Học tiêng bản mường

 14:45 27/06/2025

Đỗ Hoàng

HỌC TIẾNG BẢN MƯỜNG

thầy miệt xuôi
lên miệt núi
đi qua trăm ngọn đèo
đi qua trăm ngọn suối
đến bản mường
học chữ bản mường thêm!

những âm thanh ngân lên
như tiếng mài gươm loảng xoảng
những âm thanh ngân lên
như lời hò hẹn
mùa sim vê
mùa hội đầu xuân!

tả rơ ve – tìm rau nấu canh
vil - tên làng, tên bản
cha pôồng – ăn sắn
cha đôi – ăn cơm
xà niệt – khẩu súng trường.

nghe một lần cái tai còn lạ
nghe nhiều lân, quen thân.

đi hết núi để tìm ngữ nghĩa
lên miệt cao hiểu nếp rú rừng

muốn làm thầy giáo giỏi trên nương
biết làm trò học chữ!
năm 1976

Tàm văn hóa tháp ---Nguyễn Qung Thiều

 14:43 27/06/2025

NGUYỄN QUANG THIỀU KHÔNG ĐỦ TẦM LÀM CHỦ BÚT CHƯƠNG
Đỗ Hoàng
So với những người cùng thế hệ, Nguyễn Quang Thiều được Công ân cho học tiếng Anh dù là người Mễ Tây Có dạy. ‘Méo mó có hơn không” Nhưng phong văn hóa của Thiều rất thấp , không thẩm mỹ đươc cái hay, cái đẹp của văn chương cha ông! Thiều qui tập một dàn “vô lối – thi tặc ( 27 ) tên.phá nát thi ca tổ tiên! Thiều lập cái trà hình Viết & Đọc để in bài vở cho nhóm, cánh hữu.
Thiều viêt:”Bạn phải luôn nghi rằng;”Ta sẽ lảm những điều mà trước ta chưa ai làm,ta sẽ làm ra những điều khác với những gì ta đã làm”. Đấy chính lâ sự can đảm. Đấy chính là bản chât của sáng tạo.. Trong sáng tạo không bao giờ không bao giờ co khái niệm “đi theo’, “làm theo”. Sáng tạo thực sự luôn mang tinh thần độc lập, riêng biết và cô đơn.”
Kiểu viêt của đứa vô học. Lê Quý Đôn nói: ‘người tài giỏi hơn hêt mọi người cũng không chối bỏ người trước” Trong Tâm lý học, có hiện thực, tưởng tượng mới sáng tạọ. Có cai xe dạp bánh gỗ mới co cái xe đạp bánh cao su., co sim sơn mới có honda,Sh,có sam 1, mới có sam2…có chữ la tinh mới có cho Thiều làm vô lối, tắc tỵ…
Với tầm nghĩ quá ngắn như vậy nên Thiều đưa Vi Thùy Linh lên tầm “sư hào” in 7 bài thơ trong Viết & Đocxin trích”số Chuyên dề mùa xuân năm 2024
“Rút ngắn nhất về mình.
ViLi là người hiếu tri
Không ngừng học học và say mê nghệ thuật
Nghệ thuạt là nghịp thường hăng
Y nghĩ và liên tưởng
Khi giặt, phơi, gấp đỗ
Khi tăm đêm để được đăm trong nước lâu hơn khi con ngủ
Khi đọc sach nghĩ về quyền lưc 24 chữ.
Tứng ký tự ghép nhau, tách – nối
Đôc thúc tôi….”
Nâng thơ Thi Hoàng lên tầm “Đậu Phụ” của Thiều
“Dây phơi nhà ai, chiếc nịt vu thơm lừng , nhìn đã thấy no nê” Lão già 83 tuổi (sinh 1943)
Mà mới thấy nịt vú con gái phơi nhà hàng xóm cường dương như thanh niên trẻ khỏe. Bài in trên báo Văn nghệ năm 2923!
(còn nữa)

Người Việt làm thư trowngr Hải quân Mỹ

 07:13 27/06/2025

TỪ CẬU BÉ TỊ NẠN CỘNG SẢN ĐẾN THỨ TRƯỞNG HẢI QUÂN HOA KỲ – CÂU CHUYỆN CỦA ÔNG HÙNG CAO
Ngày 26 tháng 6 năm 2025, Thượng viện Hoa Kỳ chính thức phê chuẩn ông Hùng Cao – một người Mỹ gốc Việt – làm Thứ trưởng Hải quân Hoa Kỳ. Đây là một vị trí cực kỳ quan trọng, chỉ đứng sau Bộ trưởng Hải quân. Cả nước Mỹ có hàng trăm ngàn quân nhân thuộc lực lượng Hải quân, và từ nay, họ sẽ có một người lãnh đạo cấp cao mang dòng máu Việt Nam.
Ai là ông Hùng Cao?
Ông Hùng Cao sinh năm 1971 tại Sài Gòn, trong một gia đình có cha từng là Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, cả gia đình ông phải bỏ nước ra đi, sang tị nạn tại Hoa Kỳ. Lúc đó, ông mới chỉ là một cậu bé 4 tuổi, còn quá nhỏ để hiểu vì sao mình phải rời bỏ quê hương, nhưng ký ức về những ngày tháng chạy loạn, sống đời tị nạn đã in sâu vào tâm trí ông.
Lớn lên tại Mỹ, ông theo học tại Học viện Hải quân – một trong những trường quân sự danh giá nhất nước Mỹ – và tốt nghiệp năm 1996. Sau đó, ông tiếp tục lấy bằng Thạc sĩ ngành Vật lý tại Học viện Sau đại học của Hải quân.
25 năm phục vụ không ngơi nghỉ
Ông Hùng Cao phục vụ trong quân đội suốt 25 năm. Ông từng tham gia nhiều chiến dịch quân sự tại những nơi nguy hiểm như Iraq, Afghanistan, Somalia… Ông không chỉ là một sĩ quan giỏi về chuyên môn, mà còn là người luôn nghĩ đến trách nhiệm và danh dự. Sau khi về hưu với cấp bậc đại tá vào năm 2021, ông vẫn tiếp tục phục vụ đất nước dưới hình thức khác – đó là bước vào chính trường.
Năm 2024, ông ra tranh cử vào Thượng viện Hoa Kỳ. Dù không giành chiến thắng, nhưng ông đã để lại ấn tượng mạnh vì lập trường vững vàng, tinh thần thẳng thắn và tình yêu nước nồng nàn.
Tháng 2 năm 2025, Tổng thống Donald J. Trump đã đề cử ông vào vị trí Thứ trưởng Hải quân. Và đến ngày 26 tháng 6, sau khi trải qua phiên điều trần tại Ủy ban Quân vụ Thượng viện, ông chính thức được phê chuẩn, trở thành người gốc Việt đầu tiên giữ chức vụ này.
Tấm gương cho bao thế hệ người Việt
Điều khiến người ta kính trọng ông Hùng Cao không chỉ là vì ông thành công, mà vì ông chưa bao giờ quên cội nguồn. Ông thường chia sẻ rằng những ký ức tuổi thơ về Việt Nam, về mất mát và đau thương trong ngày 30 tháng 4, đã hun đúc trong ông một tinh thần sắt đá – rằng nếu nước Việt không còn tự do để mình phục vụ, thì ông sẽ hết lòng phục vụ nước Mỹ – nơi đã cưu mang gia đình ông.
Ông Hùng Cao từng nói:
“Tôi lớn lên với nỗi đau mất nước. Và tôi không bao giờ muốn thấy nước Mỹ đi theo con đường của Việt Nam ngày ấy. Vì vậy, tôi sẽ làm tất cả để bảo vệ tự do cho thế hệ con cháu mai sau.”
Câu chuyện của ông Hùng Cao là minh chứng sống cho giấc mơ Mỹ – nơi một cậu bé tị nạn cộng sản có thể vươn lên trở thành lãnh đạo cao cấp của quân đội Hoa Kỳ. Nhưng hơn hết, đây là một lời nhắc nhở cho chúng ta – những người Việt sống xa quê – rằng nếu giữ được tinh thần dấn thân, trung thực và biết ơn, thì ta vẫn có thể làm rạng danh dân tộc, dù đi bất cứ nơi đâu.
Xin chúc mừng ông Hùng Cao – một người Việt chân chính, một chiến sĩ của tự do, và là niềm tự hào của cộng đồng ngư

Ham hố chưc danh

 07:10 27/06/2025

Bàn về con Đực!
Con đưc ham nhảy con cái là ưu điểm chọn giống. Con đực có ưu điểm này rât khôn. Thường sông tách đàn (như dào hang, nấp chỗ kín, đi lẻ...Con vật cap cao như người, thú thì chọn nui non, hang hốc ẩn mình như thầỳ tu, thầy cúng...để dẫn dụ con cái.... Nguyễn Lập viết truyện Đò ơi bị la ó cũng noi lên bnr tính cua con vật này!
ẢI QUA PHẢN BIỆN KÍN VÀ CHỈ CẦN 6 NGÀY SAU BẢO VỆ CẤP CƠ SỞ ĐÃ CÓ LUị la ó
Trong bản Giải trình với Bộ GD&ĐT của Trường Đại học Luật HN về nghiên cứu sinh (NCS) Vương Tấn Việt (Thượng tọa ThíchuyễnChân Quang) (xem ảnh) có nêu:
-Ngày 26 tháng 9 năm 2021: Đã bảo vệ cấp đơn vị chuyên môn (cấp cơ sở) theo Quyết định số 2289/QĐ - ĐHLHN;
-Ngày 3/10/2021 : NCS làm đơn xin bảo vệ luận án cấp trường;
-Ngày 3/12/2021: NCS bảo vệ luận án cấp Trường theo Quyết định số 3696/ QĐ-ĐHLHN ngày 1/11/2021.
Như vậy, từ khi NCS Vương Tấn Việt bảo vệ luận án TS cấp cơ sở đến ngày có đơn xin bảo vệ cấp Trường chỉ vỏn vẹn có 06 ngày (sáu ngày). Có mấy câu hỏi cần được Trường ĐHL HN giải thích thêm cho rõ:
Một là, không thấy Trường ĐH Luật HN nêu thời gian NCS chờ kết quả phản biện kín. Chẳng lẽ NCS này bảo vệ luận án TS mà không có phản biện kín (ý kiến đánh giá của 2 phản biện độc lập) hay sao ?
Hai là, nếu có phản biện kín mà quý Trường ĐHL HN QUÊN KHÔNG NÊU thì cần bổ sung thêm để giải trình Bộ GD&ĐT rõ và xin giải thích tiếp câu hỏi thứ hai:
Theo quy trình, 26/9/2021 NCS bảo vệ luận án TS cấp cơ sở thì phải cần ít nhất 01 tháng để hoàn thiện luận án. Sau đó chờ kết quả phản biện kín (2 phản biện độc lập) cũng phải cần ít nhất 01 tháng. Sau đó, NCS phải hoàn thiện luận án theo góp ý của 2 phản biện độc lập. Tiếp đến mới là công đoạn NCS nộp luận án để xin bảo vệ cấp trường, chạy nhanh nhất cũng mất 01 tháng. Như vậy, từ khi bảo vệ luận án cấp cơ sở đến khi bảo vệ cấp Trường phải mất ít nhất cũng là 3 tháng. Thực tế bản Giải trình cũng đã cho thấy chỉ riêng công đoạn xin Trường ĐHL HN ra Quyết định cho phép NCS bảo vệ luận án cấp trường cũng đã phải mất 01 tháng (3/10/2021-1/11/2021). Từ khi có Quyết định của Trường (1/11/2021) đến khi NCS tổ chức lễ bảo vệ luận án chính thức (3/12/2021)- công đoạn này hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào NCS - mà cũng phải mất 01 tháng. Vậy mà theo Giải trình của Trường Đại học Luật Hà Nội, nghiên cứu sinh chỉ mất 6 ngày từ khi bảo vệ cấp cơ sở (26/9/2021) đến khi nộp luận án cùng với đơn xin bảo vệ cấp trường và có Quyết định (1/11/2021) ??? Như thế là thế nào? Thật là vô cùng khó hiểu.
Xin quý Trường Đại học Luật Hà Nội giải thích rõ thêm hai câu hỏi trên!

Dân gốc rạ

 14:05 26/06/2025

Dân Gốc Rạ
Trân trọng cảm ơn anh, người cần mẫn quét rác. Em chúc anh Do Hoang cùng quý quyến an vui và hạnh phúc. Em nghĩ : sạch rác thì môi trường sẽ trong xanh.

Nguyễn Quang Trung

 14:02 26/06/2025

Nguyễn Quang Trung
Tôi buồn vì nhiều nhà thơ cổ xuý cho thơ văn xuôi. Thà là văn xuôi cho có thể có loại. Đằng này cứ như đưa "bò lạc"(cách nói trong hài Xuân Hinh) vào thơ. Ấy là thơ đã di vào tận cùng của cái sừng trâu, đi vào tử huyệt. Các nhà thơ văn xuôi đẫ bức tử thơ dưới ngọn cờ tung bay phấp phới dưới chiêu bài đổi mới. Anh nói đưa ra những nhà thơ phản thơ, phi thơ, ngợm hoá thơ mà tôi thấy buồn cho sự nghiệp văn chương nước nhà...

Tài trai

 15:17 25/06/2025

Vy nhân công sức còn lai
Trời xanh muôn thế muôn thế rộng dài
Hòn đá bên đường thành bại
Mỉm cười tay trắng đời trai!

Chêt oan!

 15:14 25/06/2025

Chết oan
Linh ở bên kia mấy tiểu đoan?
vô nhiều đưng chạt cả đường quan.
Ngày mai không biêt nơi nào dánh?
Nhat định có ngwif phỉ chết oan!

Suy ngẫm

 20:32 24/06/2025

Chí véi c¬­êi kÎ kia bÞ n¹n !
V× cuéc ®êi khæ ®au v« h¹n .
§¬­êng ng­êi ®i ch­a biÕt tËn cïng .
Nªn h•y khoan vç tay nh¹o b¸ng !

6-7-2001

VÉn biÕt binh ®ao lµ vËt gì .
Th¸nh nh©n khæ l¾m míi dïng.
Nh¬­ng bao kÎ vÉn thÝch huyÕt ®æ !
Để ®Þa cÇu m¸u ch¶y kh«ng ngõng !

18-5-2003

Th­¬îng §Õ nãi g× - Xin chí ®õng tin .
Th­¬îng §Õ mØm c­¬êi – Xin chí ®õng tin .
Vµ tÊt c¶ nh÷ng lêi Th­¬îng §Õ .
Tõ x­a nay đã đánh mất niềm tin !

9-6-2001

Thiều - Phấn - 2 Thi tặc

 20:29 24/06/2025

Tay Thiều cũng như tay Phấn hay khoe Mỹ, Columbia tặng giải thưởng Thơ! Những nước ấy biết gì thơ Việt, người đọc Việt. Ngay Hội Nhà văn Việt trao giải thưởng cho Nguyễn Quang Thiều năm 1993 tập sự mất ngủ của lửa - Một tập sách như Quỷ Sa tăng, ba đầu sáu tay! Tởm lợm!
Ảnh:
(1) Thi tặc số 1 - Thiều
(2) Thi tặc số 2- Phấn
Nhà thơ Đỗ Hoàng
Thi tặc số 1 Nguyễn Quang Thiều không biết làm thơ tiếng Việt , tư tưởng văn nô, tay nghề non nớt, việt lách thần kinh, thừa ý, thiếu lời, dốt đặc cán mai, loăng quăng chu nghĩa, dâm loạn bẩn thỉu hơn nhà chó đẻ...Thế mà hắn làm Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam(!) Có thời nào như thời này?
Nguyễn Quang Thiều
Nguyên bản(1)
Trong quán rượu rắn
Những con rắn được thủy táng trong rượu
Linh hồn nó bò qua miệng bình nằm cuộn khoanh đáy chén
Bò nữa đi, bò nữa đi qua đôi môi bạc trắng
Có kẻ say gào lên những khúc bụi bờ
Một chóp mũ và một đôi giày vải
Mắt ngơ ngơ loang mãi đến chân trời
Nhóm u uất trong những vòm tháp cổ
Người suốt đời lảm nhảm với hư vô
Như đá vỡ, như vật vờ lau chết
Thơ âm âm, thơ thon thót giật mình
Kinh hãi chảy điên cuồng như lưỡi liếm
Ngửa mặt cười trong tiếng khóc mộng du
Bò nữa đi, bò nữa đi, hỡi những linh hồn rắn
Nọc độc từng tia phun chói trong bình
Người không uống rượu mà uống từng ký ức
Mạch máu căng lên lên những vệt rắn bò
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
Rừng mang mang gọi những khúc thu vàng
Rượu câm lặng chở những linh hồn rắn
Có người say hát lên bằng nọc độc của mình.
(1) Bài rút trong tập Thi Tửu - NXB Hội Nhà văn quý IV năm 2007
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt:
Trong quán rượu – mắm rắn
Lũ rắn độc bị đem tửu táng
Hồn bò quanh đáy chén, miệng bình
Bò nữa đi qua môi bạc trắng
Kẻ say gào giọng rượu thất kinh!
Áo quần, mũ, tất giày trút bỏ
Mắt ngu ngơ hoang mạc chân trời
Nỗi u uất ứ vòm tháp cũ
Với hư vô lảm nhảm suốt đời!
Như đá vỡ, như vật vờ lau chết
Hồn rên lên, tim thon thót nhói lòng
Kinh hoàng chảy điên cuồng như lửa liếm
Ngửa mặt cười khóc mộng du không!
Bò nữa đi! Hỡi những linh hồn chết!
Nọc độc phun bầm cả đáy vò
Ta uống rượu và uống từng ký ức
Mạch máu căng lên những vệt rắn bò!
Đêm dài rộng chôn vùi trong quán vắng.
Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng.
Rượu câm lặng chở bao linh hồn rắn.
Hát bằng nọc độc mình, kẻ xỉn hú rất hăng!
Hà Nội ngày 13 - 1 - 2008
Bài Vô lối
- Những người đàn bà gánh nước sông
Nguyễn Quang Thiều.
Nguyên bản:
Những ngón chân xương xẩu móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm mười lăm năm ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết rồi
Những người đàn ông giận dữ buồn bã và bỏ đi
Đã năm năm mười lăm năm ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi
1992
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt :
Những người đàn bà gánh nước sông
Bàn chân toẽ như chân gà mái
Quá nửa đời non dại tôi trông.
Đàn bà xuống gánh nước sông
Bối tóc vỡ xối bềnh bồng trên lưng
Tay giữ chặt giữa chừng đòn gánh
Tay vịn vào mây trắng như tơ
Sông trôi úp mặt vào bờ
Trai mang mơ biển lặng tờ ra đi.
Cá thiêng khóc rầu rì quạnh quẻ
Chiếc phao ngô cô lẻ chết rồi!
Đàn ông giận dữ ôi thôi.
Nuốt sầu ngao ngán chán đời đi luôn.
Nửa đời trải thấm buồn tôi thấy
Lũ trẻ con níu váy u già
Lớn lên giữa chốn bùn sa.
Gái thay mẹ gánh nghèo qua bến thuyền
Con trai mộng triền miên mơ biển
Vác cần câu lặng biến tha hương
Cá thiêng quay mặt lệ tuôn
Để trơ cái lưỡi câu lươn lộ mồi!
Hà Nội ngày 6 tháng 5 năm 2010
Đ - H

Vô lối Nguyên Quang Thiều...

 14:55 24/06/2025

VÔ LỐI NGUYỄN QUANG THIỀU
(Bài do tác giả gửi CBTT)
Đỗ Hoàng
Vô lối là một loại viết có từ thập kỷ 60 thế kỷ trước và bùng phát nhiều nhất từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến hôm nay. Nó càng bùng phát hơn nữa khi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 trào giải cho tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều và vừa rồi (năm 2011 - 2012), Hội Nhà văn Việt Nam lại tiếp tục trao giải cho cả 4 tập của các tác giả Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Định Thị Như Thúy, kiểu viết như Nguyễn Quang Thiều nối dài.
Điển hình của Vô lối là triệt tiêu một trăm phần vần điệu, xóa bỏ cách nghĩ, cách cảm của ông cha và thơ ca truyền thống dân tộc và thế giới, tắc tỵ, rắc rối, tù mù, dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống, nhạt nhẽo, đánh đố mình, đánh đố người đọc, dung tục, tình dục bệnh hoạn, sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, tuỳ hứng…
Vô lối có một đặc điểm nữa là không thể đọc nổi vài ba dòng.
Nguyễn Quang Thiều cũng là một trong những đại biểu của Vô lối ấy vừa được các báo chí chính thống, các vụ viện chính thống, các học giả, nhà phê bình, giáo sư đại học, cánh hẩu viết bài lắng xê, ca ngợi hết lời. Họ coi đó là sự là “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân”, Thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn từ mẫu gốc” (Tạp chí Nhà văn số 6 - 2012); “Hộp đen” Nguyễn Quang Thiều – Báo Văn nghệ số 17 + 18 tháng 4 – 2012...
Cách tân tức là làm mới không chỉ ở thơ ca mà trong cuộc sống muôn loài cũng phải luôn luôn đổi mới để phát triển tồn tại. Thế hệ sau tiến bộ hơn thế hệ trước thì muôn loài, muôn vật, xã hội mới phát triển, không thì chỉ dừng lại và đi đến triệt tiêu!
Nhưng làm mới như thế nào? Tôi đã nhiều lần nói về việc làm mới. Làm mới – cách tân chứ không phải cách mạng. Đến như cách mạng lật đổ hoàn toàn quá khứ mà người vẫn còn giữ gìn và tiếp thu những ưu tú của đời trước để lại, huống hồ cách tân - làm mới, phải có kế thừa và phát huy cái hay, cái đẹp của dân tộc, của nhân loại. Nhà bác học Lê Quý Đôn nói: “Người tài giỏi hơn hết một thời, cũng không được phá bỏ đời trước”
Những người tìm tòi đổi mới thơ ca là đáng trân trọng. Nhưng lấy cớ tìm tòi đối mới để phá bỏ, đạp đổ những chuẩn mực, những tinh hoa của cha ông từ muôn đời để lại là một ý nghĩ, hành động điên rồ.
Hàn Mặc Tử có nói: “Vẫn biết thơ ca phải tân kỳ (mới và lạ), song thơ ta là thơ quốc âm, người phương Đông chuộng nỗi đau thâm trầm, nỗi buồn kín đáo. Ta phải thể hiện cái tinh thần phương Đông ấy.”
Nhưng những người viết hôm nay và nhất Nguyễn Quang Thiều không theo tiêu chí ấy mà đi tìm một cách viết rất chi là Vô lối.
Nguyễn Quang Thiều cố tìm một cách nói, cách lập ngôn như việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” – (Hỏa đích bất thụy sự), đã thể hiện cách ấy. Đọc thấy lạ tai, không theo cách nói cách viết thuần Việt, nó như là cách viết của Tây, nhưng Tây người ta không viết thế. Câu thơ, câu văn của Tây dài nhưng phải chính xác, không thừa chữ, không thừa ý và phải thuần chủng ngôn ngữ. Đằng này Nguyễn Quang Thiều cố tạo ra cách viết lạ nhưng lại vừa dùng chữ nước ngoài, vừa không theo cách cảm cách nghĩ của dân tộc. Cách này cũng đã có người trước Nguyễn Quang Thiều viết như “Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai” (Liên khúc những bài thơ tình thời cách xa – Thanh Tâm Tuyền)
Chữ sự nguyên là chữ Hán đã tương đối Việt hóa. Nó có ba nghĩa : 1- việc, 2 - làm việc, 3 - thờ. Không hiểu sự mất ngủ của lửa ở đây là việc, làm việc hay là thờ? Suy đoán trong bài hiểu theo nghĩa Hán “Hỏa đích bất thụy sự” thì có thể là việc. Dịch ra là “Việc mất ngủ của lửa” chắc là đúng ý tác giả!
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Hồ Chí Minh)
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Xuân Thủy dịch)
Thời Nguyễn Đình Chiểu, cũng là thời Hán học đang thịnh hành, cụ Đồ Chiểu còn đi thi tú tài Hán học, thế nhưng thơ Cụ, văn tế, phú của Cụ thì rất Việt hóa.
Việc cấy, việc cày việc bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cớ mắt chưa từng ngó
(Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc )
Nếu viết như Nguyễn Quang Thiều và Thanh Tâm Tuyền là phải:
Sự cấy, sự cày, sự bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cờ mắt chưa từng ngó
Lại bàn về mất ngủ. Mất ngủ chỉ một trạng thái tâm lý của con người do lao lực, do nghĩ ngợi đau khổ nhiều, thần kinh yếu, do chấn động thân kinh, do chấn thương sọ não …nên dẫn đến mất ngủ. Nói chung nó là một trạng thái bệnh lý nhiều hơn. Còn người khỏe mạnh, thần kinh vững vàng thì khó có thể mất ngủ.
Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
(Hồ Chí Minh)
Người khỏe mạnh, cứng rắn, người ta chưa ngủ hoặc người ta không ngủ để lo quốc gia đại sự, chứ họ không bị chứng bệnh mất ngủ!
Vì vậy việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” vừa không Việt hóa, vừa thừa chữ, thừa lời, vừa không ổn trong nhận thức. Có thể đặt theo cách thuần Việt “Lửa mất ngủ” hoặc “Lửa thức”…
Cách đặt tựa đề, đặt câu này Nguyễn Quang Thiều lặp đi lặp lại ở nhiều bài khác như: “Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi” (Tiếng vọng) – In trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập một, tháng 1 năm 2011.
Ảnh Thiều
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều đa phần dài dòng văn tự. Viết ngắn viết dài tùy theo cảm xúc, suy nghĩ, tùy theo mức độ tình cảm của tác giả. Cái đáng viết dài thì viết dài, cái đáng viết ngắn thì viết ngắn. Có cái không đáng ba dòng tác giả lại kéo ra tràng giang đại hải
“Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi”
(Những người đàn bà gánh nước sông)
Hay:
“Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được giàn dụa nước mưa sông. “ (Sông Đáy)
Nên nhớ rằng “ Đoản thi tối hảo phá” (Thơ ngắn có sức mạnh vô biên). Ngay phương Tây cũng có nói phải cô níc (viết ngắn).
Bác Hồ cũng đã từng nói: “Bác ít có thi giờ xem văn nghệ, nhưng khi xem thì thấy nó dài dòng, dây cà ra dây muống, hình như người viết cố viết dài ra để lấy nhuận bút. Rồi lại sính dùng chữ nước ngoài. Chữ ta có thì nên dùng chữ ta, chữ ta không có mới mượn chữ nước ngoài – theo “Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt – Sửa đổi lề lối làm việc)
Có nhiều bài viết vừa dài, vừa lập luận thừa thải. Điển hình là bài “Những người đàn bà gánh nước sông” (đã trích dẫn ở trên). Ví dụ câu:
"Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy”. Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy, thì cần gì phải kể đến từng chặng một thời gian như vậy. Kể thế sao cho hết. Nếu kể thế thì phải viết cho đủ: Đã một năm, đã hai năm, đã ba năm… đã và đã, thì đến bao giờ mới kể xong. Viết chỉ ngắn gọn là “nửa đời tôi thấy” thì vừa đầy đủ, vừa chính xác. Còn có những người, họ chỉ sống 50 tuổi , 40 tuổi, 30 tuổi thì sao?
Mỉa mai thay bài này đã được chọn in trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX(!)
Cách nghĩ và cách viết không chính xác, viết lấy được của Nguyễn Quang Thiều còn nhiều nhiều. Như bài “Trong quán rượu rắn”. Người ngồi trong quán rượu rắn, chắc là không uống rượu nên tỉnh bơ, như uống nước chai lave “Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ/ Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng”. Người đọc tưởng tác giả đang đi dạo rừng thu bạch dương ở bên Nga!
“Những con rắn bị thủy táng trong rượu". “Thủy táng” là chôn nước. Táng - nguyên chữ Hán là chôn, vùi đã tương đối Việt hóa. Khi người chết, nhất là người thân, người ta dùng chữ táng cho nhẹ đi, đỡ đau hơn nếu dùng chữ Việt là chôn hoặc vùi. Từ cổ đến nay có nhiều cách táng: thổ táng, hỏa táng, thủy táng, mộc táng, điểu táng, thạch táng, cẩu táng, điện táng… “Những con rắn bị thủy táng trong rượu” – Tức là những con rắn chôn nước trong rượu. Thật ra rượu là nước có nồng độ men cao, cũng như nước biển có nồng độ muối cao mà thồi. Những người đi biển khi chết được đem bỏ xuống biền và nói như cách nói của Nguyễn Quang Thiều: “Những con người bị thủy táng trong biển”. Nó vô lý và buồn cười, đau xót biết bao cho cách lập câu, cách viết như thế này.
Cha ông ta đã có cách nói rất hay khi đem bỏ thảo quả và động vật quý làm thuốc vào rượu và gọi là “ngâm rượu”: táo ngâm rượu, cam ngâm rượu, lê, mận ngâm rượu, bìm bịp ngâm rượu, rắn độc ngâm rượu… Nếu nói cho có hình ảnh mượn chữ Hán thì có thể nói “những con rắn bị đem tửu táng”!
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều rất kém thi pháp (nghệ thuật thơ), lạm dụng nhiều chữ nhiều từ như : khóc, vỹ đại, lạm dụng từ Hán Việt chưa được Việt hóa…
Những con cá thiêng quay mặt khóc
………
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
(Những người đàn bà gánh nước sông – đã dẫn).
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quì xuống vốc cát ấp vào mặt
Tôi khóc.
(Sông Đáy)
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo gọi Nguyễn Quang Thiều là “nhà khóc học” thật không sai!
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
(Trong quán rượu rắn)
Cha ông ta có những phép tu từ rất diệu nghệ, người ta không hề nói đến một chữ khóc mà đời nào nghe cũng rưng rưng:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi!
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn
Hay:
Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả mẹ chín chìu ruột đau!
(Ca dao)
Bạn về chẳng có chi đưa
Có hai lọn nếp mà chưa lặt lòn!…
(Ca dao)
Rồi mùa toóc rạ rơm khô
Bạn về quê bạn biết mô mà tìm
(Ca dao)
Ở đây Nguyễn Quang Thiều và nhiều người viết khác dùng vô thiên lũng chữ “ khóc”, người ta gọi là các “nhà khóc học” mà chẳng làm một ai mủi lòng! Thật là tại hại!
Nguyễn Quang Thiều hay viết về quê hương mình, vùng làng Chùa, sông Đáy là xứ Đoài xưa nhưng không hề thầy bóng dáng “Xứa Đoài mây trắng” ở đâu, không thấy áo lụa Hà Đông ở đâu, không thấy Hà Tây quê lụa ở đâu? Một miền cội nguồn dân ca Bắc Bộ, một miền hát xoan, ghẹobiến mất trong cách viết của Nguyễn Quang Thiều!
Mà Xứ Đoài không chỉ người con của xứ sở ấy máu thịt mà cả dân tộc, thậm chí cả châu Á, châu Âu cũng có trong hồn của họ.
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuy khoắt thổi đêm trăng
(Quang Dũng)
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt nhớ
Bởi vì em mặc áo lụa Đông
( Nguyên Sa)
Bóng chiếc thoi đưa, ánh mắt long lanh, trời đất Hà Tây quê em dệt lụa
Mây trắng Ba Vì…hồn thơ Nguyễn Trãi
(Hà Tây quê lụa – Nhật Lai)
Một lần trò chuyện với nhà văn Trung Quốc Trịnh Bá Nông nguyên Tổng biên tập báo Văn Nghệ Trung Quốc tại Bắc Kinh, ông nói: “Ở việt Nam tôi yêu thích nhất là Ca dao và Quan họ Bắc Ninh”. Trong khi đó các nhà thơ, nhạc sỹ nước mình đi tìm con cáo lông đen (ý của Gam zatop) ở đâu đâu.
Viết ngắn, viết giản dị mới khó. Đông Tây, kim cố gì cha ông cũng đã dạy
Rien n’est plus dificille que d’ecrire ficille - Không có gì khó bằng viết dễ hiểu – Châm ngôn Pháp. "Công phu thâm xứ thi bình dị" - Thơ hay nhất là thơ dễ hiểu – Lục Dụ đời Tống, Trung Quốc.
Điển hình cho sự dài dòng văn tự, tắc tỵ lố bịch, quái dị của Nguyễn Quang Thiều là bài “Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ”.
(Trích)
"Người hướng dẫn : Được dệt thủ công bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
"Người mua : Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm"…
Kịch không ra kịch, đối thoại không ra đối thoại, tế không phải tế, cáo không phải cáo, điếu văn cũng không ra điều văn, kể chuyện học sinh cũng không ra kể chuyện học sinh, nhật ký cũng không phải nhật ký, hát ru bà, hát ru ông cũng không phải… Nó là một thứ ba đầu sáu tay, quái thai văn chương. Thế rồi nó lại còn dung tục: “Một bà già đi tiểu 5 lần nói: “Mẹ đau lắm!”. Trong bệnh viện khoa dưỡng lão, các bác sỹ ghi bệnh án còn sạch sẽ hơn nhiều cái gọi là thơ này!
Thơ hậu hiện đại có thể lược bỏ vần điệu, coi nhẹ vần điệu nhưng ý tứ phải sâu sắc, hình ảnh phải mới lạ, độc đáo, tình cảm phải dạt dào rung động người đọc mới chấp nhận:
Thời gian ơi, xin hãy đừng trôi nữa
Đó là lời khẩn cầu
Của những kẻ đang yêu
Tại sao các vị lại không khẩn cầu ngược lại
Tình yêu hãy ở bên các người mãi mãi
Còn thời gian thì:
Cứ kệ nó trôi đi…
(Thời gian và tình yêu – Ion Milos – Nhà thơ Thụy Điển – Thơ hậu hiện đại – Phạm Viết Đào dịch)
Hay:
Người đẹp
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
(Dân ca Dáy)
Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết- nhìn người đẹp lại không muốn chết nữa
Ơ! Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!
(Lò Ngân Sủn)
hay:
Hôm qua sáu giờ năm mươi phút
Đồng chí Lê nin từ trần
Năm này chứng kiến một lần
Điều bất hạnh trăm năm không thấy nửa
Ngày ngày muôn thuở
Sẽ là truyền thuyết đau thương
Tin kinh hoàng
Sắt thép bất tiếng kêu than
Sóng nức nở trên những người cộng sản
Sức nặng đè ghê gớm
Không lê nổi chân đi
Biết thế nào đây và làm gì nữa!
Nhà hát lớn trôi trên đường phố
Nỗi buồn như một cỗ xe tang
Nỗi vui bò như ốc như sên
Nỗi buồn chạy như điên như dại
Không ánh mặt trời
Không ánh băng sang dọi
Tất cả đã rắc một lớp tuyết đen
Sàng qua báo chí
Tin ập tới
Người công nhân trước máy
Như một chén lệ đổ xuống bàn dụng cụ
Trẻ nhỏ bỗng nghiêm trang như các cụ già
Các cụ già khóc như trẻ nhỏ!...
(Trường ca Vladimia Ilích Lê nin – Maiacop xki – Trần Dần dịch)
Hay:
Sầm phu tử
Đan Khâu sinh
Tương tiến tửu
Bôi mạc đình
Thỉnh quân ca nhất khúc
Vị ngã khuynh nhĩ thinh
Chung cổ soạn ngọc bất túc quý
Đã nguyện trường túy bất nguyện tinh
Cổ lai thánh hiền giai tỉnh mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Tương tiến tửu – Lý Bạch)
Sầm Phu tử
Đan Khâu sinh
Sắp mời rượu
Đừng có sai
Mời anh ca một khúc
Vì tôi nghe mầy bài
Rượu tiệc ngon giữa trống chiêng nào có đáng quý
Không muốn tình cứ say sưa mãi hoài
Xưa nay thánh hiền có ai tên tuổi
Chỉ kẻ uống rượu là lưu danh muôn đời
(Sắp mời rượu – Đỗ Hoàng dịch)
Nói vậy, chứ tiếng Việt lược bỏ hoàn toàn vần điệu rất dễ chuốc lấy thất bại thảm hại. Vì tiếng Việt hoặc tiểng phương Đông là xỉ âm – phát ra từ răng, phần nhiều một âm tiết, không như tiếng các Âu – Mỹ - đa âm tiết, một từ nói đã có tính nhạc trong đó ví dụ như bữa ăn sáng (phiên âm): bờ rét phát, đẹp - bui ti phul (Anh ), đẹp - kờrát xvưi (Nga)…
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và một số nhà thơ, người làm thơ khác cũng có công cố gắng tìm tòi, đấy là điều đáng trân trọng. Nhưng theo quan điểm và cách thưởng thức, thẩm định của tôi thi những gì họ viết ra không phải thi ca, văn chương. Họ hoàn toàn thật bại một trăm phần trăm.
Người viết ra loại Vô lối thật đáng trách, người tung hô, in ấn lăng xê càng đáng trách hơn, tố chức nào đó trao tặng giải thưởng, khuyến khích cổ vũ thì đáng trách vô cùng. Những người này nếu được đề bạt quản lý cầm cương nảy mực nền văn nghệ nước nhà thì văn chương Việt đi đến đâu? Nhãn tiền ấy mọi người đã rõ!
Hà nội ngày 1 – 6 -2012
Đ.H.

Thơ tự do. thơ vô lôi

 14:47 24/06/2025

THƠ TỰ DO - VÔ LÔI THI TẶC (tiêp theo 2)
Đỗ Hoàng
Lằn ranh giữa Thơ Tự Do và Vô lối Thi tặc chỉ một sợi tóc nhỏ. Người ta bảo: “Làm thơ không vần như đi xếc trên giây, rất dễ thất bại!”
Đó là mới không vần, còn đã không vần lại còn viết dung tục, dâm loạn, bẩn thỉu, kiến thức sách vở, kiến thức đời nông cạn, ngu độn nữa thì chỉ có vứt vào hố xí ! Các kiểu viết của đám Vô lối Thi tặc đều vứt vào hố xí!
Thơ Tự Do:
Bạn tôi
trên thép gai ba tầng,
tay chưa rời báng súng
chân lưng chừng nửa bước xung phong!
(Chính Hữu)
Vô Lối Thi tặc:
Tôi anh lính phong tình
nhìn sương núi vờn quang thân súng
lòng côn cào vũ điệu giao long
(Nguyễn Bình Phương)
Như đã so sánh trước, đặt hai bài cạnh nhau, một bên là người tiên ở trên trời, một bên là con quỉ dâm tà hôi hám chui rúc trong hầm tối; một bên là ánh mặt mặt trời chói lòa, một bên hang rắn đen ngòm nhà thổ! So sánh là khập khiểng, nhưng quả vậy.
Chính Hữu viết về đồng đội, sự hy sinh của đồng chí như tạc bức tường kỳ vĩ của những anh hùng vô cùng thánh thượng. Còn Nguyễn Bình Phương viết tự thú quá dung tục, bẩn thỉu. Tự xưng mình là kẻ phong tình, lính phong tình, điều ấy hiếm xảy ra. Lý Hạ, Lý Thân bên Tàu lấy nhà thổ làm nhà, trai Thái Lan ngủ với điếm “cần tăng dân số” bị ăn ruỗng, khi đi tiều đái xòe như cái xoa tưới nước mà chưa dám nói mình là kẻ phong tình!
Rồi lính ngụy, lính Đại Hàn đem lậu giang mai làm cho gái miền Nam một thuở kinh hồn bạt vía chưa nhận phong tình, trăng hoa, lẳng lơ!
“Nếu mai đụng độ ta còn sống
Về ghé sông Mao phá phách chơi
Chia bớt nỗi sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một giờ vui »
(Nguyễn Bắc Sơn)
Kẻ phong tình chí có người đời xác nhận, và hình tượng trong sách vở. Mã Giam Sinh, Đông Joăng …
“Châng ngờ gã Mã Giám Sinh
Vẫn là một đứa phong tình đã quen
Quá chơi lại gặp hồi đen
Quen mùi ăn kiếm ở miền nguyệt hoa »
Đây là lần đầu tiên cõi Việt, một anh bộ đội cụ Hồ tự thú « Tôi là anh lính phong tình » !Tạp chí Nhà văn & Tác phẩm in bài này đã là sai lầm lớn. Không có quân đội nào, nước nào chấp nhận tên lính phong tình ở trong quân ngũ. Nhửng tên lính nhà thổ này phải tước quân tịch đuổi ra khỏi quân đội !
Tham khảo nhân loại làm thơ tự do - nhà Walt Whitman nước Mĩ! – Trường ca Lá cỏ - Bài hát về tôi (trích)
Xứ tự do cho thi nhân bộc bạch hết cái tôi. Cái tôi người ta vẫn trong sáng. Có đâu cai tôi như anh lính Nguyễn Bình Phương. Cái tôi thổ tả !
1 - Song of Myself
I celebrate myself, and sing myself,
And what I assume you shall assume,
For every atom belonging to me as good belongs to you.
I loafe and invite my soul,
I lean and loafe at my ease observing a spear of summer grass.
My tongue, every atom of my blood, form’d from this soil, this air,
Born here of parents born here from parents the same, and their parents the same,
I, now thirty-seven years old in perfect health begin,
Hoping to cease not till death.
Creeds and schools in abeyance,
Retiring back a while sufficed at what they are, but never forgotten,
I harbor for good or bad, I permit to speak at every hazard,
Nature without check with original energy.
Đỗ Hoàng dịch:
1 – Bài hát về tôi
Tôi tôn sùng tôi, ca hát chỉ về tôi.
Và những gì tôi làm, bạn thừa nhận
Vì mọi nguyên tử thuộc về tôi đều thuộc về bạn.
Tôi nhác nhớn, tôi gọi trái tim tôi
Tôi nghiêng người mệt mỏi nhìn ngọn cỏ mùa hè.
Lưỡi của tôi, mỗi nguyên tử trong máu của tôi, hình thành từ đất này, không khí này,
Sinh hạ từ cha mẹ ở đây, cha mẹ cũng sinh hạ ở đây, giống nhau, và cha mẹ họ cũng vậy,
Tôi, bây giờ 37 tuổi, cái tuổi dồi dào sức khỏe.
Hy vọng sẽ không dừng lại cho đến khi chết
Tín ngưỡng và trường học bị hủy bỏ,
Nghỉ hưu một thời gian là đủ, nhưng không bao giờ quên,
Tôi chấp nhận điều tốt, điều xấu, tôi cho phép nói trước mọi nguy hiểm,
Thiên nhiên không kiểm tra năng lượng ban đầu…
*
Từ nghin xưa Lý Bạch viêt tuyệt hay vê tình yêu. Tình yêu của người ta thanh sạch trên chín tầng trời, có đâu tình dục hiếp dâm, dơ nhớp như bọn vô lối thi tăc.
李白
寄遠
寄遠
美人在時花滿堂,
美人去後餘空床。
床中繡被卷不寢,
至今三載聞餘香。
香亦竟不滅,
人亦竟不來。
相思黃葉落,
白露濕青苔。
Ký viễn
Mỹ nhân tại thì hoa mãn đường,
Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng.
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm,
Chí kim tam tải văn dư hương.
Hương diệc cánh bất diệt,
Nhân diệc cánh bất lai.
Tương tư hoàng diệp lạc,
Bạch lộ thấp thanh đài.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
GỬI NƠI XA
Người đẹp còn đây, hoa đầy nhà
Người đẹp đi rồi, trơ giường không
Trên giường chăn gấm đã cuốn lại không ai nằm
Nay đã ba năm còn nghe mùi hương thơm
Hương không bay đi mất
Người cũng không trở về
Nhớ nhung lá vàng rụng
Sương trắng rơi ướt rêu xanh
Hà Nội 2023 – 2024
Đ - H
(*) Phụ lục : Bọn (詩賊 Thi tặc ) – giặc thơ là bọn lươn lẹo, xỏ xiên, gian xảo, ném lựu đạn, sáo rỗng, tà ngụy, ngụy ngôn, đại ngôn, kém học, bất tài, lưu manh, giả dôi, bản vị, háo danh, vụ lợi, nhỏ nhen, ích kỷ, thù vặt, cướp công, dâm ô, trụy lạc…phá nát thơ Việt, làm băng hoại tâm hồn dân tộc Việt.
Đám 詩賊 -Thi tặc gồm 27 tên trùm sò : 1 -Thanh Tâm Tuyền, 2– Lê Văn Ngăn, 3 – Nguyễn Quang Thiều, 4 – Nguyễn Khoa Điềm, 5 – Nguyễn Bình Phương, 6 –Trúc Thông, 7– Dư Thị Hoàn, 8 – Mai Văn Phấn, 9 – Trần Hùng, 10 – Đinh Thị Như Thúy, 11 – Hoàng Vũ Thuật, 12 – Phạm Đương, 13 – Phan Hoàng, 14 – Phan Huyền Thư, 15 – Phan Thị Vàng Anh, 16 – Văn Cầm Hải, 17 – Vi Thùy Linh, 18 – Thanh Tùng, 19 – Thi Hoàng , 20 - Nguyễn Phan Quế Mai, 21 – Hoàng Hưng, 22 – Tuyết Nga, 23 – Giáng Vân, 24 – Mã Giang Lân, 25 – Mai Quỳnh Nam, 26 – Từ Quốc Hoài, 27 – Đỗ Doãn Phương
Ảnh mạng: Chân dung Vô lối thi tặc!
Không có thông tin chi tiết để hiển thị

Viết buồn nôn!

 22:35 21/06/2025

VIẾT BUỒN NÔN NHƯ GIẪM PHẢI CỨT NGƯỜI!
Vi Thùy linh
Nguyên bản (1)
Mùa thụ mầm
Đêm song song phố ướt – cặp đùi dài
Nàng đếm ngày người yêu về lại
Đếm bằng ngón tay như những phím cầm nâu của anh
Đôi chân chưa nhìn thấy
Chỉ những dấu chân vân nhấn trời mang bầu vĩnh cửu
Từ kiếp trước
Chúng mình đã yêu cẫn mẫn . Và im lặng
Đời người thì ngắn
Giấc mơ lại dài
Anh giấu đôi tay trước sự chờ đợi của em
Ngoài kia
Tất cả thành phố cây xanh bỗng rạc vàng cành khô. Lá vàng ngân nga như những át – cơ hồi hộp
Căn phong say mềm tay
ánh vàng toát từ những lọ gốm như mồ hôi mặt trời chiều
Níu anh, em sóng.
Không thể đu lên giữ chiếc kim giờ hiện thực
Vì khuôn mặt chúng ta là chiếc đồng hồ
Gửi cho anh hai mươi búp ngọc lan ủ bên ngực em từ đêm anh choáng ngợp
Vốc tay đầy hương linh
Mạch mạch nước nấc lên vì nhớ
Bừng từng đêm lưỡi như ngọn lửa
Liếm vào thân sóng nóng
Nguyên một mùa đắm đuối
Tình yêu sinh ra Con người
Khi em lúng túng không cất tiếng, là lúc nỗi sợ hãi xa cách quất lên
Ngôn ngữ không quyền uy cho diễn đạt yếu đuối
Đôi mắt ôi mùi nồng nàn ơi
Tạo hóa cho chúng ta ánh sáng mới tinh sau một đêm mê man còn váng sữa
Mảnh trăng như miếng dưa hấu đỏ
Bỏ lạc giữa trời
Váng vất cơn cơn mưa mê sảng
Những giọt mưa tuột ra từ những đám mây bụng mang dạ chửa
Khiến cái túi ni - lon tứ tung bỗng vỡ nước ối từ một số mái nhà
Vỡ không gian rối tung bê tông cọc sắt
Mưa tới tấp vừa rơi, vừa yêu
Không phải Phật nghìn mắt, nghìn tay
Anh ủ em trong im lặng đầy hơi ấm bằng đôi tay xuất thần
Con đường khểnh theo chiếc răng bên trái
Cầu vồng mọc từ hai ngón tay cái
Em ngập vào ngân gió
Ngân anh
Giữa nỗi lạc lõng
Trong ánh sáng đỏ của mặt trăng dưa hấu đang hồi lại màu thu non vì được bú dịu dàng
Những chiếc máy bay như bầy chuồn chuồn ớt
Cắn rồn Ngày và Đêm
Thế mà Đêm chẳng biết bơi băng qua những ngăn cách, khủng hoảng của loài người
Đêm một mình và đêm yêu nhau. Lúc nào cũng tóc
Tóc ướt trong phòng tắm tóc khô héo gối
Dòng sông đầy tóc rụng đang ngân gió
Gọi xanh
Kìa búp sen xanh mắt quyền uy khép đêm giao linh
Ôm cơn khát để anh tung vó
Chỉ hơi thở và tiếng hân hoan tưới đầy mặt đất
Hằng hà mầm cây như những núm vú bật lên từ hoang hóa đất đai
Tiếng lục lạc tràn hoang mạc
Ngày sinh của chúng : sự nhân – chia đôi tiền định hai người tháng Tư
Em nấp vào vết tay anh để lại trên bàn vàng căn phòng quen lạ ấy
Nơi lỡi nến phập phồng vươn cả khi sắp tắt trong cái nhìn hình phễu của chiếc lới chụp bên nụ hồng vàng khô nép cánh giống đôi môi em
Ngày anh về, chưa biết rõ
Phố đầy cây phượng gọi anh từ mùa hoa này
Nơi bay lên bầy vú thiếu nữ
Con đường đêm héo như quả phượng già
Tháng 9 nhớ về chín nhịp phồn sinh trong tiếng gọi đóa hoa kèn tháng Tư nở vào mùa thu tinh khiết.
Con đường trổi cặp chân dài
(1) Theo Đặc Trưng – Thơ
Đỗ Hoàng Dịch ra thơ Việt:
Mùa sinh sôi
Đêm đôi ngã trải dài phố ướt
Nàng tính ngày người yêu trở về.
Bấm đốt tay như bấm phím cầm mơ ước,
Chưa thấy người trong khoảng trời quê!
Từ kiếp trước tình đôi ta im lặng
Với lời yêu gửi chốn địa đàng.
Đời thì ngắn, ước mơ thì dài rộng,
Anh có bồi hồi trước nỗi em mong?
Ngoài kia là nhiệt nồng phố xá,
Hàng cây xanh bỗng rực rỡ thắm vàng
Những chiếc là hoe ngân nga trong gió
Như lá bài hồi hộp âm vang!
Nhớ căn phòng mềm say tay ấm,
ánh vàng như nước giọt trời chiều
Dập dìu níu anh em như sóng
Giữa thì giờ hiện thực phiêu diêu.
Gương mặt ta, chiếc đồng hồ báo thức
Giữ cho anh những búp ngọc lan
ủ ngực em làm anh choáng ngợp
Vốc tay đầy lan hương linh thơm!
Ngầm mạch đời cuộn sôi nỗi nhớ
Lưỡi mềm như ngọn lửa rực hồng
Đi đến tận ngọn nguồn sóng vỗ
Tình yêu sinh nhân loại kiêu hùng!
Lúc bối rối, em làm sao nói hết.
Em sợ nhiều hoang vắng cách xa.
Chút yếu mềm làm em mỏi mệt
Đôi mắt đầy nồng thắm thiết tha.
Đêm thăm thẳm giữ giùm ta ánh sáng
Mảnh trăng thanh tựa mảnh dưa hồng,
Ai bỏ lạc giữa trời cao rộng
Từng cơn mưa váng vất rót thinh không.
Mưa rơi xuống trên mây mờ sủng nước,
Nước tứ tung gõ những mái nhà,
Làm vỡ cả bê tông, cốt thép.
Mưa nồng nàn tình cảm đôi ta!
Không phải Phật nghìn tay, nghìn mắt.
Anh ủ em bằng cả tâm hồn
Đường đời ấy còn biết bao trở trắc
Ngón tay anh như ánh cầu vồng!
Em ngụp lặn trong anh ngàn gió,
Giữa cô đơn lạc lõng lứa đôi.
Trong ánh sáng mặt trời dưa đỏ
Dòng sữa thơm bú mớm tuyệt vời.
Đêm ồn tiếng máy bay chuồn ớt,
Cố băng qua khoảng cách loài người
Đêm nồng nàn yêu mùi hương tóc,
Ngân gió ngàn, xanh gọi sông trôi.
Đêm giao linh, mắt quyền uy khép mở
Em phi thân trên cơn khát đời anh,
Tươi mặt đất phút hân hoan ngẹt thở
Mầm cây lên cho bằng địa êm lành!
Trên hoang mạc rung vang lục lạc,
Ngày tháng Tư của ta sinh sôi.
Em ngập vào tay anh thân thuộc
Ngọn nến mềm dịu ấm làn môi.
Ngày trở về, em chưa tường tỏ
Phượng hồng ơi! Anh của mùa này
Sẽ bay lên như bầy thiếu nữ
Nở mùa thu tinh khiết đắm say!
Hà Nội ngày 10 – 9 - 2007
Đ - H

Nhắn ông nhà báo

 22:31 21/06/2025

Đỗ Hoàng
NHĂN ÔNG NHÀ BÁO (1)
Có thiếu gì đâu những tứ thơ.
Báo Dân (2) mình đó vẫn làm ngơ.
Vội vàng nhét gấp dòng Lâm ngẩn (3),’
Hấp tấp tung mau chữ Nguyễn khờ (4)!
Bạn đọc mấy phen bưng mũi khịt,
Người xem trăm lượt bịt tai ngơ!
Mong ông nhà báo yêu thi thủm
Nên đoái đến người mãi đói thơ!
Lệ Thủy, Quảng Bình hậu chiến 1975
Đ - H
(1) Trước chưa làm báo, đang đi dạy học, tưởng trách nhiệm gì đều là của nhà báo
(2) Báo của Đảng bộ Bình Trị Thiên
(3),(4) Thơ mấy ông lông gà, lông vịt

Tam kiệt Văn chương Viêt

 17:00 20/06/2025

Tam kiệt Văn chương Xứ Việt
Nhà văn, nhà triết học - Paul Nguyễn Hoàng Đức
Người Việt có câu: có cứng mới đứng đầu gió, với vốn liếng văn hóa dạn dầy, dài rộng, sâu lắng, và thi ca kim cổ đông tây đồ sộ, lại mang một tầm nhìn lớn cho thơ, một tầm vóc hoành tráng cho chữ nghĩa, làm gì Đỗ Hoàng chẳng tự tin và dám tả xung hữu đột đối mặt với lực lượng làm thơ mậu dịch đông rinh ríc. Có một phát hiện mới của loài người rằng: sáng tạo là việc của cá nhân chứ không phải làm việc là sản phẩm của đám đông. Hàng nghìn, hàng vạn người làm việc cũng không thể được gọi là sáng tác mà đó chỉ là sản xuất. Chính thế văn thơ bao cấp nhiều khi chỉ là chỗ không người. tôi vừa chia sẻ sự cô lập của Đỗ Hoàng vừa buộc phải thán phục anh. Nếu không có tâm hồn chịu sóng gió cô lập trước đám đông vần vèo nhũn nhẽo thì làm sao có được một Đỗ Hoàng thơ ca hoành tráng như vậy, dám làm một cây bút hàng đầu phản tỉnh lại cuộc chiến “nồi da sáo thịt”?! Bái phục! Bái phục!
Về thơ, đặc biệt thơ phản chiến, trình độ thơ, tình yêu thơ, tài năng thơ, Đỗ Hoàng chắc chắn luôn ngồi chiếu một. Việc đó giờ đây là bất khả bác bỏ. Tôi đã bình bầu 3 người giỏi kiến thức thơ ở Việt Nam là Trần Mạnh Hảo, Đỗ Hoàng, Nguyễn Hưng Quốc từ lâu, nhưng cho đến nay chưa ai bác được! Theo truyền thống tư duy của Tây, anh không bác được, anh không đề cử ai hơn, nghĩa là anh buộc phải chấp nhận! Tuy 3 người đó, nhưng về sáng tác thơ thì Nguyễn Hưng Quốc lại không bằng 2 vị kia.

Tinh thàn hòa hợp dân tôc

 16:57 20/06/2025

TẦM VÓC HÒA HỢP DÂN TỘC TRONG CHÂN DUNG 810 VỊ VĂN SĨ VIỆT của Đỗ Hoàng - NXB Hội Nhà văn năm 2018
Nếu hai miền nam bắc Việt Nam hòa hợp được như nước Mỹ thì " Chân dung 810 vị Văn sĩ Việt đương đại của Đỗ Hoàng xứng giải Nobel Hòa bình!
Gần 400 văn sĩ thuộc nước Việt Nam Cộng Hòa 1954 - 1975 có.mặt.
(tiếp theo)
Phần Văn:
1- Doãn Quốc Sĩ nổi địa cầu
Ba sinh hương lửa thần sầu An nam.
2 - Văn phong Võ Phiến nhẹ nhàng
Nỗi đau nhân thế , danh càng thơm hơn!
3 - Xuân Vũ xương trắng Trường Sơn
Đường đi không đến, nỗi hờn máu tuôn!
4 -Vũ Bằng tình báo văn chương
Miếng ngon Hà Nội khó lường hiểm nguy!
5 - Đêm xa Hà Nội một thời
Mai Thảo văn bút rụng rời đến nay!
(còn nữa)

Luận văn Đôt...

 08:35 19/06/2025

Luận văn Doxtoiepxki - Đỗ Hoàng
PHÊĐÔR MIKHAILÔVÍCH ĐÔXTÔIEPXKI - (Fyodor Mikhaylovich Dostoyevsky - Федор Михайлович Достоевский ) VỚI TÁC PHẨM: "ANH EM NHÀ KARAMMAZỐP" (Братья Карамазовы)
Đỗ Hoàng
Đôxtôiepxki - Достоевский , chiếm một vị trí lỗi lạc trong văn học Nga, như một người kế tục truyền thống nhân đạo và hiện thực, như một nhà văn phê phán quyết liệt xã hội tư sản - địa chủ, cất cao tiếng nói mạnh mẽ chở che con người bình dị thường bị cuộc đời ô trọc làm nhục, giày xéo và đày đọa, luôn luôn bị coi khinh, bị xúc phạm.
Đôxtôiepxki đã tạo nên một loại tiểu thuyết mới và đã nêu lên một cách hết sức đầy đủ và sâu sắc những mâu thuẫn của đời sống hiện đại và những rung động sâu kín của tâm hồn. Đó là tiểu thuyết bi kịch, tiểu thuyết của những xung đột dữ dội, gay cấn, sâu sắc, căng thẳng... Với sự chính xác như nhà phẫu thuật, Đôxtôiepxki đã khám phá ra đời sống nội tâm sau kín của con người, chỉ ra những điều kiện xã hội hình thành nên tính cách của con người.
Sáng tác của Đôxtôiepxki có ý nghĩa quốc tế lớn lao. Cho đến ngày nay người ta mới thấy hết tầm vóc vĩ đại của nhà văn Nga này. Họ mới đánh giá được phần nào quy mô triết lý, cái nhìn sâu sắc soi thấu những miền bí ẩn trong tâm tư tình cảm vốn sống động và thật là đa dạng của con người. Các nhà văn trên thế gới thuộc tất cả các trường phái: lãng mạn, hiện thực, hiện sinh chủ nghía đều khai thác mặt này, hay mặt khác ở trong tác phẩm bất hủ của Đôxtôiepxki là để tự suy tôn mình lên. Bởi vì ở Đôxtôiepxki không một vấn đề nào, không một ý tưởng nào mà không được soi rọi, chiếu sáng, phân tích đầy đủ của các nhân vật của Đôxtôiepxki và được đẩy lên ở mức độ căng thẳng.
Thế nhưng, ngay ở quê hương, tổ quốc của Đôxtôiepxki, người ta vẫn chưa đánh giá hết tầm vóc của Đôxtôiepxki. Sách của ông in ra ít. Những người nghiên cứu về ông không nhiều.Ở nước ta (Việt Nam), nhất là miền Bắc trước đây khó có thể tìm ra thấy sách của Đôxtôiepxki. Tình hình cởi mở vài năm lại đây cho ta được đọc một vài tác phẩm của ông được chuyển qua Việt ngữ. Nhưng Đôxtôi epxki rất phức tạp. Tác phẩm của ông đọc rất hấp dẫn nhưng thật khó hiểu. Đọc vài ba lần cũng chưa có thể nói là đã hiểu hết ý tình của Đôxtôiepxki gửi gắm, kiến giải. Việc khó này không chỉ khó đối với người Việt Nam đọc, nghiên cứu về Đôxtôiepxki mà ngay tại nước Nga và phương Tây - những học giả lớn cũng có những ý kiến đánh giá khác nhau.
Bản thân tôi được đọc Đôxtôiepxki, làm luận văn về Đôxtôiep xki là một niềm vinh hạnh nhưng cũng một việc làm quá sức và trình độ của mình. Nhưng là người yêu mến Đôxtôiepxki, người sùng bái ông, tôi vẫn mạnh dạn nêu lên những suy nghĩ, kiến giải của mình khi làm luận văn về Đôxtôiepxki.
Đôxtôiepxki để lại cho đời ssau hàng chục kiệt tác, hàng chục nhân vật mang tầm vóc thế kỷ. Nhân vật của ông sáng tạo ra khổng lồ về mọi mặt...Những nhân vật vị tha, trong sạch, cao ngạo, điển hình cho tính cách người Nga và của nhân loại. Với những nhân vật phản diện thì ích kỷ, hẹp hòi, tàn nhẫn thực thi cái ác đến cùng. Với tài năng vĩ đại, với những vốn sống trải nghiệm phong phú, với trái tim giàu nhân hậu, Đôx tôiepxki đã ạo ra những nhân vật điển hình biệt lập, không ai giống ai. Một Raxkôlminôv tham quyền lực, thích làm cái ác, một Hoàng thân Mưskhin luôn luôn day dứt, xót thương trước cái cảnh đời, cảnh người đau khổ quằn quại, một Xmerđiakôp căm thù con người, một I van Fiôđôvits báng bổ đòi bỏ Chúa, một Đimitri Fiôđô vits cuồng loạn ;một Fiôđor Pavlôvits ham nhục dục. Và một Zôxima kính Chúa sáng danh với tấm lòng quảng đại, vị tha, trong sạch...
Tôi không thể phân tích hết các nhân vật nổi tiếng của Đôxtôiepxki mà chỉ đi sau phân tích đánh giá thấu hiểu nhân vật Zôxima - Nhân vật mà Đôxtôiepxki gửi gắm nhiều nỗi ước mong, lòng từ thiện của mình cho hậu thế. Zôxima là nhân vật trung tâm chiếm một phần quan trọng trong kiệt tác " Anh em nhà Karamazôp" của nhà văn. Để hiểu thấu nhân vật Zôxima, chúng ta không thể không tìm hiểu thêm cuộc đời riêng của Đô xtôiepxki. Bởi vì khi xây dựng nhân vật cha Zôxima, Đôxtôiepxki đã lấy một phần cuộc đời của mình lăn lộn trong bão táp đời thật, lấy khát vọng lý tưởng của mình làm nguyên mẫu cho nhân vật điển hình này. Có thể nói cha Zôxima là hiện thân cả Đôxtôiepxki cả thời trẻ trai cho đến thời cuối đời. Cha Zôxima hiện thân Đôxtôiepxki cả về hình mạo, cả về tâm tính, ước vọng sống, cả về nỗi khổ, niềm đau trong cuộc đời.
Đôxtôiepxki sinh ngày 30 - 10 - 1821 (có sách ghi là 11 -11 - 1821) tại Matscơva. Năm 17 tuổi, ông vào trường công binh tại Petecbourg. Năm 1844 giải ngũ theo nghiệp văn. Ông thành công ngay tác phẩm đầu tay: Dân nghèo năm 1846 . Năm Đôxtôiepxki 27 tuổii bị bắt giữ vì ông tham gia vào một nhóm chống lại chính quyền Sa hoàng và bị đày đi Xibiri . Sau bốn năm khổ sai, ông phục vụ với tư cách là người lính binh nhì tại Omask. Năm 1857, kết duyên với một góa phụ mắc bệnh lao Marie Isaeva. Năm 1860 trở lại Petecbourg. Năm 1862 thăm Tây Âu. Ngoài 40 tuổi kết duyên với Anna Grigorievna. Anna Grigorievna là người vợ hoàn hảo, người thơ ký tận tụy của Đôxtôiepxki. Ông mất tại Petecbourg ngày 28 - 1 - 1881.
Từ khi sinh thành cho đến khi mất, Đôxtôiepxki sống trong một thế kỷ nước Nga sôi sục với những cuộc khởi nghĩa, cuộc biểu tình. Dư âm của những cuộc đấu tranh thế kỷ trước như vẫn còn vang vọng. Chế độ Sa hoàng ngày càng tỏ rõ sức mạnh chuyên chế của mình. Ngục thất của chính quyền phong kiến, tư bản đang mở rộng để tống giam những người chống lại chế độ đương thời. Đôxtôiepxki đã tham gia vào phong trào khởi nghĩa, hoạt động trong những hội kín chống lại chính quyền đương thời. Mục kích được những cảnh sống của những kẻ bạo loạn, chính mình ông chứng kiến và sống trong môi trường của một người tử tù giảm án. Đôxtôiepxki thất vọng trước cái ác và có phần bất lực khi thấy cái ác hoành hành thế gian. Câu hỏi suốt đời trăn trở trong cõi lòng, cõi tâm linh sâu xa của Đôxtôiepxki là nỗi thống khổ của con người. Làm thế nào để cứu vớt con người? Cái thiện cứu vớt con người hay cái ác? Có Chúa không? Những kẻ tự xưng là ân nhân của nhân loại, kẻ ấy là ai? Những kẻ đao phủ, những kẻ khoác áo đấu tranh cho tự do, những kẻ ấy có phải là ân nhân của nhân loại không? Con đường đến vương quốc cái thiện là con đường như thế nào? Đó là câu hỏi vĩnh cửu suốt đời Đôxtôiepxki nung nấu, trăn trở, mong muốn bày giải. Và chính kiệt tác "Anh em nhà Karammarốp", tác phẩm vĩ đại nhất của Đôxtôiepxki tổng kết cả cuộc đời viết văn của ông. Nó tụ hội tất cả những ý tưởng mà Đôxtôiepxki ấp ủ, gửi gắm và bày giải. Nhân vật cha Zôxima chính là câu trả lời co bao nhiêu năm Đôxtôiepxki gửi gắm. Chính cái thiện hiện thực và cái thiện lý tưởng, và một đấng Chúa cứu thế sẽ là ân nhân cứu rỗi con người ra khỏi u mê, lầm lạc, ra khỏi cái ác…
(còn nữa)

Thơ không vần thê giới tiếp (5)

 02:09 18/06/2025

THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM (tiếp theo) 5
Đỗ Hoàng
Thuật ngữ : Thư không vần – Viết bỏ vần điệu
Thơ vô lối: Viết bỏ vần điệu, không ý tưởng.
Tho vô lôi thi tặc: viết bỏ vần điệu, không ý tương, bệnh hoạn, dâm dật, bẩn thỉu, phá vỡ truyền thông tổ tiên và nân loại.
27 tên vô lối – thi tặc Việt Nam: 1, Thanh Tâm Tuyền, 2, Lê Văn Ngăn, 3, Nguyễn Quang Thiều,4, Nguyễn Bình Phương, 5, Nguển Khoa Diềm,6, Phan Hoàng,7, Trần Hùng,8, Phú Trạm Inra sa ra, 9, Hoàng Vũ Thuật, 10, Mai Văn Phấn, 11, Thi Hoàng, 12, Mai Quỳnh Nam , 13, Trúc Thông, 14, Nguyễn Phan Quế Ma, 15, Phan Huyền Thư,16, PhanThị Vàng Anh, 17, Tuyết Nga, 18, Dư Thị Hoàn,19, Hoàng Hưng, 20, Thanh Tùng, 21, Từ Quôc Hoài, 22, Văn Cầm Hải, 23, Giáng Vân, 24, Đỗ Doàn Phương, 25,Phạm Đương. 26, Vi Thùy Linh, 27, Mã Giang Lân.
Cuối thế kỷ XX, nhất là thời điểm năm 1993, khi Hội Nhà văn Việt Nam trao tặng giải thưởng “Sự mất ngủ của lửa” cho Nguyễn Quang Thiêu – một anh Công an chuyên nghiệp thi “thơ vô lối” mới bùng phát như nâm độc sau mưa! Các báo chi Trung ương đến địa phương đâu cũng in loại viết này. Người ta có hàng vạn nhà thơ, hàng vạn nhà phê bình, tiến sĩ bò cũng lắm, tiến sĩ thật cũng nhiều chả ma nào lên tiếng khen chê!! Người ta vin vào Tây, Tàu: “họ làm được thì mình cũng làm được”.
Tôi là người đọc nên thấy thơ hay thì đoc, thơ dở thì thôi! Nên không bao giờ đọc “vô lối” viết bỏ vần, bỏ điệu, tư tương thua chổi cùn!. Nhưng rôi “vô lối” được đưa vào giảng dạy, bắt cả ấu trò học! Thế thì chết cả nút! Cha ông minh phân ra các loại hình để phân biệt như: chiếu, biểu, hịch, sớ, phú, sắc,thơ, phú…Kiểu viết không ra hàng, ra lối; tư tưởng tù mù, rối rắm vô nghĩa, khiên cưỡng, tối nghĩa, lắm lời, dâm dât, băng hoại đạo đức, hoa hòe, hoa sói, lai căng, Tây không ra Tây, Tàu không ra Tàu, ngụy ngôn, giả dối, giả tạo ngu đần, phá nát thuần phong , mỹ tục rất phản cảm…trên toàn cõi Việt! Tôi đặt loại viết rác rưởi này cái tên mới “ thơ vô lối”. Từ đó “ vô lối” xuất hiện thành một thuật ngữ Văn Học nước nhà! “Vô lối” ngập tràn đất nước!
Đám ‘vô lối” nói chung thấp học, ngu dốt. Cái nguy hại nhất là chúng không có trái tim! Cả “thế hệ trơ đi như thỏi sắt”! Chúng ngu dốt vì không học cha ông. Tổ tiên ta đã viết “thơ không vần” đã thành Thánh thi mà các nhà thơ Tây gốc chính hãng như Milton, Cowper , Guillaume Apollinaire, William Shakespeare, Henry Howard , Walt Whitman …phải chấp tay vái:
Nguyễn Trãi
Bình Ngô đại cáo:
Bình Ngô đại cáo 平吳大告 • Cáo bình Ngô
…神武不殺,予亦體上帝孝生之心。
參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;
總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。
彼既畏死貪生,而修好有誠;
予以全軍為上,而欲民之得息。
非惟謀計之極其深遠,
蓋亦古今之所未見聞。
社稷以之奠安,
山川以之改觀。
乾坤既否而復泰,
日月既晦而復明。
于以開萬世太平之基,
于以雪天地無窮之恥。
是由天地祖宗之靈有,
以默相陰佑而致然也!
於戲!
一戎大定,迄成無競之功;
四海永清,誕布維新之誥…
…Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,
Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.
Ô hô!
Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Đỗ Hoàng dịch thơ ….
Ta chẳng giết hại, thể lòng trời, ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn xiêu, phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, đem cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy bảo toàn là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Non sông từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại sáng
Trời trăng tối rồi lại hừng
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;…
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay!
Trần Quốc Tuấn - Hịch (trích)
- Trần Quốc Tuấn (1231? - 1300), tước Hưng Đạo Vương.
- Ông là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc thời Trần.
- Năm 1285 và năm 1287, quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang.
- Vào đời vua Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) rồi mất ở đấy.
- Nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đến thờ ở nhiều trên đất nước.
Dụ chư tỳ tướng hịch văn (諭諸裨將檄文), thường được gọi là Hịch Tướng Sĩ, là bài hịch của thống súy Trần Quốc Tuấn.
Nguyên bản Việt cổ (chữ Nho)
Phiên âm tiếng Việt
Dụ chư tỳ tướng hịch văn (諭諸裨將檄文), thường được gọi là Hịch Tướng Sĩ, là bài hịch của thống súy Trần Quốc Tuấn.
Nguyên bản Việt cổ (chữ Nho)
Phiên âm tiếng Việt
余常聞之
Dư thường văn chi:
紀信以身代死而脫高帝
Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế;
由于以背受戈而蔽昭王
Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương.
豫讓吞炭而復主讎
Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù;
申蒯断臂而赴國難
Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn.
敬德一小生也 身翼太宗而得免世充之圍
Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi;
杲卿一遠臣也 口罵禄山而不從逆賊之計
Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế.
自古忠臣義士 以身死國 何代無之
Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi?
設使數子區區為兒女子之態
Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thá
徒死牖下 烏能名垂竹白
Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch,
與天地相為不朽哉
Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai!
汝等世為將種 不曉文義
Nhữ đẳng thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa,
其聞其說 疑信相半
Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán.
古先之事姑置勿論
Cổ tiên chi sự cô trí vật luận.
今余以宋韃之事言之
Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi:
王公堅何人也
Vương Công Kiên hà nhân dã?
其裨將阮文立又何人也
Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã?
以釣魚瑣瑣斗大之城
Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đẩu đại chi thành,
當蒙哥堂堂百萬之鋒
Đương Mông Kha đường đường bách vạn chi phong,
使宋之生靈至今受賜
Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ!
骨䚟兀郎何人也
Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã?
其裨將赤脩思又何人也
Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã?
冒瘴厲於萬里之途
Mạo chướng lệ ư vạn lý chi đồ,
獗南詔於數旬之頃
Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh,
使韃之君長至今留名
Sử Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh!
況余與汝等生於擾攘之秋
Huống dư dữ nhữ đẳng, Sinh ư nhiễu nhương chi thu;
長於艱難之勢
Trưởng ư gian nan chi tế.
竊見偽使往來 道途旁午
Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ.
掉鴞烏之寸舌而凌辱朝廷
Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình;
委犬羊之尺軀而倨傲宰祔
Ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ.
托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅求
Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu;
假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥庫
Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng hố.
譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉
Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai?
余常臨餐忘食 中夜撫枕
Dư thường lâm xan vong thực, Trung dạ phủ chẩm,
涕泗交痍 心腹如搗
Thế tứ giao di, Tâm phúc như đảo
常以未能食肉寢皮 絮肝飲血為恨也
Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã.
雖余之百身高於草野
Tuy dư chi bách thân, cao ư thảo dã;
余之千屍裹於馬革
Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách,
亦願為之
Diệc nguyện vi chi.
汝等久居門下 掌握兵權
Nhữ đẳng cửu cư môn hạ, Chưởng ác binh quyền.
無衣者則衣之以衣
Vô y giả tắc ý chi dĩ y;
無食者則食之以食
Vô thực giả tắc tự chi dĩ thực.
官卑者則遷其爵
Quan ti giả tắc thiên kỳ tước;
祿薄者則給其俸
Lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng.
水行給舟 陸行給馬
Thủy hành cấp chu; Lục hành cấp mã.
委之以兵則生死同其所為
Ủy chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi;
進之在寢則笑語同其所樂
Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc.
其是公堅之為偏裨 兀郎之為副貳亦未下爾
Kỳ thị Công Kiên chi vi thiên tì, Ngột Lang chi vi phó nhị, Diệc vị hạ nhĩ.
汝等坐視主辱曾不為憂
Nhữ đẳng tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu;
身當國恥曾不為愧
Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý.
為邦國之將侍立夷宿而無忿心
Vi bang quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm;
聽太常之樂宴饗偽使而無怒色
Thính thái thường chi nhạc, yến hưởng ngụy sứ nhi vô nộ sắc.
或鬥雞以為樂或賭博以為娛
Hoặc đấu kê dĩ vi lạc; Hoặc đổ bác dĩ vi ngu.
或事田園以養其家
Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia;
或戀妻子以私於己
Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ.
修生產之業而忘軍國之務
Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ;
恣田獵之遊而怠攻守之習
Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập.
或甘美酒或嗜淫聲
Hoặc cam mỹ tửu; Hoặc thị dâm thanh.
脱有蒙韃之寇來
Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai,
雄雞之距不足以穿虜甲
Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp;
賭博之術不足以施軍謀
Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu.
田園之富不足以贖千金之軀
Điền viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu;
妻孥之累不足以充軍國之用
Thê noa chi lụy, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng.
生產之多不足以購虜首
Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ;
獵犬之力不足以驅賊眾
Liệp khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng.
美酒不足以沈虜軍
Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ quân;
淫聲不足以聾虜耳
Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ.
當此之時 我家臣主就縛 甚可痛哉
Đương thử chi thời, Ngã gia thần chủ tựu phọc, Thậm khả thống tai!
不唯余之采邑被削
Bất duy dư chi thái ấp bị tước,
而汝等之俸祿亦為他人之所有
Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở hữu;
不唯余之家小被驅
Bất duy dư chi gia tiểu bị khu,
而汝等之妻孥亦為他人之所虜
Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ;
不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵
Bất duy dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn xâm,
而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘
Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật;
不唯余之今生受辱 雖百世之下 臭名難洗 惡謚長存
Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường tồn,
而汝等之家清 亦不免名為敗將矣
Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi bại tướng hĩ!
當此之時汝等雖欲肆其娛樂得乎
Đương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu lạc, đắc hồ?
今余明告汝等
Kim dư minh cáo nhữ đẳng,
當以措火積薪為危
Đương dĩ thố hỏa tích tân vi nguy;
當以懲羹吹虀為戒
Đương dĩ trừng canh xuy tê vi giới.
訓練士卒習爾弓矢
Huấn luyện sĩ tốt; Tập nhĩ cung thỉ.
使
Sử
人人逄蒙家家后羿
Nhân nhân Bàng Mông; Gia gia Hậu Nghệ.
購必烈之頭於闕下
Cưu Tất Liệt chi đầu ư khuyết hạ;
朽雲南之肉於杲街
Hủ Vân Nam chi nhục ư cảo nhai.
不唯余之采邑永為青氈
Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên,
而汝等之俸祿亦終身之受賜
Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ tứ;
不唯余之家小安床褥
Bất duy dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục,
而汝等之妻孥亦百年之佳老
Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão;
不唯余之宗廟萬世享祀
Bất duy dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự,
而汝等之祖父亦春秋之血食
Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết thực;
不唯余之今生得志
Bất duy dư chi kim sinh đắc chí,
而汝等百世之下芳名不朽
Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ;
不唯余之美謚永垂
Bất duy dư chi mỹ thụy vĩnh thùy,
而汝等之姓名亦遺芳於青史矣
Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh sử hĩ.
當此之時汝等雖欲不為娛樂得乎
Đương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu lạc, đắc hồ!
今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略
Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư, danh viết Binh thư yếu lược.
汝等或能專習是書 受余教誨 是夙世之臣主也
Nhữ đẳng hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã;
或暴棄是書 違余教誨 是夙世之仇讎也
Hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã.
何則
Hà tắc?
蒙韃乃不共戴天之讎
Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù,
汝等記恬然不以雪恥為念 不以除凶為心
Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm,
而又不教士卒 是倒戈迎降 空拳受敵
Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch;
使平虜之後 萬世遺羞
Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu,
上有何面目立於天地覆載之間耶
Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da?
故欲汝等明知余心 因筆以檄云
Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm, Nhân bút dĩ hịch vân.
Hịch tướng sĩ (Ngô Tất Tố (dịch – trích)
“Ta thường nghe: Kỷ Tín lấy thân chết thay, cứu thoát được vua Cao-đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo che chở được vua Chiêu-vương; Dự Nhượng nuốt than để trả thù cho thầy; Thân Khoái chặt tay để gánh nạn cho nước; Uất Trì Cung một viên tướng nhỏ, còn biết che đỡ Đường-chủ, ra khỏi vòng vây của Thế Sung; Nhan Cảo-Khanh là bầy tôi xa, còn biết mắng chửi Lộc Sơn, không nghe lời dụ của nghịch-tặc. Từ xưa, những bậc trung-thần nghĩa-sĩ, lấy thân theo nước, đời nào là không có đâu? Nếu mấy người kia, chăm chăm học thói dút-dát của con gái trẻ con, chẳng qua cũng đến chết dũ ở dưới cửa sổ, đâu được ghi tên vào trong thẻ tre lụa trắng, danh tiếng cùng trời đất cùng lâu bền?
Các người đời đời là con nhà võ, không biết chữ nghĩa, nghe những chuyện ấy, thảy đều nửa tin nửa ngờ. Thôi thì những việc cổ xưa, hãy để đó không nói đến nữa. Nay ta hãy đem chuyện nước Tống, giống Thát(là chuyện gần đây) kể cho các người cùng nghe: Vương công Kiên là người gì? Nguyễn văn Lập tỳ-tướng của y lại là người gì, chỉ có vòng thành Điếu-ngư nhỏ bằng cái đấu hai người ấy chống nổi toán quân trăm vạn của Mông-kha, khiến cho con dân nước Tống, đến nay hãy còn nhớ ơn. Đường ngột Ngại là người gì? Xích tu Tư tỳ-tướng của y lại là người gì? xông pha lam-chướng trên đuờng muôn dặm, hai người ấy đánh được quân Nam-chiếu trong vài tuần, khiến cho vua chúa giòng Thát nay còn để tiếng!
Huống chi ta với các ngươi, sinh ở buổi rối ren, lớn lên nhằm khi khó nhọc, chính mắt ngó thấy sứ ngụy đi lại, đường xá nghẽn-ngang, chúng múa cái lưỡi cú quạ làm nhục chốn triều-đình, chúng giơ cái thân chó dê, kiêu ngạo với quan tể-phụ; chúng nhờ mệnh lệnh của chúa Mông-Cổ, mà đòi nào ngọc nào lụa, sự vòi vĩnh thật vô cùng; chúng mượn danh hiệu của vua Vân-nam mà hạch nào bạc nào vàng; của kho đụn đã hồ hết Cung-đốn cho chúng giống như đem thịt mà liệng cho cọp đói, sao cho khỏi lo về sau?
Ta thường thì tới bữa quên ăn, giữa đêm vỗ gối, nước mắt tràn xuống đầy mép, tấm lòng đau như bị đâm, vẫn lấy cái sự chưa thể ăn thịt nằm da, nuốt gan uống máu của chúng làm tức. Dẫu cho một trăm cái thân của ta phải đem đốt ở đồng cỏ, một nghìn cái thân của ta phải đem bọc vào da ngựa, ta cũng vui lòng. Các ngươi lâu nay ở dưới cửa ta cầm giữ binh-quyền, thiếu áo thì mặc áo cho, thiếu ăn thì sẻ cơm đỡ, quan nhỏ thì cho lên chức, bổng ít cho thêm lương, đi thủy cấp thuyền, đi bộ cấp ngựa, những khi trận mạc, sự sống thác thầy chung với trò, những lúc mừng khao, tiếng vui cười ai cũng như nấy. So với Công Kiên làm chức thiên-lý, Ngột Ngại ở ngôi phó nhị, có khác gì đâu.
Thế mà các ngươi thấy chủ bị nhục chẳng lấy làm lo, gặp nước bị dơ chẳng lấy làm thẹn, làm tướng nhà nước phải hầu mấy đứa chum mường, mà không có lòng căm hờn, nghe khúc nhạc thờ đem thết một tên ngụy sứ, mà không có vẻ tức giận; kẻ thì chọi gà cho thích, kẻ thì đánh bạc mua vui, có người chỉ chăm vườn ruộng, cốt nuôi được nhà; có người chỉ mến vợ con, lấy mình làm trọng; cũng có kẻ chỉ lo làm giàu làm có, việc quân quốc chẳng thèm đoái hoài, cũng có người chỉ ham về săn-bắn mà quên việc binh, hoặc là đam mùi rượu ngọt, hoặc là mê tiếng hát hay.
Một khi giặc Mông đến nơi, thì cựa con gà nòi không thể đâm thủng áo-giáp của giặc; thuật ở bàn bạc không thể đem làm mưu mẹo ở trong quân; vườn ruộng tuy giàu, tấm thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vợ con tuy sẳn, trong đám ba quân khó dùng, của cải tuy nhiều, không thể mua được đầu giặc; chó săn tuy khỏe, không thể đuổi được quân thù, rượu ngon không đủ để cho giặc phải mê; hát hay không đủ làm cho giặc phải điếc; lúc đó thầy trò ta sẽ cùng bị trói, đáng đau đớn biết chừng nào! Nếu thế, chẳng những là thái-ấp của ta không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng bị kẻ khác chiếm mất; chẳng những là gia- quyến của ta phải đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc của tổ tông ta sẽ bị dày xéo, mà đến mồ mả của cha mẹ ngươi cũng sẽ bị kẻ khác đào lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, và trăm kiếp khác tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu vẫn còn, mà gia thanh của các ngươi cũng chẵng khỏi mang tiếng là nhà bại tướng. Đã đến khi đó các ngươi muốn chơi bời cho thỏa, được chăng?
Nay ta bảo rõ các ngươi: cái chuyện dấm lửa đống củi phải lo, mà câu sợ canh thổi rau nên nhớ. Các ngươi hãy nên huấn luyện quân sĩ, rèn tập cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, bêu đầu Hốt TấtLiệt dưới cửa khuyết, ướp thịt Thoát Hoan trong trại rơm. Như thế chẳng những là thái ấp của ta mãi mãi là của gia truyền, mà bổng lộc các ngươi cũng được suốt đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta được yên giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng được sum họp đến già; chẳng những là tông miếu ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các người dưới trăm đời nữa tiếng thơm vẫn lưu truyền; chẳng những tên tuổi ta không bị mai một, mà đến tên họ các người cũng để tiêng thơm trong sử xanh. Khi ấy các ngươi không muốn vui chơi, được chăng?
Nay ta lựa chọn binh pháp các nhà, làm một quyển sách, đặt tên là sách "Binh thư yếu lược". Nếu các ngươi biết chuyên tập sách ấy, nghe lời dạy-bảo của ta, ấy là duyên thầy trò kiếp xưa; Nếu các ngươi bỏ bê sách ấy, trái lời dạy-bảo của ta, ấy là mối cựu thù kiếp xưa, Sao vậy? Bởi vì như vậy tức là kẻ thù không đội chung trời, thế mà các ngươi không nghĩ tới, điềm nhiên không lo đến sự rửa thẹn, không tinh; đến việc trừ hung, không nhớ đến chuyện dạy-tập quân-sĩ. Thế là giở giáo hàng giặc, nắm tay chống giặc. Rồi đây, sau khi dẹp yên quân giặc, các ngươi sẽ phải thẹn muôn đời, còn mặt-mũi nào đứng giữa khoảng trời đất che chở? Ta muốn các ngươi biết rõ bụng ta, nhân viết mấy lời đó làm hịch.”
(còn nữa)

Thi tăc số 21 - Hoàng Hưng

 02:02 18/06/2025

THI TAC số 21 - "Bạn giờ giao hợp nơi đâu/hay về gacs cũ sắc mù đung đưa!
"Con gà quay
Con gà quay
Cởi quần chửi thề"
Hoàng Hưng
DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT
Nguyên bản: GIẤC MƠ ANH NGẬP BIỂN
Tặng Mười
Rồi một ngày anh gặp em
Vàng rực bờ biển nắng
Em mới hiểu rằng em là biển
Bao nhiêu năm sóng thầm réo trong mình
Anh mới hiểu chính em là biển
Bao nhiêu năm anh tìm
Những bắp thịt săn của sóng
Đánh vào ta nồng nàn,
Muối mặn ngấm vào rực máu
Trái tim bắt đầu hoang mang
Rồi giấc mơ anh ngập biển
Vụt kinh hoàng bóng em tan biến,
Và giấc mơ em ngập biển
Ngượng ngùng để anh nắm tay.
Nắm tay nhau nhảy tung ngọn sóng,
Nắm tay nhau ngụp lặn thủy triều,
Em sặc nước rồi anh sặc nước.
Tỉnh dậy một mình đầm nước mắt
Thôi chúng mình đã yêu!
Đỗ Hoàng
Dịch ra THƠ VIỆT –VÔ LỐI HOÀNG HƯNG
GIẤC MƠ BIỂN
Rồi một ngày anh được gặp em
Trời rực vàng rực trên bờ biển thắm
Anh mới hiểu em là biển nắng
Bao nhiêu năm reo sóng trong mình
Anh thêm hiểu chính em biển thắm
Bao nhiêu năm anh đã đi tìm!
Những bắp thịt săn chắc của sóng
Đánh vào ta mãnh liệt vô vàn,
Biết muối mặn ngấm vào người rực máu
Trái tim trẻ trai hồi hộp hoang mang
Rồi giấc mơ anh tràn ngập biển
Bóng em tan vụt biến bàng hoàng!,
Và giấc mơ em đầy ngập biển
Tay trong tay thương yêu nồng nàn!
Ngượng ngùng biển để anh tay nắm.
Tay trong tay tấy tung ngọn sóng,
Tay trong tay ngụp cơn triều cường,
Em và anh tất thảy đều sặc nước.
Tỉnh dậy một mình anh nước mắt đầy tràn
Thôi chúng mình đã thật yêu nồng nàn!
Hà Nội ngày 18 – 11 -2022
Đ - H
Không có thông tin chi tiết để hiển thị
Tác giả
Do Hoang

Thi tặc sô 8 - Phú Trạm Ỉnasara

 15:50 17/06/2025

nStrosopdei0
2

07gu
0
2
7

2
,
t518
6
3
6ca
g
86
á
l708l2
t
105
1
86m
h
3
2

n
uf1i
·
Đã chia sẻ với Công khai
THI TẶC 8 - VÔ LỐI PHÚ TRẠM IN RA SA RA VIẾT CHO AI ĐỌC -Hời còn 1000 người, 1tiểu đoàn linh về làng Hời ngủ 1đêm tiêu mà dân Hời - Chủ tịch Hội đồng Thơ - Hội Thi tặc khoá X do trùm cu lít Thiều chọn!(đã từ chức)
Thứ tư - 10/11/2021 14:12
Trong các chuyên luận trước tôi đã viết có nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số, họ là những nhà thơ song ngữ tài danh như Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn…thế hệ kế tiếp Lương Định, Dương Thuấn, Mai Liễu…đã góp phần làm rạng rỡ văn học nước nhà. Trong cộng đồng 54 dân tộc của Việt Nam lấy tiếng nói, chữ viết, chữ ,,quốc ngữ,, của người Việt, tộc người đa số làm chính. Các nước trên thế giới, như Trung Quốc, Nga, Anh, Mĩ…cũng vậy. Trung Quốc quốc ngữ là tiếng Hán, Nga thì tiếng Nga, Anh thì tiếng Anh…Các nhà thơ dân tộc thiểu số như Lão Xá ,Trung Quốc, Raxun Gamzatop ,Nga, đều thông thạo quốc ngữ của mình và họ có nhiều tác phẩm rất nổi tiếng.
VÔ LỐI PHÚ TRẠM IN RA SA RA VIẾT CHO AI ĐỌC
VÔ LỐI PHÚ TRẠM IN RA SA RA VIẾT CHO AI ĐỌC
Đỗ Hoàng
Trong các chuyên luận trước tôi đã viết có nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số, họ là những nhà thơ song ngữ tài danh như Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn…thế hệ kế tiếp Lương Định, Dương Thuấn, Mai Liễu…đã góp phần làm rạng rỡ văn học nước nhà. Trong cộng đồng 54 dân tộc của Việt Nam lấy tiếng nói, chữ viết, chữ ,,quốc ngữ,, của người Việt, tộc người đa số làm chính. Các nước trên thế giới, như Trung Quốc, Nga, Anh, Mĩ…cũng vậy. Trung Quốc quốc ngữ là tiếng Hán, Nga thì tiếng Nga, Anh thì tiếng Anh…Các nhà thơ dân tộc thiểu số như Lão Xá ,Trung Quốc, Raxun Gamzatop ,Nga, đều thông thạo quốc ngữ của mình và họ có nhiều tác phẩm rất nổi tiếng.
Phú Trạm Inrasara dân tộc thiểu số Chăm. Người Chăm thuộc nhóm chủng tộc Austronesia (người Nam Đảo) có nguồn gốc Đông Nam Á.
Người Chăm hay người Champa (Chăm Pa) (tiếng Chăm: Urang Campa), còn gọi là người Chàm, người Chiêm, người Chiêm Thành, người Hời... hiện cư ngụ chủ yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Đến thời vua Minh Mạng, vương quốc Chăm pa đã bị xóa sổ; thời Pháp thuộc còn lưu lại Bảo tàng Chăm ở Đà Nẵng. Dân số người Chăm tại Việt Nam theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là 178.948 người, tương đương dân số một phường trung bình ở thành phố.
Hàng nghìn, hàng trăm năm qua, cộng đồng dân tộc thiểu sống trong cõi Việt họ nắm vững tiếng phổ thông ,, tiếng Việt,, như tiếng mẹ đẻ. Riêng Phú Trạm Inrasara tiếng Việt làm thơ rất kém. Tôi có lần khảo sát tiếng Việt của Inrasara thì thấy ông ta trình độ chỉ lớp 1, lớp 2 trường làng. Ông ta làm thơ tiếng Việt rất nhăng cuội, lộn xà lộn xộn, rồi đưa lẫn tiếng Hán, tiếng Anh, các dấu toán học vào trong bài thơ như một mớ bòng bong. Phú Trạm Inrasara là loại đại biểu số I thơ vô lối.
Báo Văn nghệ bộ mới do những người thơ vô lối cầm chịch nên số 19 Phú Trạm Inrasara được in một chùm 2 bài. Bài thứ nhất là ,,Tam khúc Orchid Island Taiwan,, ; bài thứ 2 ,, 3 Đoản thi trái đất,,.
Phú Trạm Inrasara đã dốt chữ Việt lại sính dùng mấy chữ tiếng Hán và mấy chữ tiếng Anh học thời phổ thông pha trộn vào trong bài thơ vô lối để ,,khoe ,, mình có văn hóa cao. Bài thơ nào cũng thế, tập thơ nào cũng thế.
CON ĐƯỜNG VỠ
Người cư ngụ dưới căn nhà tồi tàn
trước ngọn đèn tồi tàn, người suy tưởng
về sự thống khổ bần hàn trong thế gới bần cùng
giàu sang là nẻo đường rừng người đi buổi sớm
Con đường khép lại và mở ra dưới sức nặng bàn chân
Xát mòn vẹt đau để vui mở ngọn
cưu mang gót giày nhục nhằn cho mầm nắng trồi lên
Con đường rừng nhạt và chìm vào ẩn mật
kiên nhẫn chờ đợi bước chân thế hệ chưa hình thành
bất chợt chiều nay tôi thấy con đường vỡ
đang nhìn tôi trong tiếng nói không lời
In trong tạp chí Thơ số 1&2 – 2012)
Một bài ngắn 11 dòng, In ra sa ra đã dùng đến 20 chữ Hán chưa Việt hóa ! Rất kém.
居 cư ở, cư trú; 寓 ngụ 1. nhờ cậy 2. nói bóng gió; 摧殘 tồi tàn : tồi tàn, hư hỏng, đổ nát; 推想 suy tưởng , như suy tư 推思. 推思 suy tư : nghĩ ngợi. 推奬 suy tưởng :đề cao mà khen thưởng;丩cưu : bò lan, quấn quýt ( nói về loại dây leo ). 忙 mang : bận rộn, bề bộn; 辱 nhục :1. nhục, xấu hổ 2. làm nhục 3. chịu khuất; 隱密 ẩn mật 1. Dấu kín.Che dấu kín đáo. 堅忍 kiên nhẫn - Vững lòng nhẫn nại, Bền vững chiu đựng; 世繫 thế hệ 1. Liên hệ dòng dõi của một gia tộc trải qua các đời. 2. Liên hệ dòng dõi giữa các tông phái kế thừa nhau.
形成 hình thành hình thành, lập nên, tạo thành
Chùm thơ của Phú Trạm Inrasara in tên báo Văn nghệ bộ mới cũng dở dơi, dở chuột. Một tí chữ Hán, một tí chữ Anh, một nhóm chữ Việt không ra làm sao, có ý khoe mẽ. Bài đầu là
Tam khúc Orchid Island Taiwan, Tam khúc là chữ Hán =三 曲=
Nghĩa là ba đoạn.
Con cháu nhắc lời cụ Hồ vạn lần là ,, chữ ta có thì dùng chữ ta, khi nào chữ ta không có, ta mới mượn chữ chữ nước ngoài,,. Ta có chữ ,, ba đoạn thơ,, đàng hoàng nhưng Phú Trạm Insarara không dùng mà dùng ,,tam khúc,, cho ra vẻ ta đây cũng chú ,,khách,, Tàu Ô.
,,3 Đoản thi trái đất,,. Đoản thi là chữ Hán = 短詩 =
Chữ Việt nghĩa là ba đoạn thơ ngắn. Sao lại không dùng tiếng Việt. Phú Trạm Inrasara đang làm thơ tiếng Việt mà.
Tiếp đến ông ta dùng chữ Anh lởm cởm. Làm thơ tiếng Việt mà dùng tiếng Anh để viết thì ông nội Phú Trạm Insarara cũng đếch biết mô tê răng rứa nói chi đến người đọc bình thường. Chắc đám vô lối cho in bài này đọc được. Đây cũng là sự lòe bạn đọc một cÁch ngu dốt, quê kệch. Tiếng Việt có sao không viết thẳng ra ,, Ba đọan thơ về đảo hoa lan Đài Loan,, mà viết chuột không ra chuột, dơi không ra dơi thế này ,,Tam khúc Orchid Island Taiwan,,.
Khúc một là một thông báo lịch sử, địa lý sơ sài không có một tỉ ti nào gọi là có chất thơ, dù là chất thơ vô lối, mà nói đến quốc gia nào cũng được
[1] Sông núi dời đổi
triều đại chuyển đổi
quốc gia biến đổi
lòng người bấp bênh thay đổi không lường ,
duy rác hạt nhân là vĩnh cửu
Khúc này nói cho nước Lào, Căm pu chia, Cu ba, Nga, Mĩ, Anh, Pháp …được tất.. Một khổ vô lối như thông báo sử, địa mà tác giả lạm dùng đến 11 chữ Hán.
朝代 triều đại = Đời vua — Khoảng thời gian của một dòng vua trị vì ; chuyển = quay vòng, chuyển, đổi ; 国家 quốc gia= nhà nước, quốc gia, đất nước ; 变 biến 1. thay đổi, biến đổi 2. trờ thành, biến thành 3. bán lấy tiền
4. biến cố, rối loạn ; 量lường 1. đong, đo 2. bao dung 3. khả năng, dung lượng ; 唯 duy chỉ có ; 害 hạt = hại, hại vô cùng ; 因 nhân 1. nguyên nhân 2. nhân tiện 3. tuỳ theo 4. phép toán nhân ; 永久 vĩnh cửu = vĩnh cửu, vĩnh viễn, lâu dài, mãi mãi
[2] Và họ hiện đại hóa chúng tôi
và họ tạo thêm nhiều, nhiều hơn nữa
nhu cầu mới lạ cho ngày thường của chúng tôi
[nhu cầu chưa bao giờ cần]
và họ mang cố gái của chúng tôi đi mất
và họ chở thứ rác lạ về
cùng với rác lạ
bệnh lạ về
nỗi lo lắng lạ về
và ở lại…
Khổ này như thông báo tổ chở rác của chị em công nhân môi trường làm vệ sinh đường phố mỗi ngày, Nó không dính dáng gì đến hòn quốc đảo hoa lan Đài Loan cả.
[3]
Và chúng tôi trôi giạt về hoang đảo xa hơn
và chúng tôi chạy lên dốc núi cao, cao hơn nữa
và tôi thấy một mình giữa đường phố xa lạ
và tôi thấy đời tổ tiên tôi đang ở góc bảo tàng
và tôi thầy
đời tôi
sắp bảo tàng…,,
Ngắm nhìn hòn đảo hoa lan Đài Loan, anh liên tưởng đến thân phận dân tộc Chăm của anh, bản thân anh, hẩm hiu mạt hạng, nhưng kể lể lạnh lùng một cách vô cảm, không một chút rung động, không để lại một dòng đồng cảm xót thương những tộc người man di mọi rợ bị xóa sổ trong lịch sử, bị nhồi trấu nằm trong nhà bảo tàng như chuồng bò.
Bài thứ hai trong chùm thơ của Phú Trạm Inrasara là ,,3 Đoản thi trái đất,, viết về tai nạn Tchernobyl ,,Checnoo bin,, bên Ucraian ; tỉnh bị đại hồng thủy Fukushima Nhật bản và đảo Haiti. Như ,,Ba khúc về đảo hoa lan Đài Loan,,, ,,3 Đoản thi trái đất,, viết cho ba địa danh nào trên trái đất cũng đươc.
Ngôi nà trống trong thành phố trống
thành phố vừa bị bỏ lại
cái bàn trống trog ngôi nhà trống
tờ giấy và cây bút bỏ trước chiếc ghế trống
ký ức một gia đình bị đánh mất, chắc thế
cũng có thể là những câu thơ
bỏ quên
[1] Tchernobyl
Những câu tổ dân phố thông báo hàng ngày ở các nơi bị dịch covis 19 . Câu thông báo của người ta còn đầy chất thông tin, thiết thực, giúp cho công an, phường đội, tự vệ biết giải quyết kịp thời sự cố xảy ra ở địa phương hơn các câu gọi là thơ của Phú Trạm Inrasara.
Những chiếc ô tô
những ngôi nhà và những biệt thự
một khu cư xá đầy nhóc người ;; rồi
một thị trấn.
trôi
như đồ chơi của bọn trẻ con
trong bàn tay bà mẹ thiên nhiên giận dữ,,
[2] Fukushima
Đây không phải là những câu thơ mà những câu nói bộ khi xem ti vi chiều cảnh đại lụt ở tỉnh Fukushima, Nhật bản.
Số phận một dân tộc
số phận một nền văn minh
số phận một vùng đất
sắp bị trôi vào cuộc chơi
ngu ngốc,,
[3] Haiti
Haiti (phát âm /ˈheɪtiː/; tiếng Pháp Haïti, phát âm: [a.iti]; tiếng Haiti: Ayiti), tên chính thức Cộng hòa Haiti (Tiếng Pháp: République d'Haïti)); (Tiếng Haiti: Repiblik Ayiti) (Tiếng Việt: Cộng hòa Ha-i-ti[6]), là một quốc gia ở vùng biển Ca-ri-bê nói tiếng Creole Haiti- và tiếng Pháp. Cùng với Cộng hòa Dominicana, quốc gia này nằm ở đảo Hispaniola, trong quần đảo Đại Antilles. Ayiti (vùng đất núi cao) đã là tên Taíno hay Amerindian bản địa của phía tây núi non của hòn đảo. Điểm cao nhất quốc gia này là Pic la Selle, với độ cao 2.680 mét (8.793 ft). Tổng diện tích là 27.750 km² và thủ đô là Port-au-Prince.
Vị trí dân tộc, ngôn ngữ và lịch sử của Haiti độc đáo vì nhiều lý do. Đây là quốc gia độc lập đầu tiên ở Mỹ Latin, quốc gia do người da đen độc lập phi thực dân hóa đầu tiên trên thế giới, là quốc gia duy nhất mà sự độc lập một phần là nhờ cuộc nổi loạn nô lệ. Dù có mối liên hệ văn hóa với các láng giềng Hispano-Caribbe, Haiti là quốc gia độc lập chủ yếu sử dụng Pháp ngữ ở châu Mỹ, và là một trong hai quốc gia (cùng với Canada) với tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức.
Quốc gia Haiti (Pháp: État d'Haïti, Haiti: Leta an Ayiti) là tên gọi của quốc gia ở miền bắc Haiti. Quốc gia này được tạo ra vào ngày 17 tháng 10 năm 1806 sau khi lật đổ Đế quốc Haiti từ sau vụ ám sát Hoàng đế Jacques I. Quốc gia Haiti miền bắc nằm dưới sự cai trị của Henri Christophe lúc đầu là Trưởng quan Chính phủ Lâm thời Haiti từ ngày 17 tháng 10 năm 1806 cho đến ngày 17 tháng 2 năm 1807 khi ông trở thành Tổng thống Quốc gia Haiti. Hiến pháp năm 1807 dành cho Quốc gia Haiti đã biến chức vụ tổng thống thành vị trí suốt đời với quyền được bổ nhiệm người kế nhiệm mình. Ngày 28 tháng 3 năm 1811, Tổng thống Henri đã tự xưng là Vua Henry I, do đó giải thể Quốc gia Haiti và lập nên Vương quốc Haiti.,,
Quốc gia Haiti như thế mà tác giả viết quá sơ sài thua một cái tin trênbáo và đặt cho một vùng đất nào cũng được.
Phú Trạm Inraara tỏ ra ngông nghênh, chơi trội, ta phải viết cho ngang tầm trái đất, nhưng gã như con châu chấu lên cầm xà ich lái xe ngựa. Chưa đi bước nào xe ngựa đã chổng bánh lên trời. Rốt cuộc ,, Tam khúc Orchid Island Taiwan,, ; 3 Đoản thi trái đất,, hiện nguyên hình con ngáo ộp vô lối chết tươm xác thối như cứt chó.
Đã ngu độn, dốt nát tiếng Việt không khiêm tốn làm ra vẻ ta đây viết như thằng hề bôi son phấn đầy mặt quỷ.
Bài 1 thì ghi Tam khúc, bài 2 thì đề số 3 Đoản thi, câu thì xuống dòng tùy tiện,
đặt dấu ngoặc ,, ;;,, ngớ ngẩn.
,, một khu cư xá đầy nhóc người ;; rồi
một thị trấn.
trôi,,…
o
Không chỉ Phú Trạm Inrasara mà cả đám vô lối Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phú Trạm Inrasara,Nguyễn Khoa Điềm, Mai Văn Phấn, Phan Hoàng, Phạm Đương, Trần Hùng, Dư Thị Hoàn, Mã Giang Lân, Mai Quỳnh Nam, Từ Quốc Hoài, Hoàng Vũ Thuật, Hoàng Hưng, Đỗ Doãn Phương, Đinh Thị Như Thúy,Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Trúc Thông, Thi Hoàng, Thanh Tùng…rất ngu độn tiếng Việt, ba que xỏ lá, ném lựu đạn, trí trá, gian manh…đã tàn phá thơ dân tộc một cách nguy hại trầm trọng.
Chùm gọi là thơ của Phú Trạm Inrasara chỉ có bọn vô lối thưởng ngoạn với nhau, dân tộc Việt không ai chấp nhận loại này.
Hà Nội , ngày 1O/11/221
Đ H

Chân Dung văn Nghệ Sỹ -TRẦN DẠ TỪ - THUỞ LÀM THƠ YÊU EM

TRần Dạ Từ là nhà thơ ở Việt Nam Công Hòa

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập54
  • Hôm nay5,547
  • Tháng hiện tại266,545
  • Tổng lượt truy cập479,059
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi