Đao đức kinh (tiếp)

 19:54 20/07/2025

CHƯƠNG 3
AN DÂN
安 民
Hán văn:
不 尚 賢, 使 民 不 爭. 不 貴 難 得 之 貨, 使 民 不 為 盜. 不 見 可 欲, 使 民 心 不 亂. 是以 聖 人 之 治, 虛 其 心, 實 其 腹, 弱 其 志, 強 其 骨. 常 使 民 無 知 無 欲. 使 夫 知 不 敢 為 也. 為 無 為, 則 無 不 治.
Phiên âm:
1. Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quí nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn.
2. Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri vô dục. Sở phù trí giả bất cảm vi dã.
3. Vi vô vi, tắc vô bất trị.
Dịch nghĩa:
1. Không sùng thượng hiền tài, khiến cho dân không tranh. Không quí của khó được, khiến cho dân không trộm cướp. Không phô trương những gì kích thích lòng ham muốn, khiến cho lòng dân không loạn.
2. Vì vậy phép trị nước của thánh nhân là làm cho dân: Trống lòng; No dạ; Yếu chí; Mạnh xương. Thường khiến cho dân không biết, không ham. Khiến cho kẻ trí không dám làm gì cả.
3. Làm theo phép Vô vi, thời không gì là không trị.
Đỗ Hoàng dịch thơ
:Chớ sủng ái hiền tài quá đáng
Khiên cho dân sao lãng đua tranh
Đừng tìm của quí xa gần
Trộm cướp đạo tăc cũng dần tiêu tan
Đưng kích thích lòng ham muốn ước
Khiến cho dân không được bình yên
Trong lòng, no dạ, ấm êm
Kẻ trí cũng chẳng làm nên điều gì.
Đây là theo phép vô vi
Trị mà không trị việc gì cũng nên !

Đạo đưc kinh (tiếp)

 08:13 20/07/2025

ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
ĐẠO KINH
上 經 ● 道 經
CHƯƠNG I
THỂ ĐẠO
體 道
Hán văn:
道 可 道 非 常 道. 名 可 名 非 常 名. 無 名 天 地 之 始; 有 名 萬 物 之 母. 故 常 無 欲 以 觀 其 妙; 常 有 欲, 以 觀 其 徼. 此 兩 者 同 出 而 異 名. 同 謂 之 玄. 玄 之 又 玄. 眾 妙 之 門.
Phiên âm:
1. Đạo khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh.
2. Vô danh thiên địa chi thủy; Hữu danh vạn vật chi mẫu.
3. Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu; Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu.
4. Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền. Chúng diệu chi môn.
Dịch nghĩa:
1. Đạo (mà) có thể gọi được, không phải là Đạo thường (hằng cửu). Tên mà có thể gọi được, không (còn) phải là tên thường (hằng cửu).
2. Không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật.
3. Cho nên thường không có dục để nhìn thấy chỗ vi diệu của mình. Thường có dục, để nhìn thấy chỗ giới hạn (công dụng) của mình. Chính là muôn phải,
4. Hai cái đó cùng một nguồn gốc, nhưng tên khác nhau, đều gọi là Huyền nhiệm. (Cái) tối ư huyền nhiệm ấy chính là cửa phát sinh ra mọi điều huyền diệu.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo gọi đươc! Đạo trời muôn phái.
Tên gọi ra không phải tên thường.
Không tên gốccủa ngọn nguồn
Có tên mẹ của muôn phương đất trời!
Lòng ước muồn nhìn nơi vi diệu
Nâng cao lên tầm hiểu cuả mình
Mong về giới hạn vô minh .
Cùng từ nguồn cội hiển linh mà thành
Tên gọi khác nên danh huyền nhiệm
Cái tôi ư, bất biến vô vàn
Cõi đời vạn vật trần gian
Nhiệm huyền là cửa phát ban diệu huyền !

Ngục trung nhật ký (tiêp)

 08:04 20/07/2025

• Ngục trung nhật ký là tập thơ gồm các bài chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943 dưới dạng một quyển sổ tay nhỏ. Tác phẩm được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay tác phẩm đã được xuất bản nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật... Ngày 1-10-2012, thủ tướng đã ra quyết định công nhận đây là bảo vật quốc gia.
無題
身体在獄中,
精神在獄外。
欲成大事業,
精神更要大。

Vô đề
Thân thể tại ngục trung,
Tinh thần tại ngục ngoại.
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cánh yếu đại.
Dịch nghĩa
Thân thể ở trong ngục,
Tinh thần ở ngoài ngục;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.
Trong nguyên bản, bốn câu thơ này không có đầu đề, chép ở ngoài bìa tập Ngục trung nhật ký cùng hình vẽ hai tay bị xiềng, có lẽ được tác giả xem như lời đề từ cho toàn tập.
Đỗ Hoàng dịch:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn làm được việc lớn
Tinh thần phải lớn cao!

Đạo đưc kinh (tiêp)

 15:03 19/07/2025

CHƯƠNG 19
HOÀN THUẦN
還 淳
Hán văn:
絕 聖 棄 智, 民 利 百 倍. 絕 仁 棄 義, 民 復 孝 慈. 絕 巧 棄 利, 盜 賊 無 有. 此 三 者 以 為 文, 不 足. 故 令 有 所 屬. 見 素 抱 朴. 少 思 寡 欲.
Phiên âm:
1. Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội.
2. Tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ.
3. Tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu.
4. Thử tam giả dĩ vi văn, bất túc.
5. Cố lệnh hữu sở thuộc. Kiến tố bão phác. Thiểu tư quả dục.
Dịch nghĩai:
1. Dứt thánh bỏ trí, dân lợi gấp trăm.
2. Dứt thân bỏ nghĩa dân lại thảo lành.
3. Dứt khéo, bỏ lợi, không có trộm cướp.
4. Ba điều đó hào nhoáng bên ngoài, chẳng đủ vào đâu.
5. Phải chú trọng điều này: Giữ vẹn tinh anh, chất phác: ít riêng tây, ít ham muốn
Đỗ Hoàng dịch thơ;
Thánh, trí bỏ đi vô cùng dân lợi
Nhân tinh xóa sạch, dân tới thỏa lành
Lợi, kheo tiêu càng an dân
Những điều hào nhoàng chẳng thành vào đâu.
Phải chú trọng điều đầu nhắc nhở
Vẹn tinh anh nên nhớ giữ gìn
Ít ham muốn bỏ quên mình
Riêng tay quét sạch, hiển linh bây giờ!

Nguc trung nhật ký(tiếp)

 15:00 19/07/2025

惜光陰
蒼天有意挫英雄,
八月消磨梏桎中。
尺璧寸陰真可惜,
不知何日出牢籠。
Tích quang âm
Thương thiên hữu ý toả anh hùng,
Bát nguyệt tiêu ma cốc trất trung;
Xích bích thốn âm chân khả tích,
Bất tri hà nhật xuất lao lung.
Dịch nghĩa
Trời xanh cố ý hãm anh hùng
Tám tháng đã mòn mỏi trong chốn gông cùm;
Tấc bóng nghìn vàng, thật đáng tiếc,
Chẳng biết ngày nào thoát khỏi vòng lao tù?
Câu cuối bài thơ này lấy ý từ một câu trong bài thơ nổi tiếng Chí thành thông thánh của nhà chí sĩ Phan Chu Trinh làm năm 1905, nhằm thức tỉnh sĩ phu hưởng ứng phong trào Duy Tân cứu nước.:
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Trời xanh có ý hãm anh hùng.
Tám tháng mòn trong chốn ngục gông
Tấc bóng nghìn vàng ôi đáng tiếc!
Chẳng biết ngày nào thoát lao lung!

Ngục trung nhât ký (tiếp)

 21:23 17/07/2025

楊濤病重
無端平地起波濤,
送你楊濤入坐牢。
城火池魚堪浩嘆,
而今你又咳成癆

Dương Đào bệnh trọng
Vô đoan bình địa khởi ba đào,
Tống nhĩ Dương Đào nhập toạ lao;
"Thành hoả trì ngư" kham hạo thán,
Nhi kim nhĩ hựu khái thành lao.
Dịch nghĩa
Không dưng đất bằng bỗng nổi sóng,
Đưa anh, Dương Đào, vào ngồi tù;
"Cháy thành vạ lây", đáng thở than biết mấy,
Mà nay, anh lại mắc chứng lao.
Dương Đào là một nông dân ở biên giới Quảng Tây, dẫn đường cho tác giả, bị bắt và bị giam cầm cùng với Người. Sau khi tác giả ra tù được ít lâu, ông cũng được ra tù và chết tại Liễu Châu vì bệnh lao. Tác giả rất thương tiếc, coi như anh em. Tháng 8-1963, Người đã mời 7 vị có công giúp đỡ cách mạng Việt Nam ở hai huyện Tĩnh Tây và Na Pha (Quảng Tây) sang thăm nước ta, trong đó có Dương Thắng Cường, em ruột Dương Đào.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Không dưng đất bằng nổi sóng trào
Nhập ngục lần ni bác Dương Đào
“Cháy thành lây vạ” đang than thở.
Nay càng thương anh mắc chứng lao!

Ngục trung nhật ký - Hồ Chí Minh

 21:21 17/07/2025

搭火車往來賓
幾十日來勞走路,
今天得搭火車行。
雖然只得坐炭上,
畢竟比徒步漂亮。

Tháp hoả xa vãng Lai Tân
Kỷ thập nhật lai lao tẩu lộ,
Kim thiên đắc tháp hoả xa hành;
Tuy nhiên chỉ đắc toạ thán thượng,
Tất cánh tỷ đồ bộ phiêu lương.
Dịch nghĩa
Mấy chục ngày qua đi bộ mệt nhoài,
Hôm nay được đáp xe lửa;
Dù chỉ được ngồi trên đống than,
Nhưng so với đi bộ còn sang chán!
Lai Tân: tên huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, một địa điểm trên đường sắt từ Nam Ninh đi Quế Lâm.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Mấy chục ngày qua toàn cuốc bộ
Hôm nay xe lửa được tung hoành
Dù chỉ ngồi trên đống than xỉ
Sang hơn phải cuốc bại đôi chân!

Đạo đức kinh (tiêp)- Laõ Tử

 14:24 17/07/2025

CHƯƠNG 3
AN DÂN
安 民
Hán văn:
不 尚 賢, 使 民 不 爭. 不 貴 難 得 之 貨, 使 民 不 為 盜. 不 見 可 欲, 使 民 心 不 亂. 是以 聖 人 之 治, 虛 其 心, 實 其 腹, 弱 其 志, 強 其 骨. 常 使 民 無 知 無 欲. 使 夫 知 不 敢 為 也. 為 無 為, 則 無 不 治.
Phiên âm:
1. Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quí nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn.
2. Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri vô dục. Sở phù trí giả bất cảm vi dã.
3. Vi vô vi, tắc vô bất trị.
Dịch nghĩa:
1. Không sùng thượng hiền tài, khiến cho dân không tranh. Không quí của khó được, khiến cho dân không trộm cướp. Không phô trương những gì kích thích lòng ham muốn, khiến cho lòng dân không loạn.
2. Vì vậy phép trị nước của thánh nhân là làm cho dân: Trống lòng; No dạ; Yếu chí; Mạnh xương. Thường khiến cho dân không biết, không ham. Khiến cho kẻ trí không dám làm gì cả.
3. Làm theo phép Vô vi, thời không gì là không trị.
Đỗ Hoàng dịch thơ
:Chớ sủng ái hiền tài quá đáng
Khiên cho dân sao lãng đua tranh
Đừng tìm của quí xa gần
Trộm cướp đạo tăc cũng dần tiêu tan
Đưng kích thích lòng ham muốn ước
Khiến cho dân không được bình yên
Trong lòng, no dạ, ấm êm
Kẻ trí cũng chẳng làm nên điều gì.
Đây là theo phép vô vi
Trị mà không trị việc gì cũng nên !

Ngục trung nhật ký (tiep) Hồ. Chì minh

 14:14 17/07/2025

獄丁竊我之士的
一生正直又堅強,
攜手同行幾雪霜。
恨彼奸人離我倆,
長教我你各凄涼。

Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích
Nhất sinh chính trực hựu kiên cường,
Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương;
Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,
Trường giao ngã nhĩ các thê lương.

Dịch nghĩa
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường,
Dắt dìu nhau cùng đi đã mấy mùa sương tuyết;
Giận kẻ gian kia chia rẽ hai ta,
Khiến cho tôi và anh phải buồn thương mãi.
Sĩ-đích phiên âm từ tiếng Anh stick, có nghĩa là chiếc gậy
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường.
Dìu dắt nhau qua mấy tuyết sương.
Giận kẻ gian kia chia rẽ bạn
Khiến tôi, anh quá nỗi buồn thương!

Ngục trung nhật ký - Hồ Chi Minh

 21:13 16/07/2025

納悶
環球戰火鑠蒼天,
壯士相爭赴陣前。
獄裡閑人閑要命,
雄心不值一文錢。

Nạp muộn
Hoàn cầu chiến hoả thước thưjng thiên,
Tráng sĩ tương tranh phó trận tiền.
Ngục lý nhàn nhân nhàn yếu mệnh,
Hùng tâm bất trị nhất văn tiền.
Dịch nghĩa
Lửa chiến tranh trên hoàn cầu nóng chảy cả trời xanh,
Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận;
Trong tù, người nhàn lại nhàn quá đỗi,
Chí lớn mà không đáng giá một đồng tiền
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Lửa chiến tranh nóng chảy trời xanh
Trang sĩ đua nhau lập công danh.
Trong nguc người nhàn nhàn quá đổi.
Chí lớn không bằng nửa đồng cân !

Ngục trung nhạt ký (tiếp)

 21:08 16/07/2025

警兵擔豬同行
警士擔豬同路走,
豬由人擔我人牽。
人而反賤於豬仔,
因為人無自主權。

世上千辛和萬苦,
莫如失卻自由權。
一言一動不自主,
如牛如馬任人牽。

Cảnh binh đảm trư đồng hành
Cảnh sĩ đảm trư đồng lộ tẩu,
Trư do nhân đảm ngã nhân khiên.
Nhân nhi phản tiện ư trư tử,
Nhân vị nhân vô tự chủ quyền.

Thế thượng thiên tân hoà vạn khổ,
Mạc như thất khước tự do quyền.
Nhất ngôn nhất động bất tự chủ,
Như ngưu như mã nhậm nhân khiên.
Dịch nghĩa
Cảnh binh khiêng lợn đi cùng đường,
Lợn thì người khiêng, ta người dắt;
Người lại bị coi rẻ hơn lợn,
Chỉ vì người không có quyền tự chủ.

Trên đời nghìn vạn điều cay đắng,
Không gì cay đắng bằng mất quyền tự do;
Mỗi lời nói, mỗi hành động đều không được tự chủ,
Mặc cho người dắt như trâu, như ngựa.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Cảnh binh khiêng lợn cùng rảo bước.
Ta thì người dắt, lợn người khiêng.
Người bị coi rẻ hơn cả lợn.
Bởi người không có tự do riêng.

Trên đời nghìn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do.
Mỗi lời, mỗi việc không tự chủ
Để cho người dăt tự trâu bò!

Phu đường

 16:37 15/07/2025

築路夫
餐風浴雨未曾休,
慘淡經營築路夫。
車馬行人來往者,
幾人感謝你功勞。


Trúc lộ phu
Xan phong dục vũ vị tằng hưu,
“Thảm đạm kinh doanh[1]” trúc lộ phu;
Xa mã hành nhân lai vãng giả,
Kỷ nhân cảm tạ nhĩ công lao?
Dịch nghĩa
Dãi gió dầm mưa chưa từng lúc nghỉ,
Người phu làm đường tận tuỵ với công việc;
Ngựa xe và khách bộ hành qua lại,
Mấy ai biết cảm tạ công lao của anh?
Chú thích:
[1]
Một thành ngữ Trung Quốc, ý nói dốc sức, mưu toan, tận tuỵ với công việc.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Một đời dãi gió với dầm sương.
Tận tụy tận tâm kiếp phu đường.
Ngựa xe, hành khách, người qua lại
Biết có ai người chút cảm thương?

Gửi người tinh...

 12:08 15/07/2025

GỬI NGƯỜI TÌNH BÊN KIA ĐẠI DƯƠNG

Tiểu thuyêt của Đỗ Hoàng

Nhả xuất nả Phụ nữ năm 2009

( Trích)

CHƯƠNG I

Phần I

Tôi biết chị Thương rục rịch chuẩn bị định cư ở Mĩ từ hai mươi năm trước. Con cái chị vượt biên từ những năm 80, qua Mĩ làm ăn được nên muốn đón cả nhà cùng sang. Ở Việt Nam chị chẳng còn người thân nào mà vướng bận nữa. Bố chị thì đã mất từ lâu, mẹ chị cũng qua đười sau giải phóng 1975 sau vài năm. Đà thành không phải quê hương bổn quán, chỉ là quê chồng, nhưng anh em, chú bác, con cháu họ cũng đã đi Mĩ từ trước giải phóng miền Nam. Ngoài quê cha, đất tổ chẳng còn ai nội thân, mấy người bà con, xa lắc, xa lơ gặp nhau vài lần rồi cơm ai nấy ăn, việc ai nấy mần, tàu xe cách trở nên tình cảm ứ nhạt dần, nhạt dần.

Tôi chỉ đồng hương nhưng người dâng nước lã. Chị chần chừ như thế vì một chút tình quê mà thôi. Chị đi nữa coi như cõi Việt này chẳng những con chị không bao giờ trở lại mà chị cũng chẳng bao có cơ may hồi hương! Nhưng chị không thể không đi. Đà Thành là quê hương thứ hai của chị, nơi chị đổ mồ hôi, sôi nước mắt tạo dựng nên cơ nghiệp nhưng đã thành xa lạ khi tất cả người thân người thân tìm đến những phương trời xa lạ. Chị ở lại đất Việt như thế cũng đã lâu rồi.

Đứa con sinh sau giải phóng năm 1975 cũng đã gần 30 tuổi. Mấy đứa kia thì con đàn, cháu lũ

Biết chị sẽ có ngày ra đi, thế mà hôm nay chị đi thật! Sự thật vậy, mà tôi vẫn bất ngờ, vẫn choáng vàng. Một nỗi hoang trống lạ lẫm xâm chiếm lòng tôi.

Buồn, thật buồn!

Người làng tôi cứ bỏ xứ ra đi lần lượt. Mỗi người đi khuât như gọt máu rơi ra khỏi cơ thể đất mẹ! hức nhối và cảm buồn.Cái buồn đến trống trơ, hoang lạnh mà tôi là người đồng cảm với người bỏ sứ ra đi!
Thời trước bà con đi Thái, đi Lào… khuyết mất nửa làng. Người làng tôi ra đi đầu tiên ở Đà thành là chuẩn tướng Phạm Duy Tật. Tật đi lính khố đỏ thời Pháp lên tướng thơi Ngụy . Những ngày vỹ tuyến 17 ngăn đôi đất nước, Tật có bay ra kêu gọi dân làng hảy hướng về Quốc gia và hứa sẽ làm cho dân làng sung sướng. Những anh nông dân ngây thơ muôn đời tin tưởng thánh thần quên cả cày ruộng vòng vọng ngóng vào lời hảo huyền của Tật. Cái nhà rường năm lồng, năm gian, tường gạch tát vôi, mái ngói chạm trổ công phu đã chia đã chia cho cố nông trong thời cải cách ruộng đất, chỉ chừa một gian bếp cho bà con của Tật thờ cúng tổ tiên. Làng tôi rất lạ, người đi theo cách mạng, hay theo ngụy mà nên tướng cũng tự hào. Làm nên tướng bên cách mạng thì quá kiêu hãnh, nhưng làm tướng bên ngụy cũng coi là kẻ giỏi. Các cụ bô lão vuốt râu: “Không tài sao làm tướng người ta được”. Phe chính có kẻ ta, phe tà có kẻ chinh!

(còn nữa)

Nguj trung nhật ký (trích)

 12:02 15/07/2025

睡不著
一更二更又三更,
輾轉徘徊睡不成。
四五更時才合眼,
夢魂環繞五尖星。
Thuỵ bất trước
Nhất canh, nhị canh, hựu tam canh,
Triển chuyển, bồi hồi, thuỵ bất thành;
Tứ, ngũ canh thì tài hợp nhãn,
Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh.
Dịch nghĩa
Canh một, canh hai, lại canh ba,
Trằn trọc băn khoăn không ngủ được
Canh tư, canh năm vừa chợp mắt,
Hồn mộng đã quẩn quanh nơi ngôi sao năm cánh.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Canh một, canh hai lại canh ba.
Trằn trọc, băn khoăn giấc chẳng tà.
Canh bốn, canh năm vừa chớp mắt.
Sao vàng năm cánh hiện hình hoa!

Bị bắt ở Túc vinh

 21:04 14/07/2025

在足榮街被扣留 • Bị bắt giữ ở phố Túc Vinh
在足榮街被扣留
足榮卻使余蒙辱,
故意遲延我去程。
間諜嫌疑空捏造,
把人名譽白犧牲。
Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu
Túc Vinh khước sử dư mông nhục,
Cố ý trì diên ngã khứ trình.
Gián điệp hiềm nghi không niết tạo,
Bả nhân danh dự bạch hy sinh.
Dịch nghĩa
Phố tên Túc Vinh mà khiến ta mang nhục,
Cố ý làm chậm trễ hành trình của ta.
Bày đặt ra trò tình nghi gián điệp,
Không dưng làm mất danh dự của người.
Túc Vinh là tên một phố ở thị trấn huyện Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, nơi tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt ngày 29/08/1942. Câu đầu bài thơ còn ngụ ý chơi chữ, lấy “mông nhục” (mang nhục) đối lại với “túc vinh” (đủ vinh), làm tăng ý nghĩa mỉa mai hài hước việc bắt người vô lý
Đỗ Hoàng dịch:
Bị băt ở phố Túc Vinh
Túc Vinh mà mình ta mang nhục
Cố ý làm chậm bước chân ta
Bày đặt ra trò nghi gián điệp
Làm mất danh dự trước muôn nhà

Túc Vinh mà để ta mang nhục,
Cố ý dằng dai, chậm bước mình;
Bịa chuyện tình nghi là gián điệp,
Cho người vô cớ mất thanh danh.

Dịch đạo đức kinh (tiep)

 20:59 14/07/2025

CHƯƠNG 2
DƯỠNG THÂN
養 身
Hán văn:
天 下 皆 知 美 之 為 美, 斯 惡 已; 皆 知 善 之 為 善, 斯 不 善 已. 故 有 無 相 生, 難 易 相 成, 長 短 相 形, 高 下 相 傾, 音 聲 相 和, 前 後 相 隨. 是 以 聖 人 處 無 為 之 事, 行 不 言 之 教. 萬 物 作 焉 而 不 辭, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 功 成 而 弗 居. 夫 唯 弗 居, 是 以 不 去.
Phiên âm:
1. Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy.
2. Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo.
3. Vạn vật tác yên nhi bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị,công thành nhi phất cư.
4. Phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ.
Dịch nghĩa:
1. Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, thế là xấu vậy; đều biết tốt là tốt thế là không tốt vậy, bởi vì có không sinh ra nhau dễ khó thành tựu lẫn nhau, ngắn dài tạo thành lẫn nhau, trên dưới lộn lạo ra nhau, thanh âm hòa hợp với nhau, sau trước theo nhau.
2. Cho nên thánh nhân dùng Vô vi mà xử sự, dùng «vô ngôn» mà dạy dỗ.
3. Vạn vật hoạt động mà vẫn im lìm; sống động mà không (đòi quyền) sở hữu; lao tác mà không cậy công; công thành mà không lưu luyến.
4. Không lưu luyến nên mới không mất.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ở đời khen tuyệt vời cái đẹp
Cái xấu kia đã biết chen vào
Đời khen cái tốt thanh cao
Cái xấu len đến đã đến đào huyệt sâu
Không sinh, không diệt vì nhau
Cái trên,cái dưới, trước sau hòa đồng.
Thánh nhân vẫn cầu mong hòa hợp
Dúng vô vi cảm được vô ngôn
Công thành tất thảy vẹn tròn
Lặng im công sức vẫn còn mốt mai!

Ngục trung nhạt ký (tiếp)

 09:03 14/07/2025

Khai quyển 開卷 • Mở đầu tập nhật ký
開卷
老夫原不愛吟詩,
因為囚中無所為。
聊借吟詩消永日,
且吟且待自由時。
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Dịch nghĩa
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm.
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ta đây người chẳng thích ngâm thơ
Trong ngục ngồi không chỉ vật vờ.
Hãy mượn ngâm nga tiêu ngày rộng
Vừa ngâm, vừa đợi tự do chờ!

Đỗ Hoàng dịch "Nguc trung nhật ký"

 08:59 14/07/2025

Ngục trung nhật ký là tập thơ gồm các bài chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943 dưới dạng một quyển sổ tay nhỏ. Tác phẩm được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay tác phẩm đã được xuất bản nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật... Ngày 1-10-2012, thủ tướng đã ra quyết định công nhận đây là bảo vật quốc gia.
無題
身体在獄中,
精神在獄外。
欲成大事業,
精神更要大。

Vô đề
Thân thể tại ngục trung,
Tinh thần tại ngục ngoại.
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cánh yếu đại.
Dịch nghĩa
Thân thể ở trong ngục,
Tinh thần ở ngoài ngục;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.
Trong nguyên bản, bốn câu thơ này không có đầu đề, chép ở ngoài bìa tập Ngục trung nhật ký cùng hình vẽ hai tay bị xiềng, có lẽ được tác giả xem như lời đề từ cho toàn tập.
Đỗ Hoàng dịch:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn làm được việc lớn
Tinh thần phải lớn cao!

Thơ Lục Du

 13:56 13/07/2025

ĐỖ HOÀNG
GỬI VỀ ĐỒNG TÂM CHIA SẺ NỖI ĐAU QUÂN DÂN
陸遊
Lục Du 陸遊 (1125-1209) tự Vụ Quan 務観, hiệu Phóng Ông 放翁, người Sơn Âm, Việt Châu (nay thuộc Nhạn Môn Đạo, tỉnh Sơn Tây), thời Nam Tống ông đã làm quan Tri châu, Tri phủ, còn làm quan Quốc sử biên tu, ông là một vị thi nhân ái quốc. Sống vào thời kỳ hai hai triều Tống Kim đánh nhau, Lục Du trở thành một người rất trăn trở vì mất nước. Khi đó người Nữ Chân (vương triều Kim) đã đánh chiếm xuống phía nam, đất nước chia năm xẻ bảy, dân tình ly tán loạn lạc. Ông đã từng vào đất Nam Trịnh (Tứ Xuyên hiện nay) theo phong trào chống Kim, đã từng mặc giáp cưỡi ngựa vượt qua sông Vị cùng những toán kỵ mã yêu nước, ban đêm đột kích quân Kim nhiều lần. Ông có Kiếm nam từ chuyên tập lưu truyền đến nay.

春日雜興
夜夜燃薪煖絮衾,
禺中一飯值千金。
身為野老已無責,
路有流民終動心。

XUÂN NHẬT TẠP HỨNG
Dạ dạ nhiên tân noãn nhứ khâm,
Ngung trung nhất phạn trị thiên câm (kim)!
Thân vi dã lão dĩ vô trách,
Lộ hữu lưu dân, chung động tâm!

Dịch nghĩa:
CẢM HỨNG VẶT NGÀY XUÂN
Đêm đêm đốt củi sưởi ấm chiếc mền bông,
Bữa cơm non trưa đáng giá nghìn vàng!
Đã làm ông lão nhà quê, thân mình không còn trách nhiệm gì nữa,
Nhưng thấy ngoài đường có dân liếu xiêu, lòng ta vẫn thổn thức.

Dịch thơ:

CẢM HỨNG LẶT VẶT TRONG NGÀY XUÂN
Đêm đêm đốt củi sưởi mền bông
Một bữa cơm trưa vạn lạng ròng
Ông lão nhà quê không việc xóm
Thấy dân tan nát quá đau lòng.

Đỗ Hoàng dịch năm 1972, cao điềm chốt 280, biên giới Việt - Lào

Thow Nguyên Binh Phuowng quá kém!

 13:50 13/07/2025

Tập "Buổi câu hờ hững" của Nguyễn Bình Phương hết sức yếu kém, phi thơ ca






TẬP “BUỔI CÂU HỜ HỮNG” CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG ĐOẠT GIẢI THƯỞNG HỘI NHÀ VĂN HÀ NỘI HẾT SỨC YẾU KÉM – PHI THƠ CA

Đỗ Hoàng



Tập Buổi câu hờ hững gồm 35 bài, có 2 bài văn xuôi không ra văn xuôi, thơ không ra thơ, xin nói sau do Nhà xuất bản Văn học ấn hành tháng 9 năm 2011. Trong 33 bài đều không viết theo truyền thống từ cách cảm cách nghĩ và cách thể hiện. Nó là một thứ tù mù, rối rắm, đánh đố, tắc tỵ, hủ nút, sáo rỗng, đại ngôn, lủng củng, lởm khởm, khập khà khập khểnh, so sánh thì khệnh khạng, ví von thì khiêng cưỡng, ông nói gà bà nói vịt, bắt râu ông nọ chắp cằm bà kia, tiền hậu bất nhất, phi lô gic, cũ ky, cũ kỵ; khi thì thương mại (buôn bán), khi thì toán học, khi thì hóa học, khi thì vật lý, khi thì sinh vật học, khi thì Nôm, khi thì Hán chưa Việt hóa, khi thì bê nguyên xi tiếng Anh… Có nhiều bài nếu chuyển qua vè Việt còn kém vè Việt nhiều bậc; có nhiều bài như người nước ngoài học tiếng Việt 3 tiết rồi làm thơ Việt…


Nhà thơ Nguyễn Bình Phương (đầu tiên, trái qua)

Sau hậu chiến năm 1975, nhiều người sáng tác không bằng lòng với các khuynh hướng thơ trước minh như: thơ Mới, thơ chống Pháp, thơ chống Mỹ, thơ những người cùng thập kỷ, cùng thế hệ, họ quyết đi tìm một cách thể hiện cho khác người đi trước. Có người trước đây cũng làm theo thể thơ truyền thống nhưng họ vẫn quyết đoạn tuyệt thơ cũ để đổi mới thi ca; có người ngay từ đầu đã xa lánh các huynh hướng truyền thống, chối bỏ tất cả để tìm hướng đi cho mình.

Việc ấy thời nào cũng có. Đó cũng là điêu xảy ra đúng quy luật vận động của tư duy, của cuộc sống. Như tôi đã nhiều lần phát biểu: “Cuộc sống không đổi mới tiến lên lên thì sẽ bị ngưng trệ và đến mức bị tiêu diệt”. Trong khoa học, trong thi ca nghệ thuật, trong muôn loài cũng vậy. Nhưng mới như thế nào? (Xem “Vì sao tôi dịch thơ Việt ra thơ Việt” – Tạp chí Nhà văn năm 2009. Dịch thơ Việt (trích) – Báo Hà Nội mới chủ nhật năm 2010; Tạp chí Dặm nghìn đất Việt… đó là việc các nhà cách tân hay cách mạng phải hiểu rõ!

Đổi mới cũng phải có kế thừa và phát huy truyền thống thơ ca dân tộc và nhân loại. Muôn đời là như thế. Điều này những tác giả tự xưng là hậu hiện đại chối bỏ hoàn toàn. Nguyễn Bình Phương là một trong những đại biểu đó. Và xin mạn đàm về tập Buổi câu hờ hững.

Nguyễn Bình Phương trước đây tuân thủ các phép làm thơ truyền thống từ hình thức đến nội dung và có tập, có bài đọc được. Xem Vô lối Nguyễn Bình Phương – vannghecuocsong.com. Nhưng sau đó Nguyễn bình Phương quyết tâm đổi mới và không chấp nhận thơ truyền thống cũng từ hình thức đến nội dung.

Tính từ thập kỷ 80 đến nay, những người quyết tâm cách tân thơ Việt cũng đã 30 năm. 10 năm đã đủ để một khuynh hướng thơ, một trào lưu thơ thành công. Nhưng đã hơn 30 năm, tất cả các khuynh hướng từ nhóm đến tổ được nhiều tổ chức lăng xê mà đến nay nó vẫn không hề gây được tiếng vang gì mà cũng không gặt hái được thành quả gì trên văn đàn. Những cái được in ra được trao giải chỉ là những cái thử nghiệm chưa thành công. Không phải cuộc cách tân nào cũng thành công.

*

Tập Buổi câu hờ hững gồm 35 bài, có 2 bài văn xuôi không ra văn xuôi, thơ không ra thơ, xin nói sau do Nhà xuất bản Văn học ấn hành tháng 9 năm 2011. Trong 33 bài đều không viết theo truyền thống từ cách cảm cách nghĩ và cách thể hiện. Nó là một thứ tù mù, rối rắm, đánh đố, tắc tỵ, hủ nút, sáo rỗng, đại ngôn, lủng củng, lởm khởm, khập khà khập khểnh, so sánh thì khệnh khạng, ví von thì khiêng cưỡng, ông nói gà bà nói vịt, bắt râu ông nọ chắp cằm bà kia, tiền hậu bất nhất, phi lô gic, cũ ky, cũ kỵ; khi thì thương mại (buôn bán), khi thì toán học, khi thì hóa học, khi thì vật lý, khi thì sinh vật học, khi thì Nôm, khi thì Hán chưa Việt hóa, khi thì bê nguyên xi tiếng Anh… Có nhiều bài nếu chuyển qua vè Việt còn kém vè Việt nhiều bậc; có nhiều bài như người nước ngoài học tiếng Việt 3 tiết rồi làm thơ Việt…

Mở đầu tập sách là một bài rất buôn bán (thương mại) – Chào hàng. Nhiều người không am tường thơ ca thì tưởng rằng đây cuốn sách giáo khoa trường đại học Thương Mại (buôn bán) đóng trên Cầu Giấy dùng cho sinh viên học Khoa Makettin. Nếu nhìn tục một chút thì lầm tưởng cách chào ở các quán karaooke khi họ trương biển mời khách, hay các nhà nghỉ cò mồi làng chơi đến nghỉ … để vào xem hàng.

Đọc câu thứ nhất: Đây là lụa thì ai mà chẳng tin rằng có “gái đẹp” và đọc tiếp Nhễ nhễ mê man trong thân thể mê man thì ai mà không tin chốn này có gái mềm lữ và có hút thuốc phiện!

Sau màn chào hỏi, tác giả nhồi như nhồi ngỗng một lô một lốc thuật ngữ toán học mà các nhà toán học đọc lên cũng ngợp: cái tổng số, vô vàn, đây con số, bên lề dấu cộng, một phép nhân bay lượn, đây ngày lẻ, trong góc hẹp, ngày chẵn, một chú cún con, một ly cà phê, “số” không. 34 chữ thuộc thuật ngữ toán học đúng một trăm phần trăm(!)

Đây là một bài Vô lối viết khô khan, khô hơn ngói, vô cùng gượng gạo. Đến toán học là một môn khoa học tư duy khô khan cũng mượn vẻ đẹp vần điệu, tính nhạc của thơ ca để làm cho nó bay bướm. Xin dẫn chứng:

BÀI TOÁN TÍNH SỐ KHỈ ĐÀN

Họ nhà khỉ nhân khi nhàn rỗi
Rủ bạn bè mở hội liên hoan
Trên cây dưới đất hai đàn
Dưới thì nhảy múa, trên toàn hát ca.
Khách tới chơi đi ra vườn thấy
Phần tám bầy đem lấy bình phương,
Tiếng ca trầm bỗng du dương,
Có mười hai giọng mến thương dạt dào.
Khách vui thẻ tính xem sao,
Giữa rừng xanh đẹp có bao khỉ đàn?
(Đ- H sưu tầm)
Thế mà thơ ca lại đem vứt bỏ cái tinh túy của mình, biến câu chữ, hồn vía bài thơ như một cái xác không hồn.

Đọc kỹ câu sau nữa: Đây con số tinh anh ranh ma thì thấy tác giả sai cả kiến thức cơ bản trong tri thức, đời sống. Ai cũng biết hai chữ tinh anh là chỉ phần tốt đẹp của tâm linh, trí tuệ con người và cả thần linh. Thác là thể phách, còn là tinh anh (Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du). Làm sao phẩm chất đã là tinh anh mà còn ranh ma?

Đến bài Cắt tóc thì sống sượng, xơ cứng với những con chữ như khúc xương đẽo hết da thịt:
Tôi cắt tóc
Một người cực lạ
Rũ khăn choàng váng vất bước ra.

Trong bài tự Tự xông đât cũng viết trước gương của nhà thơ Lâm Huy Nhuận đầy hồn chữ, hồn người:
Giật mình đôi mắt trũng sâu,
Người trong gương ấy còn đau hơn mình.

Đọc Lâm Huy Nhuận thấy ngậm ngùi đau xót mãi cho kiếp mình, cho kiếp người.

Tập Buổi câu hờ hững thấy cái gì cũng không thật, cũng sống sượng, cũng giả. Hàng giả thứ thiệt. Giả đến mức viết về mình, về người yêu, về con, về gia đình bạn bè như mình là người ngoài cuộc.

Ta sinh ra cô đơn
Giờ cô đơn đã cũ
Ta trưởng thành bởi sợ hãi
Sợ hãi cũng cũ rồi
(Bài thơ cũ)

Cô đơn làm sao cũ, sợ hãi làm sao mà cũ. Nỗi đau luôn luôn mới kia mà! Chụp mũ hết chỗ nói!

Cụ Tú Xương bóc thật mình ta một cách chân thành nên hậu thế nhìn được bản ngã của. Cụ mới được hậu thế tôn vinh:

Vị Xuyên có Tú Xương
Dở dở lại ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường.

Con người của Buổi câu hờ hững là con người của vô tâm hờ hững, của lạnh lẽo tâm hồn. Ngay cả tình yêu đôi lứa là thứ tình quyết liệt nhất, đam mê nhất mà tạo hóa ban phát thì Nguyễn Bình Phương vẫn:

Và láng máng hình như mình từng yêu
Cát đã vơi lẹ làng yểu điệu
(Từ đồng hồ chờ trên máy tính)

Nên nhớ khi Lục Du khi ngoài 75 tuổi trở lại thăm Vườn liễu cũ vẫn nhớ một mối tình không thành của mình:

Thân này thành đất Cối Kê ấy,
Vẫn giữ trong tim một khối tình
(Bản dịch Đỗ Hoàng)

Cái vô tình ấy, cái lạnh lùng của Nguyễn Bình Phương càng thể hiện rõ khi viết về con :

E ò e, ò e tí toe ngo ngoe vò vẹ
(Chơi với con.)

Tôi đọc mà tưởng tác giả chơi với robot dog (chó máy) hoặc toy octopus (đồ chơi bạch tuộc cho trẻ con). Trẻ nghe e ò e, ò e tí toe, ngo ngoe, vò vẹ thì các cháu sẽ đái ra cả bỉm, vải ca linh hồn ông nội.
Chưa hết, ông bố còn hù tiếp như hù cọp như vậy.:
Lăn qua chữ nghĩa
Tôi rền vang tôi
Tôi đánh rơi ở nơi không tìm thấy
Rồi voi, hổ , báo, rùa vĩnh cửu…, hết thảy khuân ra hết để hô xung phong như ông đại đội trưởng ở chiến trường (dù xung phong làm cái chảo nấu ăn) để dọa con:

Tôi bị vướng vào thế giới ta bà
Con voi bé nhỏ, con voi kềnh càng, con báo lù lì, con rùa vĩnh cửu
Tôi xung phong làm cái chảo nấu ăn…
(Bài thơ đã dẫn)

Dọa từng ấy chắc con mình chắc chưa khiếp sợ, nên dọa tiếp để mai sau nó lớn lên nó theo bố làm binh nghiệp cho đặng dũng cảm:

Khuất trong góc nhà tôi có cả ta và giặc
Bánh xe màu lục, viên đạn vô hình
Khẩu súng ấy trắng bong như bột lọc
Tôi bắn gục thời gian không thèm tiếc…
(Bài đã dẫn)

Phim hành động, bạo lực của Mỹ ở Holoniut phải cầm sách đến đây mà học Nguyễn Bình Phương về cách dọa nạt trẻ con để nó trưởng thành tướng lĩnh(!)

Trong khi đó nhiều nhà thơ về con để lại trong lòng bạn đọc những tình cảm nồng hậu, thắm thiết về tình phụ tử:

…Con ngủ đi con, bố nằm bố quạt
Bố nghĩ bài thơ vừa viết ban chiều
Bố có con tâm hồn dịu mát
Mây có trời xanh, mây mịn đường thêu..
(Huy Cận)

Trong Buổi câu hờ hững có nhiều bài vô lối tuyên ngôn thơ nhưng đơn giản, gượng gùng, xơ cứng, tù mù và cũ kỹ:

Ta im lặng
Chim hót
Họ thì vỗ cánh bay
Ta viết
Chim bay đi
Họ thẩn thơ đậu xuống
Ta nhìn ta mai mái một làn sương
(Nhà thơ)

Cách đây gần 2 000 năm Lý Bạch đã nói điều này rồi mà nói bằng thơ:

ĐỘC TỌA KÍNH ĐÌNH SAN

Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
Tương khan lưỡng bất yêm
Duy hữu Kính Đình San

NGỒI MỘT MINH BÊN NÚI KÍNH ĐÌNH

Chim bầy cao bay vút
Mây lửng lơ một mình
Nhìn nhau không biết chán
Chỉ có núi Kính Đình!

(Đỗ Hoàng dịch)

Tôi đồ rằng tác giả Buổi câu hờ hững có thể bị tâm thần hoặc là bị chấn động thần kinh, tâm hồn bất định. Nhiều bài viết rất thiểu năng trí tuệ, giả đò (giả vờ): Buổi câu hờ hững, Phân chim, Chân dung khi trống trải, Khoảng giữa, Nói với em từ nơi trống trải, Hỏi…
Đặc biệt là bài Hỏi một bài hết sức giả đò :

Này cô em dáng hiền hiền xinh xinh
Bệnh viện là gì nhỉ?

Này cô em dáng hiền hiền xinh xinh
Bệnh nhân là gì nhỉ?

Kìa cô em dáng hiền hiền xinh xinh
Là bác sỹ hay là gì đấy nhỉ?

Ngạn ngữ quê tôi ( miền Trung) có noi: Giả đò đui dòm lồn!

Đúng như vậy!

Trong tập Buổi câu hờ hững đầy những lối nói kiểu cách, lởm khởm cũ như trái đất, cũ đến mức mà Tạng thư, Kinh Phật, Kinh Thánh còn không cũ hơn như: Trong phép màu khó hiểu, Đá xanh rêu với u huyền, Những áng bay ngọt lừ, Những luồng đạn căng lừ, Người yểu mệnh đứng bên lề dấu cộng, Tinh mơ luôn trở lại, Chứa những điều vằng vặc bên trong, Rạng đông nhen dưới gót chân Hời, Kìa vũ trụ thanh tân uyển chuyển, Lẩy bẩy chết dọc theo kim phút, Khóe miệng sương mù, Ngả từ thao thức vào hoang vắng… kể mãi cũng không hết những câu đại loại như thế!

Rồi rất nhiều triết lý vặt, lên gân, vô bổ: Tuồng như sống chỉ là rơi, Và hãy nhớ chúng ta không lay động…

Tiếp đến là lạm dụng âm Hán Việt chưa được Việt hóa bao nhiêu: Luyến ái, phù sinh, lạc thú, u huyền, hỏa xa, ngoạn mục, thanh tân… Rồi lại viết nguyên xi tiếng Anh trong câu tiếng Việt làm người đọc vô cùng khó chịu:

Lũ trẻ online câu hy vọng(!)

Nhiều người mỉa mai sao không viết hết cả câu tiếng Anh để thể hiện tác giả giỏi Englisch:
Childrens online sentence hope!

Hai bài như là văn xuôi Về một người thương binh hỏng mắt, Những cư dân vùng châu thổ sông Hồng, nhưng cùng không ra văn xuôi, nó là một thứ lưỡng cư, chấm phẩy lung tung, câu nọ xọ câu kia, nhiều đoạn tối mò, vô nghĩa. Ví dụ: - Anh bảo quê anh ở bên kia mùa hạ, tôi bắt gặp những rặng núi xanh và lau bạc. Chấm ở chữ hạ là đủ nghĩa tại sao lại phẩy ở đây? Tôi bắt gặp không ăn nhập gì với đoạn câu trước. Nhiều và nhiều lắm. Đến nỗi nhà văn Nguyễn Thiện Đạo nói với tôi: - Tôi đọc văn Nguyễn Bình Phương không biết ông ta viết gì (!)

Là người lính chuyên nghiệp nhưng trong tập sách Buổi câu hờ hững chỉ thấy thấp thoáng hai bài có “hương vị” lính đó là Trên đồi cao và Về một người thương binh hỏng mắt. Hai bài này người không ở lính vẫn viết được và viết hay hơn nhiều. Không thấy dáng đồng đội, tình quân dân ở đâu cả. Các nhà thơ thế hệ trước đã viết về đồng đội về tình quân dân cảm động:

Đồng đội ta là hớp nước uống chung
Là miếng cơm sẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia nhau đứng trong chiến hào chất hẹp
Chía nhau cuộc đời
Chia nhau cái chết!
(Đồng đội - Chính Hữu)

Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh Vệ quốc quân ơi!
Sao mà yêu anh thế!
(Cá nước – Tố Hữu)

Anh về cối lại vang lừng
Chim reo trên mái, gà mừng dưới sân
Anh về sáo lại ái ân
Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca
(Về làng- Hoàng Trung Thông)

Viết về người lính và không viết thì cũng không ai bắt. Nhưng nhà thơ của đất nước nào cũng phải thể hiện phẩm chất công dân của nước mình, nhất là những nhà thơ mặc áo lính. Mạc Ngôn là một dẫn chứng sinh động!

Nguyễn Bình Phương rất cố gắng tìm tòi cách tân nội dung, hình thức, ngôn từ biểu hiện nhằm làm cho thơ mình và thơ thế hệ có một nét khác biệt, mở đường cho cuộc đổi mới thơ ca của lớp nhà thơ sau thống nhất đất nước năm 1975., đó là điều đanghs trân trọng Nhưng tiếc thay nhà thơ không hiểu rằng: Cuộc cách tân nào, thậm chí cả cách mạng đều phải có kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc và nhân loại thì những cách tân, cách mạng ấy sẽ thành công lâu dài. Còn cuộc cách tân, cách mạng nào pha nát đạp quá khư thì sẽ thật bại. Nhãn tiền ấy ai cũng biết. Từ sau năm 1975 đến nay nhiều trào lưu tự xưng là hậu hiện đại hậu hậu hiện đại đều thất bại là vì thế!

Tập Buổi câu hờ hững rốt cuộc không có gì là mới, cha ông đã từng noi rồi:

Hà Nội ngày 5 tháng 11 năm 2012

Đ - H

Thích Minh Đạo vịnh

Hội sư quốc doanh không hiểu gì giáo ly Phật giao. Chúng nó chỉ v

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập73
  • Hôm nay3,546
  • Tháng hiện tại264,544
  • Tổng lượt truy cập477,058
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi