Thơ Đỗ hoàng sánh với Tào Tùng

Thơ Đỗ hoàng sánh với Tào Tùng

SÁNH VỚI TÀO TÙNG - ĐỜI ĐƯỜNG
TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH
VÔ ĐỀ
Lính ở bên kia mấy tiểu đoàn?
Vô nhiều đứng chật cả đường quan,
Ngày mai không biết nơi nào đánh?
Nhất định có người phải chết oan!

Xem tiếp...

Mid-page advertisement

Đạo đức kinh

  •   04/08/2025 10:53
  •   4
  •   0
CHƯƠNG 9
VẬN DI
運 夷
Hán văn:
持 而 盈 之, 不 如 其 已. 揣 而 銳 之, 不 可 長 保. 金 玉 滿 堂, 莫 之 能 守. 富 貴 而 驕, 自 遺 其 咎. 功 成 名 遂, 身 退, 天 之 道.
Phiên âm:
1. Trì nhi doanh chi bất như kỳ dĩ.
2. Sủy nhi nhuệ chi bất khả trường bảo.
3. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ.
4. Phú quí nhi kiêu, tự di kỳ cữu.
5. Công thành, danh toại, thân thiên chi đạo.
Dịch nghĩa:
1. Giữ mà làm cho đầy mãi, không bằng dừng lại.
2. Mài cho nhọn, cho sắc không giữ được lâu.
3. Vàng ngọc đầy nhà, chẳng thể giữ được.
4. Giàu sang mà kiêu căng, sẽ tự vời tai họa.
5. Thành công, thành danh rồi thời nên lui thân, ấy là đạo Trời.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Làm đầy mãi , không bằng dừng lai
Nhọn săc sao giữ mãi đươc lâu
Cũng như vàng ngọc, nhà lầu
Kiêu căng tất sụp bùn sâu ai ngờ
Thành công rồi nên nên ngơ với ngác
Thành công rồi an lạc đạo Trời!
Thành danh nên biết nghỉ ngơi
Dễ thành bâc thánh trên đời không ngoa.

Thơ Đỗ hoàng sánh với Tào Tùng

  •   06/08/2025 09:51
  •   2
  •   0
SÁNH VỚI TÀO TÙNG - ĐỜI ĐƯỜNG
TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH
VÔ ĐỀ
Lính ở bên kia mấy tiểu đoàn?
Vô nhiều đứng chật cả đường quan,
Ngày mai không biết nơi nào đánh?
Nhất định có người phải chết oan!

Tào Tùng

  •   06/08/2025 09:47
  •   2
  •   0
Kỷ Hợi tuế nghĩa là năm Kỷ Hợi. Năm Kỷ Hợi nói trong bài thơ của Tào Tùng là năm dương lịch 879, thời vua Hy Tông nhà Đường. Lúc nầy nhà Đường bên Tàu xảy ra loạn Hoàng Sào. Còn ở Việt Nam, theo Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ thì đây cũng là thời điểm mà Hào trưởng vùng Chu Diên (Hải Dương bây giờ) là Khúc Thừa Dụ, ông đã cùng dân chúng nổi dậy, chiếm giữ thành Đại La, thủ phủ của Tỉnh Hải Quận (tên gọi đất Việt thời Đường Hy Tông). Năm 880 Khúc Thừa Dụ tự xưng làm Tiết độ sứ Tỉnh Hải Quận, đặt nền móng cho việc kết thúc ngàn năm Bắc thuộc, thoát khỏi ách đô hộ của Trung Hoa.

Tào Tùng 曹松 người An Huy nhà Đường. Bài thơ Kỷ Hợi Tuế của ông như sau :

己亥歲(僖宗廣明元年)

澤國江山入戰圖,
生民何計樂樵蘇。
憑君莫話封侯事,
一將功成萬骨枯。


KỶ HỢI TUẾ
(Hy Tông - Quảng Minh nguyên niên)

Trạch quốc giang sơn nhập chiến đồ
Sinh dân hà kế lạc tiều tô
Bằng quân mạc thoại phong hầu sự
Nhất tướng công thành vạn cốt khô

Do bài thơ được viết vào năm Quảng Minh nguyên niên (năm 880), nên có một vài từ mang ngữ nghĩa cổ :

- “Trạch quốc” nghĩa là Vùng sông nước. Ngày xưa gọi, chỉ vùng đất Giang Nam (phía Nam sông Trường giang).

- “Tiều tô” nghĩa là Mót củi, Cắt cỏ. Theo liệt truyện Hoài Âm Hầu trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, có câu Tiều tô hậu thoán, sư bất túc bão (Mót củi cắt cỏ mà nấu ăn, quân lính không đủ no).

Tạm dịch nghĩa bài thơ :

NĂM KỶ HỢI
(Hy Tông, niên hiệu Quảng Minh năm thứ nhất)

Non nước Giang Nam đã rơi vào chiến loạn
Kế sinh nhai của dân đâu còn cảnh vui thú nhặt củi hái rau
Xin đừng nói chi chuyện phong hầu, thăng quan tiến chức
Một tướng được đề danh, trong khi đó ngoài chiến trường phơi vạn ngàn xương trắng

Nhà Đường bên Tàu do Đường Cao Tổ - Lý Uyên kiến lập vào năm 618. Đến năm 907 thì chấm dứt triều đại, khi mà các thế lực địa phương nhân loạn lạc đã không tuân phục triều đình, đã cát cứ địa phương mình, hình thành nên giai đoạn 5 triều đại, 10 nước (Ngũ đại Thập quốc) từ năm 907 đến 979 trong sử Trung Hoa.

Nhà Đường là triều đại cực thịnh về mọi mặt, nhưng cũng là triều đại hết đem binh tảo Bắc, chinh Đông, rồi lại chinh Tây. Loạn lạc trong nước cũng luôn xảy ra. Đời Đường Huyền Tông xảy ra loạn An Lộc Sơn, kéo dài từ năm 755 đến 763. Chiến trận ác liệt đã khiến vua cũng phải rời kinh đô, đem Dương Quý Phi chạy vào đất Thục lánh nạn. Người dân sống giữa binh đao, đầy cơ cực. Trong khi đó quyền thần, ngoại thích như Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung… đấu đá nhau, tạo nên các phe phái trong triều chỉ nhằm giành giật tư lợi, quyền lực, cầm quyền mà không vì quốc thái dân an. Thành thử người dân hiếm được có thời gian an lành, ngơi nghỉ. Ước mơ vui sống chỉ bằng việc mót củi, hái rau của họ thật nhỏ nhoi, nhưng cũng quả thật là to lớn.

Năm 875, trước áp chế của triều đình giành độc quyền bán muối, thương nhân bán muối người Sơn Đông là Hoàng Sào đã tập hợp người dân nổi dậy, thực hiện khí chất vốn có của ông :

Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng
Nhất trạo giang hồ tận địa duy

Nửa vai cung kiếm tung hoành trời đất / Một mái chèo đi khắp cả sông hồ. Cụ Nguyễn Du của ta đã mượn tứ nầy mà thảo nên câu thơ “Giang hồ quen thói vẫy vùng / Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” trong truyện Kiều.

Năm 879, binh Hoàng Sào tiến công Quảng Châu. Đây là bối cảnh ra đời bài thơ Kỷ Hợi Tuế của Tào Tùng.

Bài thơ đã nói lên mơ ước sống yên lành, nhỏ nhoi của người dân trong xã hội vốn đã cơ cực. Nhưng người dân cũng đã nhận chân ra khi lâm cảnh binh đao, họ là người trước tiên đứng trước đầu đạn mũi tên. Chiến đấu cho thế lực nào, đứng về phía triều đình, hay đứng về phía quân nổi dậy, họ cũng chỉ là người phải đụt pháo, xông tên. Đã từng quen với loạn lạc, binh đao, họ rõ rằng thế lực nào khi kết thúc cuộc chiến đều cũng chăm chăm những việc lo cho tư lợi, quyền lực của họ. “Bằng quân mạc thoại phong hầu sự”. Đã hiểu được thân phận của dân đen, của những kẻ khốn cùng, đã thấu hiểu sự đời, xin đừng nói là chiến đấu, lăn xả trước hàng quân để hòng được thăng quan tiến chức, nhận tước phong hầu.

Nếu được phong quan phong tướng, thì trước những khốc liệt của binh đao, ngồn ngộn mối cảm xúc trước hình ảnh những đồng đội phải nằm xuống, với cái nhìn nhân bản về cuộc sống… phải rõ rằng chức quan, hàm tướng nầy có được, chỉ một kẻ được nên danh, trong khi đó ngoài chiến trường hàng vạn ngàn xương trắng phơi khô. “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” là tiếng kêu thảng thốt của người Giang Nam vào năm Kỷ Hợi 879 trước loạn Hoàng Sào.

Cũng những tháng năm nầy, Khúc Thừa Dụ ở Giao Châu ta cũng làm cuộc binh biến giành quyền tự chủ cho đất nước. Văn thơ, sách sử của ta truyền lại không cho thấy tâm tình của dân tộc trước sự kiện đặt nền móng giành độc lập đó. Năm nhà Minh đánh chiếm Việt Nam, đền đài, sách vở… của người Việt đều bị phá hủy, đốt sạch, hoặc thu mang về Tàu, đã làm phai mờ dấu tích văn hóa của Việt Nam..

Bây giờ chỉ còn biết dựa vào chi tiết năm 906, vua nhà Đường phải chính thức công nhận, phong cho Khúc Thừa Dụ làm Tỉnh Hải Quận Tiết độ sứ. Điều nầy cho phép ta hình dung ra được nỗi vui mừng của người dân trước sự kiện người Việt ta làm chủ lấy ta. Và cũng hình dung ra được với tâm tình vốn cùng tộc Bách Việt với người Giang Nam, người Việt cũng có thể đã có chung cái nhìn “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” trong bài thơ Năm Kỷ Hợi của Tào Tùng. Cái nhìn nhân bản đối với sinh linh trước khói lửa binh đao.

Hung trạch -

  •   02/08/2025 14:50
  •   4
  •   0
HUNG TRẠCH – Bạch Cư Dị
凶宅
長安多大宅,
列在街西東。
往往朱門內,
房廊相對空。
梟鳴松桂樹,
狐藏蘭菊叢。
蒼苔黃葉地,
日暮多旋風。
前主為將相,
得罪竄巴庸。
後主為公卿,
寢疾歿其中。
連延四五主,
殃禍繼相鐘。
自從十年來,
不利主人翁。
風雨壞檐隙,
蛇鼠穿牆墉。
人疑不敢買,
日毀土木功。
嗟嗟俗人心,
甚矣其愚蒙。
但恐災將至,
不思禍所從。
我今題此詩,
欲悟迷者胸。
凡為大官人,
年祿多高崇。
權重持難久,
位高勢易窮。
驕者物之盈,
老者數之終。
四者如寇盜,
日夜來相攻。
假使居吉土,
孰能保其躬。
因小以明大,
借家可喻邦。
周秦宅崤函,
其宅非不同。
一興八百年,
一死望夷宮。
寄語家與國,
人凶非宅凶。
Bạch Cư Dị
Hung trạch
Trường An đa đại trạch,
Liệt tại nhai tây đông.
Vãng vãng chu môn nội,
Phòng lang tương đối không.
Kiêu minh tùng quế thụ,
Hồ tàng lan cúc tùng.
Thương đài hoàng diệp địa,
Nhật mộ đa tuyền phong.
Tiền chủ vi tương tướng,
Đắc tội thoán Ba Dung.
Hậu chủ vi công khanh,
Tẩm tật một kỳ trung.
Liên diên tứ ngũ chủ,
Ương hoạ kế tương chung.
Tự tòng thập niên lai,
Bất lợi chủ nhân ông.
Phong vũ hoại thiềm khích,
Xà thử xuyên tường dung.
Nhân nghi bất cảm mãi,
Nhật huỷ thổ mộc công.
Ta ta tục nhân tâm,
Thậm hỹ kỳ ngu mông.
Đãn khủng tai tương chí,
Bất tư hoạ sở tòng.
Ngã kim đề thử thi,
Dục ngộ mê giả hung.
Phàm vi đại quan nhân,
Niên lộc đa cao sùng.
Quyền trọng trì nan cửu,
Vị cao thế dị cùng.
Kiêu giả vật chi doanh,
Lão giả số chi chung.
Tứ giả như khấu đạo,
Nhật dạ lai tương công.
Giả sử cư cát thổ,
Thục năng bảo kỳ cung?
Nhân tiểu dĩ minh đại,
Tá gia khả dụ bang.
Chu, Tần trạch Hào, Hàm,
Kỳ trạch phi bất đồng.
Nhất hưng bát bách niên,
Nhất tử Vọng Di cung.
Ký ngữ gia dữ quốc,
Nhân hung phi trạch hung.

Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
NHÀ DỮ
Trường An nhiều nhà lớn
Từng dãy thẳng, đứng hai bên đường
Thường thường bên trong cửa son
Có nhiều phòng đối nhau mà bỏ không
Cú kêu trong cây tùng, cây quế
Cáo ẩn nơi khóm cúc, khóm lan
Mặt đất đầy rêu xanh, lá vàng rải rác
Mỗi buổi chiều tà từng cơn gió lốc thổi
Chủ trước làm quan tướng
Phải tội đày đi Ba Dung
Chủ sau là bậc khanh tướng
Ốm lâu rồi cũng chết
Liền liền đến bốn năm chủ
Tai vạ liên tiếp dập dồn
Đã từ mười năm lại đây
Ngôi nhà này không hợp chủ!
Mưa gió làm hỏng hết mái hiên, khe cửa
Chuột rắn đục khoét kẽ ngặt, chân tường
Người ta sợ, chẳng ai dám mua
Gạch, gỗ, ngày một hư hỏng
Than ôi! Bụng dạ người đời
Sao mà ngu muội quá!
Chỉ sợ tai vạ sẽ đến
Không nghĩ xem nguồn cơn từ đâu mà ra
Nay ta viết bài thơ này
Muốn thức tỉnh những người u mê trong bụng
Phàm đã làm đến quan lớn
Tuổi đã cao mà bổng nhiều lắm
Quyền đã to thì khó giữ được lâu
Ngôi đã cao thì thế dễ cùng
Kiêu căng, theo lẽ của sự vật, tất sẽ sụp đổ
Già là lúc số mệnh sắp hết
Bốn điều ấy như trộm cướp
Ngày đêm xúm lại tiến công
Ví bằng có được ở chỗ đất lành
Dễ ai đã giữ được toàn thân?
Suy việc nhỏ để rõ việc lớn
Mượn việc nhà để ví việc nước:
Nhà Chu, nhà Tần cùng đóng đô ở Hào, Hàm cả
Chỗ ở không phải không giống nhau
Vậy mà một đằng thì hưng thịnh đến tám trăm năm
Một đằng thì hết đời ở cung Vọng Di
Nhắn nhủ những ai có nhà, có nước
Chỉ có người dữ, chứ không có nhà dữ!
Đỗ Hoàng dịch thơ:
NHÀ DỮ
Trường An nhiều nhà lớn
San sát khắp tây, đông
Nhiều cửa son lở lói
Lắm hiên phòng bỏ không.
Cú kêu trong gốc quế
Cáo ẩn nơi khóm tùng.
Đất rêu xanh, lá đổ
Chiều chiều gió giật rung!
Chủ trước là khanh tướng
Phả tội đày Ba Dung
Chủ sau bậc quyền quý
Đến già cũng tử vong.
Tiếp liền năm sáu chủ
Tai họa cứ dập dồn!
Mười năm nay trở lại
Nhà dữ có ai ưng!
Cửa hiên mưa gió hỏng
Tường, ngách chuột rắn lùng
Chăng ai tìm thuê nữa
Nhà càng mục nát hơn!
Ôi! Người ơi, bụng dạ!
Ngu muội đến thế cùng.
Cứ sợ tai vạ đên
Không nghĩ kỹ nguồn cơn.
Ta làm vần thơ tỏ
Nhắc ai kẻ mê lòng!
Đã phàm là quan lớn
Tuỏi cao, bổng lộc tràn
Quyền to khó giữ được
Ngôi cao thế dễ cùng!
Kiêu căng tất sụp đổ
Già, tài mệnh long đong
Tai ương như trộm cướp
Đêm ngày đến tấn công
Ví bằng nơi đất tốt
Thân đâu dễ bảo toàn
Suy nhỏ ra viêc lớn
Chuyện riêng để nói chung
Chu, Tần đất Hàm ỏ
Đều là nơi đế vương
Người nghìn năm hưng thịnh
Kẻ một sớm không còn
Nhắc làng rồi nhắn nước
Người dữ chứ nhà không!
Dịch trước khi nhập ngũ lần một tháng 6 năm 1966. Sau hai anh em bị thải về vì ly lịch xấu (bố đi lính Pháp). Sửa chưã trên cao điểm chốt 280, biên giới Việt – Lào năm 1973
Đ - H

TÂM TÌNH VỚI CÁC NHÀ THƠ TRẺ

Tam tinh voi cacs nha tho tre, tacs gia Do Hoang muon nhacs nhow nguoi lam tho   

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập10
  • Hôm nay855
  • Tháng hiện tại8,394
  • Tổng lượt truy cập170,116
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi