Đạo đưc kinh (tiếp)

  •   20/07/2025 08:13:00
  •   Đã xem: 31
  •   Phản hồi: 0
ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
ĐẠO KINH
上 經 ● 道 經
CHƯƠNG I
THỂ ĐẠO
體 道
Hán văn:
道 可 道 非 常 道. 名 可 名 非 常 名. 無 名 天 地 之 始; 有 名 萬 物 之 母. 故 常 無 欲 以 觀 其 妙; 常 有 欲, 以 觀 其 徼. 此 兩 者 同 出 而 異 名. 同 謂 之 玄. 玄 之 又 玄. 眾 妙 之 門.
Phiên âm:
1. Đạo khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh.
2. Vô danh thiên địa chi thủy; Hữu danh vạn vật chi mẫu.
3. Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu; Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu.
4. Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền. Chúng diệu chi môn.
Dịch nghĩa:
1. Đạo (mà) có thể gọi được, không phải là Đạo thường (hằng cửu). Tên mà có thể gọi được, không (còn) phải là tên thường (hằng cửu).
2. Không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật.
3. Cho nên thường không có dục để nhìn thấy chỗ vi diệu của mình. Thường có dục, để nhìn thấy chỗ giới hạn (công dụng) của mình. Chính là muôn phải,
4. Hai cái đó cùng một nguồn gốc, nhưng tên khác nhau, đều gọi là Huyền nhiệm. (Cái) tối ư huyền nhiệm ấy chính là cửa phát sinh ra mọi điều huyền diệu.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo gọi đươc! Đạo trời muôn phái.
Tên gọi ra không phải tên thường.
Không tên gốccủa ngọn nguồn
Có tên mẹ của muôn phương đất trời!
Lòng ước muồn nhìn nơi vi diệu
Nâng cao lên tầm hiểu cuả mình
Mong về giới hạn vô minh .
Cùng từ nguồn cội hiển linh mà thành
Tên gọi khác nên danh huyền nhiệm
Cái tôi ư, bất biến vô vàn
Cõi đời vạn vật trần gian
Nhiệm huyền là cửa phát ban diệu huyền !

Ngục trung nhật ký (tiêp)

  •   20/07/2025 08:04:00
  •   Đã xem: 25
  •   Phản hồi: 0
• Ngục trung nhật ký là tập thơ gồm các bài chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943 dưới dạng một quyển sổ tay nhỏ. Tác phẩm được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay tác phẩm đã được xuất bản nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật... Ngày 1-10-2012, thủ tướng đã ra quyết định công nhận đây là bảo vật quốc gia.
無題
身体在獄中,
精神在獄外。
欲成大事業,
精神更要大。

Vô đề
Thân thể tại ngục trung,
Tinh thần tại ngục ngoại.
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cánh yếu đại.
Dịch nghĩa
Thân thể ở trong ngục,
Tinh thần ở ngoài ngục;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.
Trong nguyên bản, bốn câu thơ này không có đầu đề, chép ở ngoài bìa tập Ngục trung nhật ký cùng hình vẽ hai tay bị xiềng, có lẽ được tác giả xem như lời đề từ cho toàn tập.
Đỗ Hoàng dịch:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn làm được việc lớn
Tinh thần phải lớn cao!

Nguc trung nhật ký(tiếp)

  •   19/07/2025 15:00:00
  •   Đã xem: 33
  •   Phản hồi: 0
惜光陰
蒼天有意挫英雄,
八月消磨梏桎中。
尺璧寸陰真可惜,
不知何日出牢籠。
Tích quang âm
Thương thiên hữu ý toả anh hùng,
Bát nguyệt tiêu ma cốc trất trung;
Xích bích thốn âm chân khả tích,
Bất tri hà nhật xuất lao lung.
Dịch nghĩa
Trời xanh cố ý hãm anh hùng
Tám tháng đã mòn mỏi trong chốn gông cùm;
Tấc bóng nghìn vàng, thật đáng tiếc,
Chẳng biết ngày nào thoát khỏi vòng lao tù?
Câu cuối bài thơ này lấy ý từ một câu trong bài thơ nổi tiếng Chí thành thông thánh của nhà chí sĩ Phan Chu Trinh làm năm 1905, nhằm thức tỉnh sĩ phu hưởng ứng phong trào Duy Tân cứu nước.:
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Trời xanh có ý hãm anh hùng.
Tám tháng mòn trong chốn ngục gông
Tấc bóng nghìn vàng ôi đáng tiếc!
Chẳng biết ngày nào thoát lao lung!

Ngục trung nhât ký (tiếp)

  •   17/07/2025 21:23:00
  •   Đã xem: 39
  •   Phản hồi: 0
楊濤病重
無端平地起波濤,
送你楊濤入坐牢。
城火池魚堪浩嘆,
而今你又咳成癆

Dương Đào bệnh trọng
Vô đoan bình địa khởi ba đào,
Tống nhĩ Dương Đào nhập toạ lao;
"Thành hoả trì ngư" kham hạo thán,
Nhi kim nhĩ hựu khái thành lao.
Dịch nghĩa
Không dưng đất bằng bỗng nổi sóng,
Đưa anh, Dương Đào, vào ngồi tù;
"Cháy thành vạ lây", đáng thở than biết mấy,
Mà nay, anh lại mắc chứng lao.
Dương Đào là một nông dân ở biên giới Quảng Tây, dẫn đường cho tác giả, bị bắt và bị giam cầm cùng với Người. Sau khi tác giả ra tù được ít lâu, ông cũng được ra tù và chết tại Liễu Châu vì bệnh lao. Tác giả rất thương tiếc, coi như anh em. Tháng 8-1963, Người đã mời 7 vị có công giúp đỡ cách mạng Việt Nam ở hai huyện Tĩnh Tây và Na Pha (Quảng Tây) sang thăm nước ta, trong đó có Dương Thắng Cường, em ruột Dương Đào.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Không dưng đất bằng nổi sóng trào
Nhập ngục lần ni bác Dương Đào
“Cháy thành lây vạ” đang than thở.
Nay càng thương anh mắc chứng lao!

Ngục trung nhật ký - Hồ Chí Minh

  •   17/07/2025 21:21:00
  •   Đã xem: 31
  •   Phản hồi: 0
搭火車往來賓
幾十日來勞走路,
今天得搭火車行。
雖然只得坐炭上,
畢竟比徒步漂亮。

Tháp hoả xa vãng Lai Tân
Kỷ thập nhật lai lao tẩu lộ,
Kim thiên đắc tháp hoả xa hành;
Tuy nhiên chỉ đắc toạ thán thượng,
Tất cánh tỷ đồ bộ phiêu lương.
Dịch nghĩa
Mấy chục ngày qua đi bộ mệt nhoài,
Hôm nay được đáp xe lửa;
Dù chỉ được ngồi trên đống than,
Nhưng so với đi bộ còn sang chán!
Lai Tân: tên huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, một địa điểm trên đường sắt từ Nam Ninh đi Quế Lâm.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Mấy chục ngày qua toàn cuốc bộ
Hôm nay xe lửa được tung hoành
Dù chỉ ngồi trên đống than xỉ
Sang hơn phải cuốc bại đôi chân!

Ngục trung nhật ký (tiep) Hồ. Chì minh

  •   17/07/2025 14:14:00
  •   Đã xem: 40
  •   Phản hồi: 0
獄丁竊我之士的
一生正直又堅強,
攜手同行幾雪霜。
恨彼奸人離我倆,
長教我你各凄涼。

Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích
Nhất sinh chính trực hựu kiên cường,
Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương;
Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,
Trường giao ngã nhĩ các thê lương.

Dịch nghĩa
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường,
Dắt dìu nhau cùng đi đã mấy mùa sương tuyết;
Giận kẻ gian kia chia rẽ hai ta,
Khiến cho tôi và anh phải buồn thương mãi.
Sĩ-đích phiên âm từ tiếng Anh stick, có nghĩa là chiếc gậy
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường.
Dìu dắt nhau qua mấy tuyết sương.
Giận kẻ gian kia chia rẽ bạn
Khiến tôi, anh quá nỗi buồn thương!

Ngục trung nhật ký - Hồ Chi Minh

  •   16/07/2025 21:13:00
  •   Đã xem: 24
  •   Phản hồi: 0
納悶
環球戰火鑠蒼天,
壯士相爭赴陣前。
獄裡閑人閑要命,
雄心不值一文錢。

Nạp muộn
Hoàn cầu chiến hoả thước thưjng thiên,
Tráng sĩ tương tranh phó trận tiền.
Ngục lý nhàn nhân nhàn yếu mệnh,
Hùng tâm bất trị nhất văn tiền.
Dịch nghĩa
Lửa chiến tranh trên hoàn cầu nóng chảy cả trời xanh,
Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận;
Trong tù, người nhàn lại nhàn quá đỗi,
Chí lớn mà không đáng giá một đồng tiền
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Lửa chiến tranh nóng chảy trời xanh
Trang sĩ đua nhau lập công danh.
Trong nguc người nhàn nhàn quá đổi.
Chí lớn không bằng nửa đồng cân !

Ngục trung nhạt ký (tiếp)

  •   16/07/2025 21:08:00
  •   Đã xem: 27
  •   Phản hồi: 0
警兵擔豬同行
警士擔豬同路走,
豬由人擔我人牽。
人而反賤於豬仔,
因為人無自主權。

世上千辛和萬苦,
莫如失卻自由權。
一言一動不自主,
如牛如馬任人牽。

Cảnh binh đảm trư đồng hành
Cảnh sĩ đảm trư đồng lộ tẩu,
Trư do nhân đảm ngã nhân khiên.
Nhân nhi phản tiện ư trư tử,
Nhân vị nhân vô tự chủ quyền.

Thế thượng thiên tân hoà vạn khổ,
Mạc như thất khước tự do quyền.
Nhất ngôn nhất động bất tự chủ,
Như ngưu như mã nhậm nhân khiên.
Dịch nghĩa
Cảnh binh khiêng lợn đi cùng đường,
Lợn thì người khiêng, ta người dắt;
Người lại bị coi rẻ hơn lợn,
Chỉ vì người không có quyền tự chủ.

Trên đời nghìn vạn điều cay đắng,
Không gì cay đắng bằng mất quyền tự do;
Mỗi lời nói, mỗi hành động đều không được tự chủ,
Mặc cho người dắt như trâu, như ngựa.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Cảnh binh khiêng lợn cùng rảo bước.
Ta thì người dắt, lợn người khiêng.
Người bị coi rẻ hơn cả lợn.
Bởi người không có tự do riêng.

Trên đời nghìn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do.
Mỗi lời, mỗi việc không tự chủ
Để cho người dăt tự trâu bò!

Nguj trung nhật ký (trích)

  •   15/07/2025 12:02:00
  •   Đã xem: 22
  •   Phản hồi: 0
睡不著
一更二更又三更,
輾轉徘徊睡不成。
四五更時才合眼,
夢魂環繞五尖星。
Thuỵ bất trước
Nhất canh, nhị canh, hựu tam canh,
Triển chuyển, bồi hồi, thuỵ bất thành;
Tứ, ngũ canh thì tài hợp nhãn,
Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh.
Dịch nghĩa
Canh một, canh hai, lại canh ba,
Trằn trọc băn khoăn không ngủ được
Canh tư, canh năm vừa chợp mắt,
Hồn mộng đã quẩn quanh nơi ngôi sao năm cánh.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Canh một, canh hai lại canh ba.
Trằn trọc, băn khoăn giấc chẳng tà.
Canh bốn, canh năm vừa chớp mắt.
Sao vàng năm cánh hiện hình hoa!

Bị bắt ở Túc vinh

  •   14/07/2025 21:04:00
  •   Đã xem: 24
  •   Phản hồi: 0
在足榮街被扣留 • Bị bắt giữ ở phố Túc Vinh
在足榮街被扣留
足榮卻使余蒙辱,
故意遲延我去程。
間諜嫌疑空捏造,
把人名譽白犧牲。
Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu
Túc Vinh khước sử dư mông nhục,
Cố ý trì diên ngã khứ trình.
Gián điệp hiềm nghi không niết tạo,
Bả nhân danh dự bạch hy sinh.
Dịch nghĩa
Phố tên Túc Vinh mà khiến ta mang nhục,
Cố ý làm chậm trễ hành trình của ta.
Bày đặt ra trò tình nghi gián điệp,
Không dưng làm mất danh dự của người.
Túc Vinh là tên một phố ở thị trấn huyện Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, nơi tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt ngày 29/08/1942. Câu đầu bài thơ còn ngụ ý chơi chữ, lấy “mông nhục” (mang nhục) đối lại với “túc vinh” (đủ vinh), làm tăng ý nghĩa mỉa mai hài hước việc bắt người vô lý
Đỗ Hoàng dịch:
Bị băt ở phố Túc Vinh
Túc Vinh mà mình ta mang nhục
Cố ý làm chậm bước chân ta
Bày đặt ra trò nghi gián điệp
Làm mất danh dự trước muôn nhà

Túc Vinh mà để ta mang nhục,
Cố ý dằng dai, chậm bước mình;
Bịa chuyện tình nghi là gián điệp,
Cho người vô cớ mất thanh danh.

Dịch đạo đức kinh (tiep)

  •   14/07/2025 20:59:00
  •   Đã xem: 29
  •   Phản hồi: 0
CHƯƠNG 2
DƯỠNG THÂN
養 身
Hán văn:
天 下 皆 知 美 之 為 美, 斯 惡 已; 皆 知 善 之 為 善, 斯 不 善 已. 故 有 無 相 生, 難 易 相 成, 長 短 相 形, 高 下 相 傾, 音 聲 相 和, 前 後 相 隨. 是 以 聖 人 處 無 為 之 事, 行 不 言 之 教. 萬 物 作 焉 而 不 辭, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 功 成 而 弗 居. 夫 唯 弗 居, 是 以 不 去.
Phiên âm:
1. Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy.
2. Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo.
3. Vạn vật tác yên nhi bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị,công thành nhi phất cư.
4. Phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ.
Dịch nghĩa:
1. Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, thế là xấu vậy; đều biết tốt là tốt thế là không tốt vậy, bởi vì có không sinh ra nhau dễ khó thành tựu lẫn nhau, ngắn dài tạo thành lẫn nhau, trên dưới lộn lạo ra nhau, thanh âm hòa hợp với nhau, sau trước theo nhau.
2. Cho nên thánh nhân dùng Vô vi mà xử sự, dùng «vô ngôn» mà dạy dỗ.
3. Vạn vật hoạt động mà vẫn im lìm; sống động mà không (đòi quyền) sở hữu; lao tác mà không cậy công; công thành mà không lưu luyến.
4. Không lưu luyến nên mới không mất.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ở đời khen tuyệt vời cái đẹp
Cái xấu kia đã biết chen vào
Đời khen cái tốt thanh cao
Cái xấu len đến đã đến đào huyệt sâu
Không sinh, không diệt vì nhau
Cái trên,cái dưới, trước sau hòa đồng.
Thánh nhân vẫn cầu mong hòa hợp
Dúng vô vi cảm được vô ngôn
Công thành tất thảy vẹn tròn
Lặng im công sức vẫn còn mốt mai!

Ngục trung nhạt ký (tiếp)

  •   14/07/2025 09:03:00
  •   Đã xem: 37
  •   Phản hồi: 0
Khai quyển 開卷 • Mở đầu tập nhật ký
開卷
老夫原不愛吟詩,
因為囚中無所為。
聊借吟詩消永日,
且吟且待自由時。
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Dịch nghĩa
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm.
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ta đây người chẳng thích ngâm thơ
Trong ngục ngồi không chỉ vật vờ.
Hãy mượn ngâm nga tiêu ngày rộng
Vừa ngâm, vừa đợi tự do chờ!

Thơ Lục Du

  •   13/07/2025 13:56:00
  •   Đã xem: 27
  •   Phản hồi: 0
ĐỖ HOÀNG
GỬI VỀ ĐỒNG TÂM CHIA SẺ NỖI ĐAU QUÂN DÂN
陸遊
Lục Du 陸遊 (1125-1209) tự Vụ Quan 務観, hiệu Phóng Ông 放翁, người Sơn Âm, Việt Châu (nay thuộc Nhạn Môn Đạo, tỉnh Sơn Tây), thời Nam Tống ông đã làm quan Tri châu, Tri phủ, còn làm quan Quốc sử biên tu, ông là một vị thi nhân ái quốc. Sống vào thời kỳ hai hai triều Tống Kim đánh nhau, Lục Du trở thành một người rất trăn trở vì mất nước. Khi đó người Nữ Chân (vương triều Kim) đã đánh chiếm xuống phía nam, đất nước chia năm xẻ bảy, dân tình ly tán loạn lạc. Ông đã từng vào đất Nam Trịnh (Tứ Xuyên hiện nay) theo phong trào chống Kim, đã từng mặc giáp cưỡi ngựa vượt qua sông Vị cùng những toán kỵ mã yêu nước, ban đêm đột kích quân Kim nhiều lần. Ông có Kiếm nam từ chuyên tập lưu truyền đến nay.

春日雜興
夜夜燃薪煖絮衾,
禺中一飯值千金。
身為野老已無責,
路有流民終動心。

XUÂN NHẬT TẠP HỨNG
Dạ dạ nhiên tân noãn nhứ khâm,
Ngung trung nhất phạn trị thiên câm (kim)!
Thân vi dã lão dĩ vô trách,
Lộ hữu lưu dân, chung động tâm!

Dịch nghĩa:
CẢM HỨNG VẶT NGÀY XUÂN
Đêm đêm đốt củi sưởi ấm chiếc mền bông,
Bữa cơm non trưa đáng giá nghìn vàng!
Đã làm ông lão nhà quê, thân mình không còn trách nhiệm gì nữa,
Nhưng thấy ngoài đường có dân liếu xiêu, lòng ta vẫn thổn thức.

Dịch thơ:

CẢM HỨNG LẶT VẶT TRONG NGÀY XUÂN
Đêm đêm đốt củi sưởi mền bông
Một bữa cơm trưa vạn lạng ròng
Ông lão nhà quê không việc xóm
Thấy dân tan nát quá đau lòng.

Đỗ Hoàng dịch năm 1972, cao điềm chốt 280, biên giới Việt - Lào

Nỗi đau tiên tổ

  •   12/07/2025 15:00:00
  •   Đã xem: 21
  •   Phản hồi: 0
Nỗi đau tiên tổ
Chủ nhật - 03/01/2016 10:40


Ltg: Cách đây mấy năm Thủ tưởng Nguyễn Tấn Dũng nói trước đại chúng: Việt Nam đã chuyển 175 000 héc ta đất nông nghiệp thành nhà máy công xưởng cho doanh nghiệp trong nước và nước ngoài làm ăn xây nhà xưởng và nhà ở. Nước ta ba phần tư núi đồi bỏ không, đất bở xôi ruộng mất nghìn năm cha ông mới tạo dựng được dần dần biến mất, bê tông hóa. Thật là đau xót. Vậy có thơ rằng:

Đỗ Hoàng

NỖI ĐAU TIÊN TỔ

Ruộng vườn xôi mật hóa bê tông!
Đất nước mất tiêu vạn cánh đồng.
Quan lại lầu trang đi mỏi đít, (1)
Dân có ổ chuột xổm tê mông!
Gian tà ác bá nhiều như rắn,
Nghĩa sỹ hiền nhân hiếm tựa rồng!
Vằm nát dư đồ bầy khuyển mã.
Suối vàng tiên tổ có đau không!

Hà Nội ngày 1 – 1 – 2016

Đ – H

Vô lối Trúc Thông

  •   11/07/2025 21:41:00
  •   Đã xem: 24
  •   Phản hồi: 0
GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG THƠ VIỆT
DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT
Dịch Vô lối Trúc Thông

Đỗ Hoàng

TRÚC THÔNG VÔ LÔI

Ltg: Nhà thơ Tiến sỹ Văn chươg Trần Quang Đạo, nhà thơ Tiến sỹ Triết học Nguyễn Linh Khiếu nói với tôi: “ Vừa qua báo chí, các nhà phê bình tang bốc Trúc Thông lên quá, chúng mình không có mắc mớ gì với ông, ông là người tốt nhưng thơ làm mới của ông hỏng hết, không được cái gì, Đỗ Hoàng nên viết một bài phản biện.
Tôi đáp: “Tôi cũng vậy, anh Thông tốt với mọi người, nhưng thơ làm mới của anh như ma - nơ – canh (tượng gỗ ở các cửa hàng may mặc )! Tôi đã viết bài “Đau chữ không thể thành thi sỹ” và dịch “thơ Vô lối” của Trúc Thông ra thơ Việt và dịch thơ Vô lối của những kẻ nhân danh cách tân làm hỏng thơ Việt”.
Hai Tiến sỹ bảo tiếp: - Cứ viết nhiều vào!
Tôi : Oke! Được ngay!
Văn bản:


Nhà thơ Trúc Thông

Nguyên bản:

PHẢI LÒNG RỪNG NÚI (1)

Kính tặng nhà giáo Đỗ Đắc Oánh
Bên dòng sông thời gian
Tóc thầy ngả bạc

Thày gieo trong trái tim học trò
Hơn bốn mươi năm qua
Một mối tình tận tụy
Vượt các giáo trình
Thày dạy môn yêu thương

Cả đời người sống với vùng cao
Vẫn không quen rượu
Nhưng thay say say
Men tình người
Ôi những bản không thể còn nghèo hơn
Và không thể tốt hơn được thế…


Ít dịp xuôi thành phố
Thày mong mong về lại những chiếng xưa
Cơm bày ra gà đã gáy canh ba
Tâm sự bốn mươi năm tới sáng.
Ngắm tóc nhau ngả bạc
Bên màu xanh trong suốt của rừng
(Rút trong tập Vưà đi vừa ở NHXB Hội Nhà văn 2005)
(1) Bài in trên báo Văn Nghệ số 46 ngày 14-11-2015)
Lới bình:
Đây là một bài Vô lối nhạt nhẽo, sơ sài, nội dung không có gì. Ca ngợi một ông giáo cắm bản mà chả thấy toát lên hình ảnh nào cảm động, tình cảm nào sâu sắc. Cách lập luận, cách làm mới ra vẻ cách tân càng làm cho bài viết như một thứ của giả, gượng gạo, khô khan, đầy lỗi trong cách cảm, cách nghĩ và dùng từ!
Trước hết là cách đặt tựa đề.”Phải lòng rừng núi” Nó hỏng từ câu này. Hai từ “Rừng núi” thì có thể chọn một từ “Núi” là đủ nghĩa. Còn phải lòng thì người Việt hay dùng cho trái gái yêu nhau. Cô này phải lòng anh kia, anh kia phải lòng ả nọ. Thày giáo đến dạy chữ là đem phần trí tuệ thiêng liêng đến cho núi. Tình cảm ấy nằm ở phần kính trọng, cao hơn tình cảm trai gái phải lòng nhau. Có thể thày là con của núi cũng không thể nói núi phải lòng thày hay thày phải lòng núi được, dù sau này thày có thể nên duyên với gái núi.
“Bên dòng sông thời gian”, nói cái thực bằng cái ảo, dùng một lần có thể hay, dùng một người có thể được; nhưng dùng nhiều lần, nhiều người dùng như “đi bên mùa thu”, “gấp đêm làm gối cho ngày rạng ra”, “chạm môi Thăng Long nghìn tuổi”, “đẻo tư tương Nit sơ làm guốc mộc”… thì gượng gạo, kém thẩm mỹ! Mà kiểu nói này không mới, người ta đã dung ngàn năm nay, như: “Trâu Yak mang trên lưng mùa thu” (Tạng thư).
Nhiều người khen chữ gieo, khen Trúc Thông đã đem cái từ chỉ dùng trong nông nghiệp phân gio vào được thơ. Thực ra là hỏng, nó không có gì hay ho ở việc dùng gieo vào con tim học trò. Con tim phải thắp lên, thổi bùng lên, chớp lên, hình ảnh ấy mới lộng lẫy như hình ảnh Đanko lấy tìm mình thắp lửa thổi bùng lên cho mọi người bước qua đầm lầy!. Còn “gieo” thì “gieo mầm” mùa xuân là quá được rồi. Và cũng nên cho chữ “gieo” này dừng lại ở phần phân gio nông nghiệp.
“Vượt các giáo trình
Thày dạy môn yêu thương”
Đây là kiểu nói hàm hồ, nói lấy được. Kiểu nói của người không hiểu nghề dạy học! Chưa một người thày nào, cô nào giỏi đến mức dạy hết giáo trình dạy học, dù giáo trình dạy học từ thời phong kiến để lại. “Thày dạy môn yêu thương” tưởng là kiểu nói làm mới nhưng nó cũ rich và phản cảm. Kiểu nói của đứa trẻ lên ba chưa đi học. Không có môn nào trong các giáo trình của xưa và nay không là môn yêu thương.
Văn ngày xưa cha ông dạy:
“Thương người như thể thương thân
Thấy người hoạn nạn thì thương”…
…”Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn
Lấy chi đền nỗi khó khăn
Thôi thôi ta lên non gánh đá về xây lăng phụng thờ!”
…”Mụ cài chài (ngư dân) thả con cá long còng cong,
Thương anh đứt tấm ruột, tấm lòng ơi anh ơi!”...
…”Một ngàn ba mươi vạn thằng Tây
Thảm thương cái mụ ăn mày cái xách cái bị loọng toòng, tọ tè ti te tọ tọ tè ti ti tè!

Và nay:
“Yêu tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt
Lao động tốt”
(Hồ Chí Minh)
Đó không phải môn yêu thương là gì?
Đấy là chưa kể các môn Luân lý, Đạo đức, Công dân, Chính trị. Ngay môn toán chỉ là con số nhưng cũng tràn đầy yêu thương:
“Mắt em nhìn ngấp nghé góc anpha”
“Bắt được quả tang, sin nằm trên cos”
Hay: “Bên nhà nghe tiếng nói dân công
Thảo luận cùng nhau việc gánh gồng
Một người hai gánh thừa một gánh
Hai người sáu gánh bốn người không.
Chiến trường bộ đội đang cần đạn
Tính số dân công, số gánh gồng?”
Câu tiếp:
“Cả đời người sống ở vùng cao
Vẫn không quen rượu…”
Câu này Trúc Thông muốn khen ông giáo cắm bản ở với dân vùng cao đầy rượu chè như ông vẫn “trong sạch” không nhuốm hơi men. Tưởng thế là đạo đức lắm, thanh cao lắm. Nhưng nhầm. Phàm con người, ngay cả con vật, thần kinh tốt, tố chất thông minh, sức khỏe hoàn hảo đều rất thích chất kích thích (rượu, bia, thuốc lá, hê rô in, đực cái…). Những bậc kiệt hiệt họ biết dùng và biết dừng. Chỉ những anh lại giống, ẻo lả, nửa đàn ông, nửa đàn bà mới kiêng các món trên. Ngay cả phụ nữ khỏe mạnh, thông minh cũng xài được các thứ ấy. Ông giáo cắm bản của Trúc Thông chắc là pede Thái Lan (!). Giả dối hết mực, sượng sạo hết mực, mậu dịch hết mức!
Hai câu này sai không thể chữa được:
“Ở những bản không thể còn nghèo hơn
Và không thể tốt hơn được thế”
Trúc Thông chưa đến bản Là Si của người La Hủ trên biên giới Việt – Trung thuộc địa phận huyện Mường Tè, Lai Châu. Bản không có thày đến dạy như bản của Trúc Thông. Ngườiì ta ở trong túp tranh lá vàng và ăn rễ cây, giun đất, chuột sóc làm gì có trường, có lớp. Bản Là Si sẽ nghèo hơn bản trên là cái cái chắc! nói lấy như thế nên cho điểm không về chỗ!
Mà bản nghèo ăn không đủ thì giúp ai? Làm sao tốt hơn bà mẹ người Hy Lạp suốt tuần, suốt tháng nấu cơm, đưa thực phẩm, thức ăn, lều bạt cho người tỵ nạn bơi qua Đại Trung Hải thoát vòng I S vừa qua!
Trong bài câu nào cũng sượng sùng lên gân, sai bét về mặt tâm lý tình cảm. Nhiều câu sáo rỗng dở hơn cả câu văn xuôi:
“Nhưng thày say say
Men tình người”
Có nhiều câu quá dở:
“Một mối tình tận tụy”
“Phải lòng rừng núi” là một bài thơ Vô lối của Trúc Thông không có giá trị gì,thơ Vô lối của Trúc Thông không có giá trị gì. Ông phải chuốc lấy sự thất bại thảm hại trong đời thơ của mình!
Như:
“Vỹ nhân công sức còn lại
Càn khôn muôn thế rộng dài
Hòn đá bên đường thành bại
Mỉm cười tay trắng đời trai!
(Đỗ Hoàng)
Đời thơ Trúc Thông thực là tay trắng!
Dịch ra thơ Việt:
Đỗ Hoàng

VỚI NÚI

Theo dòng sông thời gian
Tóc thày giờ ngả bạc
Thày là người gieo hạt
Mầm xanh tim học trò!
Hơn bốn mươi năm qua
Yêu ghề vẫn nồng mặn
Thức cùng trang giáo án
Lời thày, lời yêu thương!

Cả đời gắn vùng cao
Tình nồng như ché rượu
Những cái say muốn níu
Dào dạt men tình người.
Ôi những bản tận nghèo
Ai dám so lòng tốt?
Phố phường thày xuống ít
Chỉ mong về chiềng xưa.

Và cơm trong tiếng gà
Chuyện một đời tới sáng
Ngắm tóc nhau bạc trắng
Bên màu xanh núi rừng!

Hà Nội ngày 27 – 12 – 2015
Đ - H

Kiều thơ

  •   11/07/2025 15:54:00
  •   Đã xem: 27
  •   Phản hồi: 0
Kiều Thơ - giới thiệu tác phẩm




























Đỗ Hoàng








Kiều Thơ















Nhà xuất bản Hội Nhà văn























Lời đầu sách :

Nhà thơ Đỗ Hoàng sáng tác và dịch Kim Vân Kiều truyện nguyên bản ra thơ lục bát gồm 6.122 câu

Trong nguyên bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Tử có gần 1 000 câu thơ do Kiều (572 câu), Thúc Sinh (110 câu), Sở Khanh (8 câu) , Giác Duyên (4 câu), Tống Ngọc (44 câu) sáng tác. Đại thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều có nhắc đến việc Kiều sáng tác nhưng không có tác phẩm nào được dịch. Mà Kiều cũng như Thúc Sinh, Sở Khanh...có rất nhiều thơ. Chẳng hạn: Thơ luận về bạc mệnh, thơ viết ở gốc cây, thơ vịnh, thơ thù tạc, thơ viết ở cửa công… “Khúc nhà lay tựa nên chương/ Một thiên Bạc mệnh lại càng nảo nhân” hay: “Rút trâm sẵn giắt mái đầu/ Vạch da cây vịnh bốn câu, ba vần” và “Lòng thơ lai láng bồi hồi/ Gốc cây lại vạch một bài cổ thi”… Khi sáng tạo ra thơ lục bát, Đỗ Hoàng dịch tất cả các sáng tác của Kiều, Thúc Sinh, Sở Khanh, Giác Duyên và bài Chiêu hồn tử của Tống Ngọc do Kim Trọng đọc lúc cả nhà Vương Thuý Kiều đoàn viên.



Trong Truyện Kiều Nguyễn Du có viết:
“Khúc nhà, tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh lạị càng nảo nhân”

Nguyên bản Hán - Việt:

Bạc mệnh oán khúc

Hoài cố quốc hề thán ná Sâm Thương,
Bi luân vương hề ngọc dung hà tường?
Tỉ muội cố sủng hề nhất triêu câu tử,
Đông quân bất lệnh hề Phụng Tiên diệt vương.
Hầu môn tự hải hề Tiêu Lang mạch lộ
Thất thân phi loại hế Mậu Lâm tranh quang.
Vị lang tiều tuỵ hề cập nhĩ đồng tử,
Ly hồn tình trọng hề thiển xướng ám thương.
Tử phụ phụ thi hề sinh đại phụ tử,
Sủng suy hoàn phiến hề nhĩ sinh bất xương.
Hữu thuỷ vô chung hề bi hồ thất lữ,
Môn tiền linh lạc hề lão đại thuỳ tương.
Cổ kim hồng nhan hề mạc bất bạc mệnh.
Hồng nhan bạc mệnh hề mạc bất đoạn trường.
Ngã bản oán nhân hề nãi vi oán khúc,
Văn thử oán khúc hề thuỳ bất bi thương.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:

Khúc oán mệnh bạc

Lòng nhớ về quê cũ, những lần lữa cách trở như Sâm, Thương,
Hồng nhan có phải để nỗi buồn như điềm gở?
Chị em Triệu Phi Yến được vua sủng ái như thế một sớm cũng tiêu tan!
Phụng Tiên chết thảm, Chúa Xuân cũng vô tình.
Một bước vào chốn Công hầu khác nào bước xuống bể thẳm, chàng Tiêu Sử trở thánh khách qua đường!
Gái ở chốn Mậu Lâm tài sắc đủ điều xe duyên chẳng lựa đành bỏ mạng.
Lòng dạ thiếp đây tiều tuỵ, khô héo cũng vì chàng.
Hồn bỏ đi cửu tuyền, tình nặng vô vàn sao chẳng cùng khuất nẻo trần gian? Cất lên những tiếng than nảo nề, ai oán!
Nàng Tào Nga đội thây cha chết đuối, cha lớn lao sinh con lớn lao!
Tấm lòng sủng ái lúc yêu, lúc ghét, sương thu lạnh, mảnh quạt để rơi.
Trước cửa lạnh lùng, lúc già cỗi còn ai cầu nữa.
Xưa nay hồng nhan đều là người bạc mệnh.
Hồng nhan bạc mệnh làm không khỏi nỗi đau đứt ruột.
Ta cùng là khách má hồng ai oán làm ra khúc oán này.
Hỏi ai khi nghe khúc oán này mà không buồn thương bi luỵ!
Đỗ Hoàng dịch thơ:

Khúc oán mệnh bạc

…Nhớ về cách trở Sâm, Thương. (1)
Hồng nhan là giống buồn vương luỵ phiền.(2)
Triệu nương vua chuộng ngày đêm (3)
Chúa Xuân chán bỏ Phụng Tiên chết sầu!(4)
Chàng Tiêu người ngọc thấy đâu? (5)
Mậu Lâm con gái gieo cầu trái duyên! (6)
Vì chàng khô héo thuyền quyên (7)
Hồn vương ly loạn cửu tuyền, trần gian. (8)
Cứu cha ghi dấu sử vàng! (9)
Tấm lòng ưu ái vì nàng đó thôi! (10)
Bởi đâu làm lỡ lứa đôi?
Vô duyên già cội chẳng ngồi lầu trang (11)
Cổ kim bạc mệnh hồng nhan! (12)
Má hường phận mỏng đa đoan, đoạn trường! (13)
Với ta khúc oán Kiều nương.
Ai nghe không khỏi xót thương phận mình!...

Chú thích:
(1) Tích cũ là hai ngôi sao trên trời chỉ sự xa cách.
(2) Thuyết hồng nhan
(3) Triệu Phi Yến người đẹp đời Hán được vua sủng ái, sau chết vì oán hờn.
(4) Phụng Tiên tên hiệu của Triệu Phi Yến.
(5) Tích xưa, chàng Tiêu bán thiếp tài sắc vào cửa Công hầu không bao giờ thấy mặt nữa.
(6) Tích ở Tư Mã Tương Như - Con gái miền Mậu Lâm đẹp nhưng cầu hôn không đúng chỗ nên xảy ra nhiều oan trái.
(7) Thuyền quyên là gái đẹp.
(8) Theo đạo Phật chết còn hồn vương lại dưới chín suối và trên cõi trần
(9) Tích Tào Nga một thiếu nữ đời Đông Hán liều mình xuống sông cứu cha được đời sau khen ngợi.
(10) Ai cũng yêu mến Tào Nga.
(11) Ca dao: “Còn duyên kẻ đón, người đưa/ Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng”, chỉ nhưng cô gái hết duyên không còn ngồi được ở lầu hồng.
(12)(13) Thuyết hồng nhan bạc mệnh - Người đẹp đều bất hạnh trong tình yêu và cuộc sống.

Kiều làm thơ trước mộ Đạm Tiên (Bài một) :

“Rút trâm sẵn giắt mái đầu
Vạch da cây vịnh bốn câu, ba vần” ( Nguyễn Du).
Đoạn này trong nguyên bản, Kiều không vạch da cây, Thanh Tâm Tài Tử chỉ tả: …Vừa khấn, vừa đốt hương rồi thụp ngồi trước mộ, bái xong bốn bái, nàng mới đề một bài thơ như sau:

Nguyên bản âm Hán - Việt:

Sắc hương hà xứ dã,
Bằng điếu thống tâm tai.
Minh nguyệt lãnh loan bị,
Ám trần phong kính đài.
Ngọc tuy hoàng thổ oánh,
Danh vị bạch tuyết mai,
Thượng hữu như miên tửu
Vô nhân điện nhất tửu bôi.

Đỗ Hoàng dịch nghĩa:

Sắc hương đã trôi dạt về miền nào rồi?
Đến đây viếng thăm lòng đau đớn lắm thay!
Trăng sáng lạnh lẽo soi chăn uyên.
Bụi ám mờ tấm gương trong.
Ngọc bị bùn đen vầy lấp.
Danh chưa thành trước cây tuyết mai trắng.
Trên còn chung rượu say.
Không ai rót một chén rượu cho người bạc mệnh, thì có em đây!

Đỗ Hoàng dịch thơ:

…Sắc tài chẳng có tri âm, (1)
Buốt lòng thăm viếng, lệ thầm xót xa!
Chăn đơn lạnh lẽo bóng ngà, (2)
Trải bao gió bụi nhạt nhoà gương trong. (3)
Bùn nhơ vầy bẩn ngọc hồng! (4)
Tuyết mai trắng xoá tên không tỏ bày. (5)
Chỉ em cùng chị hôm nay, (6)
Xin dâng một chén rượu cay đượm nồng!..
Chú thích:
(1) Tích xưa, bạn thân nhất.
(2) Ngà chỉ ánh trăng, nghĩa bóng là người đẹp.
(3) Gương trong chỉ người đẹp.
(4) Ngọc hồng chỉ người đẹp.
(5) Tuyết mai trắng xoá chỉ người đẹp.
(6) Chỉ em cùng chị : Thuý Kiều và Đạm Tiên.

Kiều làm thơ trước mộ Đạm Tiên (Bài hai):

Lòng thơ lai láng bồi hồi
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi ( Nguyễn Du)
Đoạn này trong nguyên bản củaThanh Tâm Tài Tử có tả: …Linh hồn người trước nay đã cảm thông, vậy trước khi ra về em cũng phải có mấy câu từ biệt. Nói xong nàng liền rút chiếc trâm ở trên mái tóc vạch vào gốc cây một bài từ tạ như sau:

Nguyên bản âm Hán – Việt:

Tây phong hà hối khí,
Trân trân sử nhân ai.
Thảm thiết như hàm oán,
Thê lương tự hữu hoài.
Thừa loan nghi sạ khứ,
Khoá hạc nhạ trùng lai.
Bất đoạn hương hồn xứ,
Thương thương xi ấn đài!
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:

Gió tây thổi tới lúc nào đó?
Từng trận, từng trận làm cho lòng người sầu nảo.
Thảm thiết như ngậm một nỗi oán.
Buồn bã thê lương như nhớ nhau.
Hình chim oanh đã vụt biến đi đâu
Bóng chim hạc lại chợt về sau đó.
Hương hồn không mất chốn này.
Gót ngọc còn in trên lớp rêu xanh!

Đỗ Hoàng dịch thơ:

…Gió tây tơi táp bời bời,
Nát tan cây cỏ chẳng vơi mối sầu.
Ngậm hờn, oán tủi, oan sâu.(1)
Thê lương nguồn cội, rầu rầu nhớ nhung! (2)
Oanh vờn chấp chới mông lung,(3)
Bóng chiều cánh hạc ngại ngùng về mau. (4)
Hương hồn còn mãi muôn sau, (5)
Gót tiên, dáng ngọc in màu rêu phong!... (6)



Chú thích:
(1) Nguyên bản Hàm oán là ngậm nỗi oán hờn.
(2) Thê lương: Buồn thảm, não nùng.
(3) (4) Chim oanh và chim hạc.
(5) Theo thuyết nhà Phật thì người chết rồi nhưng linh hồn vẫn còn.
(6) Gót tiên, dáng ngọc chỉ Đạm Tiên














Mở đầu

Cõi đời muôn đắng, ngàn cay.
Kiếp tằm có được một ngày nào vui. (1)
Trải bao chìm nổi dập vùi
Mong manh phận số ngậm ngùi, xót thương!
5- Xem ra trong cõi vô thường, (2)
Càng gian ác lắm, càng vương tội đồ. (3)
Thiên Hà cũng thể hư vô. (4)
Trăm năm chỉ nắm đất khô ngoài đồng! (5)
Trầm luân đầy đoạ má hồng (6)
10- Tài tình, quốc sắc lắm lòng ghét ghen.(7)

Chương một
Gia thế Kiều

Sách xưa xem kỹ trước đèn.
Kim Vân Kiều truyện tiếng khen truyền đời. (8)
Vào năm Gia Tĩnh thứ mười, (9)
Bên Tàu cựu quốc thuộc thời nhà Minh. (10)
15- Ở trong thành nội Bắc Kinh, (11)
Có Vương Viên ngoại Tử Trinh tự là. (12)
Hiền thê dòng dõi họ Hà.
Vương ông tên thật phiên ra Lưỡng Tùng. (13)
Giàu sang thuộc loại bậc trung.
20- Ở ăn hiền hậu cả vùng mến yêu.
Đầu lòng hai gái mỹ miều.
Em Thuý Vân, chị Thuý Kiều sắc hương!
Phúc cho gia tộc họ Vương,
Vương Quan trai út theo đường thư thi.(14)
25- Thuý Vân rực rỡ xuân thì,
Bàn tay tháp bút, làn mi diệu huyền
Mắt long lanh nước hồ tiên,
Lưng ong mềm mại dịu hiền căn cơ. (15)
Thuý Kiều sắc sảo mộng mơ,
30- Mày ngài mắt phượng, cầm thơ đều rành.
Sắc tài hiếm có, lừng danh.
Ánh nhìn nghiêng nước, nghiêng thành người ta. (16)
Kiều nương nổi tiếng hào hoa
Tinh thông nhạc lý, tài ba Hồ cầm (17)

35- Giỏi đàn hát, giỏi ca ngâm,
Cung, thương biến hoá ngũ âm tuyệt vời. (18)
Cầm kỳ thi hoạ nhà nòi.
Một khúc Bạc Mệnh rụng rời gió sương (19)
“Nhớ về cách trở Sâm, Thương. (20)
40- Hồng nhan là giống buồn vương luỵ phiền.(21)
Triệu nương vua chuộng ngày đêm (22)
Chúa Xuân chán bỏ Phụng Tiên chết sầu! (23)
Chàng Tiêu người ngọc thấy đâu? (24)
Mậu Lâm con gái gieo cầu trái duyên! (25)
45- Vì chàng khô héo thuyền quyên (26)
Hồn vương ly loạn cửu tuyền, trần gian. (27)
Cứu cha ghi dấu sử vàng! (28)
Tấm lòng ưu ái vì nàng đó thôi! (29)
Bỡi đâu làm lỡ lứa đôi?
50- Vô duyên già cỗi phải dời lầu trang (30)
Cổ kim bạc mệnh hồng nhan! (31)
Má hường phận mỏng đa đoan, đoạn trường! (32)
Với ta khúc oán Kiều nương.
Ai nghe không khỏi xót thương phận mình!”
55- Thấu tài thi bá phục tình (33)
Hào hoa, nét ngọc, thông minh vĩnh hằng!
Chị em đang độ tròn trăng,
Xa gần khách nức tiếng tăm tìm về.
Thanh nhàn khuê các mộng mê,
60- Mặc ai nghìn dặm sơn khê kiếm tìm.
Chương hai
Kim Trọng

Có chàng tú sỹ đa tình. (34)
Họ Kim, tên Trọmg phú vinh nghìn vàng
Khôi ngô như thể Phan An (35)
Tài thơ Tử Kiến so chàng cũng thua.(36)
65- Chữ như bức hoạ thêu thùa,
Văn tài thần, phật ngàn xưa độ trì!
Phong lưu khó có ai bì?
Nếp nhà gia giáo thư thi thánh hiền!
Chàng vừa qua tuổi thiếu niên (37)
70- Nặng lòng mơ mộng dáng tiên trên trời.
Mong tìm ngọc nữ giữa đời,
Sớm khuya chiều sáng rối bời, bâng khuâng!
Đơn phương tình mộng trào dâng.
Đêm chằn chặn nhớ, ngày lâng lâng mồng!
75- Nghe danh Kiều khách má hồng,
Tây Thi tài sắc cũng không so tày.(38)
Nổi danh thơ phú tuyệt hay,
Thạo thành ca khúc, lại tay Hồ Cầm.(39)
Ước gì là được tri âm,
80- Thoả bao khao khát, âm thầm nhớ mong.
Tháng ngày mòn mỏi chờ trông,
Người tiên vẫn chốn phòng không mịt mù.
Mùa đông cảnh sắc thâm u,
Mây chìm trong sóng, trăng lu cuối ngàn.
(còn nữa)

Soi gương

  •   05/07/2025 11:30:00
  •   Đã xem: 25
  •   Phản hồi: 0
見白髮
張九齡)
照鏡見白髮
宿昔青雲志,
蹉跎白髮年。
誰知明鏡裏,
形影自相憐。
Chiếu kính kiến bạch phát
Túc tích thanh vân chí,
Tha đà bạch phát niên.
Thuỳ tri minh kính lý,
Hình ảnh tự tương liên.
Đỗ Hoàng
Dịch nghĩa
SOI GƯƠNG THẤY TÓC BẠC
Nhớ xưa chí để trên mây xanh,
Theo năm tháng tóc bạc trắng.
Ai có biết trong tấm gương sáng?
Người và bóng cùng thương nhau!
Đỗ Hoàng
Dịch thơ:
Xưa chí trên mây thắm
Tháng ngày tóc phai màu.
Ai biết trong gương sáng?
Người bóng cùng thương nhau!
Đ - H
Bài này và trong nhiều bài Đường thi, Đỗ Hoàng dịch trước lúc nhập ngũ lần đầu (6/1966). Sau bị thải về vì lý lịch xấu (bố đi lính Pháp). Tiếp sau được sửa chữa, nâng cao lúc ơ trên cao điểm chốt 176, 280 biên giới Việt - Lào tháng 12/1972 (Đỗ Hoàng)

Thơ & Máu

  •   04/07/2025 14:57:00
  •   Đã xem: 14
  •   Phản hồi: 0
Đỗ Hoàng
THƠ & MÁU
Giết nhau là chuyện của người.
Tình thương là của thơ tôi buổi đầu!
Rồi đây không biết về sau
Thơ tôi có nhuốm một màu máu không!
Rừng Lào năm 1972

Viêt kém!

  •   02/07/2025 18:44:00
  •   Đã xem: 16
  •   Phản hồi: 0
ntSosoepdr
c
4
l
1

0
1g11
á

ú
4i95
t
2
9
f
3
6
178m
g
7
i771
h
5

t
3
:
ua7g

6
n
m060
·
Đã chia sẻ với Công khai
TẦM VĂN HÓA THÂP – NGUYỄN QUANG THIỀU KHÔNG NÊN LÀM CHỦ BÚT VĂN CHƯƠNG
Đỗ Hoàng
Viết kém nhất trong “Chuyên đề Viêt & Đọc” là Nguyễn Quang Thiều! Không có tầm văn hóa viết lời “Tựa”, Không có tầm văn hóa viết văn xuôi, không có tầm sáng tác thơ, không có tầm gì hết !
Câu hỏi cuối ngay
Nguyên Quang Thiều
Thiêu viêt như thế này mà gọi là “thơ”
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày
Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên
Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào
Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.
Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng năm 1993!
Sau dó Thiều “xáo trộn văn chương với chả cá”. Đưa tất cả làm thơ hết Mấy eng ả văn xuôi viết văn xuôi như mắm thôi bị mưa như Nguyễn Nhật Ánh, Bichs Ngân, Thùy Dương…in hàng loạt trên Viết & Đọc
“Thơ” Bích Ngân (5 bài)
(trich) Ở cự ly gàn
Tôi chờ từng giọt cà phê
nhỏ xuống lòng chiếc ly sứ
trong tiếng nhạc của trăm năm trước
trong nỗi dau của ngàn năm trướcs
dặc sánh như giọt đăng tôi uống
mỗi ngày…”
(còn nữa)

Các tin khác

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập13
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm12
  • Hôm nay1,437
  • Tháng hiện tại1,437
  • Tổng lượt truy cập213,951
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi