ( đã bỏ nghề)
Người mua : hình như không phải tấm thảm tôi đã mua
Chủ nhân : Tôi nhìn thấy những người thân đã chết cháy nấp sau những gốc cây trong tấm thảm
Bây giờ là năm thứ hai
Hết bài thơ Nguyễn Quang Thiều
Sau đó là gần một nửa bài nhà Nguyễn Quang Thiều học Nguyễn Chí Hoan dùng "lí luận" để giải thích bài thơ trên, mong giúp độc giả HIỂU ĐƯỢC sự KHÔNG HIỂU kia ! Thật là một trò trốn tìm thú vị. Bài thơ trên của Nguyễn Quang Thiều sinh ra, theo lí luận của Nguyễn Chí Hoan là cốt để "không hiểu", cốt để "tưởng tượng " mà thôi ! Sau đó thì nhà lí luận thi ca theo trường phái " kỳ đà là cha cắc ké, cắc ké là mẹ kỳ nhông, kỳ nhông là ông kỳ đà" kia giúp độc giả phiên dịch cái sự "KHÔNG HIỂU" kia thành sự HIỂU ...Vậy thì các ông đặt vấn đề KHÔNG HIỂU là mục đích của thơ ca ra làm gì ? Để rồi các ông lại phải dùng SỰ HIỂU giải mã bài thơ "không thể hiểu" trên? Nguyễn Chí Hoan càng giải mã bài thơ trên của Nguyễn Quang Thiều chúng tôi càng tắc tị, tuyệt nhiên không hiểu gì, hiểu được chết liền !
Cái gọi là bài thơ :"Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ" trích trên của Nguyễn Quang Thiều sinh ra trong sự mất trí của thi ca ( thơ không để hiểu) nên nó chỉ phục vụ cho mục đích hũ nút mà thôi ;nên nó tuyệt nhiên không có chút truyền cảm nào. Mà không có dấu vết của sự truyền cảm, của rung động thì theo chúng tôi, có dùng lí luận "con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đấy, con cóc nhảy đi" theo kiểu phương pháp tiếp cận thi ca lầm lẫn của Nguyễn Chí Hoan cũng không thể biến con con gà bới bếp thành con công thi ca được...
Không có sự truyền cảm, sự rung động, không có cái hay cái đẹp đi kèm theo những con chữ thì không thể gọi chúng là thi ca. Dù mỗi bài thơ theo kiểu "tấm thảm" của ông già Khốt ta bít trên bao giờ cũng có nhà giải mã Nguyễn Chí Hoan kè kè bên cạnh dẫn giải, cũng không thể làm rung động lòng người. Vì cái rung động lòng người do thi ca mang lại thường là trực giác, tức thì, không cần lời giải thích vòng vo tam quốc. Ví như Truyễn Kiều của Nguyễn Du đã làm hàng vạn người dù không biết chữ rung động, đâu có cần các nhà hàn lâm dông dài dẫn giải ? Trước một cô gái đẹp, trước một vầng trăng đẹp, trước một câu thơ hay, một bài thơ hay con người bị truyền cảm một cách tức thời, một cách trực giác...
Đưa thi ca vào cõi mất trí, cõi không hiểu, để rồi đi vòng vo lí giải giúp người ta hiểu được cái sự không hiểu của nhà thơ chính là phương pháp giết thơ nhanh nhất do nhà lí luận "phản nhận thức" Nguyễn Chí Hoan vừa khám phá ra, để làm món quà tặng ngày thơ Việt Nam trên báo Văn Nghệ số tết Canh Dần. Không có sự hiểu biết, không có chính đời sống con người, chứ chưa nói đến những sản phẩm của con người như tôn giáo, khoa học, nghệ thuật...
Lầm lẫn phương pháp tiếp nhận thi ca bằng cách đuổi sự hiểu, đuổi lí trí, đuổi nhận thức ra khỏi thi ca, Nguyễn Chí Hoan còn không hiểu nổi ngữ nghĩa của từ "hiểu" và từ "tưởng tượng". Xin ông Nguyễn Chí Hoan hãy xem lại từ điển Tiếng Việt để thấy rằng, khi ông tách tưởng tượng ra khỏi sự hiểu ( thơ không để hiểu mà để tưởng tượng) chính là ông đang tách cá ra khỏi nước đấy...Không có một sự tưởng tượng nào của con người nằm ngoài sự hiểu biết, nằm ngoài lí trí, nằm ngoài nhận thức...Tưởng tượng có thể ví như hoa trái của sự hiểu biết, của lí trí, của nhận thức. Hay nói cách khác, sự hiểu biết và sự tưởng tượng là một quá trình đồng thời, không phải là bước thứ nhất rồi mới đến bước thứ hai. Tưởng tượng chính là ký ức về quá khứ hay những hình dung về một thế giới chưa có thật, không có thật xuất hiện trong sự kiểm soát của lí trí, của sự hiểu biết nơi con người...Bảo thơ sinh ra không để hiểu mà để tưởng tượng như Nguyễn Chí Hoan, vừa hết sức sai và hết sức buồn cười vậy .,.
Sài Gòn ngày 26-02-2010
T.M.H.
Đỗ Hoàng dịch Vô lối "Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ" ra thơ Việt
Người viết cứ viết ra theo sự suy nghĩ chủ quan của mình. Sau đó người ta phân và chia ra làm nhiều thể loại như: Văn, thơ, phú, tế, hịch, ca dao, tục ngữ, vè, nói lối, hát vui chơi, nói vui chơi...
Thời hiện đại các tác giả cũng có nhiều cách viết, cách nói, cách lập ngôn nhưng chưa thấy các nhà phê bình phần loại thể. Tôi đã có nhiều lần đề nghị với tư cách cá nhân khi thấy nhiều người viết ra nhiều kiểu lạ mắt lạ tai, thấy thơ cũng không phải thơ, văn cũng không phải văn, dịch cũng không phải dịch, truyền thống cũng không phải truyền thống; người trẻ cũng có, người già cũng có; tộc người đa số cũng có, tộc người thiểu số cũng có; các kiểu viết ấy nên gọi với cái tên phân thể loại là "Vô lối". Từ "Vô lối" cũng đủ giải nghĩa các kiểu viết trên. Đại biểu cho kiểu "Vô lôi" này là Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Văn Cầm Hải, Vi Thuỳ Linh, Phú Trạm Inrasara, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Mai Quỳnh Nam, Phan Hoàng, Trần Hùng, Phạm Đương, Phan Thị Vàng Anh, Phan Huyền Thư, Tuyết Nga, Đinh Thị Như Thúy, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Vũ Thuật...
Xin dịch bài "Vô lối"
Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ
Tác giả Nguyễn Quang Thiều
"Tấm thảm Thổ thăng trầm thiên biến,
Hướng dẫn viên dẫn chuyện rõ ràng:
- Thảm này dệt sợi dọc ngang,
Một bà Thổ có tay vàng làm ra.
Người mua lại một ông già,
Da đen quốc tịch Cu Ba rạch ròi.
Ở Ha va na hẳn hoi.
Vào năm tám sáu cũng thời mới đây.
Chủ nhân nói: - Tấm thảm này,
Quà con trai tặng cho thầy u thương!
Hai mốt năm treo trên tường.
Cỏ cây muông thú lạ thường hiển linh (1)
Sớm khuya vang vọng quanh mình,
Tiếng cây, tiếng suối thập thình đâu đây.
Tiếng nai gọi bạn hao gầy,
Mùa sinh sôi giục đàn bầy đến nhanh.
Chủ nhân tám bảy xuân xanh.
Sáng xơi trà nguội đã thành thói quen.
Những con nai đực khát thèm,
Nhưng nhà đóng cửa cài then chặt rồi.
Bà già năm lượt đi ngoài,
Lưng còng chân yếu kêu lời xót đau.
Thảm không dịch chuyển đi đâu,
Hai mốt năm vẫn gắn đầu chỗ treo.
Ông năm mươi tuổi dáng nghèo,
Trở về thường đứng vai đeo túi hờ.
Ngôi nhà tối sáng mập mờ,
Tràn lên tấm thảm tiếng hô hoán đầy.
Phía sau tấm thảm ai hay?
Lưỡi dao sắc lạnh đợi ngày bén xơi.
Một cái chảo sùng sục sôi,
Hướng dẫn viên: - Bà Thổ quả thiệt thòi tấm thân.
Mù loà liệt cả tay chân.
Người mua lại kể ngọn ngành xảy ra.
Ông già da đen Cu Ba,
Khốn cùng tự vẫn thế là đi tong.
Chủ nhân bày tỏ thật lòng:
- Nhớ con trai gương mặt hồng như hoa.
Chính lúc tấm thảm mở ra,
Một người lạnh cóng như là chết khô
Đứng nhìn tấm thảm trống trơ,
Hai chân đông cứng lặng tờ máu tươi.
Hướng dẫn viên bỏ nghề rồi.
Người mua quên bẵng một thời mình mua.
Chủ nhân: Tôi bạn khiếp chưa?
Người thân chết cháy chẳng lưa thứ gì,
Gốc cây trong thảm thâm sì.
Bây giờ là năm hai nhì ai ơi!
(1) Người dệt tài tình đến mức cây cỏ, muông thú trog tấm thảm trở thành sinh linh có sức sống ngoài đời chạy nhảy.
Hà Nội, ngày 7 - 3 - 2010
Đỗ Hoàng

Hai mặt Trịnh Công Sơn

  •   14/06/2025 09:36:00
  •   Đã xem: 34
  •   Phản hồi: 0
TRỊNH CÔNG SƠN và CHIẾC MẶT NẠ CỦA KẺ TẬT NGUYỀN
https://youtu.be/vC-7W4LSj6M
Không đứng thẳng mà nghiêng ngả theo thời cuộc, trở thành nạn nhân của chính mình
Matthew Chương
7 tháng 4, 2022
1
Ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản! Đi hai hàng kết cục chẳng tốt đẹp gì!
Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ đầu tiên của Miền Nam được người Bắc tiếp xúc sớm nhất, với những bản tình ca lạ lẫm từ nhạc tới lời, khác hoàn toàn với những ca khúc cách mạng ngự trị hàng mấy thập niên, những bản tình ca ngọt ngào vẫn cứ phải thấm đẫm chủ nghĩa anh hùng cách mạng và ý chí chiến đấu, vì thế, “nhạc Trịnh” trở thành lựa chọn hàng đầu với sở thích nghe nhạc của dân Bắc cực đoan trong cả yêu và ghét khi văn hóa miền Nam giải phóng tâm hồn miền Bắc.
Trong khi đó ở miền Nam,
vốn có một nền âm nhạc nói riêng và nền văn nghệ nói chung vô cùng phóng khoáng, hiện đại, trữ tình,
vừa nối tiếp mạch tân nhạc tiền chiến với những tài hoa di cư từ Bắc vào Nam sau 1954,
vừa nở rộ tài năng từ mảnh đất châu thổ Cửu Long Giang, từ phố núi Đà Lạt…
– với những tên tuổi rực rỡ như
Phạm Duy, Anh Bằng, Trầm Tử Thiêng, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trần Thiện Thanh,
Trúc Phương, Lam Phương, Lê Uyên Phương, Vũ Thành An, Nguyễn Văn Đông, Tuấn Khanh, Duy Khánh,
Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Trường Sa… khiến cho người dân miền Nam có nhiều lựa chọn.
Và Trịnh Công Sơn được yêu, ghét qua từng giai đoạn lịch sử;
gắn liền những nhạc phẩm của ông theo từng khúc đoạn thời gian và theo cả cảm quan chính trị được cho là mơ hồ (trước 1975),
xu thời (sau 1975).
(…) Cuối đời, Trịnh Công Sơn có một nhạc phẩm mà không ca sĩ nào hát thấm hơn chính ông:
“Tiến thoái lưỡng nan”.
Đó có thể coi là bản tổng kết bằng âm nhạc cho cuộc đời của nhạc sĩ tài năng này.
Đâu phải chỉ có lúc bấy giờ,
Trịnh Công Sơn mới tiến thoái lưỡng nan.
Dường như, cả cuộc đời ông là sự lưng chừng, lỡ cỡ, hai chân đặt ở hai con thuyền, không tiến không lui, không tà không chính,
lập trường chính trị không rõ ràng, ngay cả âm nhạc cũng là sự bội phản, phủ định lẫn nhau.
2
Trong đời, ông mâu thuẫn trong các mối quan hệ bạn bè, xã hội.
Trước 1975, ông thân thiết với Đại tá Lưu Kim Cương, một sĩ quan Không quân tài hoa có tâm hồn nghệ sĩ. Cũng chính vì đam mê âm nhạc,
Lưu Kim Cương mới mời Trịnh Công Sơn- Khánh Ly vào hát ở câu lạc bộ sĩ quan Không quân, còn gọi là câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc, và Trịnh Công Sơn đã kết thân với Đại tá Lưu Kim Cương từ dạo đó.
Khi Đại tá tử trận, Trịnh Công Sơn đã có bài hát nổi tiếng
“Hát cho một người nằm xuống”
để bày tỏ nỗi tiếc thương.
Mặt khác, ông lại thân thiết với Ngô Kha, một sinh viên theo Cách mạng và sau 1975 là Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân,
những người khá có “uy thế” với văn nghệ miền Nam nói chung và xứ Huế nói riêng sau ngày thống nhất.
•Trong âm nhạc, Trịnh Công Sơn mâu thuẫn với chính ông.
Ở đề tài nhạc phản chiến,
Trịnh Công Sơn thể hiện rất rõ sự mâu thuẫn này.
Ông không theo Cộng Hòa,
dù sống trong chính thể Cộng Hòa. Ông sợ cảnh đại bác đêm đêm dội về thành phố, ông thương những kiếp người lầm than điêu linh trong bom đạn nhưng không đặt ra câu hỏi:
“Ai đêm đêm nã đại bác vào thành phố?”
Đại bác hồi đó thường dội vào những khu gia binh, bởi lính VNCH hay mang theo gia đình, có vợ và con nhỏ, dội đại bác vào đó để gây bấn loạn tinh thần của binh sĩ.
… Ông viết những ca khúc phản chiến, và tự đặt mình đứng ra ngoài, đứng lên trên, cao hơn cuộc chiến, cho dù ông đau nỗi đau của thân phận người dân trong một đất nước đầy bom đạn.
Phản chiến, nhưng không nhận thức một cách rõ ràng vì sao có chiến tranh và cần làm gì để kết thúc nó.
Nhiều người gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam.
Tôi cho rằng, so sánh như vậy là khập khiễng.
Bob Dylan không chỉ phản đối chiến tranh, ông còn viết những ca khúc đòi nhân quyền, chống kỳ thị chủng tộc, và hơn thế, tâm thế mà người Mỹ tham chiến trên chiến trường Việt Nam,
Triều Tiên khi đó hoàn toàn khác cuộc chiến trong lòng đất nước Việt Nam.

Có câu chuyện thế này.
Thầy Bửu Ý trước khi vào Sài Gòn dự đám tang Trịnh Công Sơn có hỏi anh Đ.N.P.H., một guitarist có tiếng,
dạy Học viện Âm nhạc Huế:
“Thầy vào dự đám tang, em có gửi gì không?”
thì anh Đ.N.P.H. đã trả lời,
“Âm nhạc của anh ta đã giết chết một thế hệ thanh niên mới lớn như tụi em. Những ca khúc trong tuyển tập Da Vàng đã sinh ra một thế hệ thanh niên yếu đuối và hèn nhát”.
Có thể, đó chỉ là suy nghĩ của một cá nhân, trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, nhưng không phải là không có lý.
3
Trịnh Công Sơn, cũng như hàng triệu người Việt lúc bấy giờ ước mơ,
hi vọng về một đất nước thống nhất hòa bình;
từ tâm lý đó, có thể hiểu được tại sao ông đọc lời kêu gọi Văn nghệ sĩ trên đài phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975
(có người đã viết rằng: “vào 11g30 ngày 30/4: có một nhạc sĩ thiên tài qua đời và một nhạc sĩ ba phải ra đời”).
Rồi, hơn ai hết, Trịnh Công Sơn âm thầm đau xót trong nỗi cô đơn,
thất vọng không dễ gì bày tỏ của một người luôn chọn tránh đạn bằng cách cúi mình giữa hai làn đạn,
và cả hai phía đều nhìn ông bằng con mắt hoặc thù địch, hoặc nghi ngờ. Dường như Trịnh Công Sơn chưa bao giờ chọn cho mình một tâm thế đứng thẳng, rạch ròi, mà thường nghiêng ngả theo thời cuộc, theo những nhân vật của thời cuộc và trở thành nạn nhân của chính mình.
•Có những câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng:
Tại sao một người từng viết
“Ca dao Mẹ”, “Gia tài của Mẹ”,
“Bà mẹ Ô Lý”…
lại có thể viết “Huyền thoại Mẹ”?
Hồi Tết Mậu Thân 1968,
Trịnh Công Sơn phải trốn chui trốn nhủi, suýt chết dưới tay những người tấn công thành phố Huế,
mà sau 1975, ông lại viết rất ngọt, mượt về một bà mẹ đứng dưới mưa “ngăn từng bước chân thù”.
Thù nào?
Lẽ nào lại là những người bạn từng che chở, cưu mang khi ông trốn chui trốn nhủi?
Lẽ nào ông không nhìn thấy những người mẹ, người vợ mỏi mòn chờ con chờ chồng đi cải tạo mãi mãi không về?
Lẽ nào ông không nhớ những lời mình từng viết
“Xác người nằm trôi sông, trôi trên ruộng đồng. Trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh co.
Xác người nằm bơ vơ dưới mái hiên chùa. Trong giáo đường thành phố, trên thềm nhà hoang vu…”?
Xác người từ đâu ra,
chắc Trịnh Công Sơn hiểu hơn ai hết.
Tại sao nhạc Trịnh viết về thân phận con người thấm thía như thế,
nhưng khi đồng bào miền Nam trên các vùng kinh tế mới, thiếu ăn thiếu mặc, chết đói chết rét, phải chấp nhận đánh cược tính mạng làm mồi cho cá để vượt biên…
thì ông lại không viết được một bài nào về những phận người mong manh đó?
Ông vẫn thong dong hát:
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, chọn những bông hoa và những nụ cười”.
Tệ hơn, ông còn hồn nhiên hát:
“Em ra đi nơi này vẫn thế”.
4
Sau rất nhiều hứng khởi của
“Hoa xuân ca”,
“Em ở nông trường em ra biên giới”, “Khăn quàng thắp sáng bình minh”, “Huyền thoại mẹ”, “20 mùa nắng lạ”…,
có lẽ ông bắt đầu thấm mệt với trò chơi đu bám thời cuộc.
Hoặc giả, khi đó xã hội bắt đầu có sự cởi mở hơn với những đề tài sáng tác, thì Trịnh Công Sơn bộc lộ sự chán chường không thể che đậy.
Hàng loạt ca khúc sau này chính là nỗi lòng ông.
Có lẽ, đó là những bản nhạc thật lòng nhất.
Hãy nghe “Tôi ơi đừng tuyệt vọng”. Đâu phải chỉ tuyệt vọng vì người con gái ông yêu bỏ đi lấy chồng.
Nó còn là sự an ủi chính mình khi tuyệt vọng về một con đường ước mơ, một xã hội đẹp đẽ trong trí tưởng nay đã thành tuyệt lộ.
Hãy nghe
“Mẹ bỏ con đi, đường xa vạn dặm”, đâu chỉ là người mẹ thương yêu ông hết lòng, đó còn là Mẹ Việt Nam đã bỏ đi, bỏ những đứa con lai căng và bội tình.
“Tiến thoái lưỡng nan” có thể nói là bài hát cuối cùng mà Trịnh Công Sơn trút tất cả nỗi niềm.
Một sự bơ vơ, bế tắc, biết sai lầm nhưng không thể còn thời gian để kịp sửa chữa.
Dù đi về cuối ngõ nơi quê nhà hay đi về nơi cuối trời vĩnh hằng,
thì sống hay chết, cũng không thể lựa chọn lại.
Nên mới bơ vơ, hoang mang,
không đi đâu nữa,
chỉ ngồi để tôi tìm lại tôi.
Có thể nào tìm lại?
Có tìm được không?

Chân đung 810 văn sĩ Việt đương đại - không chọn ...

  •   05/06/2025 07:16:00
  •   Đã xem: 33
  •   Phản hồi: 0
“CHÂN DUNG 810 SI VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI - KHÔNG CHON GẦN 700 NGƯƠI – HỌI VIÊN HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM (mốc 2010)
Đỗ Hoàng
1, Khuất Bình Nguyên thơ à uôn
Chạy giải thưởng như con buôn chạy tù
2, Mai Quynhf Nam thúi mắm lu
Giả cay, học giả hai cu Nhật Hoàng.
3, Thơ tình dở nhats thế gian
Là ông giáo Mai Văn Hoan dưới vè.
4, Nhìn mônị mông g hoa hậu vôi ve
Dương Kỳ Anh bị đè chết tươi !
5, Tràn Gia Thái viết dở hơi
Đãi đằng nhuc bút hót lời líu la
6, Lanh chanh Nguyễn Thị Ngọc Hà
Thơ vè đậm đặc ta bà văn chương.
7, Thôi dừng nhắc gã Trần Trương
Kẻo mà xấu hổ văn chương nước mình.
8, Nguyễn Bình Phương đứa phong tình
Vô lối ngu độn hắc tinh thi đàn
9,Buồn cho anh Vũ Từ Trang
Buôn gỗ sung sương lại quàng qua thơ
10, Đặng Huy Giang viết ất ơ
Con lai vô lối vật vờ kiếm ăn.
11, Nguyễn Thanh Kim thật nhăn răng
Bụng to, thơ lép kết bằng số không
12, Vi Thùy Linh lúc lên dồng
Ở lổ chăn lạnh thèm chông, thèm anh
(còn nữa)

Nhà thơ Vũ Hiển

  •   19/05/2025 11:32:00
  •   Đã xem: 39
  •   Phản hồi: 0
Chuyên mục: Nhà văn & Tác phẩm

VŨ HIỂN (VŨ ANH VŨ) SAY & TỈNH
Đỗ Hoàng
Tôi xin đi học khóa I trường Viết văn Nguyễn Du, nhưng mãi đến khóa III mới dứt được công việc cơ quan lều chõng ra Kinh kỳ thi đỗ và vào học khóa III, nhưng chưa tốt nghiệp. Đến khóa IV, tôi lại lều chõng ra Kinh thi lần nữa, được đỗ và học tiếp mớí thi tốt nghiệp.
Khóa này tôi gặp nhà thơ Vũ Anh Vũ tên thật là Vũ Hiển. Tôi không gọi bút danh mà thích gọi tên thật Vũ Hiển. Tôi thấy tên Vũ Hiển gây ấn tượng hơn. Vũ Hiển quê Hải Phòng, ăn sóng nói gió lại trải qua đời quân ngũ khá dài nên chất "hảo hán" trong anh rất đậm. Vũ Hiển dáng cân đối, cao vừa phải và rất cao đàm khoát luận! Tuy có thành tích trong chống Mỹ, anh có bằng chứng nhận" Dũng sĩ diệt Mỹ" nhưng khi đi học thì không có chế độ gì cả, phải tự lực cánh sinh. Nhờ bố làm thuốc Bắc nuôi ăn học. Anh bị thương sọ não nên bố anh phải chu cấp cho anh suốt đời! (Nghe nói bị thương sọ não nhưng chẳng có giấy tờ thương binh nào cả).Anh em bạn học giễu anh:" Bố 70 nuôi con 40, bố 80 nuôi con 50, bố 90 nuôi con 60...".Vũ Hiển đi học tự túc nên rất "bô nhếc". Anh nhảy tường qua Đại học Mỹ thuật và nhà hàng phố vặt là me, bầu bí về nấu canh ăn là chuyện thường. Anh thích rượu, nên việc cắm quán như cơm bữa. Ông bà Duẫn bán quán ngoài cổng trường thay nhau chân cao, chân thấp vào tận phòng ở của Vũ Hiển đòi nợ tửu! Mười lần xuống đòi nợ thì hết mười một lần về không. Bị vết thương sọ não đã hâm hấp rồi:lại mê rượu nên có khi anh"thẳng ruột ngựa"chẳng kiêng dè ai cả.
Một lần có nhà thơ đến nói chuyện rồi khoe đã in 5 tập thơ. Tất cả học viên mừng xã giao cho nhà thơ thì Vũ Hiển vỗ bụng bèm bẹp:
- Cung cấp giấy chùi đít làm gì, chỉ cần một bài thơ, một câu thơ là đủ!
Không ai bịt miệng được Vũ Hiển. May là Nhà thơ cười bỏ qua, không thì lớp bẻ mặt.
Sau khi anh hạ hỏa, không say tôi mớí trao đổi - Ai cũng muốn đời nhớ thơ mình, dù một câu hoặc một chữ cũng quý hóa lắm rồi. Khương Hữu Dụng "một tiếng chim kêu sáng cả rừng", người ta chỉ nhớ đúng có chứ "Sáng"! Nhưng muốn có một chữ, một câu đời nhớ, nhà thơ phải lao lực một đời viết ra hàng vạn bài may ra có còn lại một đôi chữ!
Vũ Hiển nghe xuôi tai im lặng.
Hôm cimine một bạn trong lớp, Vũ Hiển đứng lên phát biểu: "Bài thơ "Khóc Nguyên Hồng" này thay tên " Khóc Nguyên Ngọc" hay "Khóc Nguyễn Tuân" gì mà chả được. Thính giả cười ồ, Nguyên Ngọc ngồi dưới dự nghe mặt đỏ như gấc chín!
"Lợi danh ai chẳng hám
Riêng ta trời là vung
Ếch quen ngồi đáy giếng
Ngôn luận bàn lung tung"
(Chân dung tự họa - Giọt rơi đáy giếng)
Anh em trong trường Văn thông cảm không thể chấp! Nhưng có một lần mọi người không chịu được, cả lớp họp bàn đuổi học Vũ Hiển. Họ làm căng lắm, tôi phải đứng lên bênh vực bạn. Tôi nói: "Tôi thân anh Vũ Hiển, tôi biết anh vô cùng trung thực với bạn bè, với đất nước! Không nên đuổi một người mười năm ở chiến trường đánh giặc, có danh hiệu "dũng sĩ diệt Mỹ", bị thương sọ não ra khỏi trường Đại học Viết Văn Nguyễn Du! Mọi người im lặng, sau đó cũng êm chuyện! Vũ Hiển một lần hú hồn!
Khi tỉnh, anh hào hiệp như dân Nam bộ, hay mời bạn bè nhậu. Tôi và anh là đôi bạn nhậu rất "ăn rơ".
"Ta mới nhấp một chén
Người đã ba chén tàng
Nốc vào say ngất ngưởng
Tiên còn kém cô hàng.

Ta với người vui đó
Ơi! Người thơ dềnh dàng
Hết tiền ra cắm quán
Cạn ly, đừng từ nan."...
((Rượu cùng bạn - Giọt rơi đáy giếng)

Nhậu có gì đâu, vài bìa đậu, khô mực (loại cá biển rẻ tiền rất tanh), cút rượu ba xu, chuột uống phải, chuột "chết". Rượu vào thì lời ra, ai cũng nhất quả đất.Vũ Hiển nhất quả đất, Đỗ Hoàng nhất quả đất. Trên đời chỉ có một thằng nhất. Nên phải so găng! Tôi chẳng dũng sĩ, dũng siếc gì hết, dân trinh sát đặc công có cách hạ đối thủ "gia truyền", lấy " đoàn binh chế trường trận". Lúc ấy tôi mặc bộ pirama, áo rộng dễ múa,quần rộng dễ đá, tôi chơi chiêu "quyền cước liên hoàn" đá Vũ Hiển đang ngồi xếp bằng trên bàn phòng học văng ra ngoài cứa sổ!
Cư dân trong trường Văn mè nheo:" Trường Viết Văn Nguyễn Du học
võ chứ đâu phải học Văn" (!).
Từ đó ngôi thứ đã định đoạt, Vũ Hiển chuyên tâm học văn, không võ vai gì nữa!
Ở Hà Nội Vũ Hiển có nhiều bà con và người quen, tôi dân biên trấn ra học chẳng ai bà con, quen thân. Tuy tôi là cán bộ đi học có lương cao nhưng những lúc hết gạo, hết tiền cũng chớí với lại bám cậy nhờ "Gã Khờ" Vũ Hiển. Vũ Hiển dẫn đi ăn chực (ăn ké) khắp Hà Nội. Khi thì ăn ớ bà chị họ đường Trần Quý Cáp gần ga Hà Nội, khi thì bãi Phúc Xá, Phúc Tân...
Bà chị họ của Vũ Hiển buôn bán vặt ở ga Hà Nội, có nhà trong khu tập thể đường Sắt tiếp hai học viên Văn rất tận tình chu đáo.Bữa ăn có đủ món ăn nổi tiếng Hải Phòng: bùn cá cay, bún đa nem nâu, nem rán, thịt lợn luộc, rượu, bia...Món nào bọn tôi cũng thích.
Bà chị Vũ Hiển tâm tình:
-Họ em làm kỹ sư, bác sĩ đã có, bộ đội úy, tá đã có; bên chính trị nhiều người làm cán bộ cấp thành phố, nhưng chưa có ai nhà thơ. Cậu Hiển đi học Nhà thơ cả họ mừng. Nhiều người nói đi học nghề ăn mày, song tôi bảo chú tôi, cho cậu Hiển đi học,lên Hà Nội cháu nuôi ăn học!
Tôi vô cùng cảm kích lời tâm tình của bà chị họ Vũ Hiển.
Tôi nhớ buồn thương nhất lần Vũ Hiển dẫn tôi đi xin tiền một người thân ở phố Lò Đúc. Tôi nghĩ người này chắc lại đại gia "Tàu Viễn dương", "Địa ốc" hoặc "Chủ Sáu Kho" nổi tiếng của Hải Phòng...Ai ngờ leo lên đến tầng 5 vào phòng trọ của một sinh viên Nhạc viện Hà Nội. Anh sinh viên cao mà rất gầy, da trắng nhợt gần như bạch tạng suốt ngày ngồi bên cái máy đan len kiếm thêm tiền để học.. Thấy tôi và Vũ Hiển vào nhà, anh rời máy đứng lên pha nước tiếp khách, rồi ba anh em đàm đạo văn chương, âm nhạc. Anh hiểu âm nhạc đã đành, anh còn hiểu sâu văn chương. Anh thích văn chương bình dị, không kiểu cách. Anh rất yêu thơ Vũ Hiển. Anh thuộc nhiều bài và đọc cho chúng tôi nghe bài 'Thơ và em"
Thơ hay là đau khổ
Mà cuộc đời ngả nghiêng
Em hay là bão tố
Mà biển trời đảo điên

Mà thơ là đau khổ
Nên càng yêu cuộc đời
Và em là chân trời
Nên càng say bão tố

Hay đừng làm thơ nữa?
Để trong ta bình yên
Hay đừng yêu em nữa?
Cho biển trời dịu êm.

Thơ ơi! Dù đau khổ
Càng si mê không rời
Em ơi! Dù bão tố
Càng đắm say chân trời.

Thật là tri âm, trị kỷ!
Sau đó anh đưa tiền cho Vũ Hiển về tiêu pha. Tiễn hai anh em ra cửa, anh nhỏ lời: "Tôi khi chưa mua được máy đan len cũng vất lắm. Có nó tôi đỡ bấn, có thể bám học tốt nghiệp Nhạc viện. Anh Hiển và anh đừng ngại, khi nào túng thiếu đến tôi, tôi có thể giúp chút ít!
Vũ Hiển lúng túng cám ơn rối rít. Tôi ái ngai và xấu hổ quá. Hai thằng thân dài, vai rộng sức như trâu có thể quật voi chết mà đi xin tiền một sinh viên gầy yếu, xanh nhớt đan len kiếm sống nhiều hơn học nhạc!
Tôi bảo Vũ Hiển:
- Tưởng ông xin tiền đại gia, ai lại bóp nặn cánh sinh viên nghèo khổ như mình!
- Quân tử cố cùng bất câu liêm sỉ - Tao không còn chỗ nào xin nữa mày ạ! - Vũ Hiển chắc chẳng sướng sung gì nói.
Vũ Hiển thường bị chê hâm hâm, dở dở, "viêm túi mãn tính" (không có tiền) , chính anh cúng tự nhận "Hâm hấp rồi dở dở/ Dại dại, lại điên điên (Chân dung tự họa - Giọt rơi đáy giếng), nhưng khóa IV viết văn , Nguyễn Du, Vũ Hiển có nhiêu ấn tượng tốt để lại. Vũ Hiển được in thơ dự thi báo Văn nghệ năm 1989-1990 hai bài. Bài Tương Lê Chân và một bài thơ tình. Tôi đến thăm anh Bế Kiến Quốc, tổ trưởng tổ thơ báoVăn nghệ, nhà ở căn hộ khu Trung Tự ,nghe anh báo tin tuần tới báo ra có thơ Dự thi của Vũ Hiển. Anh khen thơ Hiển hay .Tôi về trường báo tin cho Hiển. Vũ Hiển sung sướng đến mức nhảy múa hát mấy vòng ở sân trường. Sau đó kéo tôi ra cắm quán Bà Duẩn hơn lít rượu " xếc" đắng như thuốc sâu:
"Ta mớí nhấp một chén
Người đã ba chén tàng
Mặt người vừa đo đỏ
Da ta chớm vàng vàng
...
Say rồi lăn ra ngủ
Hai đầu hai quả dừa
Ta biết đời quá ngắn
Dẫu chết, rượu không chừa..."
(Rượu cùng bạn - Giọt rơi đáy giếng)
Đến việc Vũ Hiển yêu người đẹp Thúy M, đứng thứ 6 vùng chung kết thi hoa hậu năm 1989 - 1990. Thúy M học năm cuối khoa Văn hóa quần chúng, Đại học Văn hóa Hà Nội. Tôi và Vũ Hiển có nhiều lần đến ký túc xá của Thúy M chơi. Yêu được hay không được, không quan trọng, nhưng Vũ Hiển có nhiều thơ tình hay về người đẹp là quý rồi.
"...Một mình giữa bến cô liêu
Lục tìm thương nhớ những điều vu vơ
Bên tai vẳng một vần thơ
Còn mong ai nữa đứng chờ ngoài hiên
Mắt buồn dõi ánh sao đêm
Một mình tâm sự sương mềm bờ vai

Bần thần đếm khắc canh dài
Bóng mình, cứ ngỡ bóng ai đợi mình!
(Cô đơn - Giọt rơi đáy giếng)

Ấn tượng nhất là ngày thi trắc nghiệm tốt nghiệp, học viên trả lời trực tiếp các câu hỏi do giáo sư, nhà văn hỏi. Vũ Hiển đối đáp rất lưu loát rồi đọc ngay thơ mình minh họa. Các giám khảo phải phì cười cho điểm cao:
"...Trẻ chi mà già chi
Rượu say rồi nói khoác
Tiền là Bạc lắm khi
Nợ đời không cần nhắc

Thàng ngày lam lũ đấy
Rảnh rỗi nhắp vài chung
Dở hay lời phải trái
Ngôn luận bàn lung tung

Lợi danh ai chẳng hám
Riêng ta trời là vung
Ếch quen ngồi đáy giếng
Vùng vẫy lắm coi chừng

Văn cũng không bằng vẽ
Tài cũng chẳng bằng tiền
Hâm hấp rồi dở dở
Dại dại , lại điên điên

Câu thần chen câu vụng
Thơ thẫn lẫn dại khờ
Áo cơm đời rẻ rúng
Tình riêng vẫn ơ hờ

Cần tìm mau con vợ
Sửa túi cùng nâng khăn
Cho dù là cái nợ
Mặc xác, ta cóc cần.
(Chân dung tự họa - Giọt rơi đáy giếng)
Từ đó đến nay anh cứ "tình riêng vẫn ơ hờ"
"Em ơi! Chiều rồi
Đêm đã`về, nắng sót
Em ơi! Muộn rồi
Cánh hoa sầu không nhặt

Đêm qua trong mơ
Thấy em về nhắc nhở
Em ơi! Chiều rồi
Ngủ
Tìm vĩnh cửu hư vô
Chẳng bao giờ đi tới
Chiều rồi!
Muộn rồi
(Chiều rồi - Giọt rơi đáygiếng)

*
Tốt nghiệp ra trường, anh em trong lớp đều có việc làm, riêng Vũ Hiển thì vẫn ông 90 nuôi ông 70. Mỗi lần công tác xuống Hải Phòng tôi đếu ghé thăm nhà Vũ Hiển. Bố Vũ Hiển bốc thuốc Bắc. Nhà cửa ở phố đàng hoàng. Bố Vũ Hiển đã cao tuổi. Lúc đó ngoại bát tuần. Nhưng trông cụ quắc thước, cao ráo, có chữ nghĩa. Hai cô con gái, một chị, một em gì đó của Vũ Hiển đang dạy cấp 3 gần nhà.
Đi làm có tiền, tôi mời bia Vũ Hiển. Hai đứa từng đã uồng khuynh thiên, đảo địa nên cuối tuần rỗi rải tha hồ lai rai!
- Drink beer, or drink alcohol?- (Uống bia chứ?, hay uống rươu?,)
- Drink beer (Uống bia!).
Uống mỗi đứa đã 6 vại, tôi hỏi vũ Hiển:
- Uống nữa không?
- "Thất tràm sớ chứ" ( Nghĩa là phải 7 vại)
- Ok! (Tốt thôi)
Nhưng phải đến ten, eleven, twelve, thirteen...(mười, mười một, mười hai, mười ba...) mới rời quán.
Sau khi tỉnh, một việc"quan trọng" khi về Hải Phòng là ra Đồ Sơn tìm người đẹp. Một địa nổi được nới lỏng cho du khách xả hơi.
Vũ Hiển nói: - Tớ có chỗ quen, khỏi phải ngủ độn (phải đeo capot).
Hồi trẻ khoản này, tôi năm bờ oăn (I am number one), số một - 180 phút không kể thời gian chép đề.
Tôi xong việc,Vũ Hiển chờ bạc tóc. Vừa bước ra cửa, Vũ Hiển hô to:
- Xây dựng Xã hội Chủ nghĩa ba mươi năm mà để thằng Huế ra khai hóa văn minh! Đúng là năm bờ oăn (số 1)
- Number one! Số 1!

*
Tôi viết chân 810 vị Văn sĩ Việt. Hải Phòng chọn nhiều nhiều người trong đó có nhà thơ Vũ Anh Vũ (Vũ Hiển). Trên mặt bằng văn chương được đăng tải, Vũ Anh Vũ không bằng một số người khác. Tên anh rất ít xuất hiện trên báo chí chính thống. Không chỉ anh, nhiều nhà thơ khác cũng chịu cảnh rủi ro trong cơn kinh tế thị trường. May cho anh, tôi người làm sách tôi biết anh, bạn học của anh, tôi đọc thơ anh nhiều nên tôi quyết định chọn anh. Nhiều vị thời thượng được công luận công kênh nhưng tôi cho là thùng sắt tây rỗng, tôi không chọn. Tôi làm cuốn sách này tránh được hai điều, nếu nhà nước làm thì họ đưa cán bộ tuyên huấn, cán bộ chính trị chay vào đứng trong danh sách nhà văn; nêu tư nhân làm vì không có tiền nên các đại gia, doanh nghiệp gia đứng trong hàng các nhà văn (!).
Không hiểu sao Vũ Anh Vũ biết tôi làm sách kẹt tiền, Vũ gửi lên Hà Nội hai lần độ trên 5 triệu đồng. Tôi vô cùng càm kích tấm lòng tốt của bạn, không biết bạn đào đâu ra tiền?
"Vũ Hiển ngơ ngơ ngẩn ngẩn
Hâm hâm dở dở, tàng tàng
Chén rượu trắng tay xin bạn..."


*
Chắt lọc một đời thơ, anh xuất bán tập thơ "Giọt rơi đáy giếng" - Nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2017. Tập thơ có nhiều bài hay: Tượng Lê Chân, Thu phải sang, Chân dung tự họa, Nhìn, Tìm xuân, Uống rượu một mình, Thơ và em, Chiều rồi, Rượu cùng bạn...Điều đó thật đáng mừng cho Nhà thơ Vũ Anh Vũ (Vũ Hiển). Đời không phụ lòng tốt của anh. Anh không bị lãng quên:
"Vũ Hiển không thể nào quên
Lê Chân nữ tướng dựng nên Hải thành"
Hà Nội 2020
Đ - H

Thư Phan Nhật Nam gửi...

  •   29/04/2025 09:25:00
  •   Đã xem: 64
  •   Phản hồi: 0
Đỗ Hoàng
Phóng tác thư Hữu Thính gửi Phan Nhật Nam và thư từ chối Phân Nhật Nam gửi Hữu Thỉnh
PHONG TÁC THƯ ĐIỆN TÍN HỮU THỈNH MỜI PHAN NHẬT NAM VỀ DỰ HÒA HỢP DÂN TỘC
Xin gửi tiên sinh điện tính này.
Nước nhà tổ chức nối vòng tay.
Anh Kha gặp bác bia nghiêng ngả,
Mỗ Thỉnh thấy hình tửu ngất ngây!
Đỏ lửa mùa hè tôi đọc biết, (*)
Trường ca tới biển bác xem hay! (**)
Hận thù quá khứ ta găm lại
Đại diện Đáng, Đoàn hân hạnh thay!
Hà Nội ngày 20 – 9 – 2017
Đ - H
(*) Mùa hè đỏ lửa ký Phan Nhật Nam
(**) Trường ca Biển thơ Hữu Thỉnh
Đỗ Hoàng
PHÓNG TÁC THƯ TỪ CHỐI CỦA PHAN NHẬT NAM
Trước hết là tôi từ chối bay!
Gửi về quốc nội để ông hay.
Một trăm năm cộng dân tan tác,
Hai thế kỷ ma đảng đọa đày!
Mồ mả quê nhà tàn tán tác,
Thân già hải ngoại còm còm cay!
Bao giờ cộng sản không còn nữa
Khỏi khiến chúng tôi sẽ đến ngay!
Hà Nội 20 – 9 – 2017
Đ - H
Đỗ Hoàng
BÀY CHỌI GÀ MẠT KẾ MOI TIỀN CHÙA
Chúng trói gà nhà khóa cẳng tay
Mời gà rừng tới đá lăn quay!
Phổng phao mái bự xiên bơ rán,
Núc níc trống cồ xé thịt phay!
Huyết đổ nghìn đời, sông suối nghẽn,
Xương phơi vạn thuở, núi đồi lay!
Chọi gà trò cũ moi hào mới
Cách kiếm tiền chùa mạt kiếp thay!
Hà Nội 30 – 9 – 2017
Đ - H

Nguyễn Xuân Phúc vịnh

  •   20/03/2025 19:23:00
  •   Đã xem: 81
  •   Phản hồi: 0
ách diện vịnh
Nguyễn Xuân Phúc vịnh
Vừa mới lên chức đã tác oai.
Xe về phố cổ nát môn khoai!
Tò te kèn thổi kinh miền đước,
Chí chọe kẻng kêu khiếp miệt xoài!
Công nợ quốc gia còn ngắc nhé,
Tội tình trời biển chửa nguôi ngoai!
Vênh vang chi để người ta chưởi
Tiền thuế dân thu chảy máu hoài!
Hà Nội 2015
Đỗ Hoàng

Nguyễn Xuân Phúc vịnh

  •   20/03/2025 19:23:00
  •   Đã xem: 110
  •   Phản hồi: 0
ách diện vịnh
Nguyễn Xuân Phúc vịnh
Vừa mới lên chức đã tác oai.
Xe về phố cổ nát môn khoai!
Tò te kèn thổi kinh miền đước,
Chí chọe kẻng kêu khiếp miệt xoài!
Công nợ quốc gia còn ngắc nhé,
Tội tình trời biển chửa nguôi ngoai!
Vênh vang chi để người ta chưởi
Tiền thuế dân thu chảy máu hoài!
Hà Nội 2015
Đỗ Hoàng

Nhà thơ Trần Hậu...

  •   20/03/2025 19:18:00
  •   Đã xem: 100
  •   Phản hồi: 0
Nhà thơ Trần Hậu (20 năm trước):
“Nếu tập thơ Tâm sự người lính được dịch sang tiếng Anh, được chuyển đến các thành viên giám khảo giải Nobel, chắc chắn đoạt giải. Chỉ chừng ấy thôi đã vinh dự tuyệt trần!”
Đỗ Hoàng
MỘNG KHÔNG THÀNH
Đề từ:
mình biết cái mộng khởi nghĩa kia của mình sẽ khômg thánh
mình biết được khi mình chưa hô hào cầm gươm súng
mình biết được khi mình chưa báo động
để lật đổ thế giới này đổi lại những dòng sông!
quy luật con người sớm làm cho mình nản lòng
mình chán ngán không muốn làm gì cả
bởi thực chất mình có thành công khi khởi nghĩa
liệu con người có sung sướng hơn không?
Ta nằm nghĩ mãi không ra lối
Buồn chán đời nay đến vạn đời
Cái khổ, cái giàu ghen ghét mãi
Triệu năm chưa một phút nào ngơi!
Ta nghĩ nếu ta giành chính quyền
Thì ta cũng phải có ưu tiên
Cũng ra đạo luật phòng ai phản
Cũng sống nhàn mọi kiếp phiền
Rồi bao toà án với nhà lao
Ai chống thì ta nhét chặt vào
Đến mọt gông cùm ta mới thả
Nghìn đời ai phản được ta đâu!
Nghĩ chị không chán cho trần tục
Cả phút người ta muốn vươn minh
Cũng phải ra tay làm điều ác
Cũng phải sống thành kẻ cuồng điên!
Cho nên mộng tưởng ta tan vỡ
Chỉ nghĩ mà chưa kịp khởi hành
Con người ghê lăm trên trần thế
Cứ tự chôn mình tuổi đang xanh!
Tiểu đoàn 3
Ngày 6/11/1973
Đ - H
Ảnh cuối:
Nhà thơ Trần Hậu châm thuốc (phải) cho Đỗ Hoàn

Phan Hoàng nên theo đít trâu suốt đời

  •   26/02/2025 10:20:00
  •   Đã xem: 94
  •   Phản hồi: 0
TÊN PHU YÊN - DỐT NÁT - THI TẶC - BÂ XẠO - SÁO SẾN...
PHAN HOÀNG PHẢI THEO ĐÍT TRÂU SUỐT ĐỜI
Đỗ Hoàng
Ltg: Gần thế kỷ qua, bọn thơ Vô lối hoành hành tác oai, tác quái trên cõi Việt. Chúng là loại thi tặc – giặc thơ – phá hoại thi ca tổ tiên. Từ thằng thủy tổ Thanh Tâm Tuyền , phó thủy tổ Lê Văn Ngăn, đến Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Hoàng, Trần Hùng, In ra sa ra, Mai Quỳnh Nam, Mã Giang Lân, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Vũ Thuật, Mai Văn Phấn, Mai Quỳnh Nam, Tuyết Nga, Nguyễn Phan Quế Mai, Văn Cầm Hải, Trúc Thông, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Phan Thị Vàng Anh, Từ Quốc Hoài, Đinh Thị Như Thúy, Đỗ Doãn Phương, Thi Hoàng, Hoàng Hưng… đến đám hậu sinh, đám chíp hôi … tác phẩm của chúng cả nội dung và hình thức không đem đến điều gì mới mẻ cho văn chương mà lại phá hoại văn chương Việt! Phan Hoàng là một tên như thế: giả dối, sáo, sến, viết về mẹ mà cũng đóng kịch, nhạt nhẽo, gượng gạo…đầy chất Tàu ô!
Nguyên bản:
Phan Hoàng
TIẾNG THỞ MẸ NHỌC NHẰN
(Văn nghệ số28 /9/7/2022)
Thẫn thờ đêm tiếng thở mẹ nhọc nhằn
tiếng cánh cò rã rời trăm năm âm thầm mưa nắng
tiếng kết tủa buồn vui đời sông chạm biển về nguồn
Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh
gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức
như con bò đi hoang trở về hít thở mùi chuồng quen thuộc
cúi đầu tạ lỗi nghĩa trọng tình thâm
đêm đêm canh giữ tiếng thở mẹ nhọc nhằn
lòng nặng trĩu ngọn núi tuyết đông suy tư nhức nhói
Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca
đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất
gió rón rén ép mình hơi ấm se thắt sinh thành
nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm
rơi theo tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo
Ước gì ngọn gió ta như mầm non mới cựa mình trong lòng đất
và cơ thể mẹ là ngôi vườn thanh xuân ấm áp tiếng hoang sơ.
BÌNH GIẢNG:
Tôi đã nhiều lần nói: - Đọc đám thơ Vô lối – thi tặc – giặc thơ như đi hội nghị sang trọng mà dẫm phải cứt người! Khó chịu, tởm lợm! Thật ra không nên đọc nhưng vì văn chương, vì thơ nước nhà phải đọc, phải bình bởi bọn thi tặc cầm chịch văn nghệ mậu dịch tác oai, tác quái trên thi đàn nên tôi lại động bút.
Bọn thi tặc chuyên làm “vô lối – ( thơ không vần). Bọn chúng không biết là thơ không vần nhân loại và cha ông ta làm từ thuở khai thiên lập địa. Ngay khi ngồi trên ghế nhà trường các thầy đã nói làm thơ không vần như đi xiếc trên dây, rất dễ thất bại. Trí tuệ lớn, trái tim lớn mới có bài đứng lại, còn bọn “chấu cẩu” (chó) làm sao thành công!
Phan Hoàng là tay trong đám Vô lối – thi tặc – giặc thơ ấy viết loăng quăng, uốn éo, làm bộ, làm tịch, dùng đầy Hán tự… thế mà chúng lăng xê hết lượt này đến lượt khác trên các báo mậu dịch chính thống. Tay này có đi bệnh viện lắp phải trái tim chó hay không sao mà viết như robot?
…“Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh
gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức
như con bò đi hoang trở về hít thở mùi chuồng quen thuộc
cúi đầu tạ lỗi nghĩa trọng tình thâm
đêm đêm canh giữ tiếng thở mẹ nhọc nhằn
lòng nặng trĩu ngọn núi tuyết đông suy tư nhức nhói”…
Đọc khổ này thấy lợm mửa của một thằng kịch hề giả dối!
…“Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh…”
Câu cũ như trái đất, vô bổ, không có chút tình nào,giả vòe, giả vịt…
Câu tiếp lại còn cũ hơn, lại làm bộ làm tịch hơn:
“gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức”
Câu cú nặng nề, lặp đi lặp lại!
Khổ tiếp cũng viết ỏn ẻn, sáo rồng:
…”Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca
đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất
gió rón rén ép mình hơi ấm se thắt sinh thành
nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm
rơi theo tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo…”
Toàn giọng điệu giả dối, không trái tim người!
Đây là bài vô lối làm xiếc chữ về Mẹ, chứ có tình mẫu tử gì đâu!
Thơ viết mề mẹ in chật trái đất, toàn bài hay, chứ có như bài này của Phan Hoàng.
Nông phu thì có:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn”
Hay:
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng mem cơm tấm lưỡi lừa cá xương
Người có chữ:
Du tử ngâm -遊子吟 - Mạnh Giao - 孟郊
遊子吟
慈母手中線, 遊子身上衣;
臨行密密縫, 意恐遲遲歸。
誰言寸草心, 報得三春輝?
Du tử ngâm
Từ mẫu thủ trung tuyến
Du tử thân thượng y
Lâm hành mật mật phùng
Ý khủng trì trì quy
Thùy ngôn thốn thảo tâm
Báo đắc tam xuân huy.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa
Sợi chỉ trong tay mẹ hiền,
Nay đang ở trên áo người đi xa.
Lúc mới lên đường, mẹ khâu kỹ càng,
Có ý sợ con chậm trễ trở về.
Ai dám nói rằng tấm lòng của một tấc cỏ,
Lại có thể báo đáp được ánh nắng của ba xuân?
Đỗ Hoàng dịch thơ:
KHÚC NGÂM CỦA CON ĐI XA
Mẹ hiền khâu sợi chỉ
Trên áo con đi xa
Lên đường mẹ khâu kỹ
Sợ con chậm về nhà
Ai dám một tấc cỏ
Báo đáp ba xuân qua!
Phan Hoàng cũng như bọn giặc thơ đềuTàu hóa, dùng tràn lan âm Hán Việt chưa được Việt hóa! Nhiều bài trước Phan Hoàng đã dùng hàng chục âm Hán Việt, bài này dùng trên 30 chữ (36 chữ). Một thứ Tàu ô!
1, kết tủa -結瑣
2,bôn ba - 奔波
3,phiêu bạt -漂犮
4,hư danh - 虛名
5,độc thoại-獨話
6,ký ức, ký ức记忆
7, thân thuộc 親屬
8,tạ lỗi 謝誄
9, nghĩa trọng 義重
10, tình thâm 情深
11, côn trùng 昆蟲
12, mê mãi 迷買
13,sinh thành 生成
14, dự báo 預報
15,thế gian 世間
16, thanh xuân 青春
17, hoang sơ 荒初
18, đông 冬
19, xuân 春
Bài phê bình trước,tôi đã nói Phan Hoàng nên rèo bò (theo đít trâu) Bài này nhắc lại – chữ nghĩa kiều Phan Hoàng và bọn “thi tặc – giặc thơ” nên cho theo đít trâu suốt đời. Chúng không được bén mảng đến Văn chương !

Tên PHan Hoàng - Phú Yên - Thi tặc

  •   26/02/2025 10:17:00
  •   Đã xem: 99
  •   Phản hồi: 0
ĐỌC THƠ “LÒ MỔ” CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU
PHẦN III: TIẾP BƯỚC NGUYÊN NGỌC
Hôm nay tôi sẽ “viết nốt” về “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều.
Trong Chương 9, khi Nàng, thấy cuộc sống hiện tại như “sự giam cầm. Sao chúng ta không ra đi?”, “Chúng ta không thể yêu nhau giữa những con ruồi”, “Bầy ruồi đang bu kín chúng ta”, “Bầy ruồi sẽ ăn thịt em”, “Bầy ruồi khao khát đẻ trứng vào giấc mơ của em, chúng muốn em mang thai cho chúng”, v.v… thì Chàng nói về “Một bến bờ xa xôi. Một ngôi nhà xa xôi”, “Em có nhìn thấy những cánh đồng giàn giụa xanh liền với chân trời”, “Tiếng gió vọng vang. Ngập tràn những ô cửa nắng”, v.v…
Vậy “Một bến bờ xa xôi. Một ngôi nhà xa xôi” ở đâu?
Tôi cũng không biết đó là ở đâu. Nhưng tôi biết với văn chương, Thiều đã làm gì, đã có những quan điểm “đổi mới” để mơ tưởng cái gì? Hôm nay tôi sẽ nhắc lại vài chuyện có liên quan.
***
Nhà thơ Nguyễn Chí Hiếu, nguyên TBT Báo Văn nghệ TpHCM, từng nhắn tin cho tôi:
“Đông La vào FB cậu Thiều đọc bài " Cho cuộc gặp gỡ văn chương năm 2025 tại Mỹ" đi. Mình thấy xu hướng của cậu Thiều ngày càng lệch lạc. Chẳng lẽ nền văn chương Viêt Nam không "lương tri", không "can đảm" sao & Y muốn mời mấy tên "nhà văn chống cộng" chuồn qua Mỹ từ 1975 tham dự để làm gì? Đông La nên viết bài vạch trần bộ mặt của tên Thiều này để anh chị em hội Nhà văn biết. Mình tiếc mình đã già, không còn làm gì được. Buồn quá !”
Hướng về Mỹ và Phương Tây là con đường mà Đảng viên, Bí thư Đảng Đoàn Hội Nhà Văn VN Nguyễn Quang Thiều hướng tới. Đó cũng chính là con đường mà Nguyên Ngọc đã vạch ra.
Nguyên Ngọc là người đã phất cờ "lộn ngược văn chương" nhằm “rửa mặt” cho Pháp và Mỹ từng gây ra và duy trì chiến tranh tại VN. Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, v.v… đã đi theo con đường này và đã được “ăn tiền”. Nguyên Ngọc không ngờ rằng người kế tục nhiệt thành và hiệu quả nhất con đường của mình lại chính là Nguyễn Quang Thiều, trong đó có chuyện vọng ngoại, phản lại lịch sử và nền văn học cách mạng.
***
Nhớ lại lần tôi dự Hội nghị Lý luận Phê bình của Hội Nhà Văn VN ở Tam Đảo, ngày 7 -7-2016, tôi gặp Nhà văn Nguyễn Bảo, đại tá, nguyên là Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Anh nói rất thích đọc tôi viết và khoe anh có viết một bài liên quan đến hai ông Nguyên Ngọc và Nguyễn Chí Trung. Anh kể hồi chiến tranh Nguyễn Chí Trung và Nguyên Ngọc ở cùng Ban văn học Cục chính trị Quân khu V. Một lần anh Nguyễn Bảo và Nguyên Ngọc vào viện 108 thăm Nhà Văn, nguyên là Trợ lý TBT Lê Khả Phiêu, Tướng Nguyễn Chí Trung nằm viện, Nguyên Ngọc nói: “Này những điều bọn mình nói (Chủ nghĩa Mác Lê Nin) với các cậu trước đây hãy quên đi nhé!”. Nguyễn Chí Trung giật áo anh Nguyễn Bảo: “Những điều bọn anh nói trước đây cơ bản đúng cả đấy”.
Hai người khác nhau từ đấy. Nguyên Ngọc phản trắc, trở cờ, còn Nguyễn Chí Trung có lần nói: “Có người bảo chậm nhất là 10 năm nữa, Chủ nghĩa xã hội sẽ không còn ở Việt Nam. Sợ tôi không sống được đến 10 năm nữa, nhưng nếu tôi chết mà lời nói kia là sự thật, xin các người cứ đái vào mộ tôi”.
***
Hồi 1979, khi Nguyên Ngọc được giao làm Bí thư Đảng Đoàn Hội Nhà Văn VN từng có tham vọng phất cờ đổi mới văn chương, từng tuyên ngôn “Cái cốt lõi của văn nghệ là tính nhân đạo”, nhưng thực tế lại ca ngợi văn chương của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều chi tiết bất hảo, bất nhân, trái luân thường đạo lý, xuyên tạc sự thật, phản lịch sử dân tộc. Nguyên Ngọc cũng từng đấu tranh để cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh được giải thưởng, một cuốn sách xuyên tạc sự thật về đội quân cách mạng và cuộc kháng chiến. Nguyên Ngọc cũng ca ngợi Dương Thu Hương, con mụ ba xạo kể trong ngày giải phóng 30-4-1975 ngồi trên vỉa hè Sài Gòn khóc như cha chết vì thấy phe chiến thắng của mình là đội quân man rợ. Với cuốn “Bên thắng cuộc” của thằng Huy Đức San “hô”, cả hai phía “bên thắng” và “bên thua” đều thấy Huy Đức xuyên tạc sự thật thì Nguyên Ngọc lại cho là “rất trung thực”. Cô Nhã Thuyên đã làm một cái luận văn thạc sĩ ca ngợi thơ của nhóm “Mở miệng” chuyên làm thơ mất dạy, bố láo, kích động lật đổ thể chế. Khi cái luận văn đã bị thu hồi, Nguyên Ngọc lại cho sự phê phán và thu hồi là “vụ đả kích luận văn Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên) đã đưa chúng ta «về thời kỳ đồ đá, nhất là trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa»”.
***
Thời Nguyên Ngọc nắm quyền, Thiều không lọt được vào “mắt xanh” Nguyên Ngọc như Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh, nhưng rồi Nguyên Ngọc không thể ngờ rằng người tiếp bước mình lại chính là Thiều, và còn cao tay hơn, khi Nguyên Ngọc bị thất sủng, thành kẻ bên lề, bất mãn, quấy phá thì Thiều lại trở thành Chủ tịch Hội Nhà Văn VN, tiếp bước Nguyên Ngọc một cách bài bản, đàng hoàng. Và với tài véo von, Thiều còn biến những chuyện sai trái độc hại trở thành “nên thơ”. Như ông Lê Cao Tâm tố cáo Thu Uyên trên truyền hình “Lợi dụng nhân đạo móc túi bá tánh” thì Thiều nói ý là cần phải giúp Thu Uyên “cứu lấy lòng nhân ái”; hai tài năng độc hại, nhân cách hôi thối là Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh thì Thiều cho Thiệp là “Nhà văn tìm đạo cho dân”, cho “Nỗi buồn chiến tranh” là “chạm vào mẫu số chung nhân loại”; v.v…
***
Đời luôn có những kẻ xu nịnh bất chấp đúng sai tốt xấu. Thiều là Chủ tịch Hội Nhà Văn VN tất những kẻ như thế phải nịnh. Một bạn đọc vào thảo luận bài tôi viết cho biết thằng Phạm Lưu Vũ đã ca ngợi “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều. Một thằng ngu xuẩn, lưu manh tất phải vậy, bởi nó từng tuỳ tiện tâng bốc thơ Thiều thế này: “Bài thơ tả bầy chó của Thiều hay đến kinh người. Mỗi lần sủa là một lần lóe chớp, không lần nào giống với lần nào. Sủa lần đầu là kiếp súc sinh, sủa lần sau là kiếp con người, sủa lần tiếp theo là hiền nhân quân tử, sủa tiếp nữa là triết gia, thi sĩ… cứ thế sủa cho tới bậc… thánh nhân”. Viết vậy, Phạm Lưu Vũ đúng là mất dạy hết nấc, ngu xuẩn hết nấc, trái Đạo hết nấc, bởi theo Đạo Phật, chúng sinh phải tu tập tỷ tỷ kiếp, loại hết nghiệp tham, sân, si, mới có thể đạt được quả vị thánh, chứ không phải chỉ sủa như chó tranh ăn điên cuồng là sẽ thành thánh! Đáp lại sự tâng bốc của Phạm Lưu Vũ, theo Nhà Văn Trúc Phương cho biết, Nguyễn Quang Thiều đã cướp quyền duyệt bài của TBT Báo Văn nghệ, đã cho in sớm truyện “Ba viên xá lợi” cực kỳ phản động của Phạm Lưu Vũ.
Tôi không nhớ ở đâu, Thiều từng tự cho mắt mình như “mắt trâu”, cô em thân thiết của Thiều là Dạ Thảo Phương thì tả mắt “ông anh” như “hai cái chén tống”, vậy mà cô Lương Lan Hương lại cho tôi biết thằng Nguyên Hùng ca ngợi Thiều như “người mẫu” (xem ảnh).
Thật hết sức kinh tởm bọn xu nịnh này.
26-2-2025
ĐÔNG LA / Nguyễn Văn Hùng— với Paul Nguyễn Hoàng Đức và Phạm Lưu Vũ.

Văn Chinh bôc thơm Nguyễn Quang Thiều

  •   09/02/2025 09:28:00
  •   Đã xem: 97
  •   Phản hồi: 0
Văn Chinh là một gã làm tiền trong Văn chương

Không chọn khoảng 700 người Hôi viên Hội Nhà văn vào Chân dung 810 Văn sx Việt đương đại

  •   07/02/2025 16:49:00
  •   Đã xem: 80
  •   Phản hồi: 0
Không chọ khoảng 700 người vào Chân dung 810 Văn sĩ Việt đương đạ

Không chọn khoảng 700 người Hôi viên Hội Nhà văn vào Chân dung 810 Văn sx Việt đương đại

  •   07/02/2025 16:49:00
  •   Đã xem: 85
  •   Phản hồi: 0
Không chọ khoảng 700 người vào Chân dung 810 Văn sĩ Việt đương đạ

Không chọn khoảng 700 người Hôi viên Hội Nhà văn vào Chân dung 810 Văn sx Việt đương đại

  •   07/02/2025 16:49:00
  •   Đã xem: 82
  •   Phản hồi: 0
Không chọ khoảng 700 người vào Chân dung 810 Văn sĩ Việt đương đạ

Gan 400 vij khong phai hoi vien hoi Nha van Viet Nam duoc chon vao Chan dung 810 vij Van si Viet duong dai

  •   25/01/2025 17:14:00
  •   Đã xem: 108
  •   Phản hồi: 0
Bạn bè
4.996 người bạn
Hoai Quang Phuong
Ngọc Lan
Phan Ngoc Minh Art
Trương Thu Huyền
Quyền riêng tư · Điều khoản · Quảng cáo · Lựa chọn quảng cáo · Cookie · · Meta © 2025
Bài viết
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Do Hoang
oeotrpSsdnh6
3
711fa2a416cau6
h
3204i
ú
p
ch2tgch8
t
2t1a838gi
0
5

tl6m
·
Đã chia sẻ với Bạn bè của bạn
Gần 400 vị ( Không Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam) được chọn vào”Chân dung 810 Văn sĩ Việt đương đại”- Đỗ Hoàng
Tiếp theo
Phần Văn:
1 - Cung Tích Biền thấm ba đào
Nước mát nhân thế thấm vào còn cay!
2 - Kẻ ma làm như ăn mày
Trần Kim Trắc có những ngày đảo điên!
3 - Nguyễn Đỗ Phú đêm đợi tàu
Rồi xuống ga lẻ biết đâu mà tìm!
5 - Trùng Dương đổi cả đời minh
Cho câu văn được hiển linh phận hèn!
(còn nữa)

Loai bo gan 700 nguoi la Hoi vien hoi Nha van Viet Nam

  •   22/01/2025 20:39:00
  •   Đã xem: 108
  •   Phản hồi: 0
Loại bỏ dần những thằng Văn nô ngu dốt, xu thời ra khỏi “ Chân dung 810 vị Văn sĩ Việt:”
1 - Khuất Bình Nguyên thơ à uôm
Chạy giải thưởng hơn con buôn chạy tà
2 - Lanh chanh Nguyễn Thị Ngọc Hà
Thơ vè thấp thoáng ta bà gian thương
3 - Thơ vô lối Nguyễn Bình Phương
Vì dốt nát phá văn chương nước mình!
(còn nữa 600 tên hơn)
Đỗ Hoàng

TRẦN HUY QUANG vịnh

  •   19/01/2025 19:11:00
  •   Đã xem: 97
  •   Phản hồi: 0
TRẦN HUY QUANG vịnh

Người còn mãi mãi, nỏ ra đi!

Tai nạn văn chương chỉ khụt khì.

Thần thánh trên trời toe tóe tọe,

Thân hình dưới đất chỉ chì chi!

Câu văn lưu giữ bao người đọc,

Trang viết nằm lòng lắm kẻ ghi!

Linh nghiệm sống như hồn vía bác.(1)

Rồi đời có mắt cũng nhiều khi!

Hà Nội, đêm thức trực trộm, ngày 17 – 12 – 2022

Đ – H

(1)Tác phẩm của nhà văn Trần Huy Qung

TUYẾT NGA (詩賊) - THI TẶC SỐ 22

  •   14/01/2025 19:16:00
  •   Đã xem: 95
  •   Phản hồi: 0
TUYẾT NGA (詩賊) - THI TẶC SỐ 22

Bọn (詩賊 Thi tặc ) – giặc thơ là bọn lươn lẹo, xỏ xiên, gian xảo, ném lựu đạn, sáo rỗng, tà ngụy, đại ngôn, kém học, bất tài, lưu manh, giả dôi, bản vị, háo danh, vụ lợi, nhỏ nhen, ích kỷ, thù vặt, cướp công, dâm ô, trụy lạc…phá nát thơ Việt, làm băng hoại tâm hồn dân tộc Việt.
Đám Thi tặc gồm 27 tên trùm sò : 1 -Thanh Tâm Tuyền, 2– Lê Văn Ngăn,3 – Nguyễn Quang Thiều, 4 – Nguyễn Khoa Điềm, 5 – Nguyễn Bình Phương, 6 –Trúc Thông, 7– Dư Thị Hoàn, 8 – Mai Văn Phấn, 9 – Trần Hùng, 10 – Đinh Thị Như Thúy, 11 – Hoàng Vũ Thuật, 12 – Phạm Đương, 13 – Phan Hoàng, 14 – Phan Huyền Thư, 15 – Phan Thị Vàng Anh, 16 – Văn Cầm Hải, 17 – Vi Thùy Linh, 18 – Thanh Tùng, 19 – Thi Hoàng , 20 - Nguyễn Phan Quế Mai, 21 – Hoàng Hưng, 22 – Tuyết Nga, 23 – Giáng Vân, 24 – Mã Giang Lân, 25 – Mai Quỳnh Nam, 26 – Từ Quốc Hoài, 27 – Đỗ Doãn Phương

GẦN 400 vị không Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam được chọn vào CHÂN DUNG 810 VĂN SĨ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI (tiếp theo)

  •   13/01/2025 19:00:00
  •   Đã xem: 99
  •   Phản hồi: 0
GẦN 400 vị không Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam được chọn vào CHÂN DUNG 810 VĂN SĨ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI (tiếp theo)
Phần Văn
1- Chứ Tử biết yêu và ghen
Ngán cho bao nỗi đua chen giữa đời
2- Linh Bảo gió Bắc, mây Tần
Đàn ngựa cũ đã lịm dần nước phi.
3- Mùa hè đỏ lửa qua đi
Phan Nhật Nam có còn gì khoe khoang!

Các tin khác

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập6
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm5
  • Hôm nay40
  • Tháng hiện tại73,867
  • Tổng lượt truy cập705,348
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi