Thơ không vần thế giơi...

Thứ ba - 25/03/2025 21:40
THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM
(tiếp theo)
Đô Hoàng

SO SANH TIÊNG NGƯỜI “XỈ ÂM” VÀ NGƯỜI “HẦU ÂM”.
Đỗ Hoàng
Tôi đã có nhiều chuyên luận viết về tiếng nói người người “xỉ âm”(phát âm qua kẻ răng) và người “hầu âm”(phát âm qua thực quản (cổ họng âm)..Giờ chỉ dẫn chứng so sánh:
Tiếng Anh
America – Ơ re mi cần –Mỹ
Television – Televísần -Tivi
have breakfast- Het bơretphat – Ăn sáng
daily conversation – đàm thoại hàng ngày
Tiếng Việt: Mỳ, Vô tuyên , Ăn sáng, Nói hàng ngày!
Tiếng Trung : Mỹ, Vô tuyến, Tảo thực, Đàm thoại nhật
Tiếng Pháp:
la maison – cái nhà
la cochon – lợn
boutique – cửa hàng
numéro un – số một
Tiếng Việt : nhà, lợn, cửa hàng, số một
Tiếng Anh và tiêng Pháp những từ rời rac trên khi đọc, xêp lại như một bài thó tứ tuyệt của phương Đông,, còn tiếng Việt và tiêng Trung nó không có ngữ nghĩa gì!
Vây vần điệu trong thó người phát « xỉ âm » rất quan trọng !

THƠ KHÔNG VẦN NƯỚC TA TỪ CỔ ĐẾN NAY
Vì lý do « xỉ âm » nên từ cổ cha ông ta gọi làm thơ không vần là :chiếu, biểu, cáo, thư, tụng, biểu, tế, đói, sấm, hich, tô tụng, trát, phú, lệnh…Điển hình nhát là ‘BÌNH NGÔ DẠI CAO » - Bái cáo bình Ngô) của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo 平吳大告 • Đại cáo bình Ngô
蓋聞:
仁義之舉,要在安民,
弔伐之師,莫先去暴。
惟,我大越之國,
實為文獻之邦。
山川之封域既殊,
南北之風俗亦異。
自趙丁李陳之肇造我國,
與漢唐宋元而各帝一方。
雖強弱時有不同
而豪傑世未常乏。
故劉龔貪功以取敗,
而趙禼好大以促亡。
唆都既擒於鹹子關,
烏馬又殪於白藤海。
嵇諸往古,
厥有明徵。
頃因胡政之煩苛。
至使人心之怨叛。
狂明伺隙,因以毒我民;
惡黨懷奸,竟以賣我國。
Đỗ Hoàng trích dịch
Thế trời làm việc, Vua truyền rằng.
Đã nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.

Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.

Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà bán nước cầu vinh… »
Phú
Tú Xương
Phú hỏng khoa Canh Tý
Đau quá đòn hằn
Rát hơn lửa bỏng.
Hổ bút hổ nghiên;
Tủi lều tủi chõng.
Nghĩ đến chữ “lương nhân đắc ý” thêm nỗi thẹn thùng;
Ngắm đến câu “quyển thổ trùng lai” nói ra ngập ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng;
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.
Có một thầy:
Dốt chẳng dốt nào;
Chữ hay, chữ lỏng.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu;
Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng.
Quanh năm phong vận, áo hàng tầu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh;
Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng.
Tú rốt bảng giữa năm Giáp Ngọ, nổi tiếng tài hoa;
Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng.
Năm vua Thành Thái mười hai;
Lại mở khoa thi Mĩ Trọng.
Kỳ đệ tam văn đã viết rồi;
Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem giò;
Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng.
Sáng đi lễ Phật, còn kỳ này kỳ nữa là xong;
Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.
Nào ngờ:
Bảng nhỏ có tên,
Ngoại hàm còn trống.
Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang;
Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.
Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?
Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với bóng!
Giá cứ chăm nghề đèn sách thì mười lăm mười sáu đỗ tự bao giờ;
Những là mải việc đùa chơi nên một tuổi một già, hoá ra lóng đóng.
Thôi thì thôi:
Sách vở mập mờ;
Văn chương lóng ngóng.
Khoa trước đã chầy;
Khoa sau hẳn chóng.
Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;
Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!
Canh Tý tức năm 1900.
Chiếu
Thiên đô chiếu (chữ Hán: 遷都詔) tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư[1], bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La.
Theo ý kiến của sử gia Trần Quốc Vượng, Chiếu dời đô đã khẳng định được vai trò của kinh đô Thăng Long,[3] là tác phẩm văn học khai sáng của nhà Lý. Tuy nhiên, Chiếu dời đô chưa nêu bật được chủ nghĩa dân tộc và khát vọng độc lập, hơn nữa ngôn ngữ sử dụng trong văn bản này mang đượm màu sắc dị đoan, phong thủy.
昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億萬世子孫之計。上謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。筭數短促。百姓耗損。萬物失宜。朕甚痛之。不得不徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。萬物極繁阜之豐。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要會。爲萬世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。
Bản dịch tiếng Việt:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà 2 nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)
Sắc
Những người làm quan từ tứ phẩm trở lên, xưa được nhà vua ban sắc phong tặng cho cha mẹ, ông bà cụ kỵ tùy theo phẩm tước của mình. Nhất phẩm được triều đình truy phong đến cao tổ, nhị phẩm được truy phong đến ông bà, tam tứ phẩm được truy phong đến cha mẹ.
Trong sắc phong có kể lại công trạng chức tước của người làm quan, rồi suy âm truy phong đến cha mẹ, ông bà hay các cụ. Sắc phong được báo về dân làng, dân làng phải tổ chức đi rước sắc về nhà chủ. Nếu những người được phong còn sống, sẽ có lễ khao dân làng, cùng với cáo yết gia tiên và lễ thần linh tại đình.
(Theo Từ điển Lễ tục Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, 1996)
Sắc chí vua Tự Đức
“Thí sai Suất đội Lê Non thuộc đội 5 đội thủy vệ Bình Thuận đã kinh qua chức Thí sai do viên Cai tỉnh đề cử. Nay Bộ binh đồng ý chuẩn y bổ thụ giữ chức Chánh đội trưởng Suất đội Suất nội đội binh thủy đồng thời cai quản việc điều động người thi hành công vụ. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 29 tháng 5 năm Tự Đức thứ 17 (1863).
“Hiệp quản Lê Non thuộc Tinh binh Suất đội thủy vệ Bình Thuận đã được ân chuẩn thăng một trật, nay Cai tỉnh y theo đó chuẩn thăng làm Cai đội tinh binh đồng thời cai quản đội biện binh. Phàm mọi việc cứ y theo lệ mà thừa hành. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 8 tháng 5 năm Tự Đức thứ 23 (năm 1869).
(còn nữa)
Đ - H
Hiện còn tmf được 22 săc phong của vua Tự Đức.

Tác giả: duyprint

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

TÂM TÌNH VỚI CÁC NHÀ THƠ TRẺ

Tam tinh voi cacs nha tho tre, tacs gia Do Hoang muon nhacs nhow nguoi lam tho   

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập4
  • Hôm nay386
  • Tháng hiện tại888
  • Tổng lượt truy cập18,312
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi