Thi tặc hiện nay!

  •   18/10/2025 15:40:00
  •   Đã xem: 9
  •   Phản hồi: 0
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Viết rất vô học, vô văn hóa, ngu đôn tự đắc, cao ngạo, phong tình đâm đãng…
Đỗ Hoàng
Có bạn thơ nói với tôi: “Anh đặt tên đám thơ vô lối là giặc thơ rất chính xác”. Tôi rất trân trọng ý kiến ấy! Giặc thơ chữ Hán - 詩贼 Thi tặc. Thi tặc cũng như các thứ giặc khác: 海贼 Hải tặc, 林贼Lâm tặc, 盗贼Đạo tặc, 官贼Quan tặc…Có lẽ thi tặc – giặc thơ tôi dùng đầu tiên ở cõi Việt!
Nói chung đám giặc thơ viết không có gì mới cả nội dung lẫn hình thức. Ý tưởng ngô nghê, bệnh hoạn, chữ nghĩa rối rắm, dâm dật trụy lạc bẩn thỉu… Thi tâm cũng không có, thì tài thì zê rô! Học đòi ba cái lăng nhăng, Tây chẳng ra Tây, Tàu chẳng ra Tàu. Từ “ông tổ” của chúng nó Thanh Tâm Tuyền cho đến đám hiện nay: Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Hoàng, In ra sa ra, Mai Văn Phấn, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Hùng, Vi Thùy Linh, Tuyết Nga, Hoàng Vũ Thuật, Thư Thúy…đều là loại phá nát thơ Việt!
Tôi đã viết và dịch ra thơ Việt quá nhiều của đám này, nay chỉ nhắc lại một vài kẻ nổi cộm. Nguyễn Bình Phương là một trong những số đó. Nguyễn Bình Phương học hành dốt nát, chữ xấu như cho moi, gà bới!
Viết rất vô học, có những ý tưởng “giả đò đui dòm lồn”:
Xanh thế kia chắc là cây đấy.
Trắng bồng bềnh như vậy đúng là em
Nhễ nhễ mê man trong thân thể mê man
Đây con số tinh anh ranh ma
Và láng máng hình như mình từng yêu
Cát đã vơi lẹ làng yểu điệu…
Viết ngu độn, cao ngạo:
Ta im lặng
Chim hót
Họ thì vỗ cánh bay
Ta viết
Chim bay đi
Họ thẩn thơ đậu xuống
Ta nhìn ta mai mái một làn sương
(Nhà thơ)
Hai ta nhìn tượng
Tượng nhìn lại hai ta
Cả ba đều vĩnh cửu
Viết giả đò đui dòm lồn :
Này cô em dáng hiền hiền xinh xinh
Bệnh viện là gì nhỉ?

Này cô em dáng hiền hiền xinh xinh
Bệnh nhân là gì nhỉ?

Kìa cô em dáng hiền hiền xinh xinh
Là bác sỹ hay là gì đấy nhỉ?
Viết phong tình, dâm đãng :
Tôi anh lính phong tình
Ngắm sương núi vờn quanh thân súng
Lòng cồn cào vũ điệu giao long
(Tự bạch thời bình)
Tôi nhiều lần nói : Nguyễn Binh Phương và In ra sa ra phải khiêm tốn đi học lại từ lóp một phổ thông cho có kiến thức cơ bản, cơ sở chưa nói đến làm thơ phú !
Hà Nội 2010 – 2022
Đ - H

Thi tăj Mai Văn Phấn

  •   19/10/2025 20:09:00
  •   Đã xem: 9
  •   Phản hồi: 0
Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc
Mai Văn Phấn.
Tháng ngày gương lược về đâu
Chân trời để xoã một màu cỏ non

Các cô nằm lại trên cồn
Những chùm bồ kết khô giòn trong cây

Khăn thêu những dấu tay gày
Thành mây Đồng Lộc bay bay trắng trời

Người ơi, tôi lại gặp người
Hơi bom còn thổi rụng rời cát khô

Nhang này quặn nỗi đau xưa
Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn.

Bài thơ đạt giải nhì cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1995
Bình giảng: HIỆN LŨ CHUỘT CẦY
Đám vô lối, thi tặc làm mưa, làm gió trên văn đàn mậu dịch, tự cao, tự đại là người cách tân, đổi mới thơ Việt, từ giã quá khứ cha ông . Mai Văn Phấn là một “đại biểu “ nổi cộm. Gã từng khoe khoang và đồng bọn tâng bốc “Thơ đã dịch ra 40 thứ tiếng trên thế giới (!)”Ngay cơ quan văn nghệ mậu dịch cũng lăng xê gã:
"Mười nén hương thắp ngã ba Đồng Lộc" là tên một bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Mai Văn Phấn, một tác phẩm được trao giải cao trong cuộc thi thơ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995. Bài thơ này đã khắc họa sự hy sinh của mười nữ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc, sử dụng những hình ảnh tinh tế để thể hiện sự tiếc thương và lòng biết ơn của thế hệ sau.Vn”
Riêng tôi (Đỗ Hoàng) cực lực phê phán loại viết phi ca của đám vô lối, thi tặc! Họ rất kém tiếng Việt, kém làm thơ Việt, kém vốn sống…Bài thơ “Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc “ Mai Văn Phấn ‘ Tự lột áo xống lũ chuột cầy trước bàn dân thiên hạ!” Một anh làm Hải quan sống sung sướng ở Hải Phòng làm thơ thương khóc mười cô gái hy sinh ở ngã ba Đồng Lộc Mỹ cũng nên biểu dương! Vấn đề là viết quá dở, tầm thấp dưới vè quần chúng.
Quê tôi các bà nông dân làm thơ đọc xúc động, day dứt, nghĩ thấy xa:
Về anh nông dân đi làm nước ngoài trở về quê kiếm sống vất vả:
“Đã mang thân đi Lao Bảo, Ta Hè
Về quê eng phải chạy chè nuôi thân!”(chạy chè – buôn chè)
Lưc lượng cỏ rác làm khổ lương dân:
“Công an, thuế vụ, kiểm lâm
Trong ba thằng ấy nên đâm thằng nào?
Đồng bào thảo luận xôn xao
Trong ba thằng ấy, thằng nào cũng đâm!”
Bài thơ “Mười nén nhang ngã ba Đồng Lộc” câu nào cũng nhạt, dở, lắp ghép, chung chung…
”Tháng ngày gương lược về đâu
Chân trời đã xõa một màu cỏ non”
Viết thế này không sai
“Tháng ngày gương lược bạc màu
Gái quê thắt ruột một màu cỏ non”
Các cô nằm lại trên đồn
Đêm đêm vang dội dập dồn hồn mây!
Tiếp đến những câu sơ sài , chẳng có tí gì rung dộng:
“Khăn thêu những dấu tay gày
Thành mây Đồng Lộc bay bay trắng trời
Người ơi, tôi lại gặp người
Hơi bom còn thổi rụng rời cát khô “
Tiếp đến nữa là các câu của thương mướn, không chân thật với người đã hy sinh xương máu!
“Người ơi, tôi lại gặp người
Hơi bom còn thổi rụng rời cát khô
Nhang này quặn nỗi đau xưa
Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn.”
Nhà thơ phải “nhãn quan ưng đại, tâm ưng tế”, nhà thơ mà tầm thấp hơn thằng tuyên truyền báo chí huyện xã viết ra loại hạ phẩm thua thanh niên xung phong tự làm ca ngợi đồng đội mình!
Chữ nghĩa lôm côm, lại không có trái tim, Mai Văn Phấn quay sang loại tắc tỵ, hủ nút (gọi thơ vô lôi, thi tặc):
1,Mùa gặt
Căt lúa đến đâu
Gió thổi vào chân
Đến đó
2, Ngắt trái bưởi

Trên cây
Quay lại nhìn
3,Trưa mùa thu
Viên sỏi
Bình yên nằm
Trên đất
4, Se lạnh
Gió
Quấn lấy
Chiếc quạt
5,Trăng sang gốc cây
Trên bàn thờ
Quả hồng
Vừa chín
Bao Văn nghệ in số 37+37/3-9-2023
Hay:
Lời người trồng hoa
Kính tặng anh Thi Hoàng)

Tôi trồng hoa từ bãi dâu xanh đến lúc phơi tơ
Xoè năm ngón ngậm ngùi có mùa hên mùa mất.

Tôi trồng hoa nơi cỗi cằn đất không còn là đất
Mưa đang tái sinh bỗng lại nắng lụi tàn
Chợt có heo may
Chợt
Và bất chợt...
Hoa vẫn đốt lên cho sáng cái hang sâu hun hút bốn mùa.

Công bằng là trời xanh, oan khuất đến như mây
Chỉ có cánh hoa là nghe thấy cả.
Nơi đất mỡ màu, cây có khi chỉ toàn ra lá
Lá cũng lại như bài học công bằng.

Trọn một kiếp người
Hoa uống cạn nước mắt với mồ hôi
Chim có về bới tóc tôi mà làm tổ?
Mai Văn Phấn
Một lần... thi pháp
Chọn màu áo em
Làm bìa tập thơ
Những đốm bóng
Theo tay người dệt lụa
Miệng tằm
Bờ bãi
Bóng dâu...

Nhưng em ở đâu?
Người mặc chiếc áo ấy
Khi tắt nắng
Và bóng đen thức dậy
Anh đi vòng qua con chữ
Gọi ơi hời!
Mai Văn Phấn
Đám thi tặc, vô lối tự tìm vê nguồn cội, tự phơi xương cốt cho thiên hạ nhìn. Nó như con nộm gặp mưa mùa hạ. Kêt cục là con số không! Vô lối, thi tăc không đọc cũng hiểu rồi!
Đ - H

Thơ không vần thế giới

  •   19/10/2025 20:13:00
  •   Đã xem: 9
  •   Phản hồi: 0
THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI
VÀ THƠ VÔ LỐI - THI TẶC VIỆT NAM
Đỗ Hoàng
Thơ không vần là thơ được viết bằng những dòng thơ có vần điệu đều đặn nhưng không có vần , thường là theo nhịp thơ iambic pentameter (nhịp thơ iambic năm âm tiết). Thơ này được mô tả là "có lẽ là hình thức phổ biến và có ảnh hưởng nhất mà thơ tiếng Anh đã có kể từ thế kỷ 16", và Paul Fussell ước tính rằng "khoảng ba phần tư tổng số thơ tiếng Anh là thơ không vần".
Người đầu tiên sử dụng thơ không vần trong tiếng Anh là Henry Howard, Bá tước Surrey trong bản dịch Aeneid của ông (sáng tác khoảng năm 1540 ; xuất bản sau khi ông mất, 1554–1557. Ông có thể đã lấy cảm hứng từ bản gốc tiếng Latin vì thơ cổ điển tiếng Latin không sử dụng vần điệu, hoặc có thể ông đã lấy cảm hứng từ thơ Hy Lạp cổ đại hoặc dạng thơ versi sciolti của Ý , cả hai đều không sử dụng vần điệu.
Vở kịch Arden of Faversham (khoảng năm 1590 của một tác giả vô danh) là một ví dụ đáng chú ý về thơ không vần .
Vở kịch Gorboduc của Thomas Norton và Thomas Sackville năm 1561 là vở kịch tiếng Anh đầu tiên sử dụng thể thơ không vần.
Christopher Marlowe là tác giả người Anh đầu tiên đạt được danh tiếng phê bình vì sử dụng thơ không vần.’ Những thành tựu chính trong thơ không vần tiếng Anh được thực hiện bởi William Shakespeare , người đã viết phần lớn nội dung các vở kịch của mình bằng nhịp thơ iambic không vần , và John Milton , người đã viết Paradise Lost bằng thơ không vần. Thơ không vần Milton đã được bắt chước rộng rãi vào thế kỷ 18 bởi các nhà thơ như James Thomson (trong The Seasons ) và William Cowper (trong The Task ). Các nhà thơ Anh lãng mạn như William Wordsworth , Percy Bysshe Shelley và John Keats đã sử dụng thơ không vần như một hình thức chính. Ngay sau đó, Alfred, Lord Tennyson đã trở nên đặc biệt tận tụy với thơ không vần, sử dụng nó chẳng hạn như trong bài thơ tự sự dài " The Princess ", cũng như cho một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông: " Ulysses ". Trong số các nhà thơ người Mỹ, Hart Crane và Wallace Stevens nổi tiếng vì sử dụng thơ không vần trong các sáng tác mở rộng vào thời điểm nhiều nhà thơ khác đang chuyển sang thơ tự do .
Marlowe và sau đó là Shakespeare đã phát triển tiềm năng của nó rất nhiều vào cuối thế kỷ 16. Marlowe là người đầu tiên khai thác tiềm năng của thơ không vần để tạo nên bài phát biểu mạnh mẽ và sâu sắc:
“Hỡi những vì sao đã ngự trị trong ngày sinh của tôi,
Những vì sao đã gây ra cái chết và địa ngục,
Giờ hãy kéo Faustus lên như một làn sương mù
Vào bên trong những đám mây đang lao động kia,
Để khi chúng phun ra không trung,
Tứ chi của tôi có thể nhô ra khỏi miệng khói của chúng,
Để linh hồn tôi có thể bay lên Thiên đường.
— Bác sĩ Faustus
Shakespeare đã phát triển đặc điểm này, cũng như tiềm năng của thơ không vần cho lời nói đột ngột và bất quy tắc. Ví dụ, trong cuộc trao đổi này từ Vua John , một dòng thơ không vần bị ngắt giữa hai nhân vật:
“Chúa tể của tôi?”
— Vua John
Shakespeare cũng sử dụng kỹ thuật ngắt dòng ngày càng thường xuyên hơn trong thơ của mình, và trong những vở kịch cuối cùng của ông đã sử dụng các âm cuối giống cái (trong đó âm tiết cuối của câu không được nhấn mạnh, ví dụ như dòng 3 và 6 trong ví dụ sau); tất cả những điều này làm cho thơ không vần sau này của ông trở nên vô cùng phong phú và đa dạng.
“Hỡi các yêu tinh của những ngọn đồi, những con suối, những hồ nước đứng và những lùm cây,
Và những kẻ trên bãi cát với bàn chân không dấu chân
Đang đuổi theo thần Neptune đang rút lui, và xua đuổi ngài
Khi ngài quay trở lại; các ngươi là những con rối nửa người nửa thú,
Nhờ ánh trăng tạo nên những lọn tóc xoăn xanh chua Mà
con cừu cái không cắn; và các ngươi có trò tiêu khiển
Là làm nấm lúc nửa đêm, vui mừng
Khi nghe lệnh giới nghiêm trang trọng; với sự giúp đỡ của các ngươi,
Mặc dù các ngươi là những chủ nhân yếu đuối, Ta đã làm
tối Mặt trời giữa trưa, triệu hồi những cơn gió nổi loạn,
Và giữa biển xanh và vòm trời xanh ngắt
Gây ra chiến tranh dữ dội - trước tiếng sấm rền đáng sợ
Ta đã ban lửa, và rạch cây sồi chắc khỏe của thần Jove Bằng chính
tia chớp của mình;’’’”..
— Bão tố ,
Cách xử lý thơ không vần rất tự do này đã được những người cùng thời với Shakespeare bắt chước, và dẫn đến sự lỏng lẻo về nhịp điệu chung trong tay những người dùng ít kỹ năng hơn. Tuy nhiên, thơ không vần của Shakespeare đã được John Webster và Thomas Middleton sử dụng thành công trong các vở kịch của họ. Trong khi đó, Ben Jonson đã sử dụng thơ không vần chặt chẽ hơn với ít ngắt dòng hơn trong các vở hài kịch Volpone và The Alchemist của ông .
Thơ không vần không được sử dụng nhiều trong thơ phi kịch của thế kỷ 17 cho đến Paradise Lost , trong đó Milton sử dụng nó một cách thoải mái. Milton đã sử dụng tính linh hoạt của thơ không vần, khả năng hỗ trợ sự phức tạp về cú pháp của nó, ở mức tối đa, trong các đoạn văn như sau:
“....Vào Hố nào ngươi thấy
Từ độ cao nào rơi xuống, Người mạnh hơn đã cung cấp rất nhiều
Sấm sét của Người: và cho đến lúc đó, ai biết
Sức mạnh của những Vũ khí khủng khiếp đó? nhưng không phải vì những điều đó Cũng không
phải vì những gì Người chiến thắng quyền năng trong cơn thịnh nộ của Người
Có thể gây ra cho ta sự hối hận hoặc thay đổi,
Mặc dù đã thay đổi vẻ hào nhoáng bên ngoài; rằng tâm trí cố định
Và sự khinh miệt cao độ, từ cảm giác công trạng bị tổn thương,
Đã cùng với những kẻ mạnh nhất nâng ta lên để đấu tranh,
Và mang theo
sức mạnh vô số của các Linh hồn được trang bị
Những kẻ dám không thích sự cai trị của Người, và ta thích hơn,
Quyền năng tối cao của Người với quyền năng đối nghịch
Trong Trận chiến đáng ngờ trên Đồng bằng Thiên đàng,
Và làm rung chuyển ngai vàng của Người. Mặc dù chiến trường đã mất?
Không phải tất cả đều mất; Ý chí bất khuất,
Và nghiên cứu về sự trả thù, lòng căm thù bất tử,
Và lòng dũng cảm không bao giờ khuất phục hoặc đầu hàng:
— Thiên Đường Đã Mất ,
Milton cũng viết Paradise Regained và một số phần của Samson Agonistes bằng thơ không vần. Trong thế kỷ sau Milton, có rất ít cách sử dụng thơ không vần kịch tính hoặc không kịch tính; để phù hợp với mong muốn về tính đều đặn, hầu hết thơ không vần của thời kỳ này đều có phần cứng nhắc. Những ví dụ hay nhất về thơ không vần từ thời kỳ này có lẽ là bi kịch All for Love của John Dryden và The Seasons của James Thomson . Một ví dụ đáng chú ý không chỉ vì sự thất bại của nó với công chúng mà còn vì ảnh hưởng tiếp theo của nó đối với hình thức này là The Fleece của John Dyer .
Vào cuối thế kỷ 18, William Cowper đã mở ra một cuộc đổi mới cho thơ không vần với tập thơ chiêm nghiệm Vạn hoa của ông, The Task , xuất bản năm 1784. Sau Shakespeare và Milton, Cowper là người có ảnh hưởng chính đến các nhà thơ lớn tiếp theo trong thơ không vần, những thiếu niên khi Cowper xuất bản kiệt tác của mình. Đó là các nhà thơ vùng Hồ William Wordsworth và Samuel Taylor Coleridge . Wordsworth đã sử dụng hình thức này cho nhiều tác phẩm Lyrical Ballads (1798 và 1800) và cho những tác phẩm dài nhất của ông, The Prelude và The Excursion . Thơ của Wordsworth lấy lại được một số nét tự do của Milton, nhưng nhìn chung đều đặn hơn nhiều:
“Năm năm đã trôi qua; năm mùa hè, với chiều dài
Của năm mùa đông dài! Và một lần nữa tôi nghe
Những dòng nước này, chảy từ các suối trên núi
Với tiếng thì thầm nhẹ nhàng trong đất liền. – Một lần nữa
Tôi lại nhìn thấy những vách đá dựng đứng và cao ngất này...”
— Những dòng được viết cách Tu viện Tintern vài dặm , dòng 1–5
Thơ không vần của Coleridge mang tính kỹ thuật hơn thơ của Wordsworth, nhưng ông viết rất ít:
“Vâng, họ đã đi rồi, và tôi phải ở lại đây,
Cái chòi cây chanh này là nhà tù của tôi! Tôi đã mất đi
Những vẻ đẹp và cảm xúc, những thứ sẽ
ngọt ngào nhất trong ký ức của tôi ngay cả khi tuổi tác
đã làm mờ mắt tôi đến mức mù lòa! Trong khi đó, chúng...”
— “ Cây chanh này là nhà tù của tôi ”
Những bài thơ đối thoại của ông như " The Eolian Harp " và " Frost at Midnight " là những tác phẩm thơ không vần nổi tiếng nhất của ông. Thơ không vần của Keats trong Hyperion chủ yếu được mô phỏng theo thơ của Milton, nhưng ít tự do hơn với nhịp thơ năm âm và sở hữu đặc điểm của thơ Keats. Thơ không vần của Shelley trong The Cenci và Prometheus Unbound gần với thực hành của Elizabeth hơn là của Milton.
Trong số các nhà văn thời Victoria viết thơ không vần, nổi bật nhất là Tennyson và Robert Browning . Thơ không vần của Tennyson trong các bài thơ như "Ulysses" và "The Princess" có nhạc tính và đều đặn; lời bài hát " Tears, Idle Tears " của ông có lẽ là ví dụ quan trọng đầu tiên về bài thơ khổ thơ không vần. Thơ không vần của Browning, trong các bài thơ như " Fra Lippo Lippi ", thì đột ngột và mang tính đối thoại hơn. Vở opera năm 1884 của Gilbert và Sullivan , Princess Ida , dựa trên "The Princess" của Tennyson. Lời thoại của Gilbert hoàn toàn là thơ không vần (mặc dù 13 vở opera khác của Savoy có lời thoại bằng văn xuôi). Dưới đây là một đoạn trích do Princess Ida nói sau khi hát aria nhập cuộc "Oh, goddess wise".
“Phụ nữ của Adamant, những người mới vào nghề xinh đẹp—
Những người khao khát sự chỉ dạy như chúng tôi đưa ra,
Hãy lắng nghe, trong khi tôi mở ra một câu chuyện ngụ ngôn.
Con voi mạnh hơn Con người,
Nhưng Con người chế ngự nó. Tại sao? Con voi
Ở khắp mọi nơi đều giống voi trừ nơi này (vỗ trán)
Và Con người, người có bộ não bằng con voi
Như bộ não của Phụ nữ bằng Bộ não của Đàn ông—(đó là quy tắc của ba),—
Chinh phục gã khổng lồ ngốc nghếch của khu rừng,
Khi Phụ nữ, đến lượt mình, sẽ chinh phục Đàn ông.
Trong Toán học, Phụ nữ dẫn đầu:
Kẻ học đòi hẹp hòi vẫn tin
Rằng hai cộng hai bằng bốn! Tại sao, chúng ta có thể chứng minh,
Chúng ta là phụ nữ—những người làm việc nhà như chúng ta—
Rằng hai cộng hai bằng năm—hoặc ba—hoặc bảy;
Hoặc hai mươi lăm, nếu trường hợp đòi hỏi!’’’
Thơ không vần, với nhiều mức độ đều đặn khác nhau, đã được sử dụng khá thường xuyên trong suốt thế kỷ 20 trong thơ gốc và trong các bản dịch thơ tự sự. Hầu hết các bài thơ tự sự và thơ đối thoại của Robert Frost đều là thơ không vần; cũng như các bài thơ khác như " The Idea of Order at Key West " và " The Comedian as the Letter C " của Wallace Stevens , " The Second Coming " của WB Yeats , "The Watershed" của WH Auden và " Summoned by Bells " của John Betjeman . Không thể liệt kê đầy đủ, vì một loại thơ không vần rời rạc đã trở thành một phần chính của thơ trữ tình, nhưng có thể nói một cách an toàn rằng ( từ ngữ hoa mỹ ) thơ không vần hiện đang nổi bật như bất kỳ thời điểm nào trong ba trăm năm qua.
Bằng tiếng Đức
Thơ không vần cũng phổ biến trong văn học Đức . Nó được Gotthold Ephraim Lessing sử dụng trong vở bi kịch Nathan der Weise ( Nathan the Wise ) năm 1779, trong đó các dòng thơ dài 10 hoặc 11 âm tiết:
“Ja, Daja; Gott sei Dank! Doch warum endlich?
Hab ich denn eher wiederkommen wollen?
Bạn có muốn biết không? Babylon
Ist von Jerusalem, wie ich den Weg,
Seitab hói rechts, hói liên kết, zu nehmen bin
Genötigt worden, gut zweihundert Meilen;
Und Schulden einkassieren, ist gewiss
Auch kein Geschäft, das merklich fördert, das
So von der Hand sich schlagen lässt.Cha ông ta”
Vần hay không vần
Posted on 18.02.2008 by admin
THƠ, VẦN HAY KHÔNG VẦN
“Nếu không có thơ vần, tất cả chúng ta đều là thiên tài”. Oscar Wilde khẳng định như thế. Một khẳng định không phải không nguyên do, trong tình hình các người làm thơ phương Tây đầu thế kỉ XX đổ xô làm thơ không vần, kịch liệt chống đối thơ vần.
1. Bài thơ “Mouvement” (Chuyển động) trong tập thơ-văn xuôi Illuminations của A. Rimbaud được xem là bài thơ tiếng Pháp đầu tiên có những câu ngắn dài không đồng đều và không vần, ảnh hưởng trực tiếp đến G. Apollinaire, nhà thơ tự do hàng đầu của Pháp, đã khai mào cho Thơ Tự do phương Tây. Từ đó, thơ không vần nẩy nở và phát triển mạnh mẽ. Từ đầu thế kỉ XX, thơ không vần chiếm lĩnh áp đảo thi đàn Pháp.
Ở Mỹ, W. Whitman được xem là nhà cách mạng, đưa thơ Mỹ vượt qua thẩm mỹ thơ đương thời, trong đó vần là yếu tố bị trừ khử đầu tiên. Ng nổi tiếng với trường ca Lá cỏ.
Walt Whitman và Leaves of Grass (Lá cỏ)
Thi hào Walt Whitman (1819-1892), người từng được nhà văn Anh D. H. Lawrence xưng tụng là "nhà thơ hiện đại vĩ đại nhất" và "người Mỹ vĩ đại nhất". Walt Whitman là một nhà thơ đổi mới, một nhà dân chủ cấp tiến và một nhân cách lịch sử trong kỷ nguyên Nội chiến và mở rộng lãnh thổ của Hoa Kỳ.
Walt Whitman sinh ngày 31/5/1819 tại West Hills, Long Island, New York và lớn lên ở Brooklyn. Rời gia đình từ năm mười lăm tuổi, ông bước vào nghề làm báo và đến năm 1838 lập ra tờ báo của riêng mình. Ông trở thành biên tập viên của tờ nhật trình có lượng phát hành lớn nhất thời đó là The Brooklyn Daily Eagle vào năm 1846. Nhà văn Herman Melville từng nói rằng chiếc tàu săn cá voi đóng vai trò là Đại học Harvard của ông, còn trường Đại học của Whitman là thành phố Brooklyn và đảo Manhattan. Whitman yêu nhạc kịch, là khách thường xuyên đến các phòng trưng bày và là một độc giả cuồng nhiệt. Ba mươi lăm tuổi, Whitman nghĩ mình ngày càng có tư chất của một nhà thơ, và vào tháng 7/1855, lần đầu tiên ông xuất bản Leaves of Grass (Lá cỏ), một tập thơ nhỏ gồm mười hai bài không có tiêu đề. Mặc dù một số nhà phê bình coi tập sách chỉ là trò đùa và những người khác cảm thấy bị xúc phạm bởi ngôn ngữ và chủ đề táo bạo của nó, Leaves of Grass đã thu hút sự chú ý của một số trí tuệ văn học lớn nhất đương thời, trong đó có Ralph Waldo Emerson.
Tập thơ Leaves of Grass (tạm dịch: Lá cỏ), xuất bản lần đầu tiên vào năm 1855, được công nhận là một kiệt tác văn chương của Walt Whitman. Suốt đời mình, Whitman đã viết, viết lại và thêm vào ngày càng nhiều những bài thơ trong tập Lá cỏ. Tác giả đã sửa đổi và bổ sung nó nhiều lần cho đến khi qua đời, từ một tập sách nhỏ gồm 12 bài thơ đến phiên bản cuối cùng là một tuyển tập đồ sộ hơn 400 bài thơ. Tác phẩm được công nhận là kiệt tác để đời này của Walt Whitman đã định nghĩa ông là một trong những tiếng nói có ảnh hưởng nhất của nước Mỹ. Nghệ thuật thơ của Walt Whitman là "sự hợp nhất của nhà nguyện, báo chí và tụng ca" trong một lễ hội sống động của nhân loại.
Song of Myself (tạm dịch: Bài hát của chính tôi) là một trường ca (gồm 52 đoạn) trong tập thơ Lá cỏ. Whitman đã tái tạo thi ca Mỹ trong màn độc diễn vô song này, tìm ra những ngữ điệu dường như hoàn toàn của riêng ông nhưng bằng cách nào đó nắm bắt được năng lượng và nhịp điệu của một quốc gia trẻ trung đang thức dậy với tiếng nói và tầm nhìn rộng mở của chính mình.
"I celebrate myself, and sing myself,
And what I assume you shall assume,
For every atom belonging to me as good belongs to you."
Tạm dịch:
"Tôi ca ngợi tôi, tôi hát cho tôi
Và những gì tôi nhận, bạn sẽ nhận
Bởi mỗi nguyên tử thuộc về tôi cũng thuộc về bạn đó."
(trích Song of Myself, trong tập Leaves of Grass, ấn bản năm 1892).
Một ấn bản bỏ túi The Portable Walt Whitman, do Penguin Books xuất bản năm 2004 tại Hoa Kỳ. Sách do Giáo sư Michael Warner (Đại học Rutgers) biên tập và viết lời giới thiệu. Đây là một tuyển tập chọn lọc từ toàn bộ sáng tác thơ, văn xuôi và truyện ngắn được yêu thích nhất của Whitman, bao gồm những bài thơ trong ấn bản đầy đủ và cuối cùng của ông năm 1891-1892, một số truyện ngắn, các lời tựa cho các phiên bản khác nhau của tập thơ Leaves of Grass, và nhiều tác phẩm văn xuôi đặc sắc khác…
Tại Việt Nam, năm 1981, NXB Văn Học ấn hành tuyển tập Lá cỏ qua bản dịch của dịch giả Vũ Cận và Đào Xuân Quý. Năm 2015, NXB Hội Nhà Văn ấn hành bản dịch Bài hát chính tôi (in song ngữ Anh – Việt) do nhà thơ – dịch giả Hoàng Hưng chuyển ngữ. Nhận xét về tầm quan trọng của cuốn sách này, dịch giả Hoàng Hưng đã viết: “Qua cả ngàn câu thơ vừa tả thực đến chi tiết vừa phóng tưởng đến kỳ diệu, vừa kể chuyện vừa rao giảng luận bàn nhiều mặt rất đa dạng rất khác biệt thậm chí đối nghịch của đời sống và con người Mỹ ở nửa trước thế kỷ 19, thiên sử thi này muốn trả lời câu hỏi: Là người Mỹ có nghĩa là gì? (What does it mean to be American?)”.
Walt Whitman là nhà thơ Mỹ có sức sáng tạo và gây ảnh hưởng nhất ở thế kỷ XIX. Luôn là một nhân vật quan trọng và gây tranh cãi, Whitman tiếp tục thu hút sự ngưỡng mộ của các nhà thơ, nghệ sĩ, nhà phê bình, nhà hoạt động chính trị và độc giả trên khắp thế giới trong cuộc đối thoại với di sản văn hoá phong phú của ông cho đến hôm nay.
“Ở Nhật, từ năm 1945, vần điệu dễ dãi của những đoản ca, hài cú đã bị công kích và khước từ. Ở Trung Quốc, Đài Loan các nhà thơ hiện đại đã dẹp bỏ vần điệu, niêm luật xưa. Các thi sĩ Ả Rập, Ấn Độ cũng đã đổi mới triệt để cú điệu và hình thức trong sáng tác thi ca của họ”. Chân Phương viết thế.
Rồi ông đặt vấn đề: “Truyền thống chỉ có giá trị thật khi được tra cứu và chất vấn với ý thức và thời đại ta đang sống. Khi văn học toàn cầu, bất kể nước lớn hay nhỏ, đang chuyển động mạnh trong sự tiếp nhận, học hỏi lẫn nhau ngày càng nhiều, chẳng lẽ các nhà thơ Việt Nam lại ôm mãi mấy gốc cây đa của vần điệu thời thơ văn truyền khẩu?”
2. Nguồn sữa nuôi dưỡng thơ Việt chính là ca dao, nghĩa là văn chương truyền khẩu. Mà văn chương truyền khẩu không thể đi chệch khỏi vần: dễ thuộc, dễ nhớ và, dễ ngâm. Tiếp nhận Thơ Đường của Trung Hoa, ta cứ vậy, cho tận khi phong trào Thơ Mới xuất hiện. Nhưng Thơ Mới, một biến thái của ca dao, Hát nói qua ảnh hưởng của Trường Lãng mạn và Hiện thực Pháp, dù đã làm nên cuộc cách mạng trong thơ Việt, vẫn không một lần từ bỏ vần.
Ý hướng cắt đứt thơ vần được Nguyễn Đình Thi khơi mào vào những năm 50, đã bị chống đối kịch liệt, đành nửa đường đứt gánh. Nỗ lực này chỉ đạt một vài thành tựu hiếm hoi qua các thi sĩ thuộc Nhóm Nhân văn-Giai phẩm ở miền Bắc và Nhóm Sáng tạo ở miền Nam những năm 60. Chúng ta thử nêu vài trích dẫn:
“Ở cuối đêm
em rũ tóc nói những lời mê sảng
những ám hiệu
của mặt biển đen không tình yêu tuyệt vọng
anh xé tóc em cùng những cánh lá chết
mùa thu
gây thương tích nơi cườm tay
anh xô ngã em tờ chóp đỉnh hạnh phúc”
(Thanh Tâm Tuyền, “Đêm”, Tôi không còn cô độc)
“Tôi nhớ không còn gì
Khoảng cách trần truồng vô nghĩa
Tờ giấy trắng bọc gọn trái tim
nét chữ bôi lên kín cả
Tôi nhớ không còn gì
(Thơ Duy Thanh)
Thế rồi tất cả đều trở lại vạch xuất phát. Dẫu các sáng tác sau đó có câu ngắn dài không đồng đều, sử dụng vần buông hay cả khi từ bỏ vần, thơ Việt vẫn cứ bị ám ảnh bởi vần.
Nến được đốt lên sớm hơn mọi thế kỉ trước
Những vết rạn dương gian chầm chậm tràn tràn đầy
Ánh hoàng hôn – đấy bình minh linh ẩn
Dâng ngập những mái nhà, những vòm cây,
những đỉnh núi u trầm.
Không phải không lí do khi có người cho đại bộ phận thơ hiện đại Việt Nam chỉ dừng lại ở dạng Thơ Mới biến thể (hay phá thể). Không hơn.Trong lúc ở Pháp, sau hơn một thế kỉ phiêu lưu (và gặt hái không biết bao nhiêu là thành tựu) với thơ không vần, các nhà thơ trẻ hiện nay đang quay trở lại với thơ vần!
3. May, thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số, do bắt nguồn từ dòng chảy thẩm mĩ khác, ít bị thao túng/quy định bởi vần. Đa số họ dịch từ tiêng dân tôcủa họ ra tiếng Kinh. Ngoại trừ vài nhà thơ tiếp nhận nguồn thơ Việt, từ đó khá nhuyễn với các thể thơ Việt như: Hoàng Văn Thụ, Lương Định, Mai Liễu, Y Phương,… Còn lại, đa phần đều sáng tác theo truyền thống “dân tộc thiểu số”. Và, rất ít vướng víu bởi vần. Lò Ngân Sủn có “Người đẹp” và các bài thơ hay khác của anh.Nói chng cacs nhà thơ dn tộc viết ốm yếu!
“Cây lim đứng như một kẻ chôn chân dưới đất
(Chất cây lim bất chấp loài sâu mọt)
Ngọn vầu, bương uốn lượn như tua còn tua khăn
Thảm cỏ non ươm xanh ngọn gió
Cây dát, cây dổi vân nổi như sóng cuộn mây vờn
Cây đá cuội ngụy trang như hòn cuội
Cây tấu mặt quỷ
Cây sến vỏ nứt ô bàn cờ…”
Bước đạp vạm vỡ hơn. Tôi thấy – dứt khoát hơn
thế giới vỡ vụn và ráp lại qua hơi thở gấp
lửa hấp hối.Ông bị quăng ra khỏi vùng lửa – mình đầy thương tích
cả thế giới thương tích – chỉ nụ cười vẹn nguyên
niềm vui vẹn nguyên
triệu triệu giọt nước bay về giập tắt tia lửa sống sót
toan gượng dậy lần cuối cùng
giập tắt khổ sở, thất vọng trên những khuôn mặt. Tôi thấy.
Ở bên kia niềm vui
Sự chịu đựng vẹn nguyên họ lại bắt đầu bén rễ.
4. Tại sao vần có mặt và bám trụ dài dặc thế trong thơ Việt? Truyền thống ca dao, thơ Đường luật, Thơ Mới quy định lề thói sáng tác và thưởng thức của chúng ta. Người viết bị quy định đã đành, trầm trọng hơn cả là vần tồn tại dai dẳng trong việc cảm nhận thơ của người đọc. Cái mới xuất hiện chẳng những không được đón nhận mà còn bị dị nghị, dị ứng rồi bị tẩy chay. Vụ án thơ không vần ở trường hợp Nguyễn Đình Thi là một ví dụ.
Đành rằng tâm lí chung của người đọc là ít chịu chấp nhận ngay tức thời cái mới khi nó xuất hiện. Ở đâu cũng vậy, nhưng tại Việt Nam, do truyền thống văn hóa văn chương, nên nó càng bị cự tuyệt quyết liệt hơn. Và, trước thái độ không thiện chí của người đọc, cả người đọc được cho là ưu tú như các nhà phê bình chẳng hạn, kẻ sáng tác cũng rất dễ mất hứng thú trong phiêu lưu sáng tạo. Hệ quả: thơ vần mãi có mặt!
Nhưng có phải bởi vần mà nền thơ Việt không lớn?
Theo thiển ý, vần không là một tội phạm khiến thơ bị nhàm. Vần hay một thể thơ nào bất kì luôn phát triển theo chu kì: tìm tòi – hoàn chỉnh và ổn định – phiêu lưu phá giới – rồi trở lại tìm tòi để ổn định. Hành trình từ Thơ Cổ phong Trung quốc đến trước thời Đường, sang Sơ Đường mày mò rồi mới đạt tới luật tắc ổn định và nghiêm ngặt của Thịnh Đường, để sau đó lại tiếp tục… phá thể (ví như bài “Hoàng Hạc lâu” thời Sơ Đường, dẫu hay đến đâu nhưng xét về luật thơ, nó cũng chưa thật chặt chẽ như chuẩn mực đòi hỏi của thơ Đường).
André Gide nói: “Nghệ thuật sống nhờ luật tắc, và chết vì buông thả”. Sự “buông thả” của các nhà thơ phương Tây thời gian qua đã gây dị ứng nơi người thưởng thức. Họ tẩy chay thơ, từ đó thơ đánh mất người đọc: các nhà thơ quay lại đọc của nhau, hay chỉ đọc chính thơ mình! Hình thành thứ tâm lí tự yêu nguy hiểm. Khủng hoảng thơ đang kì báo động đây đó, là thực. Cả ở Việt Nam. Thơ không vần Việt chưa phát triển đến đầu đến đũa, nhưng cũng đã có dấu hiệu của buông thả.
5. Lại may! Thơ dân tộc thiểu số không bị dính vào trào lưu cách tân ấy. Nhưng không phải vì thế mà thơ chúng ta thiếu nhảm, nhàm và không tránh nguy cơ bị lạnh nhạt. Sáng tác bằng tiếng Việt, lặp lại truyền thống vần Việt là điều thậm nguy: chúng ta rơi tõm vào lối mòn mà không hay! Còn theo học trùng trùng các trào lưu thơ phương Tây, chúng ta mãi mãi là học trò đứng cuối lớp.
Như vậy, “sự thay đổi hồn thơ” hay “một tinh thần mới cho thơ” có vai trò quyết định cái hay và cái mới “lớn” của thơ, chứ không phải vần hay luật tắc của một thể thơ nào đó: từ lục bát, tám chữ, Thơ Mới phá thể hay cả Thơ Tự do. Vần, nguy cơ đánh lừa người đọc dễ tính rằng như thế mới là thơ. Nhà thơ dễ làm vần: chẳng nỗ lực gì cả nhưng chúng ta vẫn “hoàn thành” một bài thơ có vần: ta quay lại tự đánh lừa. Và thơ cứ dậm chân tại chỗ!
Vần hay không vần, không hề gì cả, quan trọng là tinh thần mới. Tinh thần mới đặt trên nền đất vững chắc của văn hóa, suy tư nền tảng qua tiếp nhận luồng gió từ trăm phương thổi tới bằng nhậy cảm bắt nhịp cuộc sống hiện đại. Làm thành nhịp điệu của tâm hồn người thi sĩ.
Chính nhịp điệu này quyết định vần hay không vần của một bài thơ, thậm chí một đoạn/câu thơ. Nhịp điệu tùy thuộc vào “miền dao động và rung động”
Hẳn bạn đọc và những người làm thơ, yêu thơ đã từng (hơn một lần) đọc một, hai, ba bài thơ siêu thực, thơ cách tân, thơ dung tục và đã cảm nhận được “cái hay, cái đẹp” của nó như thế nào so với loại thơ vần trong Truyện Kiều, trong Cung oán Ngâm khúc, trong thơ của Vũ Hoàng Chương, của Xuân Diệu...
Lâu nay người ta đã bàn luận nhiều đến Thơ Vần và thơ không vần, một đề tài đã “xưa như trái đất”, nhưng xem ra vẫn luôn luôn mới, bởi bộ môn Thơ là một phần của đời sống tinh thần trong sinh họat văn học nghệ thuật của nhân loại. Ở Pháp vào thời vua Louis 14 đã có những thi đàn do các nhà quý tộc lập ra để giới trí thức lịch duyệt, được nhà vua nể trọng họp nhau nghe thơ, bàn luận về thơ và để đánh giá mà thừa nhận danh xưng thi sĩ cho những người xứng đáng. Ở Trung Hoa, vào thời thịnh Đường, nhiều nhà thơ không chấp nhận những ràng buộc của Khổng giáo như Đào Tiềm, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên... đã để lại hàng ngàn bài thơ cho gia tài văn học Trung Quốc.
Đó là loại thơ vần mà văn học Việt Nam coi như kế thừa đã mấy nghìn năm. Chúng ta không bao giờ chấp nhận sự “kế thừa” này, vì vậy Thơ Đường đã bị trào lưu thơ Mới đẩy lùi vào bóng mờ của dĩ vãng. Hoài Thanh đã gọi đó là “một cuộc cách mạng thi ca (đã nhóm dậy vào tháng 3 -1932) ”.
Văn học, thi ca cũng như khoa học luôn luôn đòi hỏi con người đi tìm cái mới, cái hay, cái hoàn mỹ, hoàn thiện hơn. Người ta thấy sự thay thế vị trí của thơ - từ cũ sang mới - sau thời kỳ Tự Lực Văn Đoàn cho đến thời kỳ văn học miền Nam (1954-1975), nhưng dù là cũ hay mới thì thơ vẫn là thơ vần, với đầy đủ tính nghiêm chỉnh của vần điệu, của nhạc tính, của thi tứ và thi ngữ.
Thời kỳ thăng hoa của thơ Việt có lẽ phải kể là vào thời kỳ này với Thi Văn Tao Đàn, với các giải thơ toàn quốc. Ngay cả một số nhà thơ ở miền Bắc sau thời kỳ thơ mới như Hoàng Cầm với Bên Kia sông Đuống, Hữu Loan với Màu Tím Hoa Sim, và các nhà thơ khác trong Nhân Văn, Giai Phẩm đều là những nhà thơ mới, đều có làm những bài thơ phá thể, thơ tự do nhưng nhạc tính và vần điệu vẫn rất hoàn chỉnh, vẫn có thể đọc, có thể ngâm để mà cảm nhận, mà thưởng thức.
Cùng lúc với Thơ Mới chiếm lĩnh vị trí trong thơ Việt, thơ mới “giành được quyền sống”; thơ cũ “mất quyền sống” trong làng thơ, cũng là lúc có những người phỏng theo thơ Pháp làm thơ tự do, thơ phá thể, thơ không vần, nhưng không phổ biến nhiều, không lớn lên được, và không thể tồn tại. Mãi đến sau năm 1954, sau cuộc di cư của gần một triệu người từ Bắc vào Nam, Thanh Tâm Tuyền là người chủ trương khuynh hướng sáng tác thơ tự do, được nhóm Sáng Tạo hưởng ứng và cổ vũ. Từ đó cho tới nay, sau hơn nửa thế kỷ thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền vẫn là... của Thanh Tâm Tuyền, chưa bao giờ nhân rộng ra thành một trường phái có tác phẩm hẳn hòi. Người ta thừa nhận cái công của Thanh Tâm Tuyền hô hào cho khuynh hướng thơ tự do, nhưng không ai thừa nhận cái thành công của khuynh hướng này.
Nhà thơ Hà thượng Nhân, một nhà thơ kỳ cựu trong làng thơ miền Nam, có lần cho chúng tôi biết, trong một lần ông được mời vào Ban giám khảo chấm thi một giải thơ toàn quốc (VNCH), khi biết trong số các tác giả được đề nghị có Thanh Tâm Tuyền, ông đã nói với Vũ Hoàng Chương và Cao Tiêu xin từ chối vào Ban Giám Khảo.
Chúng ta biết ở hải ngoại và cả trong nước hiện nay thơ đã lạm phát đến mức báo động, nhưng thực ra chẳng hề hấn gì. Ít năm trước thời kỳ thơ mới, tờ “Đông Pháp” ở Hà Nội mở cuộc thi thơ đã có đến 1.500 người dự thi. Hồi đó Hoài Thanh đã tự hỏi: “nước ta có bao nhiêu thi sĩ? 40 ngàn hay 400 ngàn? và ông cho biết 4.000 người có thơ đăng báo, in sách nhưng có chừng 40 người có thơ đưa vào “Thi Nhân Việt Nam”. Số 4.000 hay 40 ngàn hay 400 ngàn người làm thơ thời đó đến nay không ai biết tên tuổi họ (ngoại trừ một số trong “Thi nhân Việt Nam”). Và trong con số 40 người đó cho tới nay cũng chỉ một số ít người đi vào văn học, đếm được đầu ngón tay, được người đời nhắc đến.
Sự sàng lọc, đào thải của thời gian và công luận, của người đọc là một “cán cân công lý” vô tư nhất.
Một đoạn khác trong bài báo:
“Đọc thơ ở đây, người ta sẽ kinh hoàng chợt nhận ra thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954, đã bị xóa trắng một cách oan uổng.”
Thật tình, tôi không hiểu ý của tác giả bài báo muốn nói gì về nhận định này.
“Thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954” mà giới phê bình nói đến là thế giới những gì? Theo sự hiểu biết thô thiển của tôi thì “thế giới thơ” từ năm 1954 đến 1975 là một “thế giới” thơ của hai ba thế hệ người làm thơ Bắc (di cư) Trung, Nam, phong phú và đa dạng cả về nội dung tư tưởng đến hình thức. Nói đến “thế giới thơ” miền Nam là nói đến Thi Văn Tao đàn, đến các giải thi thơ toàn quốc, đến các thi văn đoàn và không thể không nói đến những tên tuổi như Quách Tấn, Á Nam Trần Tuấn Khải (thơ Đường), Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tạ Ký, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Hà Thượng Nhân, Trần Tuấn Kiệt, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Diên Nghị, Tuệ Nga, Quỳ Hương... Thơ tự do (Thi tặc) có Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp...
Sau 75 “thế giới thơ” đó đã bị chế độ XHCN với văn hóa Mac-xit xóa trắng một cách không thương tiếc ở trong nước. Vũ Hoàng Chương ra khỏi tù, mấy ngày sau qua đời. Tạ Ký chết bụi chết bờ, Hồ Điệp chết trên đường vượt biên. Tác phẩm của họ bị cho là sản phẩm văn hóa đồi trụy, bị cấm đọc, cấm lưu truyền, cấm lưu trữ... Đó mới chính là sự xóa trắng đáng kinh hoàng, chứ ở hải ngoại người ta vẫn trân trọng, vẫn đọc và vẫn kế tục trong sáng tác, trong lưu hành, và phổ biến.
Có phải cái “xóa trắng” mà tác giả bài báo muốn nói là từ sau 75, ra hải ngoại, và riêng tại San Jose không ai nối nghiệp Thanh Tâm Tuyền, không phát động trào lưu sáng tác thơ văn xuôi, thơ tự do, thơ không vần? Một ý niệm rất đơn giản mà phổ quát đã có từ xa xưa là khi nói đến thơ là nói đến vần điệu. Từ xưa nay, một câu nói, một đoạn viết mà không có vần có điệu thì không ai gọi là thơ.
Tuân Tử trong thiên Nho Hiệu đã phân biệt Thi (là thơ) với Thư (là văn xuôi). Với sự phân định rạch ròi đó, trong văn học cổ Trung Hoa có hai bộ sách - Kinh Thi và Kinh Thư.
Một số người ngày nay hoặc do không phân biệt được, hoặc do quá dễ dãi, thường nói “viết thơ cho gia đình”, “đi lấy thơ ở bưu điện”, thay vì nói viết thư, đi lấy thư... nhưng một người hiểu biết bình thường không ai lầm lẫn giữa thư và thơ; giữa văn xuôi và văn vần.
Như một nguyên tắc bất di bất dịch, từ lâu đời: Thơ không phải và không thể là văn xuôi; Thư không phải và không thể là văn vần. Nay khuynh hướng thơ cách tân, thơ siêu thực, thơ dung tục muốn làm một cuộc “cách mạng” thi ca bằng cách tạo ra một loại thơ tối nghĩa, không vần, không điệu, một mớ chữ nghĩa xà bần, thanh ít tục nhiều, nhằm biểu lộ hoặc để thỏa mãn tính lập dị, khoa trương kiến thức, đem chữ nghĩa ra thách đố người đọc, mà có khi chính người làm ra bài thơ đó cũng không hiểu mình muốn nói gì.
Bạch Cư Dị của Trung Hoa cách đây hơn 1.100 năm lúc làm xong một bài thơ, đọc cho người vú già nghe rồi hỏi: “Có hiểu không?”. Nếu đáp “hiểu” thì ông mới chép lại (bằng không thì vứt bỏ).
Xin quý vị nhà thơ cách tân trước khi đạp đổ cái cũ (thơ vần) hãy từ trong cái cũ bước ra, ít nữa phải là một người đã từng sành sỏi thơ vần và hãy chỉ ra cho mọi người biết và hiểu được cái hay cái dở của cái vần và cái không vần.
Trích dẫn lời nói của nhà văn Ba Lan Witold Gombrowicz “văn chương không phải là một xí nghiệp, cũng không phải là một sản phẩm xí nghiệp”, bài báo viết tiếp “Không phải mọi thứ được in ra đều là tuyệt phẩm”, và trước đó ông viết: “Từ lâu lắm tôi mới được đọc một tập thơ như CƠTGBBNEC (Cảm ơn tháng giêng biêng biếc ngực em cười)”.
Ý kiến này của tác giả bài báo cho người ta cảm tưởng tập thơ của Hải Phương không là tuyệt phẩm thì cũng là một thi tập vượt lên trên tất cả những tập thơ khác, “từ lâu lắm”.
Tôi hoàn toàn không có ác cảm nào với cá nhân các “nhà thơ cách tân, siêu thực”, cũng mong quý vị thực hiện thành công cuộc “cách mạng thi ca” mà quý vị chủ trương. Riêng loại thơ dung tục thì xung quanh tôi rất nhiều người tỏ ra ngại ngùng khi liếc mắt tới loại thơ trần truồng giả hiệu này. Dư luận chung cho rằng cũng chỉ vì muốn mua chút danh bằng tính lập dị, không giống ai, một số người đã tạo ra một loại “dâm thư” qua thơ, một cách bệnh hoạn. Tôi gọi đó là loại thơ trần truồng giả hiệu, bởi vì tôi tin một cách chắc chắn rằng quý vị “nhà thơ dung tục” ấy chỉ bày biện chữ nghĩa trần truồng lên giấy, nhưng không bao giờ dám bày những thứ đó trước mặt gia đình, con cái, thân nhân, người quen kẻ lạ... Chỉ khi nào quý vị ấy trút bỏ hết y phục, bày mọi thứ... ra trước thiên hạ như quý vị đã viết ra trên giấy thì bấy giờ loại thơ kia mới có “cầu chứng” (với tác giả của nó).
Thử hỏi nếu gia tài thi ca Việt Nam từ Cung Oán Ngâm khúc, rồi Chinh Phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều, sang tới thi ca thế kỷ 19 cho đến tận thời kỳ thơ Mới của Tự Lực Văn đoàn và “thế giới thơ miền Nam” mà tất tất đều là “thơ cách tân”, thơ “tân hình thức”, thơ siêu thực thì văn học Việt Nam ngày nay sẽ ra sao? Và nếu hôm nay thơ siêu thực thay thế toàn bộ thơ “vần điệu nghiêm chỉnh” thì các thế hệ sau này làm thế nào để tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi? Hay đến lúc bấy giờ tất cả mọi người đều đã trở thành những “siêu nhân”, có thể đọc và hiểu được thứ ngôn ngữ thần chú, huyền bí, hiểm hóc ấy! Giả dụ vị khai quốc công thần Lý Thường Kiệt làm bốn câu tứ tuyệt “Nam quốc sơn hà Nam đế cư...” bằng loại thơ cách tân siêu thực thì đã có được tác dụng gì với lòng dân, với triều đình nhà Hán, và còn tồn tại đến ngày nay không?
Có thể là quá đáng, trong khi tác giả bài báo hết lời tán tụng tập thơ “siêu thực” có tên “Cám ơn tháng giêng biêng biếc ngực em cười” của Hải Phương thì ông lại nặng lời với những người làm thơ khác ở San José một cách qua đáng: “Nhiều người khác ở đây (San Jose) cũng móc gan ruột ra tuyên bố tương tự như một nhãn hiệu cầu chứng cho những gì phát xuất từ 1954 cho đến 1975 mới là chính hiệu”.
“Kế thừa là chuyện dễ nói hơn dễ làm trong văn chương nhắm mắt và bịt mắt. Thế giới thơ ở San Jose đã không tiếp nối trào lưu sáng tác thơ đa dạng ở miền Nam trước 1975. Đọc thơ ở đây, người ta sẽ kinh hoàng chợt nhận ra thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954, đã bị xóa trắng một cách oan uổng”.
Không ai có quyền bắt buộc một người khác thích cái này hay không thích cái kia. Một bức tranh đối người này cho là đẹp, người kia phê bình là xấu. Một bài thơ người này khen hay, người khác chê dở; một thiếu nữ đi ngang qua, người này khen là đẹp, duyên dáng, người kia cho là “thường”.
Cũng vậy, môt người có thể cảm khoái với loại tranh lập thể, trừu tượng, nhưng xin đừng quay sang chỉ trích trường phái “cổ điển” mà cho rằng (ví dụ): “San Jose lâu nay đã trở thành một xí nghiệp tranh vẽ, được lắp ráp cảnh trí với chân dung nghiêm chỉnh, dùng sơn màu và cọ đưa lên khung vải...”. Như thế có ổn không?
Theo tôi, ranh giới giữa các trường phái nghệ thuật cũng như giữa thơ siêu thực và thơ vần có hai dạng thái rõ rệt.(Có tham khảo người viết trên mạng)…(còn nữa)
Đ – H
Nhà thơ Đỗ Hoàng

Vô lối, thi tặc Mai Văn Phấn.

  •   20/10/2025 17:17:00
  •   Đã xem: 8
  •   Phản hồi: 0
BẦU TRỜI KHÔNG MÁI CHE - YẾU KÉM SÁNG TẠO
“Dịch” Vô lối của Mai Văn Phấn
Mai Văn Phấn trước đây làm thơ tuy không nổi trội nhưng còn đọc được. Sau đó thi theo tân hình thức, theo hậu hậu hiện đại nên viết thành một loại thể mà tôi (Đỗ Hoàng) đặt cho các kiểu viết của nhiều người hiện nay là Vô lối. Thật ra, đó là một thứ bà dằn, tắc tỵ, hủ nút, dở dơi, dở chuột, không hiểu ra làm sao. Tôi đã viết nhiều tiểu luận nói rằng: Bây giờ nhiều kẻ viết yêu cầu người đọc, người thưởng thức thơ ca phải có trình độ văn hóa cao, uyên bác, từng trải, có học vấn thâm hậu. Nhưng thật phi lý là những người viết ra kiểu Vô lối như trên thì trình độ học vẫn, trình độ văn hóa lại tầm tầm, thậm chí còn yếu kém nữa. Vậy, nên xin chuyển bài Vô lối cúa Mai Văn Phấn sau đây ra thơ Việt. Mai Văn Phấn biết làm thơ lục bát thì cũng có thể tự mình chuyển được như tôi.
Nguyên bản:
TẮM ĐẦU NĂM (1)
thanh tẩy (2) mãi vẫn không thấy sạch
quay về tắm bằng ngọn đèn
thử đưa bờ vai về phía ánh sáng
rồi cả hai tay
bàn chân, cằm, đầu gối
cả đôi tròng mắt và tiếng ho khan
xối ánh sáng vào từng góc khuất
gốc khuất như lò thúc mầm (3)
như thép nóng đem tôi vào nước
như quả trứng trong ổ đang ấp
rễ thân cành đã chết đâm ngang
tắm gội cho mùa xuân về
vừa lặn vào ánh sáng
vừa gọi thầm ông bà, cha mẹ
cơ thể bốc cao về phía ngọn đèn
vừa xối mạnh, vừa gọi tên em
ánh sáng bồng bềnh, bụng mang, dạ chửa
thử gọi một ai xa lắc, xa lơ
ngọn đèn lặng phắc càng tỏ
càng tỏ
(1) Bài in trên báo Văn nghệ. Tạp chí Nhà văn số 4/ 20011 và trên mạng
(2) Thanh tẩy: Bài này dùng nhiều chữ vô lối, cảm vô lối, lung tung, lang tang. Lạm dụng từ Hán Việt như thanh tẩy. Trong tiếng Hán thanh có 5 chữ, tẩy có 3 chữ. Thanh ở đây theo nghĩa bài là trong, sạch, tẩy ở đây là rửa, xối. Nếu dùng thuần Việt thì nên viết là rửa sạch.
(3) Lò thúc mầm là lò ươm giống lúa. Các hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc thời thập kỷ 60, 70 thế kỷ trước hay dùng.
Viết liền văn xuôi:
TẮM ĐÂU NĂM
Thanh tẩy mãi vẫn không thấy sạch. Quay về tắm bằng ngọn đèn. Thử đưa bờ vai về phía ánh sáng, rồi cả hai tay, bàn chân, đầu gối, cả đôi tròng mắt và tiếng ho khan. Xối ánh sáng vào từng góc khuất. Góc khuất như lò thúc mầm, như thép nóng đem tôi vào nước, như quả trứng trong ổ đang ấp, rễ thân cành đã chết đâm ngang. Tắm gội cho mùa xuân về, Vừa lặn vào ánh sáng, vừa thầm gọi ông bà cha mẹ. Cơ thể bốc cao về phía ngọn đèn, vừa xối mạnh, vừa gọi tên em. Ánh sáng bồng bềnh, bụng mang dạ chửa. Thử gọi một ai, xa lắc, xa lơ. Ngọn đèn lặng phắc càng tỏ.
Nhận xét:
“Tắm đầu năm” là một quái thai của sáng tạo. Bài này là một trong hàng loạt bài Vô Lối của Tập “Bầu trời không mái che” của Mai Văn Phấn, vừa được Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 - 2011 nó thể hiện một sự tắt tỵ, bất lực trong sáng tạo dẫn đến một cách thể hiện quái dị, mung lung, sai lạc cả quy luật tự nhiên, quy luật tâm lý bình thường của con người, phong tục tập quán của con người. Người ta tắm gội tất niên, không ai nói tắm gội đầu năm để cho xuân về. Xuân đã về từ o giờ 1 giây của đêm giao thừa rồi. Từ ngữ thì cũ rích, đầy Hán Việt chưa Việt hoá. Mái Văn Phấn cố tìm tòi là đáng khen nhưng rời vào lảm nhảm, lung tung làm hại thơ ca thì đáng chê trách vô cùng. Thành công của thơ ca không chỉ ở gọt rũa câu chữ, thành công của thơ ca là ngoài cuộc sống.
Cổnhânnói
“Điêu trác tự thị văn chương bệnh,
Kỳ hiểm do vu khí cốt đa!”
(Gọt rũa là bệnh của văn chương,
Kỳ quái, rắc rồi làm hại hồn thơ)
Hay như Lục Du khuyên con:
“ Như quả dục học thi,
Công phu tại thi ngoại”
( Nếu con thành tâm học làm thơ
Thì thơ thần diệu có ở ngoài cuộc đời chứ không ngồi chiết tự con chữ))
“Dịch”
TẮM ĐÂU NĂM
Rửa nhiều nỏ sạch chi mô,
Quay về rủ tóc tắm khô dưới đèn
Nghiêng vai ánh sáng, che đen.
Chân tay, mặt mũi ho hen phơi trần!
Xối vàng thớ thịt, đường gân,
Góc khuất như lẫm thúc mầm đang ươm.
Giống như thép nóng tôi chườm,
Giống như trứng ấp ổ rơm đợi ngày
Giống như chùm rễ chiết cây
Tắm gội cho sạch xuân nay sẽ về.
Lặn vào ánh sáng bùa mê
Gọi thầm cha mẹ, thôn quê, ông bà…
Thân hình bốc lửa chớp lòa
Vừa kỳ cọ, xối gọi òa tên em
jg mang dạ chửa, bồng bên
Xa lơ, xi tăc Mai Văn Phấna lắc nổi lên ơ hờ
Ngọn đèn lặng phắc như tờ
Càng lay, càng tỏ đôi bờ trần gian!
Hà Nội 28 – 4 – 2011
Đỗ Hoàng

Thi tăc

  •   22/10/2025 17:55:00
  •   Đã xem: 9
  •   Phản hồi: 0
A A A A B GIẶC THƠ
VÔ LỐI - THI TẶC NGUYỄN QUANG THIỀU 1
(Bài do tác giả gửi CBTT)
Đỗ Hoàng
Vô lối là một loại viết có từ thập kỷ 60 thế kỷ trước và bùng phát nhiều nhất từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến hôm nay. Nó càng bùng phát hơn nữa khi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 trào giải cho tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều và vừa rồi (năm 2011 - 2012), Hội Nhà văn Việt Nam lại tiếp tục trao giải cho cả 4 tập của các tác giả Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Định Thị Như Thúy, kiểu viết như Nguyễn Quang Thiều nối dài.
Điển hình của Vô lối là triệt tiêu một trăm phần vần điệu, xóa bỏ cách nghĩ, cách cảm của ông cha và thơ ca truyền thống dân tộc và thế giới, tắc tỵ, rắc rối, tù mù, dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống, nhạt nhẽo, đánh đố mình, đánh đố người đọc, dung tục, tình dục bệnh hoạn, sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, tuỳ hứng…
Vô lối có một đặc điểm nữa là không thể đọc nổi vài ba dòng.
Nguyễn Quang Thiều cũng là một trong những đại biểu của Vô lối ấy vừa được các báo chí chính thống, các vụ viện chính thống, các học giả, nhà phê bình, giáo sư đại học, cánh hẩu viết bài lắng xê, ca ngợi hết lời. Họ coi đó là sự là “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân”, Thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn từ mẫu gốc” (Tạp chí Nhà văn số 6 - 2012); “Hộp đen” Nguyễn Quang Thiều – Báo Văn nghệ số 17 + 18 tháng 4 – 2012...
Cách tân tức là làm mới không chỉ ở thơ ca mà trong cuộc sống muôn loài cũng phải luôn luôn đổi mới để phát triển tồn tại. Thế hệ sau tiến bộ hơn thế hệ trước thì muôn loài, muôn vật, xã hội mới phát triển, không thì chỉ dừng lại và đi đến triệt tiêu!
Nhưng làm mới như thế nào? Tôi đã nhiều lần nói về việc làm mới. Làm mới – cách tân chứ không phải cách mạng. Đến như cách mạng lật đổ hoàn toàn quá khứ mà người vẫn còn giữ gìn và tiếp thu những ưu tú của đời trước để lại, huống hồ cách tân - làm mới, phải có kế thừa và phát huy cái hay, cái đẹp của dân tộc, của nhân loại. Nhà bác học Lê Quý Đôn nói: “Người tài giỏi hơn hết một thời, cũng không được phá bỏ đời trước”
Những người tìm tòi đổi mới thơ ca là đáng trân trọng. Nhưng lấy cớ tìm tòi đối mới để phá bỏ, đạp đổ những chuẩn mực, những tinh hoa của cha ông từ muôn đời để lại là một ý nghĩ, hành động điên rồ.
Hàn Mặc Tử có nói: “Vẫn biết thơ ca phải tân kỳ (mới và lạ), song thơ ta là thơ quốc âm, người phương Đông chuộng nỗi đau thâm trầm, nỗi buồn kín đáo. Ta phải thể hiện cái tinh thần phương Đông ấy.”
Nhưng những người viết hôm nay và nhất Nguyễn Quang Thiều không theo tiêu chí ấy mà đi tìm một cách viết rất chi là Vô lối.
Nguyễn Quang Thiều cố tìm một cách nói, cách lập ngôn như việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” – (Hỏa đích bất thụy sự), đã thể hiện cách ấy. Đọc thấy lạ tai, không theo cách nói cách viết thuần Việt, nó như là cách viết của Tây, nhưng Tây người ta không viết thế. Câu thơ, câu văn của Tây dài nhưng phải chính xác, không thừa chữ, không thừa ý và phải thuần chủng ngôn ngữ. Đằng này Nguyễn Quang Thiều cố tạo ra cách viết lạ nhưng lại vừa dùng chữ nước ngoài, vừa không theo cách cảm cách nghĩ của dân tộc. Cách này cũng đã có người trước Nguyễn Quang Thiều viết như “Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai” (Liên khúc những bài thơ tình thời cách xa – Thanh Tâm Tuyền)
Chữ sự nguyên là chữ Hán đã tương đối Việt hóa. Nó có ba nghĩa : 1- việc, 2 - làm việc, 3 - thờ. Không hiểu sự mất ngủ của lửa ở đây là việc, làm việc hay là thờ? Suy đoán trong bài hiểu theo nghĩa Hán “Hỏa đích bất thụy sự” thì có thể là việc. Dịch ra là “Việc mất ngủ của lửa” chắc là đúng ý tác giả!
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Hồ Chí Minh)
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Xuân Thủy dịch)
Thời Nguyễn Đình Chiểu, cũng là thời Hán học đang thịnh hành, cụ Đồ Chiểu còn đi thi tú tài Hán học, thế nhưng thơ Cụ, văn tế, phú của Cụ thì rất Việt hóa.
Việc cấy, việc cày việc bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cớ mắt chưa từng ngó
(Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc )
Nếu viết như Nguyễn Quang Thiều và Thanh Tâm Tuyền là phải:
Sự cấy, sự cày, sự bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cờ mắt chưa từng ngó
Lại bàn về mất ngủ. Mất ngủ chỉ một trạng thái tâm lý của con người do lao lực, do nghĩ ngợi đau khổ nhiều, thần kinh yếu, do chấn động thân kinh, do chấn thương sọ não …nên dẫn đến mất ngủ. Nói chung nó là một trạng thái bệnh lý nhiều hơn. Còn người khỏe mạnh, thần kinh vững vàng thì khó có thể mất ngủ.
Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
(Hồ Chí Minh)
Người khỏe mạnh, cứng rắn, người ta chưa ngủ hoặc người ta không ngủ để lo quốc gia đại sự, chứ họ không bị chứng bệnh mất ngủ!
Vì vậy việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” vừa không Việt hóa, vừa thừa chữ, thừa lời, vừa không ổn trong nhận thức. Có thể đặt theo cách thuần Việt “Lửa mất ngủ” hoặc “Lửa thức”…
Cách đặt tựa đề, đặt câu này Nguyễn Quang Thiều lặp đi lặp lại ở nhiều bài khác như: “Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi” (Tiếng vọng) – In trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập một, tháng 1 năm 2011.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều đa phần dài dòng văn tự. Viết ngắn viết dài tùy theo cảm xúc, suy nghĩ, tùy theo mức độ tình cảm của tác giả. Cái đáng viết dài thì viết dài, cái đáng viết ngắn thì viết ngắn. Có cái không đáng ba dòng tác giả lại kéo ra tràng giang đại hải
“Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi”
(Những người đàn bà gánh nước sông)
Hay:
“Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được giàn dụa nước mưa sông. “ (Sông Đáy)
Nên nhớ rằng “ Đoản thi tối hảo phá” (Thơ ngắn có sức mạnh vô biên). Ngay phương Tây cũng có nói phải cô níc (viết ngắn).
Bác Hồ cũng đã từng nói: “Bác ít có thi giờ xem văn nghệ, nhưng khi xem thì thấy nó dài dòng, dây cà ra dây muống, hình như người viết cố viết dài ra để lấy nhuận bút. Rồi lại sính dùng chữ nước ngoài. Chữ ta có thì nên dùng chữ ta, chữ ta không có mới mượn chữ nước ngoài – theo “Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt – Sửa đổi lề lối làm việc)
Có nhiều bài viết vừa dài, vừa lập luận thừa thải. Điển hình là bài “Những người đàn bà gánh nước sông” (đã trích dẫn ở trên). Ví dụ câu:
"Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy”. Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy, thì cần gì phải kể đến từng chặng một thời gian như vậy. Kể thế sao cho hết. Nếu kể thế thì phải viết cho đủ: Đã một năm, đã hai năm, đã ba năm… đã và đã, thì đến bao giờ mới kể xong. Viết chỉ ngắn gọn là “nửa đời tôi thấy” thì vừa đầy đủ, vừa chính xác. Còn có những người, họ chỉ sống 50 tuổi , 40 tuổi, 30 tuổi thì sao?
Mỉa mai thay bài này đã được chọn in trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX(!)
Cách nghĩ và cách viết không chính xác, viết lấy được của Nguyễn Quang Thiều còn nhiều nhiều. Như bài “Trong quán rượu rắn”. Người ngồi trong quán rượu rắn, chắc là không uống rượu nên tỉnh bơ, như uống nước chai lave “Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ/ Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng”. Người đọc tưởng tác giả đang đi dạo rừng thu bạch dương ở bên Nga!
“Những con rắn bị thủy táng trong rượu". “Thủy táng” là chôn nước. Táng - nguyên chữ Hán là chôn, vùi đã tương đối Việt hóa. Khi người chết, nhất là người thân, người ta dùng chữ táng cho nhẹ đi, đỡ đau hơn nếu dùng chữ Việt là chôn hoặc vùi. Từ cổ đến nay có nhiều cách táng: thổ táng, hỏa táng, thủy táng, mộc táng, điểu táng, thạch táng, cẩu táng, điện táng… “Những con rắn bị thủy táng trong rượu” – Tức là những con rắn chôn nước trong rượu. Thật ra rượu là nước có nồng độ men cao, cũng như nước biển có nồng độ muối cao mà thồi. Những người đi biển khi chết được đem bỏ xuống biền và nói như cách nói của Nguyễn Quang Thiều: “Những con người bị thủy táng trong biển”. Nó vô lý và buồn cười, đau xót biết bao cho cách lập câu, cách viết như thế này.
Cha ông ta đã có cách nói rất hay khi đem bỏ thảo quả và động vật quý làm thuốc vào rượu và gọi là “ngâm rượu”: táo ngâm rượu, cam ngâm rượu, lê, mận ngâm rượu, bìm bịp ngâm rượu, rắn độc ngâm rượu… Nếu nói cho có hình ảnh mượn chữ Hán thì có thể nói “những con rắn bị đem tửu táng”!
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều rất kém thi pháp (nghệ thuật thơ), lạm dụng nhiều chữ nhiều từ như : khóc, vỹ đại, lạm dụng từ Hán Việt chưa được Việt hóa…
Những con cá thiêng quay mặt khóc
………
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
(Những người đàn bà gánh nước sông – đã dẫn).
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quì xuống vốc cát ấp vào mặt
Tôi khóc.
(Sông Đáy)
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo gọi Nguyễn Quang Thiều là “nhà khóc học” thật không sai!
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
(Trong quán rượu rắn)
Cha ông ta có những phép tu từ rất diệu nghệ, người ta không hề nói đến một chữ khóc mà đời nào nghe cũng rưng rưng:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi!
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn
Hay:
Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả mẹ chín chìu ruột đau!
(Ca dao)
Bạn về chẳng có chi đưa
Có hai lọn nếp mà chưa lặt lòn!…
(Ca dao)
Rồi mùa toóc rạ rơm khô
Bạn về quê bạn biết mô mà tìm
(Ca dao)
Ở đây Nguyễn Quang Thiều và nhiều người viết khác dùng vô thiên lũng chữ “ khóc”, người ta gọi là các “nhà khóc học” mà chẳng làm một ai mủi lòng! Thật là tại hại!
Nguyễn Quang Thiều hay viết về quê hương mình, vùng làng Chùa, sông Đáy là xứ Đoài xưa nhưng không hề thầy bóng dáng “Xứa Đoài mây trắng” ở đâu, không thấy áo lụa Hà Đông ở đâu, không thấy Hà Tây quê lụa ở đâu? Một miền cội nguồn dân ca Bắc Bộ, một miền hát xoan, ghẹobiến mất trong cách viết của Nguyễn Quang Thiều!
Mà Xứ Đoài không chỉ người con của xứ sở ấy máu thịt mà cả dân tộc, thậm chí cả châu Á, châu Âu cũng có trong hồn của họ.
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuy khoắt thổi đêm trăng
(Quang Dũng)
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt nhớ
Bởi vì em mặc áo lụa Đông
( Nguyên Sa)
Bóng chiếc thoi đưa, ánh mắt long lanh, trời đất Hà Tây quê em dệt lụa
Mây trắng Ba Vì…hồn thơ Nguyễn Trãi
(Hà Tây quê lụa – Nhật Lai)
Một lần trò chuyện với nhà văn Trung Quốc Trịnh Bá Nông nguyên Tổng biên tập báo Văn Nghệ Trung Quốc tại Bắc Kinh, ông nói: “Ở việt Nam tôi yêu thích nhất là Ca dao và Quan họ Bắc Ninh”. Trong khi đó các nhà thơ, nhạc sỹ nước mình đi tìm con cáo lông đen (ý của Gam zatop) ở đâu đâu.
Viết ngắn, viết giản dị mới khó. Đông Tây, kim cố gì cha ông cũng đã dạy
Rien n’est plus dificille que d’ecrire ficille - Không có gì khó bằng viết dễ hiểu – Châm ngôn Pháp. "Công phu thâm xứ thi bình dị" - Thơ hay nhất là thơ dễ hiểu – Lục Dụ đời Tống, Trung Quốc.
Điển hình cho sự dài dòng văn tự, tắc tỵ lố bịch, quái dị của Nguyễn Quang Thiều là bài “Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ”.
(Trích)
"Người hướng dẫn : Được dệt thủ công bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
"Người mua : Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm"…
Kịch không ra kịch, đối thoại không ra đối thoại, tế không phải tế, cáo không phải cáo, điếu văn cũng không ra điều văn, kể chuyện học sinh cũng không ra kể chuyện học sinh, nhật ký cũng không phải nhật ký, hát ru bà, hát ru ông cũng không phải… Nó là một thứ ba đầu sáu tay, quái thai văn chương. Thế rồi nó lại còn dung tục: “Một bà già đi tiểu 5 lần nói: “Mẹ đau lắm!”. Trong bệnh viện khoa dưỡng lão, các bác sỹ ghi bệnh án còn sạch sẽ hơn nhiều cái gọi là thơ này!
Thơ hậu hiện đại có thể lược bỏ vần điệu, coi nhẹ vần điệu nhưng ý tứ phải sâu sắc, hình ảnh phải mới lạ, độc đáo, tình cảm phải dạt dào rung động người đọc mới chấp nhận:
Thời gian ơi, xin hãy đừng trôi nữa
Đó là lời khẩn cầu
Của những kẻ đang yêu
Tại sao các vị lại không khẩn cầu ngược lại
Tình yêu hãy ở bên các người mãi mãi
Còn thời gian thì:
Cứ kệ nó trôi đi…
(Thời gian và tình yêu – Ion Milos – Nhà thơ Thụy Điển – Thơ hậu hiện đại – Phạm Viết Đào dịch)
Hay:
Người đẹp
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
(Dân ca Dáy)
Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết- nhìn người đẹp lại không muốn chết nữa
Ơ! Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!
(Lò Ngân Sủn)
hay:
Hôm qua sáu giờ năm mươi phút
Đồng chí Lê nin từ trần
Năm này chứng kiến một lần
Điều bất hạnh trăm năm không thấy nửa
Ngày ngày muôn thuở
Sẽ là truyền thuyết đau thương
Tin kinh hoàng
Sắt thép bất tiếng kêu than
Sóng nức nở trên những người cộng sản
Sức nặng đè ghê gớm
Không lê nổi chân đi
Biết thế nào đây và làm gì nữa!
Nhà hát lớn trôi trên đường phố
Nỗi buồn như một cỗ xe tang
Nỗi vui bò như ốc như sên
Nỗi buồn chạy như điên như dại
Không ánh mặt trời
Không ánh băng sang dọi
Tất cả đã rắc một lớp tuyết đen
Sàng qua báo chí
Tin ập tới
Người công nhân trước máy
Như một chén lệ đổ xuống bàn dụng cụ
Trẻ nhỏ bỗng nghiêm trang như các cụ già
Các cụ già khóc như trẻ nhỏ!...
(Trường ca Vladimia Ilích Lê nin – Maiacop xki – Trần Dần dịch)
Hay:
Sầm phu tử
Đan Khâu sinh
Tương tiến tửu
Bôi mạc đình
Thỉnh quân ca nhất khúc
Vị ngã khuynh nhĩ thinh
Chung cổ soạn ngọc bất túc quý
Đã nguyện trường túy bất nguyện tinh
Cổ lai thánh hiền giai tỉnh mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Tương tiến tửu – Lý Bạch)
Sầm Phu tử
Đan Khâu sinh
Sắp mời rượu
Đừng có sai
Mời anh ca một khúc
Vì tôi nghe mầy bài
Rượu tiệc ngon giữa trống chiêng nào có đáng quý
Không muốn tình cứ say sưa mãi hoài
Xưa nay thánh hiền có ai tên tuổi
Chỉ kẻ uống rượu là lưu danh muôn đời
(Sắp mời rượu – Đỗ Hoàng dịch)
Nói vậy, chứ tiếng Việt lược bỏ hoàn toàn vần điệu rất dễ chuốc lấy thất bại thảm hại. Vì tiếng Việt hoặc tiểng phương Đông là xỉ âm – phát ra từ răng, phần nhiều một âm tiết, không như tiếng các Âu – Mỹ - đa âm tiết, một từ nói đã có tính nhạc trong đó ví dụ như bữa ăn sáng (phiên âm): bờ rét phát, đẹp - bui ti phul (Anh ), đẹp - kờrát xvưi (Nga)…
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và một số nhà thơ, người làm thơ khác cũng có công cố gắng tìm tòi, đấy là điều đáng trân trọng. Nhưng theo quan điểm và cách thưởng thức, thẩm định của tôi thi những gì họ viết ra không phải thi ca, văn chương. Họ hoàn toàn thật bại một trăm phần trăm.
Người viết ra loại Vô lối thật đáng trách, người tung hô, in ấn lăng xê càng đáng trách hơn, tố chức nào đó trao tặng giải thưởng, khuyến khích cổ vũ thì đáng trách vô cùng. Những người này nếu được đề bạt quản lý cầm cương nảy mực nền văn nghệ nước nhà thì văn chương Việt đi đến đâu? Nhãn tiền ấy mọi người đã rõ!
Hà nội ngày 1 – 6 -2012
Đ.H.
PHAN HOÀNG CHO THEO ĐÍT TRÂU 2
Đỗ Hoàng
Ltg: Gần thế kỷ qua, bọn thơ Vô lối hoành hành tác oai, tác quái trên cõi Việt. Chúng là loại thi tặc – giặc thơ – phá hoại thi ca tổ tiên. Từ thằng thủy tổ Thanh Tâm Tuyền , phó thủy tổ Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Hoàng, Trần Hùng, In ra sa ra, Mai Quỳnh Nam, Mã Giang Lân, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Vũ Thuật, Mai Văn Phấn, Tuyết Nga, Văn Cầm Hải, Trúc Thông, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Phan Thị Vàng Anh, Từ Quốc Hoài, Đinh Thị Như Thúy, Đỗ Doãn Phương, Thi Hoàng, Hoàng Hưng… đến đám hậu sinh, đám chíp hôi … tác phẩm của chúng cả nội dung và hình thức không đem đến điều gì mới mẻ cho văn chương mà lại phá hoại văn chương Việt! Phan Hoàng là một tên như thế: giả dối, sáo, sến, viết về mẹ mà cũng đóng kịch, nhạt nhẽo, gượng gạo…đầy chất Tàu ô!
Nguyên bản:
Phan Hoàng
TIẾNG THỞ MẸ NHỌC NHẰN
(Văn nghệ số28 /9/7/2022)
Thẫn thờ đêm tiếng thở mẹ nhọc nhằn
tiếng cánh cò rã rời trăm năm âm thầm mưa nắng
tiếng kết tủa buồn vui đời sông chạm biển về nguồn
Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh
gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức
như con bò đi hoang trở về hít thở mùi chuồng quen thuộc
cúi đầu tạ lỗi nghĩa trọng tình thâm
đêm đêm canh giữ tiếng thở mẹ nhọc nhằn
lòng nặng trĩu ngọn núi tuyết đông suy tư nhức nhói
Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca
đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất
gió rón rén ép mình hơi ấm se thắt sinh thành
nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm
rơi theo tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo
Ước gì ngọn gió ta như mầm non mới cựa mình trong lòng đất
và cơ thể mẹ là ngôi vườn thanh xuân ấm áp tiếng hoang sơ.
BÌNH GIẢNG:
Tôi đã nhiều lần nói: - Đọc đám thơ Vô lối – thi tặc – giặc thơ như đi hội nghị sang trọng mà dẫm phải cứt người! Khó chịu, tởm lợm! Thật ra không nên đọc nhưng vì văn chương, vì thơ nước nhà phải đọc, phải bình bởi bọn thi tặc cầm chịch văn nghệ mậu dịch tác oai, tác quái trên thi đàn nên tôi lại động bút.
Bọn thi tặc chuyên làm “vô lối – ( thơ không vần). Bọn chúng không biết là thơ không vần nhân loại và cha ông ta làm từ thuở khai thiên lập địa. Ngay khi ngồi trên ghế nhà trường các thầy đã nói làm thơ không vần như đi xiếc trên dây, rất dễ thất bại. Trí tuệ lớn, trái tim lớn mới có bài đứng lại, còn bọn “chấu cẩu” (chó) làm sao thành công!
Phan Hoàng là tay trong đám Vô lối – thi tặc – giặc thơ ấy viết loăng quăng, uốn éo, làm bộ, làm tịch, dùng đầy Hán tự… thế mà chúng lăng xê hết lượt này đến lượt khác trên các báo mậu dịch chính thống. Tay này có đi bệnh viện lắp phải trái tim chó hay không sao mà viết như robot?
…“Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh
gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức
như con bò đi hoang trở về hít thở mùi chuồng quen thuộc
cúi đầu tạ lỗi nghĩa trọng tình thâm
đêm đêm canh giữ tiếng thở mẹ nhọc nhằn
lòng nặng trĩu ngọn núi tuyết đông suy tư nhức nhói”…
Đọc khổ này thấy lợm mửa của một thằng kịch hề giả dối!
…“Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh…”
Câu cũ như trái đất, vô bổ, không có chút tình nào,giả vòe, giả vịt…
Câu tiếp lại còn cũ hơn, lại làm bộ làm tịch hơn:
“gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức”
Câu cú nặng nề, lặp đi lặp lại!
Khổ tiếp cũng viết ỏn ẻn, sáo rồng:
…”Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca
đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất
gió rón rén ép mình hơi ấm se thắt sinh thành
nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm
rơi theo tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo…”
Toàn giọng điệu giả dối, không trái tim người!
Đây là bài vô lối làm xiếc chữ về Mẹ, chứ có tình mẫu tử gì đâu!
Thơ viết mề mẹ in chật trái đất, toàn bài hay, chứ có như bài này của Phan Hoàng.
Nông phu thì có:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn”
Hay:
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng mem cơm tấm lưỡi lừa cá xương
Người có chữ:
Du tử ngâm -遊子吟 - Mạnh Giao - 孟郊
遊子吟
慈母手中線, 遊子身上衣;
臨行密密縫, 意恐遲遲歸。
誰言寸草心, 報得三春輝?
Du tử ngâm
Từ mẫu thủ trung tuyến
Du tử thân thượng y
Lâm hành mật mật phùng
Ý khủng trì trì quy
Thùy ngôn thốn thảo tâm
Báo đắc tam xuân huy.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa
Sợi chỉ trong tay mẹ hiền,
Nay đang ở trên áo người đi xa.
Lúc mới lên đường, mẹ khâu kỹ càng,
Có ý sợ con chậm trễ trở về.
Ai dám nói rằng tấm lòng của một tấc cỏ,
Lại có thể báo đáp được ánh nắng của ba xuân?
Đỗ Hoàng dịch thơ:
KHÚC NGÂM CỦA CON ĐI XA
Mẹ hiền khâu sợi chỉ
Trên áo con đi xa
Lên đường mẹ khâu kỹ
Sợ con chậm về nhà
Ai dám một tấc cỏ
Báo đáp ba xuân qua!
Phan Hoàng cũng như bọn giặc thơ đềuTàu hóa, dùng tràn lan âm Hán Việt chưa được Việt hóa! Nhiều bài trước Phan Hoàng đã dùng hàng chục âm Hán Việt, bài này dùng trên 30 chữ (36 chữ). Một thứ Tàu ô!
1, kết tủa -結瑣
2,bôn ba - 奔波
3,phiêu bạt -漂犮
4,hư danh - 虛名
5,độc thoại-獨話
6,ký ức, ký ức记忆
7, thân thuộc 親屬
8,tạ lỗi 謝誄
9, nghĩa trọng 義重
10, tình thâm 情深
11, côn trùng 昆蟲
12, mê mãi 迷買
13,sinh thành 生成
14, dự báo 預報
15,thế gian 世間
16, thanh xuân 青春
17, hoang sơ 荒初
18, đông 冬
19, xuân 春
Bài phê bình trước,tôi đã nói Phan Hoàng nên rèo bò (theo đít trâu) Bài này nhắc lại – chữ nghĩa kiều Phan Hoàng và bọn “thi tặc – giặc thơ” nên cho theo đít trâu suốt đời. Chúng không được bén mảng đến Văn chươngoàng (dân ba xạo) !
Hà Nội tháng 7/2022
Đ - H
Đỗ Trung Lại dịch phá Thơ Đường, Phan Cẩm Thượng nịnh thối Đỗ Trung Lai 3
ĐỖ TRUNG LAI DỊCH PHÁ NÁT ĐƯỜNG THI
PHAN CẨM THƯỢNG NỊNH THỐI ĐỖ TRUNG LAI
Đỗ Hoàng
Một lần tôi gặp nhà nghiên cứu Văn học Lại Nguyên Ân ở cơ quan tôi 65- Nguyễn Du, Hà Nội, tôi nói: - Cả rừng người biết chữ Hán sao lại để Đỗ Trung Lai múa may dịch thơ Đường trên sân Văn Miếu thế tiên sinh?
Anh Ân lắc đầu:
- Mấy ông bộ đội họ làm văn chương trại lính theo kiểu họ, chào thua!
Cũng không phải việc của mình nên tôi cũng chẳng hơi đâu bới lông tìm vết. Nhưng vừa qua đọc nghe nhà sách Giáo dục thông báo Thơ Đường mấy cuốn do Đỗ Trung Lai dịch đã đưa vào nhà trường, lại đọc thấy Phan Cẩm Thượng nịnh thối Đỗ Trung Lai quá đáng đành phải lên tiếng. Tôi đã viết hai bài: “Đỗ Trung Lai đánh trống qua cửa sấm”. “ Đỗ Trung Lại dịch hỏng Đường thi” nhằm phê phán việc Đỗ Trung Lai không biết chữ Hán mà lại đi dịch các thi hào gây tai hại vô cùng cho văn hóa nhân loại!
Trong bài ngắn này chỉ phê phán Phan Cẩm Thượng không hiểu biết thơ Đường lại đi nịnh thối Đỗ Trung Lai làm cho bạn đọc hiểu sai Đường thi.
Phan Cẩm Thượng viết:
“Cách đây hai năm, tôi nhờ Đỗ Trung Lai viết cho những bài bình thơ trên tạp chí Khoa học và Tổ quốc, chọn thơ nào bình ra sao là tùy ông. Dịp tết năm đó ông đã dịch và bình bài Tương tiến tửu của Lý Bạch, và ngay lập tức nhiều người cho rằng đây là bản dịch hào sảng nhất về bài thơ. Ngay ba câu đầu Lý Bạch viết : Quân bất kiến / Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai/Bôn lưu đáo hải bất phục hồi. Ông dịch:
"Anh không thấy
Nước trời rơi mãi
Thành mênh mông một dải Hoàng Hà
Chẩy mau về với biển xa
Có trôi trở lại cùng ta bao giờ…"
Sau đó, ông dịch liền bốn bài Nguyệt hạ độc chước (Uống rượu dưới trăng ) có câu : Sầu cùng thiên vạn đoan / Mỹ tửu tam bách bôi / Sầu đa tửu tuy thiểu / Tửu khuynh sầu bất lai. Được dịch là: Sầu thì ngàn vạn mối/ Rượu ba trăm chén thôi / Sầu nhiều rượu lại ít / Uống vào sầu tạm lui.
Như vậy Đỗ Trung Lại vừa nắm được cái khẩu khí của nguyên tác, lại mạnh dạn đưa vào trong bản dịch cái cảm hứng thi ca của chính mình”
Xin thưa với đồng chí Phan Cẩm Thượng nguyên tác thế này:
君不見:
黃河之水天上來,
奔流到海不復回?
Quân bất kiến:
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Nghĩa là:
Anh không thấy:
Nước sông Hoàng Hà chảy từ trên trời xuống
Cuồn cuộn tuôn ra biển không quay trở về”
Nhiều người đều dịch thơ đúng nghĩa:
“Há chẳng thấy:
Nước sông Hoàng từ trời tuôn xuống
Chảy nhanh ra biển, chẳng quay về, “
(Hoàng Tạo và Tương Như)
“Bác chẳng thấy
Sông Hoàng từ trời nước đổ xuôi
Một mạch xuống biển không hề lui? “
(Khương Hữu Dụng)
“Thấy chăng anh
Nước Hoàng Hà từ trời tuôn xuống
Chảy băng ra biển chẳng quay về. “
(Ngô Văn Phú)
“Kìa anh
Trời đổ sông Hoàng
Nước tuôn ra biển không đường trở lui”
(Đỗ Hoàng)
“Thấy chăng ai
Nước sông Hoàng từ trên trời đỏ xuống
Cuồn cuộn ra biển không trở về”
(Hữu Loan)
Nhà thơ nào cũng dịch đúng thơ, đúng nghĩa, riêng Đỗ Trung Lai phịa ra “ Nước trời rơi mãi”. Không biết nước trời rơi mãi ở đâu ra? Trong nguyên bản không có. Nếu có thì phải “Thiên thủy cửu lưu”. Bịa ra một câu sai nguyên bản như thế gây tác hại không nhỏ cho người đọc. Rồi Đỗ Trung Lai lại tiếp: “Thành mênh mông một dải Hoàng Hà” là một kiểu dịch bịa , ba láp, loại tam thiên chí đế! Sao là mênh mông một dải Hoàng Hà được. Dù hình tượng hóa đến đâu,thì sông Hoàng không thể thành mênh mông một dải như Thiên Hà. Rồi Đỗ Trung Lai lại phịa tiếp: “Có trôi trở lại cùng ta bao giờ?” Thật là ngô nghê, không nói là dốt nát! “Nguyên bản “ bôn lưu đáo hải bất phục hồi” (Cuộn cuộn chảy về biển không trở lại). “Trở lại cùng ta bao giờ” là vẽ rắn thêm chân”. Đỗ Trung Lai hay vẽ rắn thêm chân khi dịch.
Thơ Lý Bạch là thơ hiện đại, như dòng chảy sông Hoàng, Đỗ Trung Lai dịch ra lục bát nên phải vần vè, Đã đưa ra chữ “mãi” thì phải tìm chữ “dãi”, như:
“Bọn ruồi là giống hiểm nguy
Vì chân của nó rất vi trùng nhiều”
Chung quy là chả biết chữ Hán, căn cứ vào bản dịch nghĩa, có bài không có dịch nghĩa thì dịch lung tung!
Lý Bạch có 4 bài “ Nguyệt hạ độc chước” (Uống rượu dười trăng
). Bài nào cũng tuyệt tác. Kỳ tư (bài 4) có bốn câu mở đầu rất hay.
窮愁千萬端,
美酒三百杯。
愁多酒雖少,
酒傾愁不來
“Cùng sầu thiên vạn đoan,
Mỹ tửu bách tam bôi.
Sầu đa tửu tuy thiểu,
Tửu khuynh sầu bất lai. …”
Nghĩa là: “
Sầu tận cùng đến nghìn vạn mối. Mà rượu ngon chí có ba trăm chén. Sầu quá nhiều mà rượu quá ít. Đã say đổ thì sầu không còn đến nữa.”
Các nhà văn nhà thơ cổ kim đã dịch rất hay tuy không bằng nguyên bản. Đỗ Trung Lai cóp lại của tiền nhân mà cóp rất dở, thêm thắt lung tung cho có vần điệu nên càng dở hơn!
Bản dịch của Khái Hưng:
“Sầu lớn nghìn muôn mối
Ba trăm chén rượu ngon !
Sầu nhiều, rượu tuy ít
Rượu nghiêng sầu phải bon. “…
(Trên đường xe chạy bon bon
Niềm vui được lúa hạt tròn hạt vuông)
(Bút Tre)
Bản dịch Trần Trọng San:
“Sầu cùng ba vạn mối,
Rượu ngon ba trăm bôi.
Sầu nhiều rượu tuy ít,
Uống rượu cho sầu lui. “…
Bản Đỗ Trung Lai:
Sầu thì ngàn vạn mối
Rượu ba trăm chén thôi.
Sầu nhiều rượu lại ít
Uống vào sầu tạm lui!...
Tuy không bằng nguyên bản nhưng bản dịch của Khái Hưng và Trần Trọng San đều đạt được thần thơ và ý tứ. Bản dịch Đỗ Trung Lai, Phan Cẩm Thượng bốc thơm là cóp của tiền nhân rồi chế biến ra của mình nên nó vừa dở vừa thối, vừa thêm thắt chữ vô lối như chữ “thì” , chữ “thôi” cho có hiệp vần lại sai nghĩa nguyên bản, lại nhiều chữ Hán chưa Việt hóa mà các bản dịch trước không phạm phải! Ví dụ: Bản Khái Hưng không dùng chữ Hán “thiên, vạn” mà dùng “nghìn muôn”. Rồi lại dịch sai nghĩa “ Tửu khuynh sầu bất lai” (Say đổ sầu không đến nữa) chứ không phải “ Sầu tạm lui”. Sầu không đến nữa mới thần thi!
Tóm lại Đỗ Trung Lai không biết chữ Hán nên dịch bậy bạ, Phan Cẩm Thượng chẳng biết anh nào, chắc không biết Đường thi nên khen bừa, khen ẩu vô cùng nguy hại cho nhân quần! Các ông đừng nịnh thối nhau nữa!
Nhục nhã thay!
Hà Nội 12 – 9 – 2016
Đ – H
MỘT BÀI THƠ ,,VÔ LỐI,, TÀ DÂM, BỆNH HOẠN - GIẢI THƯỞNG HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM NĂM 1993 4
CẤU HỎI CUỐI NGÀY
Dịch Vô lối - Thi tặc Nguyễn Quang Thiều (tiếp)
Thứ bảy - 16/01/2021 06:25
Khi tập “ Sự mất ngủ của lửa” được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng, ngay năm1993, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết “ Nguyễn Quang Thiều tự dịch thơ mình ra tiếng Việt” và phong cho ông nhà “ Khóc Học” . Tôi nghĩ rất đúng mà chưa hết. Nguyễn Quang Thiều có du học học ngành Công an chuyên nghiệp, nhưng Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt. Tập “Sự mất ngủ của lửa” đầy hàng chục chữ khóc, riêng bài này đã hơn bốn chữ gần khóc: tôi nấc lên, tôi sặc khói, tôi sẽ ngủ, tôi nhói lên…
Dịch Vô lối Nguyễn Quang Thiều (tiếp)
CÂU HỎI CUỐI NGÀY
Nguyễn Quang Thiều
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày
Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên
Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào
Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.
Quán Sứ - Hà Đông, 1991
BÌNH GIẢNG
Câu mở đầu không có gì gọi là câu thơ. Một câu nói đơn sơ như các ông, các bà quét rác ở các công ty Vệ sinh môi trường, sau ngày làm mệt nhọc vẫn thường nói. Mà nói hay hơn, thơ hơn:
“Ngày dài mưa nắng trên đường
Mong về có đọi cơm thương ở nhà”.
Tiếp theo 5 câu sau có tới 31 từ mà lại là 5 câu rất vô nghĩa, vô bổ không nói lên được điều gì:
“Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên”
Trong khi tiền nhân chỉ 20 từ đã làm nên thi phẩm bất hủ muôn đời!
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Lưu Vũ Tích
飲酒看牡丹
劉禹錫)
飲酒看牡丹
今日花前飲,
甘心醉數杯。
但愁花有語,
不為老人開。
Lưu Vũ Tích
Ẩm tửu khán mẫu đơn
Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm tuý sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ:
Bất vị lão nhân khai.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Trước hoa giờ được uống
Mấy chén ngất ngư say
Sợ rằng hoa sẽ nói:
Không nở cho già này!
Cao điểm chốt 176 –
Biên giới Việt Lào 1972
Tiếp đến 6 câu sau là những câu có ý nghĩ dục tình rất bậy bạ, ý nghĩ khiên cưỡng mang tính hiếp dâm cao:
“Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào”
Những người con gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua có sao đâu. Họ làm đẹp cho phố phường đường làng có cuộc đời khởi sắc mà ông bà váy cồng lộn ngược, mò cua bắt ốc không có đôi dép mo cau mà đi thì sao? Tại sao lại nói “Như dao sắc phất vào tôi tứa máu”? Một câu khẩu phàm, hàm hồ, hàm chứa, căm giận cái đẹp còn hơn phát xít Hitle bắn đại bác vào Viện Bảo tàng nghệ thuật Paris (Pháp) những năm 1940 – 1942. Người ta cưỡi xe máy, một nét đẹp của con gái Việt Nam thời đổi mới nghìn đời mới có, sao mình lại có cái nhìn thù hận như vậy?
Bên châu Âu như bà Angela Dorothea Merkel, thủ tướng Đức mặc váy cởi xe máy phóng qua anh cũng tứa máu như dao sắc phất vào người chăng?
Đúng là điên rồ!
Cha ông nói:
“Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc áo hở lườn mới xinh!”
Bây giờ người đẹp mới mặc váy cưỡi xe máy phóng qua mà mình đã hồng hộc sôi máu lên như đỉa phải vôi? Anh lại còn “ nấc “ lên như bị nghẹn. Việc chi mà anh ghen tức lồng lộn với cái đẹp như thế? Cái đẹp vĩnh cửu của thời đổi mới nước ta có phương hại gì đến thẫm mỹ, đến thuần phong mỹ tục gì đâu?
Người đẹp mặc thế là quá kín đáo, bây giờ chúng nó còn mặc quần đùi lên tận bẹn cởi xe máy nữa đấy. Chỉ những đám vua quan dâm dục vô độ “ Nhất dạ lục giao hoan, sinh ngũ tử” nhưng lại căm thù cái đẹp:
“Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng”
(Ca dao)
Chưa hết, anh còn đặt ra ảo tưởng rất bậy bạ, của đám cái bang, homeless people, vô lương tri:
“Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào “
Rằng anh làm sao lấy họ được. Anh Vua chúa sao mà lấy họ dễ dàng như thế. Anh không phải Đặng Mậu Lân em gái Đặng Thị Huệ khênh giường đi giữa Thăng Long thấy gái đẹp là kéo lên làm tình, cũng không phải Beria (Nga) có xe đặc chúng đóng giường chiếu riêng để đi trên phố hễ thấy nữ sinh viên là kéo lên giao hợp… Đến như vua Napoleon cũng phải lấy mạ giòng (đàn bà có con riêng), thứ gì anh thấy người đẹp mặc váy cưỡi xe máy đi trên phố thoáng qua mà đã đòi làm tình! Anh có nứng cặc thì anh chạy vào gốc cây thủ dâm cho nó hạ hỏa, chứ làm sao tiếp cận với người ta!
Anh còn chưa biết, biết đâu trong đám đàn bà, cả đẹp cả xấu đó là tình báo viên, đặc tình, đặc vụ của Công an cài cắm, mà ngành anh theo học. Anh bờm xơm họ sẽ cho một lưỡi dao găm thì anh đi đời, không họ sẽ điện đàm trực tuyến đến bộ phận tham mưu cho anh vào Hỏa Lò! Anh có dám không?
Tiếp đến là đoạn kể như học sinh lớp 2 Hà Nội thời miền Bắc hòa bình mới lặp lại tả cảnh các bà, các cô buôn vịt, buôn cá khô, buôn nước mắm đi trên tàu điện:
“Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia”
Rồi anh lại lần nữa nổi máu Sở Khanh không phải lối:
“Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.”
Thật là một ý nghĩ tà dâm rất bậy bạ!
Đến như Nguyễn Du chỉ mới nói, dù tên Mã Giám Sinh vô cùng mất dạy, bất lương, không còn luân thường đạo lý:
“Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến duyên”
Đó là đã có ba trăm lạng vàng nhé. Còn anh bô xu dính tíu sao anh có ý nghĩ hoang dâm vô độ ấy được?
Khi tập “ Sự mất ngủ của lửa” được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng, ngay năm1993, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết “ Nguyễn Quang Thiều tự dịch thơ mình ra tiếng Việt” và phong cho ông nhà “ Khóc Học” . Tôi nghĩ rất đúng mà chưa hết. Nguyễn Quang Thiều có du học học ngành Công an chuyên nghiệp, nhưng Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt. Tập “Sự mất ngủ của lửa” đầy hàng chục chữ khóc, riêng bài này đã hơn bốn chữ gần khóc: tôi nấc lên, tôi sặc khói, tôi sẽ ngủ, tôi nhói lên…
Người ta chẳng thấy nấc, sặc, nhói, ngủ… như thế nào!
Nói chung Nguyễn Quang Thiều Thiều không biết làm thơ tiếng Việt, viết rất kém, dẫu sau này anh có sáng tác lục bát “ Dâng trà”, “Con đường”…
Hội Nhà Văn Việt Việt Nam thời ấy (1993) tặng giải thướng cho Nguyễn Quang Thiều là có tội với nhân dân, với lịch sử!
Hà Nội 14 – 12 – 2017
Đ - H
ĐỖ HOÀNG
DỊCH RA THƠ VIỆT:
CẢM MẾN CUỐI NGÀY!
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi những chuyến xe sắp sửa tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi rệu nhất
Và buồn nhất trong khoảng lặng về đêm!
Cũng phía bên kia con đường tôi đợi
Những chiếc lá mà tôi không biết tên
Những chiếc lá rụng rơi đầy bụi
Cơn mưa vàng chiều thắm dâng lên!
Trong cơn mơ huyền buồn và đói
Bao người xinh sành điệu tay ga
Như ánh chớp như là câu hỏi
Như ánh sao, ngà ngọc chói lòa!
Và chuyến xe tan tầm đã đến
Cả cuộc đời sống động ào vô
Bao thân phận lủi lầm sương nắng
Cho lòng tôi cảm mến vô bờ!
Hà Nội 14 – 12 – 2017
Đ - H
(*) Trich trong “Sự mất ngủ của lửa” – NXB Lao động 1992

DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT- DỊCH NGUYỄN QUANG THIỀU

 Người mua, mua lại từ một ông già. Quà tặng của con trai

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập5
  • Hôm nay44
  • Tháng hiện tại1,310
  • Tổng lượt truy cập833,543
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi