Thơ không vần thế giơi-thơ vô lối - thi tặc Việt

  •   25/03/2025 17:09:00
  •   Đã xem: 76
  •   Phản hồi: 0
THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI
VÀ THƠ VÔ LỐI - THI TẶC VIỆT NAM
Đỗ Hoàng
Thơ không vần là thơ được viết bằng những dòng thơ có vần điệu đều đặn nhưng không có vần , thường là theo nhịp thơ iambic pentameter (nhịp thơ iambic năm âm tiết). Thơ này được mô tả là "có lẽ là hình thức phổ biến và có ảnh hưởng nhất mà thơ tiếng Anh đã có kể từ thế kỷ 16", và Paul Fussell ước tính rằng "khoảng ba phần tư tổng số thơ tiếng Anh là thơ không vần".
Người đầu tiên sử dụng thơ không vần trong tiếng Anh là Henry Howard, Bá tước Surrey trong bản dịch Aeneid của ông (sáng tác khoảng năm  1540 ; xuất bản sau khi ông mất, 1554–1557. Ông có thể đã lấy cảm hứng từ bản gốc tiếng Latin vì thơ cổ điển tiếng Latin không sử dụng vần điệu, hoặc có thể ông đã lấy cảm hứng từ thơ Hy Lạp cổ đại hoặc dạng thơ versi sciolti của Ý , cả hai đều không sử dụng vần điệu.
Vở kịch Arden of Faversham (khoảng năm 1590 của một tác giả vô danh) là một ví dụ đáng chú ý về thơ không vần .
Vở kịch Gorboduc của Thomas Norton và Thomas Sackville năm 1561 là vở kịch tiếng Anh đầu tiên sử dụng thể thơ không vần.
Christopher Marlowe là tác giả người Anh đầu tiên đạt được danh tiếng phê bình vì sử dụng thơ không vần.’ Những thành tựu chính trong thơ không vần tiếng Anh được thực hiện bởi William Shakespeare , người đã viết phần lớn nội dung các vở kịch của mình bằng nhịp thơ iambic không vần , và John Milton , người đã viết Paradise Lost bằng thơ không vần. Thơ không vần Milton đã được bắt chước rộng rãi vào thế kỷ 18 bởi các nhà thơ như James Thomson (trong The Seasons ) và William Cowper (trong The Task ). Các nhà thơ Anh lãng mạn như William Wordsworth , Percy Bysshe Shelley và John Keats đã sử dụng thơ không vần như một hình thức chính. Ngay sau đó, Alfred, Lord Tennyson đã trở nên đặc biệt tận tụy với thơ không vần, sử dụng nó chẳng hạn như trong bài thơ tự sự dài " The Princess ", cũng như cho một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông: " Ulysses ". Trong số các nhà thơ người Mỹ, Hart Crane và Wallace Stevens nổi tiếng vì sử dụng thơ không vần trong các sáng tác mở rộng vào thời điểm nhiều nhà thơ khác đang chuyển sang thơ tự do .
Marlowe và sau đó là Shakespeare đã phát triển tiềm năng của nó rất nhiều vào cuối thế kỷ 16. Marlowe là người đầu tiên khai thác tiềm năng của thơ không vần để tạo nên bài phát biểu mạnh mẽ và sâu sắc:
“Hỡi những vì sao đã ngự trị trong ngày sinh của tôi,
Những vì sao đã gây ra cái chết và địa ngục,
Giờ hãy kéo Faustus lên như một làn sương mù
Vào bên trong những đám mây đang lao động kia,
Để khi chúng phun ra không trung,
Tứ chi của tôi có thể nhô ra khỏi miệng khói của chúng,
Để linh hồn tôi có thể bay lên Thiên đường.
—  Bác sĩ Faustus
Shakespeare đã phát triển đặc điểm này, cũng như tiềm năng của thơ không vần cho lời nói đột ngột và bất quy tắc. Ví dụ, trong cuộc trao đổi này từ Vua John , một dòng thơ không vần bị ngắt giữa hai nhân vật:
“Chúa tể của tôi?”
—  Vua John
Shakespeare cũng sử dụng kỹ thuật ngắt dòng ngày càng thường xuyên hơn trong thơ của mình, và trong những vở kịch cuối cùng của ông đã sử dụng các âm cuối giống cái (trong đó âm tiết cuối của câu không được nhấn mạnh, ví dụ như dòng 3 và 6 trong ví dụ sau); tất cả những điều này làm cho thơ không vần sau này của ông trở nên vô cùng phong phú và đa dạng.
“Hỡi các yêu tinh của những ngọn đồi, những con suối, những hồ nước đứng và những lùm cây,
Và những kẻ trên bãi cát với bàn chân không dấu chân
Đang đuổi theo thần Neptune đang rút lui, và xua đuổi ngài
Khi ngài quay trở lại; các ngươi là những con rối nửa người nửa thú,
Nhờ ánh trăng tạo nên những lọn tóc xoăn xanh chua Mà
con cừu cái không cắn; và các ngươi có trò tiêu khiển
Là làm nấm lúc nửa đêm, vui mừng
Khi nghe lệnh giới nghiêm trang trọng; với sự giúp đỡ của các ngươi,
Mặc dù các ngươi là những chủ nhân yếu đuối, Ta đã làm
tối Mặt trời giữa trưa, triệu hồi những cơn gió nổi loạn,
Và giữa biển xanh và vòm trời xanh ngắt
Gây ra chiến tranh dữ dội - trước tiếng sấm rền đáng sợ
Ta đã ban lửa, và rạch cây sồi chắc khỏe của thần Jove Bằng chính
tia chớp của mình;’’’”..
—  Bão tố ,
Cách xử lý thơ không vần rất tự do này đã được những người cùng thời với Shakespeare bắt chước, và dẫn đến sự lỏng lẻo về nhịp điệu chung trong tay những người dùng ít kỹ năng hơn. Tuy nhiên, thơ không vần của Shakespeare đã được John Webster và Thomas Middleton sử dụng thành công trong các vở kịch của họ. Trong khi đó, Ben Jonson đã sử dụng thơ không vần chặt chẽ hơn với ít ngắt dòng hơn trong các vở hài kịch Volpone và The Alchemist của ông .
Thơ không vần không được sử dụng nhiều trong thơ phi kịch của thế kỷ 17 cho đến Paradise Lost , trong đó Milton sử dụng nó một cách thoải mái. Milton đã sử dụng tính linh hoạt của thơ không vần, khả năng hỗ trợ sự phức tạp về cú pháp của nó, ở mức tối đa, trong các đoạn văn như sau:
“....Vào Hố nào ngươi thấy
Từ độ cao nào rơi xuống, Người mạnh hơn đã cung cấp rất nhiều
Sấm sét của Người: và cho đến lúc đó, ai biết
Sức mạnh của những Vũ khí khủng khiếp đó? nhưng không phải vì những điều đó Cũng không
phải vì những gì Người chiến thắng quyền năng trong cơn thịnh nộ của Người
Có thể gây ra cho ta sự hối hận hoặc thay đổi,
Mặc dù đã thay đổi vẻ hào nhoáng bên ngoài; rằng tâm trí cố định
Và sự khinh miệt cao độ, từ cảm giác công trạng bị tổn thương,
Đã cùng với những kẻ mạnh nhất nâng ta lên để đấu tranh,
Và mang theo
sức mạnh vô số của các Linh hồn được trang bị
Những kẻ dám không thích sự cai trị của Người, và ta thích hơn,
Quyền năng tối cao của Người với quyền năng đối nghịch
Trong Trận chiến đáng ngờ trên Đồng bằng Thiên đàng,
Và làm rung chuyển ngai vàng của Người. Mặc dù chiến trường đã mất?
Không phải tất cả đều mất; Ý chí bất khuất,
Và nghiên cứu về sự trả thù, lòng căm thù bất tử,
Và lòng dũng cảm không bao giờ khuất phục hoặc đầu hàng:
—  Thiên Đường Đã Mất ,
Milton cũng viết Paradise Regained và một số phần của Samson Agonistes bằng thơ không vần. Trong thế kỷ sau Milton, có rất ít cách sử dụng thơ không vần kịch tính hoặc không kịch tính; để phù hợp với mong muốn về tính đều đặn, hầu hết thơ không vần của thời kỳ này đều có phần cứng nhắc. Những ví dụ hay nhất về thơ không vần từ thời kỳ này có lẽ là bi kịch All for Love của John Dryden và The Seasons của James Thomson . Một ví dụ đáng chú ý không chỉ vì sự thất bại của nó với công chúng mà còn vì ảnh hưởng tiếp theo của nó đối với hình thức này là The Fleece của John Dyer .

Vào cuối thế kỷ 18, William Cowper đã mở ra một cuộc đổi mới cho thơ không vần với tập thơ chiêm nghiệm Vạn hoa của ông, The Task , xuất bản năm 1784. Sau Shakespeare và Milton, Cowper là người có ảnh hưởng chính đến các nhà thơ lớn tiếp theo trong thơ không vần, những thiếu niên khi Cowper xuất bản kiệt tác của mình. Đó là các nhà thơ vùng Hồ William Wordsworth và Samuel Taylor Coleridge . Wordsworth đã sử dụng hình thức này cho nhiều tác phẩm Lyrical Ballads (1798 và 1800) và cho những tác phẩm dài nhất của ông, The Prelude và The Excursion . Thơ của Wordsworth lấy lại được một số nét tự do của Milton, nhưng nhìn chung đều đặn hơn nhiều:
“Năm năm đã trôi qua; năm mùa hè, với chiều dài
Của năm mùa đông dài! Và một lần nữa tôi nghe
Những dòng nước này, chảy từ các suối trên núi
Với tiếng thì thầm nhẹ nhàng trong đất liền. – Một lần nữa
Tôi lại nhìn thấy những vách đá dựng đứng và cao ngất này...”

—  Những dòng được viết cách Tu viện Tintern vài dặm , dòng 1–5
Thơ không vần của Coleridge mang tính kỹ thuật hơn thơ của Wordsworth, nhưng ông viết rất ít:
“Vâng, họ đã đi rồi, và tôi phải ở lại đây,
Cái chòi cây chanh này là nhà tù của tôi! Tôi đã mất đi
Những vẻ đẹp và cảm xúc, những thứ sẽ
ngọt ngào nhất trong ký ức của tôi ngay cả khi tuổi tác
đã làm mờ mắt tôi đến mức mù lòa! Trong khi đó, chúng...”

—  “ Cây chanh này là nhà tù của tôi ”
Những bài thơ đối thoại của ông như " The Eolian Harp " và " Frost at Midnight " là những tác phẩm thơ không vần nổi tiếng nhất của ông. Thơ không vần của Keats trong Hyperion chủ yếu được mô phỏng theo thơ của Milton, nhưng ít tự do hơn với nhịp thơ năm âm và sở hữu đặc điểm của thơ Keats. Thơ không vần của Shelley trong The Cenci và Prometheus Unbound gần với thực hành của Elizabeth hơn là của Milton.
Trong số các nhà văn thời Victoria viết thơ không vần, nổi bật nhất là Tennyson và Robert Browning . Thơ không vần của Tennyson trong các bài thơ như "Ulysses" và "The Princess" có nhạc tính và đều đặn; lời bài hát " Tears, Idle Tears " của ông có lẽ là ví dụ quan trọng đầu tiên về bài thơ khổ thơ không vần. Thơ không vần của Browning, trong các bài thơ như " Fra Lippo Lippi ", thì đột ngột và mang tính đối thoại hơn. Vở opera năm 1884 của Gilbert và Sullivan , Princess Ida , dựa trên "The Princess" của Tennyson. Lời thoại của Gilbert hoàn toàn là thơ không vần (mặc dù 13 vở opera khác của Savoy có lời thoại bằng văn xuôi). Dưới đây là một đoạn trích do Princess Ida nói sau khi hát aria nhập cuộc "Oh, goddess wise".
“Phụ nữ của Adamant, những người mới vào nghề xinh đẹp—
Những người khao khát sự chỉ dạy như chúng tôi đưa ra,
Hãy lắng nghe, trong khi tôi mở ra một câu chuyện ngụ ngôn.
Con voi mạnh hơn Con người,
Nhưng Con người chế ngự nó. Tại sao? Con voi
Ở khắp mọi nơi đều giống voi trừ nơi này (vỗ trán)
Và Con người, người có bộ não bằng con voi
Như bộ não của Phụ nữ bằng Bộ não của Đàn ông—(đó là quy tắc của ba),—
Chinh phục gã khổng lồ ngốc nghếch của khu rừng,
Khi Phụ nữ, đến lượt mình, sẽ chinh phục Đàn ông.
Trong Toán học, Phụ nữ dẫn đầu:
Kẻ học đòi hẹp hòi vẫn tin
Rằng hai cộng hai bằng bốn! Tại sao, chúng ta có thể chứng minh,
Chúng ta là phụ nữ—những người làm việc nhà như chúng ta—
Rằng hai cộng hai bằng năm—hoặc ba—hoặc bảy;
Hoặc hai mươi lăm, nếu trường hợp đòi hỏi!’’’
Thơ không vần, với nhiều mức độ đều đặn khác nhau, đã được sử dụng khá thường xuyên trong suốt thế kỷ 20 trong thơ gốc và trong các bản dịch thơ tự sự. Hầu hết các bài thơ tự sự và thơ đối thoại của Robert Frost đều là thơ không vần; cũng như các bài thơ khác như " The Idea of Order at Key West " và " The Comedian as the Letter C " của Wallace Stevens , " The Second Coming " của WB Yeats , "The Watershed" của WH Auden và " Summoned by Bells " của John Betjeman . Không thể liệt kê đầy đủ, vì một loại thơ không vần rời rạc đã trở thành một phần chính của thơ trữ tình, nhưng có thể nói một cách an toàn rằng [ từ ngữ hoa mỹ ] thơ không vần hiện đang nổi bật như bất kỳ thời điểm nào trong ba trăm năm qua.
Bằng tiếng Đức
Thơ không vần cũng phổ biến trong văn học Đức . Nó được Gotthold Ephraim Lessing sử dụng trong vở bi kịch Nathan der Weise ( Nathan the Wise ) năm 1779, trong đó các dòng thơ dài 10 hoặc 11 âm tiết:
“Ja, Daja; Gott sei Dank! Doch warum endlich?
Hab ich denn eher wiederkommen wollen?
Bạn có muốn biết không? Babylon
Ist von Jerusalem, wie ich den Weg,
Seitab hói rechts, hói liên kết, zu nehmen bin
Genötigt worden, gut zweihundert Meilen;
Und Schulden einkassieren, ist gewiss
Auch kein Geschäft, das merklich fördert, das
So von der Hand sich schlagen lässt.Cha ông ta”
Vần hay không vần
Posted on 18.02.2008 by admin
THƠ, VẦN HAY KHÔNG VẦN
“Nếu không có thơ vần, tất cả chúng ta đều là thiên tài”. Oscar Wilde khẳng định như thế. Một khẳng định không phải không nguyên do, trong tình hình các người làm thơ phương Tây đầu thế kỉ XX đổ xô làm thơ không vần, kịch liệt chống đối thơ vần.
1. Bài thơ “Mouvement” (Chuyển động) trong tập thơ-văn xuôi Illuminations của A. Rimbaud được xem là bài thơ tiếng Pháp đầu tiên có những câu ngắn dài không đồng đều và không vần, ảnh hưởng trực tiếp đến G. Apollinaire, nhà thơ tự do hàng đầu của Pháp, đã khai mào cho Thơ Tự do phương Tây. Từ đó, thơ không vần nẩy nở và phát triển mạnh mẽ. Từ đầu thế kỉ XX, thơ không vần chiếm lĩnh áp đảo thi đàn Pháp.
Ở Mỹ, W. Whitman được xem là nhà cách mạng, đưa thơ Mỹ vượt qua thẩm mỹ thơ đương thời, trong đó vần là yếu tố bị trừ khử đầu tiên.
“Ở Nhật, từ năm 1945, vần điệu dễ dãi của những đoản ca, hài cú đã bị công kích và khước từ. Ở Trung Quốc, Đài Loan các nhà thơ hiện đại đã dẹp bỏ vần điệu, niêm luật xưa. Các thi sĩ Ả Rập, Ấn Độ cũng đã đổi mới triệt để cú điệu và hình thức trong sáng tác thi ca của họ”. Chân Phương viết thế.
Rồi ông đặt vấn đề: “Truyền thống chỉ có giá trị thật khi được tra cứu và chất vấn với ý thức và thời đại ta đang sống. Khi văn học toàn cầu, bất kể nước lớn hay nhỏ, đang chuyển động mạnh trong sự tiếp nhận, học hỏi lẫn nhau ngày càng nhiều, chẳng lẽ các nhà thơ Việt Nam lại ôm mãi mấy gốc cây đa của vần điệu thời thơ văn truyền khẩu?”
2. Nguồn sữa nuôi dưỡng thơ Việt chính là ca dao, nghĩa là văn chương truyền khẩu. Mà văn chương truyền khẩu không thể đi chệch khỏi vần: dễ thuộc, dễ nhớ và, dễ ngâm. Tiếp nhận Thơ Đường của Trung Hoa, ta cứ vậy, cho tận khi phong trào Thơ Mới xuất hiện. Nhưng Thơ Mới, một biến thái của ca dao, Hát nói qua ảnh hưởng của Trường Lãng mạn và Hiện thực Pháp, dù đã làm nên cuộc cách mạng trong thơ Việt, vẫn không một lần từ bỏ vần.
Ý hướng cắt đứt thơ vần được Nguyễn Đình Thi khơi mào vào những năm 50, đã bị chống đối kịch liệt, đành nửa đường đứt gánh. Nỗ lực này chỉ đạt một vài thành tựu hiếm hoi qua các thi sĩ thuộc Nhóm Nhân văn-Giai phẩm ở miền Bắc và Nhóm Sáng tạo ở miền Nam những năm 60. Chúng ta thử nêu vài trích dẫn:
“Ở cuối đêm
em rũ tóc nói những lời mê sảng
những ám hiệu
của mặt biển đen khôngtình yêu tuyệt vọng
anh xé tóc em cùng những cánh lá chết
mùa thu
gây thương tích nơi cườm tay
anh xô ngã em tờ chóp đỉnh hạnh phúc”
(Thanh Tâm Tuyền, “Đêm”, Tôi không còn cô độc)
“Tôi nhớ không còn gì
Khoảng cách trần truồng vô nghĩa
Tờ giấy trắng bọc gọn trái tim
nét chữ bôi lên kín cả
Tôi nhớ không còn gì
(Thơ Duy Thanh)
Thế rồi tất cả đều trở lại vạch xuất phát. Dẫu các sáng tác sau đó có câu ngắn dài không đồng đều, sử dụng vần buông hay cả khi từ bỏ vần, thơ Việt vẫn cứ bị ám ảnh bởi vần. Trúc Thông ám ảnh vần đã đành:
“xuyên bức tường vô tận nhất – thời gian
một mũi tên bay mãi
hôm nay nó xâu táo quả tim ba chúng ta
giữa ngày tôi gặp nạn lẳng lặng mũi tên xuyên
ba chàng trai đã sống trên đời
nửa thế kỉ
ba phương trời…”
:

Nến được đốt lên sớm hơn mọi thế kỉ trước
Những vết rạn dương gian chầm chậm tràn tràn đầy
Ánh hoàng hôn – đấy bình minh linh ẩn
Dâng ngập những mái nhà, những vòm cây,
những đỉnh núi u trầm(3)
Không phải không lí do khi có người cho đại bộ phận thơ hiện đại Việt Nam chỉ dừng lại ở dạng Thơ Mới biến thể (hay phá thể). Không hơn.Trong lúc ở Pháp, sau hơn một thế kỉ phiêu lưu (và gặt hái không biết bao nhiêu là thành tựu) với thơ không vần, các nhà thơ trẻ hiện nay đang quay trở lại với thơ vần!
3. May, thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số, do bắt nguồn từ dòng chảy thẩm mĩ khác, ít bị thao túng/quy định bởi vần. Ngoại trừ vài nhà thơ tiếp nhận nguồn thơ Việt, từ đó khá nhuyễn với các thể thơ Việt như: Lương Định, Mai Liễu, Y Phương,… Còn lại, đa phần đều sáng tác theo truyền thống “dân tộc thiểu số”. Và, rất ít vướng víu bởi vần. Lò Ngân Sủn có “Người đẹp” và các bài thơ hay khác của anh.
“Cây lim đứng như một kẻ chôn chân dưới đất
(Chất cây lim bất chấp loài sâu mọt)
Ngọn vầu, bương uốn lượn như tua còn tua khăn
Thảm cỏ non ươm xanh ngọn gió
Cây dát, cây dổi vân nổi như sóng cuộn mây vờn
Cây đá cuội ngụy trang như hòn cuội
Cây tấu mặt quỷ
Cây sến vỏ nứt ô bàn cờ…”
Bước đạp vạm vỡ hơn. Tôi thấy – dứt khoát hơn
thế giới vỡ vụn và ráp lại qua hơi thở gấp
lửa hấp hối.Ông bị quăng ra khỏi vùng lửa – mình đầy thương tích
cả thế giới thương tích – chỉ nụ cười vẹn nguyên
niềm vui vẹn nguyên
triệu triệu giọt nước bay về giập tắt tia lửa sống sót
toan gượng dậy lần cuối cùng
giập tắt khổ sở, thất vọng trên những khuôn mặt. Tôi thấy.

Ở bên kia niềm vui
Sự chịu đựng vẹn nguyên họ lại bắt đầu bén rễ.(6)
4. Tại sao vần có mặt và bám trụ dài dặc thế trong thơ Việt? Truyền thống ca dao, thơ Đường luật, Thơ Mới quy định lề thói sáng tác và thưởng thức của chúng ta. Người viết bị quy định đã đành, trầm trọng hơn cả là vần tồn tại dai dẳng trong việc cảm nhận thơ của người đọc. Cái mới xuất hiện chẳng những không được đón nhận mà còn bị dị nghị, dị ứng rồi bị tẩy chay. Vụ án thơ không vần ở trường hợp Nguyễn Đình Thi là một ví dụ(7).
Đành rằng tâm lí chung của người đọc là ít chịu chấp nhận ngay tức thời cái mới khi nó xuất hiện. Ở đâu cũng vậy, nhưng tại Việt Nam, do truyền thống văn hóa văn chương, nên nó càng bị cự tuyệt quyết liệt hơn. Và, trước thái độ không thiện chí của người đọc, cả người đọc được cho là ưu tú như các nhà phê bình chẳng hạn, kẻ sáng tác cũng rất dễ mất hứng thú trong phiêu lưu sáng tạo. Hệ quả: thơ vần mãi có mặt!
Nhưng có phải bởi vần mà nền thơ Việt không lớn?
Theo thiển ý, vần không là một tội phạm khiến thơ bị nhàm. Vần hay một thể thơ nào bất kì luôn phát triển theo chu kì: tìm tòi – hoàn chỉnh và ổn định – phiêu lưu phá giới – rồi trở lại tìm tòi để ổn định. Hành trình từ Thơ Cổ phong Trung quốc đến trước thời Đường, sang Sơ Đường mày mò rồi mới đạt tới luật tắc ổn định và nghiêm ngặt của Thịnh Đường, để sau đó lại tiếp tục… phá thể (ví như bài “Hoàng Hạc lâu” thời Sơ Đường, dẫu hay đến đâu nhưng xét về luật thơ, nó cũng chưa thật chặt chẽ như chuẩn mực đòi hỏi của thơ Đường).
André Gide nói: “Nghệ thuật sống nhờ luật tắc, và chết vì buông thả”. Sự “buông thả” của các nhà thơ phương Tây thời gian qua đã gây dị ứng nơi người thưởng thức. Họ tẩy chay thơ, từ đó thơ đánh mất người đọc: các nhà thơ quay lại đọc của nhau, hay chỉ đọc chính thơ mình! Hình thành thứ tâm lí tự yêu nguy hiểm. Khủng hoảng thơ đang kì báo động đây đó, là thực. Cả ở Việt Nam. Thơ không vần Việt chưa phát triển đến đầu đến đũa, nhưng cũng đã có dấu hiệu của buông thả.
5. Lại may! Thơ dân tộc thiểu số không bị dính vào trào lưu cách tân ấy. Nhưng không phải vì thế mà thơ chúng ta thiếu nhảm, nhàm và không tránh nguy cơ bị lạnh nhạt. Sáng tác bằng tiếng Việt, lặp lại truyền thống vần Việt là điều thậm nguy: chúng ta rơi tõm vào lối mòn mà không hay! Còn theo học trùng trùng các trào lưu thơ phương Tây, chúng ta mãi mãi là học trò đứng cuối lớp.
Tô Thùy Yên: “Thơ tự do, cũng như thơ mới trước kia, ra đời vì sự thay đổi của hồn thơ, chớ không phải chỉ đơn thuần là sự thay đổi của luật thơ
Như vậy, “sự thay đổi hồn thơ” hay “một tinh thần mới cho thơ” có vai trò quyết định cái hay và cái mới “lớn” của thơ, chứ không phải vần hay luật tắc của một thể thơ nào đó: từ lục bát, tám chữ, Thơ Mới phá thể hay cả Thơ Tự do. Vần, nguy cơ đánh lừa người đọc dễ tính rằng như thế mới là thơ. Nhà thơ dễ làm vần: chẳng nỗ lực gì cả nhưng chúng ta vẫn “hoàn thành” một bài thơ có vần: ta quay lại tự đánh lừa. Và thơ cứ dậm chân tại chỗ!
Vần hay không vần, không hề gì cả, quan trọng là tinh thần mới. Tinh thần mới đặt trên nền đất vững chắc của văn hóa, suy tư nền tảng qua tiếp nhận luồng gió từ trăm phương thổi tới bằng nhậy cảm bắt nhịp cuộc sống hiện đại. Làm thành nhịp điệu của tâm hồn người thi sĩ.
Chính nhịp điệu này quyết định vần hay không vần của một bài thơ, thậm chí một đoạn/câu thơ. Nhịp điệu tùy thuộc vào “miền dao động và rung động”

“Không phải mọi thứ được in ra đều là tuyệt phẩm”, ...Từ lâu lắm tôi mới được đọc một tập thơ như CƠTGBBNEC (Cảm ơn tháng giêng biêng biếc ngực em cười) của Hải Phương”.
Hẳn bạn đọc và những người làm thơ, yêu thơ đã từng (hơn một lần) đọc một, hai, ba bài thơ siêu thực, thơ cách tân, thơ dung tục và đã cảm nhận được “cái hay, cái đẹp” của nó như thế nào so với loại thơ vần trong Truyện Kiều, trong Cung oán Ngâm khúc, trong thơ của Vũ Hoàng Chương, của Xuân Diệu...
Lâu nay người ta đã bàn luận nhiều đến Thơ Vần và thơ không vần, một đề tài đã “xưa như trái đất”, nhưng xem ra vẫn luôn luôn mới, bởi bộ môn Thơ là một phần của đời sống tinh thần trong sinh họat văn học nghệ thuật của nhân loại. Ở Pháp vào thời vua Louis 14 đã có những thi đàn do các nhà quý tộc lập ra để giới trí thức lịch duyệt, được nhà vua nể trọng họp nhau nghe thơ, bàn luận về thơ và để đánh giá mà thừa nhận danh xưng thi sĩ cho những người xứng đáng. Ở Trung Hoa, vào thời thịnh Đường, nhiều nhà thơ không chấp nhận những ràng buộc của Khổng giáo như Đào Tiềm, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên... đã để lại hàng ngàn bài thơ cho gia tài văn học Trung Quốc.
Đó là loại thơ vần mà văn học Việt Nam coi như kế thừa đã mấy nghìn năm. Chúng ta không bao giờ chấp nhận sự “kế thừa” này, vì vậy Thơ Đường đã bị trào lưu thơ Mới đẩy lùi vào bóng mờ của dĩ vãng. Hoài Thanh đã gọi đó là “một cuộc cách mạng thi ca (đã nhóm dậy vào tháng 3 -1932) ”.
Văn học, thi ca cũng như khoa học luôn luôn đòi hỏi con người đi tìm cái mới, cái hay, cái hoàn mỹ, hoàn thiện hơn. Người ta thấy sự thay thế vị trí của thơ - từ cũ sang mới - sau thời kỳ Tự Lực Văn Đoàn cho đến thời kỳ văn học miền Nam (1954-1975), nhưng dù là cũ hay mới thì thơ vẫn là thơ vần, với đầy đủ tính nghiêm chỉnh của vần điệu, của nhạc tính, của thi tứ và thi ngữ.
Thời kỳ thăng hoa của thơ Việt có lẽ phải kể là vào thời kỳ này với Thi Văn Tao Đàn, với các giải thơ toàn quốc. Ngay cả một số nhà thơ ở miền Bắc sau thời kỳ thơ mới như Hoàng Cầm với Bên Kia sông Đuống, Hữu Loan với Màu Tím Hoa Sim, và các nhà thơ khác trong Nhân Văn, Giai Phẩm đều là những nhà thơ mới, đều có làm những bài thơ phá thể, thơ tự do nhưng nhạc tính và vần điệu vẫn rất hoàn chỉnh, vẫn có thể đọc, có thể ngâm để mà cảm nhận, mà thưởng thức.
Cùng lúc với Thơ Mới chiếm lĩnh vị trí trong thơ Việt, thơ mới “giành được quyền sống”; thơ cũ “mất quyền sống” trong làng thơ, cũng là lúc có những người phỏng theo thơ Pháp làm thơ tự do, thơ phá thể, thơ không vần, nhưng không phổ biến nhiều, không lớn lên được, và không thể tồn tại. Mãi đến sau năm 1954, sau cuộc di cư của gần một triệu người từ Bắc vào Nam, Thanh Tâm Tuyền là người chủ trương khuynh hướng sáng tác thơ tự do, được nhóm Sáng Tạo hưởng ứng và cổ vũ. Từ đó cho tới nay, sau hơn nửa thế kỷ thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền vẫn là... của Thanh Tâm Tuyền, chưa bao giờ nhân rộng ra thành một trường phái có tác phẩm hẳn hòi. Người ta thừa nhận cái công của Thanh Tâm Tuyền hô hào cho khuynh hướng thơ tự do, nhưng không ai thừa nhận cái thành công của khuynh hướng này.
Nhà thơ Hà thượng Nhân, một nhà thơ kỳ cựu trong làng thơ miền Nam, có lần cho chúng tôi biết, trong một lần ông được mời vào Ban giám khảo chấm thi một giải thơ toàn quốc (VNCH), khi biết trong số các tác giả được đề nghị có Thanh Tâm Tuyền, ông đã nói với Vũ Hoàng Chương và Cao Tiêu xin từ chối vào Ban Giám Khảo. Ông Hà vẫn thường nói với chúng tôi: “Ai bảo Thanh Tâm Tuyền là nhà thơ, là thi sĩ, dù ông ta là một người có kiến thức, có tài...”
Trở lại với bài viết của Ông Lâm Văn Sang trên VTimes số 31, quả thật tôi không hiểu được lý do gì đã gây nên cái cảm giác “bất an” cho tác giả bài báo, khi ông viết:
“Những người làm thơ khác ở San Jose (và một phần khác ở hải ngoại, những người có dịp ghé qua thành phố này ra mắt sách của họ), những thi tập khác (cá nhân hay tập thể) vẫn tạo cho tôi cảm giác bất an”.
Chúng ta biết ở hải ngoại và cả trong nước hiện nay thơ đã lạm phát đến mức báo động, nhưng thực ra chẳng hề hấn gì. Ít năm trước thời kỳ thơ mới, tờ “Đông Pháp” ở Hà Nội mở cuộc thi thơ đã có đến 1.500 người dự thi. Hồi đó Hoài Thanh đã tự hỏi: “nước ta có bao nhiêu thi sĩ? 40 ngàn hay 400 ngàn? và ông cho biết 4.000 người có thơ đăng báo, in sách nhưng có chừng 40 người có thơ đưa vào “Thi Nhân Việt Nam”. Số 4.000 hay 40 ngàn hay 400 ngàn người làm thơ thời đó đến nay không ai biết tên tuổi họ (ngoại trừ một số trong “Thi nhân Việt Nam”). Và trong con số 40 người đó cho tới nay cũng chỉ một số ít người đi vào văn học, đếm được đầu ngón tay, được người đời nhắc đến.

Sự sàng lọc, đào thải của thời gian và công luận, của ngườiø đọc là một “cán cân công lý” vô tư nhất.
Tiếp đến, ông LVS viết: “Chúng ta vẫn tự hào một cách chung chung về chuyện đã mang cả sinh hoạt văn hóa (văn học nghệ thuật) của miền Nam ra hải ngoại và từ đó đã tiếp tục phát triển sinh họat này. Tin tưởng như thế và tiếp tục bịt mắt mình, chúng ta đã đi một đoạn đường khá dài, hơn 30 năm”.
Không rõ tác giả bài báo đã có hay sẽ có chương trình, đề án nào cho sinh hoạt và việc nối dài của VHNT miền Nam ở hải ngoại? Và ông LVS cũng dư biết tất cả mọi sinh hoạt chính trị, văn nghệ, văn chương học thuật ở hải ngoại đều là những hoạt động tự phát của từng nhóm, từng hội đoàn, tùy theo khả năng và tấm lòng của họ đối với nghĩa lớn của cộng đồng, của dân tộc, mà phần lớn đều cùng một hoàn cảnh là lực bất tòng tâm. Người đọc bài viết của Ông LVS dù vô tư đến mấy cũng cảm thấy bị xúc phạm, khi mình bị gán ghép cho hành vi “tự bịt mắt” với thái độ “tự hào chung chung”.
Có phải tác giả bài báo cho rằng “Tự bịt mắt mình” nghĩa là mù quáng, là không nhìn về phía trước mà đi tới, dù phía trước đó là cái gì, là nơi chốn nào. Cứ đi tới, đừng nhìn lại quá khứ, vứt bỏ hết quá khứ, dù quá khứ đó như thế nào. Trong khi người sáng tác lại rất cần chất liệu của quá khứ để viết, để suy gẫm và để rút tỉa làm bài học cho chính mình và cho người đi sau. Tôi tin trong chúng ta không ai tán thành việc tiếc nuối quá khứ, khóc than dĩ vãng. Không ai chủ trương hằn học hận thù với quá khứ, nhưng nhất định không ai có thể quên được quá khứ. Quá khứ chính là vốn sống của hiện tại, là bài học lớn và là kinh nghiệm cho hướng đi trong tương lai.
Một đoạn khác trong bài báo:
“Đọc thơ ở đây, người ta sẽ kinh hoàng chợt nhận ra thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954, đã bị xóa trắng một cách oan uổng.”
Thật tình, tôi không hiểu ý của tác giả bài báo muốn nói gì về nhận định này.
“Thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954” mà ông LVS nói đến là thế giới những gì? Theo sự hiểu biết thô thiển của tôi thì “thế giới thơ” từ năm 1954 đến 1975 là một “thế giới” thơ của hai ba thế hệ người làm thơ Bắc (di cư) Trung, Nam, phong phú và đa dạng cả về nội dung tư tưởng đến hình thức. Nói đến “thế giới thơ” miền Nam là nói đến Thi Văn Tao đàn, đến các giải thi thơ toàn quốc, đến các thi văn đoàn và không thể không nói đến những tên tuổi như Quách Tấn, Á Nam Trần Tuấn Khải (thơ Đường), Vũ Hoàng Chương Đinh Hùng, Tạ Ký, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Hà Thượng Nhân, Trần Tuấn Kiệt, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Diên Nghị, Tuệ Nga, Quỳ Hương... Thơ tự do có Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp...
Sau 75 “thế giới thơ” đó đã bị chế độ XHCN với văn hóa Mac-xit xóa trắng một cách không thương tiếc ở trong nước. Vũ Hoàng Chương ra khỏi tù, mấy ngày sau qua đời. Tạ Ký chết bụi chết bờ, Hồ Điệp chết trên đường vượt biên. Tác phẩm của họ bị cho là sản phẩm văn hóa đồi trụy, bị cấm đọc, cấm lưu truyền, cấm lưu trữ... Đó mới chính là sự xóa trắng đáng kinh hoàng, chứ ở hải ngoại người ta vẫn trân trọng, vẫn đọc và vẫn kế tục trong sáng tác, trong lưu hành, và phổ biến.
Có phải cái “xóa trắng” mà tác giả bài báo muốn nói là từ sau 75, ra hải ngoại, và riêng tại San Jose không ai nối nghiệp Thanh Tâm Tuyền, không phát động trào lưu sáng tác thơ văn xuôi, thơ tự do, thơ không vần? Có phải vì suy nghĩ như vậy mà ông LVS giáng bút một cách chủ quan và mỉa mai rằng: “San Jose từ lâu nay đã trở thành một xí nghiệp thơ, sản xuất ra những vần điệu nghiêm chỉnh đóng thành tập”.
Một ý niệm rất đơn giản mà phổ quát đã có từ xa xưa là khi nói đến thơ là nói đến vần điệu. Từ xưa nay, một câu nói, một đoạn viết mà không có vần có điệu thì không ai gọi là thơ.
Tuân Tử trong thiên Nho Hiệu đã phân biệt Thi (là thơ) với Thư (là văn xuôi). Với sự phân định rạch ròi đó, trong văn học cổ Trung Hoa có hai bộ sách - Kinh Thi và Kinh Thư.
Một số người ngày nay hoặc do không phân biệt được, hoặc do quá dễ dãi, thường nói “viết thơ cho gia đình”, “đi lấy thơ ở bưu điện”, thay vì nói viết thư, đi lấy thư... nhưng một người hiểu biết bình thường không ai lầm lẫn giữa thư và thơ; giữa văn xuôi và văn vần.
Như một nguyên tắc bất di bất dịch, từ lâu đời: Thơ không phải và không thể là văn xuôi; Thư không phải/và không thể là văn vần. Nay khuynh hướng thơ cách tân, thơ siêu thực, thơ dung tục muốn làm một cuộc “cách mạng” thi ca bằng cách tạo ra một loại thơ tối nghĩa, không vần, không điệu, một mớ chữ nghĩa xà bần, thanh ít tục nhiều, nhằm biểu lộ hoặc để thỏa mãn tính lập dị, khoa trương kiến thức, đem chữ nghĩa ra thách đố người đọc, mà có khi chính người làm ra bài thơ đó cũng không hiểu mình muốn nói gì.
Bạch Cư Dị của Trung Hoa cách đây hơn 1.100 năm lúc làm xong một bài thơ, đọc cho người vú già nghe rồi hỏi: “Có hiểu không?”. Nếu đáp “hiểu” thì ông mới chép lại (bằng không thì vứt bỏ).
Xin quý vị nhà thơ cách tân trước khi đạp đổ cái cũ (thơ vần) hãy từ trong cái cũ bước ra, ít nữa phải là một người đã từng sành sỏi thơ vần và hãy chỉ ra cho mọi người biết và hiểu được cái hay cái dở của cái vần và cái không vần.
Trích dẫn lời nói của nhà văn Ba Lan Witold Gombrowicz “văn chương không phải là một xí nghiệp, cũng không phải là một sản phẩm xí nghiệp”, bài báo viết tiếp “Không phải mọi thứ được in ra đều là tuyệt phẩm”, và trước đó ông viết: “Từ lâu lắm tôi mới được đọc một tập thơ như CƠTGBBNEC (Cảm ơn tháng giêng biêng biếc ngực em cười) của Hải Phương”.
Ý kiến này của tác giả bài báo cho người ta cảm tưởng tập thơ của Hải Phương không là tuyệt phẩm thì cũng là một thi tập vượt lên trên tất cả những tập thơ khác, “từ lâu lắm”.
Tôi hoàn toàn không có ác cảm nào với cá nhân các “nhà thơ cách tân, siêu thực”, cũng mong quý vị thực hiện thành công cuộc “cách mạng thi ca” mà quý vị chủ trương. Riêng loại thơ dung tục thì xung quanh tôi rất nhiều người tỏ ra ngại ngùng khi liếc mắt tới loại thơ trần truồng giả hiệu này. Dư luận chung cho rằng cũng chỉ vì muốn mua chút danh bằng tính lập dị, không giống ai, một số người đã tạo ra một loại “dâm thư” qua thơ, một cách bệnh hoạn. Tôi gọi đó là loại thơ trần truồng giả hiệu, bởi vì tôi tin một cách chắc chắn rằng quý vị “nhà thơ dung tục” ấy chỉ bày biện chữ nghĩa trần truồng lên giấy, nhưng không bao giờ dám bày những thứ đó trước mặt gia đình, con cái, thân nhân, người quen kẻ lạ... Chỉ khi nào quý vị ấy trút bỏ hết y phục, bày mọi thứ... ra trước thiên hạ như quý vị đã viết ra trên giấy thì bấy giờ loại thơ kia mới có “cầu chứng” (với tác giả của nó).
Thử hỏi nếu gia tài thi ca Việt Nam từ Cung Oán Ngâm khúc, rồi Chinh Phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều, sang tới thi ca thế kỷ 19 cho đến tận thời kỳ thơ Mới của Tự Lực Văn đoàn và “thế giới thơ miền Nam” mà tất tất đều là “thơ cách tân”, thơ “tân hình thức”, thơ siêu thực thì văn học Việt Nam ngày nay sẽ ra sao? Và nếu hôm nay thơ siêu thực thay thế toàn bộ thơ “vần điệu nghiêm chỉnh” thì các thế hệ sau này làm thế nào để tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi? Hay đến lúc bấy giờ tất cả mọi người đều đã trở thành những “siêu nhân”, có thể đọc và hiểu được thứ ngôn ngữ thần chú, huyền bí, hiểm hóc ấy! Giả dụ vị khai quốc công thần Lý Thường Kiệt làm bốn câu tứ tuyệt “Nam quốc sơn hà Nam đế cư...” bằng loại thơ cách tân siêu thực thì đã có được tác dụng gì với lòng dân, với triều đình nhà Hán, và còn tồn tại đến ngày nay không?
Có thể là quá đáng, trong khi tác giả bài báo hết lời tán tụng tập thơ “siêu thực” có tên “Cám ơn tháng giêng biêng biếc ngực em cười” của Hải Phương thì ông lại nặng lời với những người làm thơ khác ở San José một cách qua đáng: “Nhiều người khác ở đây (San Jose) cũng móc gan ruột ra tuyên bố tương tự như một nhãn hiệu cầu chứng cho những gì phát xuất từ 1954 cho đến 1975 mới là chính hiệu”.
“Kế thừa là chuyện dễ nói hơn dễ làm trong văn chương nhắm mắt và bịt mắt. Thế giới thơ ở San Jose đã không tiếp nối trào lưu sáng tác thơ đa dạng ở miền Nam trước 1975. Đọc thơ ở đây, người ta sẽ kinh hoàng chợt nhận ra thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954, đã bị xóa trắng một cách oan uổng”.
Không ai có quyền bắt buộc một người khác thích cái này hay không thích cái kia. Một bức tranh đối người này cho là đẹp, người kia phê bình là xấu. Một bài thơ người này khen hay, người khác chê dở; một thiếu nữ đi ngang qua, người này khen là đẹp, duyên dáng, người kia cho là “thường”.
Cũng vậy, môt người có thể cảm khoái với loại tranh lập thể, trừu tượng, nhưng xin đừng quay sang chỉ trích trường phái “cổ điển” mà cho rằng (ví dụ): “San Jose lâu nay đã trở thành một xí nghiệp tranh vẽ, được lắp ráp cảnh trí với chân dung nghiêm chỉnh, dùng sơn màu và cọ đưa lên khung vải...”. Như thế có ổn không?
Theo tôi, ranh giới giữa các trường phái nghệ thuật cũng như giữa thơ siêu thực và thơ vần có hai dạng thái rõ rệt.(Có tham khảo người viết trên mạng)…(còn nữa)
Đ - H

Khi Thi tặc cầm chịch...

  •   25/03/2025 11:20:00
  •   Đã xem: 83
  •   Phản hồi: 0
Khi Thi tặc Nguyễn Quang Thiều lên cầm trịch Hội Nhà văn(Chủ tịch)Viêt Nam, 27 tên Thi tặc lên báo,(in bài&lăng xê), lên ngôi nữa là đám nhà văn nửa mùa, chúng chuyển văn đồng nát của chúng ra Vô lối( thơ không vần) như: Nguyễn Thị Ngọc Tư, Trịnh Bích Ngân, Nguyễn Nhật Ánh(thằng này viết lừa trẻ con), Thụy Dương, Phạm Ngọc Tiến..,
Ảnh: Đỗ Hoàng
Nhà văn Minh Cao chụp

Thi ca nông nhàn

  •   20/03/2025 19:38:00
  •   Đã xem: 78
  •   Phản hồi: 0
THI CA NÔNG NHÀN LÀ THƯỜNG NGHIỆM
THI CA SIÊU ĐẰNG LÀ SIÊU NGHIỆM
( Tôi đưa ra thước đo cứng đầu tiên trên thế giới )
Paul Nguyễn Hoàng Đức
Người ta tiến hành trải nghiệm (cũng là thường nghiệm) bằng ngũ giác. Ngũ giác gửi các thông số như mùi vị, âm thanh, sắc thái… lên não. Não là bộ tham mưu của trực giác để cấu kết thành tri thức và tư tưởng. Vì vậy Não nằm trên đầu cao nhất cũng là bộ chỉ huy cao nhất. Tư tưởng đó là Siêu nghiệm vì nó đã thoát khỏi sắc thái trực tiếp của ngũ giác để biến thành tư tưởng. Não phải cao hơn ngũ giác là các chòi canh của cơ thể. Sáng tạo bằng tư tưởng là cao nhất và luôn đóng vai bậc thầy. Sáng tạo bằng ngẫu hứng cảm xúc là thấp nhất vì mới chỉ ở vai lính canh thấy gì nói nấy. Đây là điều hiển nhiên mấy anh cảm xúc chớ cãi chầy cãi cối?!
Sáng tạo thường nghiệm là thấy gì nói nấy, như thần đồng Trần Đăng Khoa viết: “cua ngoi lên bờ, mẹ em xuống cấy”
hay “hạt gạo làng ta có bão tháng bảy có mưa tháng ba”.
Nguyên chủ tịch Hữu Thỉnh thì viết: “Còn chút lửa hoa rong giềng cuối giậu”.
Chủ tịch tại vị Nguyễn Quang Thiều: “Những người đàn bà đánh giậm đi thành hàng dọc trên đại lộ”…
Còn thơ siêu nghiệm thì sao? Tất nhiên đó là cái vượt lên thường nghiệm, người ta không thể dùng ngũ quan để tiếp cận nó, mà phải dùng sự cô thấu của tinh thần. Chẳng hạn:
Nhà thơ Quang Dũng “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”…
Hoặc của Không Lộ Thiền Sư: “Một tiếng kêu vang lạnh cả trời” …
Chúng ta hãy đến với vài câu thơ Trung Hoa cổ:
“Mái chèo chém vòm trời trên sóng biếc
Thuyền lướt lên trăng theo dòng nước nổi”
Hay:
“Trong ánh kiếm bóng dòng sông vẫn chảy”

Thơ thường nghiệm như Vũ Hoàng Chương tả:
Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
Tay mềm mại bước chân còn chưa chuếnh choáng
Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời phóng đãng
Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men
Say đi em, say đi em
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết…
Nhưng bài thơ bước tới siêu nghiệm, bước tới thứ “thành sầu” chưa ai thấy ở thế gian này:
Nhưng em ơi
Ðất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Ðất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ, em ơi!
Thơ triết lý cao nhất (Hegel) cũng là cách mà thơ siêu nghiệm bởi vì triết lý luôn chầu quanh những tâm điểm của nguyên lý, cái không thấy được: cục sắt ném xuống nước sẽ chìm, nhưng tầu thủy vỏ sắt làm theo luật Ac-si-met thì chúng ta không thể thấy. Chúng ta đến với hai câu thơ cực đỉnh của thi hào Mỹ Whitman:
“Tôi cùng anh không xu dính túi
Vẫn mua được hương thơm của cả trái đất này”
Một câu thơ vừa khiêm nhường vừa kiêu hãnh, ngay tức thời nó quẳng tất cả lũ trọc phú “dùi đục chấm mắm cáy” không biết thưởng thức cái đẹp vào hố rác vật chất không biết đến hương hoa. Rồi câu:
“Nếu bạn muốn tìm tôi
“Hãy tìm dưới đế giày của bạn”
Một câu thơ khiêm nhường tuyệt đối, hết chỗ để lùi.
Một câu thơ của một danh thi khác (tôi tạm quên tên):
“Đau khổ đầu tiên siêu thoát
Và khoái lạc đầu tiên sợ hãi”
Nếu không phải siêu nghiệm, thì có giác quan thường nghiệm nào viết được như vậy?!
Nhân đây tôi cũng xin giới thiệu vài vần thơ siêu nghiệm của mình:
“Bàn chân đâu chặng đường chưa tới
Và chân lý hằng đau mùa gặt”

Và kia, cả chuỗi tương lai
Rợp trời vỗ cánh ùa về
Cố lách mình qua khe cửa
Phút giờ hiện tại
Đòi xem những bản hợp đồng
Cho dự án của ngày mai

Trước cửa luân hồi
Khi vĩnh cửu nghiêng đầu khẽ hỏi
Ngươi có đem theo ngày tháng đặt tên mình
Vào vương quốc của ta chăng?

Tiểu thuyết hay thi ca toàn thể cũng thế, Iliad và Odyssey tạo ra thế giới của người cùng của thánh ngự trên đỉnh Ô-lanh-pơ chính là cách giao duyên thường trực giữa cái thường nghiệm và siêu nghiệm. Cuốn trường ca thần học “Thần Khúc” của Dante nhắm về thế giới siêu nghiệm. Hoặc các tiểu thuyết “Anh em nhà Caramadốp” hay “Tội ác và trừng phạt” của Doistoevsky…
Cái siêu nghiệm thường bắt nguồn và hướng tới Tư tưởng (nó nằm trên ngũ quan trực giác), chân lý, nguyên lý, công lý, thần thánh… tất cả được đặt trên trí tuệ nghiêm túc. Người Đức có câu “cười một lúc đã nhạt, nhưng khóc cả ngày không nhạt”, ở đó họ cũng tôn vinh Bi kịch lớn hơn Hài kịch. Từ xưa người Hy Lạp cũng xác định Bi kịch chỉ giành cho đàn ông để chuẩn bị đức hiến dâng. Còn hài kịch giành cho đàn bà và trẻ con.
Những nhân vật chọc cười thường là thằng gù hay thằng ngọng, hoặc khuyết tật khó có thể mang tầm vóc dính dấp vào công lý hay Chúa Trời, bởi vì ngay việc hiến tế cho thánh thần người đời đã phải chọn gái đồng trinh… thì những ngọng nghịu, đùa cợt sao có thể vươn tới CHÂN THIỆN MỸ để bước vào thế giới của tư tưởng – tức những siêu nghiệm mang lý tưởng thần thánh.
Tôi muốn đưa ra kết luận cho thước đo của mình: Tầm vóc của một bài thơ, tác phẩm, cũng như tác giả của nó phải là, khả năng siêu nghiệm của anh ta đến đâu thì tầm vóc của anh ta đến đó?!
Paul Đức 14/3/2022
#paulducthicasieunghiem

Đỗ Lai Thúy không hiểu thơ phú, văn chương...

  •   20/03/2025 19:12:00
  •   Đã xem: 85
  •   Phản hồi: 0
Đỗ Lai Thúy không hiểu thơ phú, văn chương nịnh thối thơ Nguyễn Quang Thiều
Chủ nhật - 04/10/2020 16:22
Trước đây tôi đọc bài Đỗ Lai Thúy viết khen "Thơ Vô lối" Hoàng Vũ Thuật. Tôi biết ông này không hiểu gì thơ phú văn chương, khen bừa khen ẩu. Từ đó tôi không bào giờ đọc Đỗ Lại Thúy nữa. Ngay cả khi ông viết thơ đời Trần, đời Lý...được đám nịnh bút như Vũ Bình Lục tâng bốc, tôi cũng không thèm để mắt tới! Ông này loại "tầm chương trích cú dở hơi!". Loại mà thời Lý Bạch, tiên sinh hết sức chê bai:
Đỗ Lai Thúy không hiểu thơ phú, văn chương nịnh thối thơ Nguyễn Quang Thiều
vòng tròn phân chia
ĐỖ LAI THÚY KHÔNG HIỂU THƠ PHÚVĂN CHƯƠNG, NỊNH THỐI NGUYỄN QUANG THIỀU
Đỗ Hoàng
Trước đây tôi đọc bài Đỗ Lai Thúy viết khen "Thơ Vô lối" Hoàng Vũ Thuật. Tôi biết ông này không hiểu gì thơ phú văn chương, khen bừa khen ẩu. Từ đó tôi không bào giờ đọc Đỗ Lại Thúy nữa. Ngay cả khi ông viết thơ đời Trần, đời Lý...được đám nịnh bút như Vũ bình Lục tâng bốc, tôi cũng không thèm để mắt tới! Ông này loại "tầm chương trích cú dở hơi!". Loại mà thời Lý Bạch, tiên sinh hết sức chê bai:
魯叟談五經,
白髮死章句。
問以經濟策,
茫如墜煙霧。
嘲魯儒
李白
..."Lỗ tẩu đàm ngũ kinh
Bạch phát tử chương cú
Vấn dĩ kinh tế sách
Mang nhiên trụy yên vụ..."
Đô Hoàng dịch thơ:
Nho Lỗ bàn ngũ kinh
Bạc đầu vì chương cú
Hỏi ông cách cứu đời
Ông như mây vần vụ...
Nhại Đỗ Lai Thúy:
"Lai Thúy viết để xin.
Bạc đầu vì câu chữ
Hỏi ông câu thơ tình
Ông như cọng đu đủ!"
Nay lại phải viết bài phê phán Đỗ Lai Thúy vì một sự bất đắc dĩ! Đó là Đỗ Lại Thúy nịnh thối cái gọi là thơ Nguyễn Quang Thiều bằng một giọng điệu rất là "mắm cáy"
Nguyễn Quang Thiều đang chuẩn bị ứng cử cho chức "Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam" nên các báo chí văn nghệ chính thống, các cây bút nịnh thối được huy động ra quân tối đa.
Trước Viện Văn học tổ chức diễn đàn " Thơ Nguyễn Quang Thiều - lộ trình cách tân", tiếp tạp chí Nhà văn & Tác phẩm in bài của Văn Chinh bốc thơm thơ Thiều, tiếp tạp chí Thơ in bài bốc thơm thơ Thiều của Hữu Thỉnh...nay tạp chí Nhà văn & Tác phẩm tuyên truyền đậm hơn in bài của Đỗ Lại Thúy và của Lê Hoài Lương...coi Thiều như "Thi hào: (Su hào)!
Nhiều nhà văn, nhà thơ chân chính mỉa mai: "Chúng nó đang dọn sẵn bàn ghế, dán khẩu hiệu tâng bốc Nguyễn Quang Thiều. Sau này Thiều ngồi lên chức Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam có mâm bát ăn uống lẽ nào không nhớ đến đám khuyển mã chúng nó!". Đúng miếng ăn miếng nhục!
Thực ra chức Chủ tịch Hội Nhà văn như nhóm trưởng, tổ trưởng của một số nhà văn, nhà thơ cùng chí hướng, thời trước, hội họp với nhau, ai tài đức được anh em tôn lên làm trưởng!
Nay trong chế độ mới, chức này trước ngang Vụ trưởng, nay ngang Tổng cục trưởng nhưng "riêng một biên thùy, thiều gì cô quả, thiếu gì bá vương" có trụ sở, xe pháo, biên chế, có nữ có nam hầu hạ, lương hướng, bổng lộc, tiêu chuẩn chế đúng như một ông quan "tứ phẩm"! Ông quan văn nghệ này được tổ chức Đảng , Nhà nước chọn kỹ không khác gì bên các cơ quan đảng công quyền. Bổng lộc vật chất thì vừa phải, bỗng lộc tinh thần rất lớn nên tranh đoạt chức này cũng sinh tử như bên đảng, bên chính quyền! Nguyễn Quang Thiều công an gia truyền, bản thân cũng là công an chuyên nghiệp (ngoại tuyến) ở trong tầm ngắm "tổ chức đảng".
Họ ngửi thấy Thiều đủ cân lạng vào cuộc đua nên mới "thổi kèn" hết công năng cho ứng cử viên Nguyễn Quang Thiều! Loại hèn hạ, đê tiện như Văn Chinh, Thiên Sơn, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thụy Kha, Lê Hồ Quang, Hồ Thế Hà, Lê Hoài Lương... không nói làm gì, loại có chức như Hữu Thỉnh, loại có "chữ" như Đỗ Lai Thúy cũng khom mình tâng bốc Nguyễn Quang Thiều vì quyền lợi hay vì ngu dốt đều thật là mạt hạng!
Bài bốc thơm của Đỗ Lai Thúy " Thế giới thơ Thiều, một lối vào" (1) bốc mùi rất khó chịu!
Mới vào bài Thúy khoe cái "nghiên cứu" để dọa người ít chữ: "Thơ Việt Nam từ đầu thế kỷ đến nay, đã hai lần thay đổi hệ hình từ tiền hiện đại sang hiện đại và từ hiện đại sang hậu hiện đại. Lần thứ nhất từ mô hình thơ nghĩa (mũi tên) đến chữ sang chữ (mũi tên ) đến nghĩa, dù vẫn là thiểu số, nhưng coi như hoàn tất. Lần thứ 2 từ mô hình thơ chữ (mũi tên) đến nghĩa sang chữ (mũi tên) đến nghĩa (mũi tên) chữ, thì còn đang tiếp diễn, định hướng nhưng chưa hẳn định hình. Có điều những chuyển đổi ấy không nối tiếp mà gối tiếp, nên trong mỗi dòng thơ, thậm chí trong mỗi nhà thotonf tại một lúc cả ba hệ hình Bởi thế, đọc thơ Nguyễn Quang Thiều, nhất là định dạng thơ ông, tôi lại phải lần dở đường đi của thơ, để tìm một lối vào thơ ông"
Nguyễn Quang Thiều không phải làm thơ, Thiều là đại biểu của Vô lối.
"Đặc điểm của Vô lối là: Thứ nhất là nó chối bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, chối bỏ thẩm mỹ của loài người; thứ hai là triệt tiêu một trăm phần trăm vần điệu; thứ ba là viết dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống; thứ tư là tù mù, tịch mịch, rối rắm, đánh đố mình, đánh đố người đọc; thứ năm là đại ngôn, sáo rỗng, trống hơ, trống hoắc, hô khẩu hiệu; thứ sáu là dung tục bẩn thỉu và tình dục bệnh hoạn; thứ bảy là sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, chưa Việt hóa… (Vô lối phản lại thơ ca - Đỗ Hoàng)
Câu thơ Nguyễn Quang Thiều:" Câu của Nguyễn Quang Thiều trong Cây ánh sáng đạt kỷ lục, vượt Nguyễn Thị Kiêm đến 31 chữ (!) tức là 58 chữ.
"Cả những người đàn bà tội lỗi và thánh thiện vẫn vuốt ve con đỉa khổng lồ bám chặt bộ xương chàng và thì thầm run rẩy với con đỉa ấy, bị hành hạ vì con đỉa ấy, tự vẫn vì con đỉa ấy và tìm thấy một chút ý nghĩa đầy ảo giác với con đỉa ấy"
(Nguyễn Quang Thiều)
Người đọc nào kiên nhẩn đọc câu trên chắc cũng phải điên lên cùng kẻ viết!
Nó dài hơn câu :" Song of Myself "
I celebrate myself, and sing myself,
And what I assume you shall assume,
For every atom belonging to me as good belongs to you.
I loafe and invite my soul,
I lean and loafe at my ease observing a spear of summer grass.
My tongue, every atom of my blood, form’d from this soil, this air,
Born here of parents born here from parents the same, and their parents the same,
I, now thirty-seven years old in perfect health begin,
Hoping to cease not till death.
Creeds and schools in abeyance,
Retiring back a while sufficed at what they are, but never forgotten,
I harbor for good or bad, I permit to speak at every hazard,
Nature without check with original energy.
Nguyễn Viết Thắng dịch:
Bài hát chính tôi
"Tôi ca tụng mình, tôi hát về mình
Và cái tôi nhận về thì quí vị cũng nhận về mình như thế
Vì mỗi nguyên tử thuộc về tôi, cũng thuộc về quí vị.
Tôi là người lữ thứ, tôi gọi hồn tôi về
Tôi, kẻ vô công rồi nghề, cúi nhìn hoa cỏ mùa hè.
Lưỡi tôi, mỗi nguyên tử trong máu tôi là từ đất đai, từ không khí này
Sinh ra từ cha mẹ ở đây, và họ cũng sinh ra ở đây
Năm này tôi 37, cái tuổi tràn trề sinh lực
Và hy vọng sẽ không ngừng cho đến ngày tôi chết.
Những giáo điều và những trường học sẽ trống không
Cứ để cho quay lại một thời gian, chúng tốt đẹp ở nơi cần, nhưng ta sẽ không quên
Tôi tiếp nhận Tự nhiên như vốn có, thừa nhận mọi nơi, mọi lúc
Nói hết mọi điều với sức lực buổi đầu tiên."
Walt Whitman
Cầu dài nhất thơ của Walt Whitma là 15 từ, câu vô lối của Nguyễn Quang Thiều gấp 58: 15 = 4 (lần) câu của Walt Whitman!
Trong khi đó thơ ca tinh hoa của thế giới phương Tây hay phương Đông chỉ một bài thơ 20 chữ đã sống mài hơn 2 000 năm và còn sồng lâu hơn nữa:
飲酒看牡丹
今日花前飲,
甘心醉數杯。
但愁花有語,
不為老人開
(劉禹錫)
“Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm túy sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai”
(Lưu Vũ Tích – Đời Đường)
Trước hoa giờ được uống
Mấy chén ngất ngư say
Chỉ buồn hoa lại nói
Không nở cho lão này!
(Đỗ Hoàng dịch)
古池
カエル飛び込む
水の音!
"Ao xưa
Con ếch nhảy vào
Tiếng nước!"
Thơ Hai ku - Nhật Bản - 8 chữ)
"27 chữ của Nguyễn Thị Kiêm thời Thơ mới đã không còn thì câu 41 chữ của Vi Thùy Linh và câu 58 chữ của Nguyễn Quang Thiều thời Vô lối sẽ tan như bong bóng xà phòng!" (Vô lối phản lại thơ ca - Đỗ Hoàng)
Vào bài Đỗ Lai Thúy đã dẫn ra khổ thơ coi là tiêu biểu cho thơ Nguyễn Quang Thiều để nịnh thối:
"Dây vĩ cẩm cuối cùng trăng đêm vụt đứt
Bức phong đen tụt xuống lõa lồ
Ôi vở kịch cuộc đời...
Màn cuối
Tiếng hề cười
Băm chả những u mê
Con bống đen đẻ trứng - Nguyễn Quang Thiều)
Đây không có gì là thơ cả, chỉ là một sự nói lảm nhảm làm dáng, ởm ờ ra vẽ chữ nghĩa tìm tòi, cách tân nhưng bẩn thỉu, dung tục, Những "tụt", "lõa lồ", trườn, ..đầy rẩy trong thơ vô lối của Thiều, nhưng kiểu nói ra vẻ "cách tân" nhưng cũ mèn, sống sượng, ngu độn "băm chả những u mê" cũng mãn tải trong thơ vô lối Nguyễn Quang Thiều và đám làm thơ vô lối hiện hành. Nó không đem đến một chút gì gọi là thẩm mĩ thơ ca! Trong sáng chữ Việt.
Thẳng thắn nói rằng Đỗ Lại Thuý không biết thẩm thơ, lại vụ lợi, phản khoa học, táng tận lương tâm!
Thơ vô lối Nguyễn Quang Thiều, Đỗ Lai Thúy gọi là thơ hậu hiện đại và vẽ biểu đồ để minh họa. Thế thì ta phải tìm hiểu "hiện đại" và"hậu hiện đại" là gì!. Đỗ Lai Thúy biết chứ Hán nên không phải giải thích dông dài về nghĩa của chữ này.
Định nghĩa của "Từ điển tiếng Việt" (NXB Khoa học Xã hội năm 1967): Hiện Đại "1- Thời đại ngày nay. 2 - Áp dụng những phát minh mới của khoa học bao gồm những phát kiến mới nhất..Máy móc hiện đại, Vật lý hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại..."
Tiếng Hán: Hiện: 现 1. xuất hiện, tồn tại
2. bây giờ, nay...
Hiện đại 现代: hiện đại, hiện nay, thời nay, tân thời
Hậu: 后, 後 nghìa là: 1. Sau, 2. phía sau
後现代 后现代 (Hậu hiện đại): Ở phía sau thời bây giờ.
Thơ hậu hiện là cách gọi, cách nói của những kẻ làm thơ tắc tỵ hủ nút, lòe thiên hạ. Ông sống hiện nay mà ông làm thơ để cho đời sau đọc, thưởng thức thì chó nào đọc và mèo nào thưởng thức cho ông (!). Ngụy biện , giả dối để bưng bít cho cái phi thơ ca!
Tổ tiên nhân loại và tổ tiên chúng ta, các cụ đều làm thơ cho đương thời họ sống mà đến nay con cháu đọc vẫn lôi cuốn, vẫn còn nhiều bài học để cho đời sau nữa. Các ông bà vô lối nhân danh viết cho đời sau"hậu hiện đại" phải nói tục cho sướng mồm, người bây giờ đọc như vấp phải cứt chó!
Đỗ Lai Thúy, người nghiên cứu văn hóa mà không hiểu thuật ngữ "hậu hiện đại" mà cổ cổ súy cho cái gọi là "thơ hậu hiện đại" thì bàn làm gì! Ông Thúy cố trình bày sơ đồ vòng tròn của mình để nói về "thơ hậu hiện đại":
" Thơ tiền hiện đại là vòng tròn số 1, chiếm vị trí trung tâm, gồm các nhà thơ chính thống hoặc phong trào, xoay quanh các hội nhà văn trung ương hoặc địa phương. Thơ hiện đại là vòng tròn số 2 ôm lấy vòng tròn thứ nhất và mỏng hơn nhiều so với vòng tron này. Các nhà thơ hiện đại thế hệ hai này cũng có thể là thành viên của các tổ chức chính thức, ít nhiều lệch chuẩn, nhưng chưa thể trở thành đối trọng nghệ thuật như Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng...nên chưa tạo ra một thúc đấy thẩm mỹ cho xã hội và quan trọng hơn cho bản thân họ. Thơ hậu hiện đại là vòng tròn thứ 3, mới định hướng nhưng (có thể còn) chưa định hình. Bởi vậy, tôi thể hiện nó bằng những nét đứt. Cấc nhà thơ hậu hiện đại của ta hiện nay còn đang ở giai đoạn dọn mặt bằng. Họ đả phá cấc quan niệm cũ về thơ, chức năng thơ, ngôn ngữ bằng một đối lập cực đoan; tự gọi mình là thơ dơ, thơ rác, thơ nghĩa đại..- Đ L T." Đám ấy đang sống thời hiện đạ (bây giờ)i, viết thời hiện đại (bây giờ) sao gọi họ viết cho "hậu hiện đại" - thời sau thời bây giờ (!). Quan niệm có thơ "hậu hiện đại" của ông Đỗ Lai Thúy sai hoàn toàn. Ông đã khẳng định thơ họ viết cho thời sau người, vạn vật sống! Cho dù không có thơ sau thời hiện đại, chỉ là cách gọi để chỉ đám làm thơ hủ nút - thơ vô lối cũng không được gọi tên "thơ hậu hiện đại"!
Những phỏng đoán, giả tưởng "hậu hiện đại" (sau thời ta sống ) ở tất cả các lĩnh vực khoa học, văn học, văn hóa nghệ thuật đều có, nhưng những tác phẩm văn chương, nhất là thơ viết sau thời ta sống thì không có giá trị gì và không ai làm việc ấy.
Đám làm thơ tự gọi "hậu hiện đại" và một số ông phê binh, phê chén gọi phong cho họ là "thơ hậu hiện đại " là việc làm lố bịch!
Như nhiều tiểu luận đã phân tích, chứng mính trước, Nguyễn Quang Thiều không biết làm thơ, không hiểu phép tắc tối thiểu của thơ ca. Ông ta viết ra đúng như đám vô lối viết "hầm bà làng", dở dơi, dở chuột. Đám Vô lối ấy giờ đông như kiến cỏ: Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Phú Trạm Inrasara, Trúc Thông, Nguyễn Quang Thiều, Hoàng Vũ Thật, Nguyễn Khoa Điềm, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Trần Hùng, Mai Quỳnh Nam, Tuyết Nga, Vi Thùy Linh.. Vô lối của họ phải dịch ra thơ Việt mới đọc được!
Đỗ Lai Thúy không hiểu văn chương nhất là không hiểu biết thơ ca.Ông Thúy đi khen bừa khen ẩu, tâng bốc những sản phẩm phi văn chương, thơ ca hết sức sai trái!
Hà Nội tháng 10/ 2020
Đ - H
(1) Bài trên tạp chí Nhà văn & Tác phẩm số 42 - tháng 7 + 8 / năm 2020
Người đăng: do hoang vào lúc 05:16
Gửi email bài đăng này

Thi tặc (tiếp)

  •   10/03/2025 10:45:00
  •   Đã xem: 80
  •   Phản hồi: 0
nsdrtepooSf9g93i7577l6aclgfg75c9f36flc31i3909
i
muh

u91854
1

1
g
·
Đã chia sẻ với Công khai
THI TẶC PHÁ NAT THƠ VIỆT (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Thi tặc viết không vần, không điệu, tư duy méo mó, bệnh hoạn, giả dối, lươn lẹo, đánh trống bỏ dùi, cướp công, đổ lỗi , ngụy ngôn, ngụy tặc, dâm tặc, xú uế ….kém nát thơ Việt…..tứ chưng nan y! Tôi đã có nhiều chuyên luân, bài viết về bọn này, nay chỉ nhắc thêm một vài điểm cho rõ hơn!
Viết về mẹ mà rất giả dối, làm xiễc: “quẳng gánh bôn ba phiêu bạt” (Phan Hoàng); giả dối báo công phụng sự đất nước của đứa cả đời “dánh giặc trên giường”: “qua ải Bắc, qua đèo Nam, anh là một người con trai suốt đời đi đánh giặc (Cây nhạc ngựa – thơ đoạt giải báo Văn nghệ năm 1986 – Hoàng Vũ Thuật); giả dối, chung chung, man khai giả dối vào Dảng Cộng sản Viêt nam - Nguyễn Khoa Điểm:
“Chiếc đồng hồ vàng như vành hào quang tỏa sáng
Cho những ai biết sống ngẩng cao đầu
Mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu
Tôi đã hát trong buổi mình kết nạp?
--------------------------------------------
Tôi nhớ bạn bè phút giây sống chết
Nhớ quê hương cuộc sống mới bắt đầu
Nghe chuông ngân trên tháp Xpat-xkai-a
Tháng chạp, ở Hồng Trường, tôi trở lại
(Matxcova 12/1975 - Thâng Chạp Hồng trường)
Dâm dật tột cùng bệnh hoan:”Dây phơi nhà ai ,chiếc nịt vú thơm lừng nhìn đã thấy no nê” - Thi Hoàng- “Các cô gái buôn chuyến trên tàu nghẹo đầu ngủ, tóc tai bốc mùi cá khô/nều tôi laayss họ, tôi phải ngủ vơi hj như thề nào/ Nguyễn Quang Thiều – thơ giải thường Hội nhà văn Việt Nam năm 1993.
(con nữa)
Đ - H
Ảnh: Nguyễn Quang Thiều và tập thi tặc Người đếm ngược kim đồng hồ"

Dịch Vô lối Nguyễn Quang Thiều

  •   16/02/2025 09:09:00
  •   Đã xem: 151
  •   Phản hồi: 0
Nhưng từ khi thi tặc – vô lối Nguyễn Quang Thiều (Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam), thi tặc – vô lối Nguyễn Bình Phương (Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam) cùng bảy, tám thi tặc khác ơ trong lãnh đạo Ban chấp hành Hội Nhà văn thực hiện công an hóa Văn nghệ cầm chịch văn chương nước nhà thì bọn thi tặc áp đảo văn đàn ! Đám thi tặc được in ấn tràn lan trên báo chí chính thống. Không một ai dám hở hơi răng lạnh! Mình để thời gian học các thi hào có phải hay hơn không:
“Nàng đột ngột đổi tiếng chàng trống rỗng
Thành tiếng anh thân thiết đậm đà
Thưa em, em đẹp lắm.
Mà thâm tâm anh chưa thể nói ra!”
(Puskin)
Có hơn đọc loại viết như cứt chó,, cứt người của lũ thi tặc dâm loạn bệnh hoạn, gian manh, xảo trá, dốt năt, tệ tàn: Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Thi Hoàng, Vi Thùy Linh, Hoàng Vũ Thuật, Mai Văn Phấn, Phan Hoàng, Đinh Thị Như Thúy, Phạm Đương…
Như bài thi tặc sau đây của thi tặc Nguyễn Quang Thiều thì ai mà ngửi được. Thế mà nó được chọn in, được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng (năm 1993), được tuyển chọn 100 bài thơ hay thế kỷ XX, được Comlombi ai trao giải thưởng (!). Nhục cho thơ phú nước Việt không nói nổi!
Người mới tập làm thơ cũng không viết kém nát như thế này!
Ai đi nói cí xấu xa của bà con cô bác – người sinh thành ra mình con hơn con mụ ăn trộm, mần đĩ!
“Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái”
Đồ loại vô học!
Rồi còn vô học tiếp:
“ Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy”
Người ta chỉ cần nói: « Nửa đòi tôi thấy” là đủ rồi !
Thế đẻ tâm trí, thời gian thưởng thức thi hào đông, tây có hơn không?
NHỨNG NGƯỜI ĐÀN BÀ GÁNH NƯỚC SÔNG
Nguyễn Quang Thiều
Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bám vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết nổi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi lăm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.
1992
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt
CHỊ EM GÁNH NƯỚC SÔNG

Vô lối ngu độn Nguyễn Bình Phương

  •   20/01/2025 18:17:00
  •   Đã xem: 90
  •   Phản hồi: 0
Vô lôi vô học, ngu độn Nguyễn Bình Phương
Lts:
Chưa bao giờ trong cõi Việt sau thời hậu chiến nồi da xáo thịt tang thương cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI lại xuất hiện một kiểu viết phi văn chương, dài dòng nhạt nhẽo gượng gạo như Nguyễn Quang Thiều, cụt lủn vô cảm, vô tình như Thanh Tâm Tuyền, sơ sài lòng thòng, kể lể báo công xu thời như Lê Văn Ngăn, kệch cởm khệnh khạng khô khan như Nguyễn Khoa Điềm, điên loạn như Mai Văn Phấn, rối rắm, uốn éo, nông cạn, tù mù , ngu độn như Nguyễn Bình Phương, tắc tỵ như Văn Cầm Hải, hủ nút như Hoàng Vũ Thuật, Văn Cầm Hải, đơn điệu cọc lóc như Dư Thị Hoàn, dục cảm bệnh hoạn như Vi Thùy Linh…
vannghecuocsong.com
Nguyên bản:
MÙA THU ĐẦU TIÊN (*)
Mang xống áo mùa thu
Làm mùa thu
Nhớ giấc ngủ ngàn thu trong đài sen úa
Nhớ giọng nói mềm mại như bóng râm
Chảy vào căn nhà đổ
Ngày nào về đây xem rùa nổi giữa hồ
Sông Ngân xuống sông Hồng lên tiếng kêu xé ruột
Ngày nào ngó cơn giông trong suốt
Ta cầm tay ta hôn nhau
Tựa hoa nở thật nhẹ nhàng thật chậm
Ngày nào theo em đi lấy rau cần
Gặp mái tóc rủ buồn mệt mỏi
Con diều vàng bén lửa giữa hoàng hôn
Vừa trăng trăng rập rờn
Đã chuông rền loang loáng sóng Hồ Tây
Mùa thu len lén ra khỏi cây
Đi nào đi với anh xuống đáy hồ xa thẳm
(*) Bài in trên báo Văn Nghệ tết Bính Thân số: 5+6+7/2016
BÌNH GIẢNG:
Đỗ Hoàng
Tôi cũng nhiều lần nói, in một bài thơ tốn không bao nhiêu tiền trên báo nhưng nó không phải thơ thì nguy hại vô cùng cho độc giả, rộng hơn là cho nên văn chương nước nhà. Điều này thật đúng cho tình trạng in thơ ở nước ta trong nhiều thập kỷ qua khi các tờ báo (báo in, báo mạng) công quyền , tư quyền lăng xê những tác phẩm phi văn chương. Và bài vô lối Mùa thu đầu tiên của Nguyễn Bình Phương là một trường hợp như thế.
Nguyễn Bình Phương với kiểu viết tù mù, tắc tỵ, ẻo ợt, uốn éo, giả vờ lên gân, làm bộ, làm tịch, vô nghĩa, vô hồn, ngu độn, khô khan đại hạn, cụt là cụt lụt, ngô ngô ngọng ngọng, làm duyên, làm dáng, điệu đàng, khoe mẽ, tối mò mò, không một tí tơ lòng rung động lan truyền đến người đọc. Người đọc cảm thấy bực bội, khó chịu thậm chí phẩn nộ như ăn phải thực phẩm bẩn của một lối lập ngôn cổ quái. một thứ viết đồng bóng thô lậu kém văn hóa, vô học thiếu từng trải làm băng hoại tiếng Việt và thơ Việt như vậy. Bài “Mùa thu đầu tiên” vừa dẫn ra là một kiểu viết như thế của Nguyễn Bình Phương.
Ngay đặt tên tựa đề đã thấy chung chung, đánh đố. Mùa thu đầu tiên gì? Mùa thu đầu tiên mình có bạn tình, mùa thu đầu tiên mình có nhà mới, mùa thu đầu tiên mình có con trai... Thơ không thể chưa viết đã hiểu và cũng không thể “viết không ai hiểu”?
Vào hai câu mở đề đã chệch chọac:
“Mang xống áo mùa thu
Làm mùa thu” .
Anh ở đâu mà chạy tới được mang xống áo mà thu? Anh là là thằng ăn cắp?
Rồi lại làm mùa thu?
Anh thá gì mà làm được mùa thu? Trái đất hàng

VÔ LỐI NGUYỄN QUANG THIỀU

  •   18/01/2025 09:21:00
  •   Đã xem: 99
  •   Phản hồi: 0
(Nhà thơ Đỗ Hoàng)
Vô lối là một loại viết có từ thập kỷ 60 thế kỷ trước và bùng phát nhiều nhất từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến hôm nay. Nó càng bùng phát hơn nữa khi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 trào giải cho tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều và vừa rồi (năm 2011 - 2012), Hội Nhà văn Việt Nam lại tiếp tục trao giải cho cả 4 tập của các tác giả Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Định Thị Như Thúy, kiểu viết như Nguyễn Quang Thiều nối dài.
Điển hình của Vô lối là triệt tiêu một trăm phần vần điệu, xóa bỏ cách nghĩ, cách cảm của ông cha và thơ ca truyền thống dân tộc và thế giới, tắc tỵ, rắc rối, tù mù, dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống, nhạt nhẽo, đánh đố mình, đánh đố người đọc, dung tục, tình dục bệnh hoạn, sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, tuỳ hứng…
Vô lối có một đặc điểm nữa là không thể đọc nổi vài ba dòng.
Nguyễn Quang Thiều cũng là một trong những đại biểu của Vô lối ấy vừa được các báo chí chính thống, các vụ viện chính thống, các học giả, nhà phê bình, giáo sư đại học, cánh hẩu viết bài lắng xê, ca ngợi hết lời. Họ coi đó là sự là “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân”, Thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn từ mẫu gốc” (Tạp chí Nhà văn số 6 - 2012); “Hộp đen” Nguyễn Quang Thiều – Báo Văn nghệ số 17 + 18 tháng 4 – 2012...
Cách tân tức là làm mới không chỉ ở thơ ca mà trong cuộc sống muôn loài cũng phải luôn luôn đổi mới để phát triển tồn tại. Thế hệ sau tiến bộ hơn thế hệ trước thì muôn loài, muôn vật, xã hội mới phát triển, không thì chỉ dừng lại và đi đến triệt tiêu!
Nhưng làm mới như thế nào? Tôi đã nhiều lần nói về việc làm mới. Làm mới – cách tân chứ không phải cách mạng. Đến như cách mạng lật đổ hoàn toàn quá khứ mà người vẫn còn giữ gìn và tiếp thu những ưu tú của đời trước để lại, huống hồ cách tân - làm mới, phải có kế thừa và phát huy cái hay, cái đẹp của dân tộc, của nhân loại. Nhà bác học Lê Quý Đôn nói: “Người tài giỏi hơn hết một thời, cũng không được phá bỏ đời trước”

NHẬT KÝ NGUỒI XEM ĐỒNG HỒ” - TẬP THI TẮC CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU -

  •   17/01/2025 18:19:00
  •   Đã xem: 70
  •   Phản hồi: 0
Người Pháp thời Pháp thuộc nhận xét quan An Nam là “lấp ló sau thằng quan An Nam là thằng ăn cấp”. Khi người An Nam Cộng sản cướp được chính quyền, lấp được nước Cách mạng thì quan Cách mạng không còn lấp ló nữa mà trở thánh Quan tặc, Vương tặc! Đầu thế kỷ XXI này “quan tặc”, “ vương tặc”, không chỉ là bọn tép riu mà đã lên đến tầng cao cấp khanh, tưỡng, bồi tụng, vương tước… Hùa theo .(王 賊)vương tăc (官賊, quan tặc là (盜賊) đạo tặc,(林賊) lâm tặc, (海賊)hải tặc, . .(空賊) không tặc, (稅賊) thuế tặc, (儛 賊) vũ tặc(教賊)giáo tặc, (路賊)lộ tặc…Hiên nay theo đề bạt cán bộ nguồn vừa hồng, vừa chuyên, thải tử đảng, thì nảy sinh trong văn học nghệ thuật loại “詩賊 -thi tặc”. Thi tặc là từ Hán Việt lần đầu do Đỗ Hoàng là tôi dùng nó! Nó đang tung hoành trong lĩnh vực văn chương nước nhà!

BỎ BÀI “TIẾNG VỌNG” CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU RA KHỎI SÁCH GIÁO KHOA (Tiếng Việt - Lớp 5 tập một)

  •   15/01/2025 11:57:00
  •   Đã xem: 82
  •   Phản hồi: 0
Những tác phẩm được tuyển chọn vào sách giáo khoa là những tác phẩm tinh hoa kinh điển có giá trị cao về nội dung tư tưởng, nghệ thuật được thử thách qua thời gian và phù hợp tâm lý lứa tuổi học sinh. Chúng ta ai cũng có tuổi thơ cắp sách đến trường và những bài văn, bài thơ từ thuở ấu trò được ăn sâu trong trí nhớ và đi theo suốt cuộc đời của chúng ta, nó là mẫu mực trong sáng về tình yêu quê hương, đất nước, về tình cảm yêu thương không thể xóa nhòa:
"Bờ cỏ còn hơi sương

BÀI HÁT VỀ CỐ HƯƠNG – MỘT BÀI VÔ LỐI SÁO RỖNG, NHẠT NHẼO, CŨ MÈM, TỆ HẠI…

  •   14/01/2025 15:33:00
  •   Đã xem: 75
  •   Phản hồi: 0
Dùng “cố hương” – quê cũ, quê hương, là âm Hán (故鄉) đã Việt hóa cũng được, nhưng mình đã đang sống với quê, có đi đâu cũng xa vài ngày rồi phi xe máy, ô tô về quê , tới nhà thì đưa hai chữ “cố hương” nghe nặng nê, Tàu cộng quá!
Bài thơ "Bài hát về có hương" của Nguyễn Quang Thiều, không có gì mới, quá cũ mèm.
“Tôi hát bài hát về cố hương tôi
Khi tất cả đã ngủ say
Dưới những vì sao ướt đẫm
Và những ngọn gió hoang mê dại tìm về

Đỗ Lai Thúy không hiểu thơ phú, văn chương nịnh thối thơ Nguyễn Quang Thiều

  •   13/01/2025 12:45:00
  •   Đã xem: 49
  •   Phản hồi: 0
Trước đây tôi đọc bài Đỗ Lai Thúy viết khen "Thơ Vô lối" Hoàng Vũ Thuật. Tôi biết ông này không hiểu gì thơ phú văn chương, khen bừa khen ẩu. Từ đó tôi không bào giờ đọc Đỗ Lại Thúy nữa. Ngay cả khi ông viết thơ đời Trần, đời Lý...được đám nịnh bút như Vũ Bình Lục tâng bốc, tôi cũng không thèm để mắt tới! Ông này loại "tầm chương trích cú dở hơi!". Loại mà thời Lý Bạch, tiên sinh hết sức chê bai:

TÂM TÌNH VỚI CÁC NHÀ THƠ TRẺ

Tam tinh voi cacs nha tho tre, tacs gia Do Hoang muon nhacs nhow nguoi lam tho   

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập77
  • Hôm nay12,408
  • Tháng hiện tại331,821
  • Tổng lượt truy cập544,335
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi