Thơ Lục Du

Thơ Lục Du

ĐỖ HOÀNG
GỬI VỀ ĐỒNG TÂM CHIA SẺ NỖI ĐAU QUÂN DÂN
陸遊
Lục Du 陸遊 (1125-1209) tự Vụ Quan 務観, hiệu Phóng Ông 放翁, người Sơn Âm, Việt Châu (nay thuộc Nhạn Môn Đạo, tỉnh Sơn Tây), thời Nam Tống ông đã làm quan Tri châu, Tri phủ, còn làm quan Quốc sử biên tu, ông là một vị thi nhân ái quốc. Sống vào thời kỳ hai hai triều Tống Kim đánh nhau, Lục Du trở thành một người rất trăn trở vì mất nước. Khi đó người Nữ Chân (vương triều Kim) đã đánh chiếm xuống phía nam, đất nước chia năm xẻ bảy, dân tình ly tán loạn lạc. Ông đã từng vào đất Nam Trịnh (Tứ Xuyên hiện nay) theo phong trào chống Kim, đã từng mặc giáp cưỡi ngựa vượt qua sông Vị cùng những toán kỵ mã yêu nước, ban đêm đột kích quân Kim nhiều lần. Ông có Kiếm nam từ chuyên tập lưu truyền đến nay.

春日雜興
夜夜燃薪煖絮衾,
禺中一飯值千金。
身為野老已無責,
路有流民終動心。

XUÂN NHẬT TẠP HỨNG
Dạ dạ nhiên tân noãn nhứ khâm,
Ngung trung nhất phạn trị thiên câm (kim)!
Thân vi dã lão dĩ vô trách,
Lộ hữu lưu dân, chung động tâm!

Dịch nghĩa:
CẢM HỨNG VẶT NGÀY XUÂN
Đêm đêm đốt củi sưởi ấm chiếc mền bông,
Bữa cơm non trưa đáng giá nghìn vàng!
Đã làm ông lão nhà quê, thân mình không còn trách nhiệm gì nữa,
Nhưng thấy ngoài đường có dân liếu xiêu, lòng ta vẫn thổn thức.

Dịch thơ:

CẢM HỨNG LẶT VẶT TRONG NGÀY XUÂN
Đêm đêm đốt củi sưởi mền bông
Một bữa cơm trưa vạn lạng ròng
Ông lão nhà quê không việc xóm
Thấy dân tan nát quá đau lòng.

Đỗ Hoàng dịch năm 1972, cao điềm chốt 280, biên giới Việt - Lào

Xem tiếp...

Mid-page advertisement

Kẻ tàn bạo

  •   12/07/2025 15:05
  •   2
  •   0
Học đạo đức nó làm gì?
Do Hoang
HỌC ĐẠO ĐỨC NÓ LÀM GÌ?
Những kẻ ác nhất trần gian
Hoc đạo đức nó để tan địa cầu!
Ha Noi 26 - 9- 2016
D - H
1- Thien Vu
2- Hitle
10 người độc ác và tàn bạo nhất lịch sử nhân loại
Trong lịch sử loài người, có rất nhiều những kẻ tàn bạo, đáng sợ. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi sẽ đưa ra một danh sách tổng hợp những người đàn ông ác nhất trong lịch sử. Ác ở đây không chỉ bao gồm việc tàn sát mà còn dựa trên những tác động xấu, sự tàn bạo mà họ đã gây ra cho cả xã hội. Sẽ có những ý kiến trái chiều vì những nhân vật này hoàn toàn cũng có đóng góp của họ. Nhưng về mặt khách quan, họ đã gây ra những hậu quả xấu trên quy mô lớn.
10. Thiền vu Hung Nô Attila
[​IMG]​
Cái tên đầu tiên trong danh sách đến từ xứ sở Hung Nô hoang dại. Attila hay còn được người châu Âu là Attila Rợ Hung, mang biệt hiệu "Ngọn roi của Thượng đế" hoặc "tai họa của trời", là Thiền Vu của Đế quốc Hung Nô từ năm 434 đến năm 453. Đối với Hung Nô thì ông là một người niềm tự hào, ông đã lãnh đại đế chế Hunnic trải dài từ Đức đến sông Ural và sông Danube tới biển Baltic. Nhưng với nền văn minh Tây Âu ông hiện thân là một kẻ tham lam và tàn bạo bậc nhất.
Ông đã chinh phạt khắp các chiến trận, từ vùng Balkan đén tận phát, thậm chí còn suýt chiếm được Đông La Mã. Tuy nhiên một dịch bệnh đã ngăn trở thành công của ông. Trên những con đường mình đi qua, ông ta đã cướp bóc và tàn sát rất nhiều người. Những cuộc thanh trừng của ông khiến cho bao kẻ nước mất nhà tan, phải sống một cuộc đời nô lệ phục vụ cho quân đội của vị vua tàn bạo. Ông còn được biết đến qua câu nói thể hiện tư tưởng tận diệt : "Nơi nào vó ngựa của ta đi qua, ở đó cỏ không còn mọc được nữa”.
Nhưng cuối cùng, trớ trêu thay vị hoàng đế đầy quyền lực này lại chết vì chảy máu cam trong tiệc cưới của chính mình.
9. Maximilien Robespierre
[​IMG]​
Nhiều người sẽ vô cùng thắc mắc và phản đối khi tên nhà lãnh đạo khởi nghĩa pháp lại có trong danh sách này. Ông là nghị sĩ của đẳng cấp thứ 3, đẳng cấp của tư sản và nông dân trong xã hội Pháp. Ông nổi tiếng qua những lời lẽ sắc bén và ý kiến sâu sắc. Năm 1789, ông tham gia cách mạng Pháp với tinh thần trách nhiệm cao và ý thức phục vụ nhân dân. Nhân dân Pháp tôn ông là "bạn của người nghèo", "lãnh tụ không thể mua chuộc”.
Tuy nhiên rằng trong cuộc đời cách mạng của mình, ông đã có những sai lầm nhất định. Ông là người đứng sau những cuộc hành quyết hàng loạt sau cách mạng lấy đi mạng sống của nhiều người vô tội. Số người chết dao động trong khoảng từ 18500 đến 40000 người, có rất nhiều người vô tội. Trong đó có khoảng 8% quý tốc, 6% giáo sĩ, 14% ở tầng lớp trung lưu và 70% là công nông dân. Những người này đều bị buộc các tội như tích trữ, đào ngũ, nổi loạn, … Đặc biệt trong số những người bị kết tội oan có nhà bác học nổi tiếng Antoine Laurent Lavoisier. Ông đã mất dần sự ủng hộ của nhân dân.
Cuối cùng thì ông cũng bị bắt và xử tử khi mới chỉ 36 tuổi bởi những người phản cách mạng.
8. Ruhollah Khomeini
[​IMG]​
Khomeini là một nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị gia người Iran, người lãnh đạo cuộc Cách mạng Iran 1979 trong đó chứng kiến sự lật đổ của Mohammad Reza Pahlavi, vị Shah cuối cùng của Iran. Sau cuộc cách mạng và một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc, Khomeini trở thành Lãnh đạo Tối cao của Iran - một vị trí có quyền lực tối cao cả về chính trị lẫn tôn giáo của quốc gia được hiến pháp đặt ra, cho tới khi ông qua đời. Trong thời gian lãnh đạo, ông đã thực thi luật Sharia ( luật hành vi hoặc luật tôn giáo của Hồi giáo) với những quy định về quần áo, ăn uống bắt buộc. Ai chống lại sẽ bị xử bởi những hình phạt khắc nghiệt. Trong cuộc nói chuyện tại trường Fayzieah ở Qom, ngày 30 tháng 8 năm 1979, Khomeini cho biết : “Những kẻ giả danh dân chủ để mang lại sự tàn phá cho đất nước này sẽ phải bị đàn áp và treo cổ”.
Ở trong nước ông rất được ủng hộ và tôn thờ nhưng ở nước ngoài, ông được biết nhiều vì sự ủng hộ những người bắt cóc con tin trong suốt cuộc Khủng hoảng Con tin Iran và lời kêu gọi fatwa (bản án) cho cái chết của công dân Anh Salman Rushdie.
Trong vụ thảm sát các tù nhân của Iran năm 1988, Khomeini đã ra lệnh cho tòa án ra phán quyết cho các tù nhân chính trị và giết những người chống lại chế độ. Hàng ngàn người đã phải chết, theo cuốn hồi ký của Grand Ayatullah Hossein Ali Montazeri thì số người chết lên đến con số 30.000.
Khomeini qua đời vì bệnh ung thư vào ngày thứ Bảy , 04 tháng Sáu năm 1989 ở tuổi 86.
7. Idi Amin
[​IMG]​
Idi Amin là một nhà chính trị và đã từng giữ chức tổng thống Uganda. Amin đã gia nhập quân đội thực dân Anh năm 1946 và đã được thăng lên đến hàm trung tướng và tư lệnh quân đội Uganda. Ông đã lên nắm quyền sau vụ đảo chính quân sự tháng 1 năm 1971, phế bỏ Milton Obote.
Trong thời kì của mình, ông đã ông đã đàn áp chính trị, lạm dụng nhân quyền và hành quyết các dân tộc khác, trục xuất người Ấn Độ ra khỏi Uganda. Số lượng người chết trong chế độ của ông chưa được xác định rõ nhưng được ước tính trong khoảng từ 80.000 đến 500.000 người. Ngày 04 tháng 8 năm 1972 , Amin đã ban hành một sắc lệnh trục xuất 60.000 người châu Á không phải là công dân Uganda.
Amin cuối cùng đã bị lật đổ, nhưng cho đến khi qua đời ông ta vẫn không hề bày tỏ sự hối hận vì đã lạm dụng chế độ cũng như những cái chết do ông gây ra.
6. Leopold II của Bỉ
[​IMG]​
Leopold II đã lập ra thứ được gọi là “Nhà nước Tự do Congo” (một quốc gia-doanh nghiệp của riêng ông). Mục đích của ông là để trích xuất cao su và ngà voi trong khu vực này. Việc sản xuất dựa trên cưỡng bức lao động, tàn sát … nhà nước Tự do Congo chìm trong cảnh khủng bố, giết chóc hàng loạt, săn người làm nô lệ.
Chế độ Nhà nước tự do Congo đã gây phẫn nộ trong dư luận quốc tế. Leopold đã cai trị vùng đất lớn hơn cả diện tích nước Bỉ và áp bức người dân ở đây bằng quân đội. Những lao động ở đây bị tra tấn, tàn sát dã man, họ bị chặt tay, chân khi không nghe lời... Con số nạn nhân ước tính khoảng từ 5 đến 20 triệu, số người chết là 3 triệu người.
Năm 1908, trong một hành động xoa dịu sự phản đối quốc tế về tính tàn bạo của Nhà nước Tự do Congo, chính quyền Bỉ đã đồng ý sáp nhập nơi đây thành một thuộc địa, là lập tức đổi tên thành Congo thuộc Bỉ. Tháng 12 năm 1909, Leopold II qua đời tại Laeken.
5. Pol Pot
[​IMG]​
Nhân vật này hẳn chẳng còn xa lạ với chúng ta nữa. Tội ác của vị thủ lĩnh Khmer đỏ đến nay vẫn còn được nhắc đến rất nhiều. Tên thật là Saloth Sar, được biết đến dưới cái tên Pol Pot, là người lãnh đạo đảng cộng sản Khmer Đỏ và là thủ tướng Campuchia từ 1976 đến 1979, cầm quyền không chính thức từ giữa năm 1975.
Ông ta đã lãnh đạo đất nước theo hướng nông nghiệp một cách cực đoan. Tất cả các cư dân thành phố được chuyển tới các vùng nông thôn để làm việc trong các trang trại tập thể. Việc lao động ở đây là sự kết hợp của lao động cưỡng bức, nô lệ, chăm sóc y tế kém, suy dinh dưỡng và hành quyết.
Chế độ Pol Pot đã giết hại từ 1,5 tới 2,3 triệu người trong giai đoạn 1975-1979, trong tổng dân số gần 8 triệu (26% dân số). Mục tiêu của chế độ là các nhà sư Phật giáo, những trí thức có ảnh hưởng phương tây, những người có vẻ là trí thức (như những người đeo kính), những người tàn tật, các dân tộc thiểu số như Lào và Việt Nam.
Lãnh đạo Khmer Đỏ khoe khoang rằng chỉ một hay hai triệu người trong số dân chúng toàn cuộc là cần thiết để xây dựng một xã hội điền địa cộng sản không tưởng. Đối với những người khác, thì theo câu châm ngôn, "sống cũng chẳng được gì; chết cũng chẳng mất gì. Hàng trăm ngàn người đã bị xiềng xích, bị buộc phải đào mồ chôn chính mình. Sau đó các binh sĩ Khmer Đỏ đánh họ đến chết bằng những thanh sắt và những cái cuốc hay chôn sống họ. Một chỉ thị của Khmer Đỏ về việc giết chóc đã ra lệnh, "Không được làm phí đạn dược" . Khmer Đỏ từ chối những lời đề nghị viện trợ nhân đạo, một quyết định cho thấy là một thảm hoạ nhân đạo, khi hàng triệu người đã chết đói và vì phải làm việc quá sức ở vùng nông thôn. (nguồn : Wikipedia)
Pol Pot mất ngày 15 tháng 4 năm 1998.
4. Vlad III Ţepeş
[​IMG]​
Vlad III của Ru-ma-ni (còn được gọi là Vlad Impaler, Dracula) là một vị Vương công của xứ Wallachia (phía nam Romania). Ông đã trị vì ba lần: trong các năm 1448, 1456 - 1462, và 1476. Ông ta được biết đến như một huyền thoại với cuộc sống lập dị, tính cách tàn bạo và những màn tra tấn cực kì tàn nhẫn được áp dụng trong triều đại của mình. Người ta tin rằng, tên tuổi của Vương công Vlad III đã ảnh hưởng đến hình ảnh con ma cà rồng trong tiểu thuyết Dracula của Bram Stoker vào năm 1897.
Dracula còn được gọi là Ţepeş nghĩa là Kẻ xiên người vì một trong những hình phạt là đóng cọ xuyên người. Ngoài ra còn có một phương pháp nổi tiếng nữa là phanh thây bằng ngựa … ngoài ra danh sách những hình thức tra tấn của ông còn dài dằng dặc với đủ các loại hình thức kinh tởm nhất. Có thông tin rằng chỉ riêng trong năm 1460 đã có 10.000 người bị Vlad tra tấn chết.
Theo lịch sử thì cha ông là hoàng thân xứ Wallachia và ở tại cung điện Tirgoviste. Năm 1442, vì lý do chính trị, Dracula và em trai đã bị vua Murad II bắt giữ làm con tin tại Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ cho tới năm 1448. Chính cuộc sống cầm tù chính trị, trong thời gian này đã đóng một vai trò quan trọng trong nhận thức của Dracula và cũng là thời kỳ hình thành cái nhìn bi quan về cuộc sống. Sau khi được thả thì Vlad III đã trả thù cho anh trai và cha (đã chết trong một vụ ám sát) bằng việc giết và đóng cọc toàn bộ những người có liên quan.
3. Ivan bạo chúa
[​IMG]​
Ivan IV là nhà cầm quyền đầu tiên của nước Nga chính thức xưng Sa hoàng. Trong thời gian cầm quyền kéo dài của mình ông đã chinh phục Tartar và Xibia cũng như chuyển nước Nga trở thành một quốc gia đa sắc tộc và đa tôn giáo. Trong lịch sử Nga, vị Nga hoàng này đơn giản được gọi là Ivan Bạo chúa hay Ivan Hung Đế vì những điều độc ác và tàn bạo từ ông.
Thời kì đầu, ông cai trị và sát nhập đất nước trong hòa bình. Nhưng đến thời kì cuối, do nhiều biến cố không mong muốn, ông dần trở nên mất ổn định và trở nên bạo lực. Những kẻ trung thành với ông đã đốt phá và cướp bóc thành phố cùng các làng mạc. Có thể tới 60.000 người đã bị giết hại trong vụ Thảm sát Novgorod nổi tiếng năm 1570. Năm 1581, Ivan đã đánh cô con dâu đang mang thai của mình vì tội mặc quần áo khiếm nhã, có thể đây là nguyên nhân khiến cô bị sảy thai. Con trai ông, cũng tên là Ivan, khi biết tin này đã lao vào một cuộc tranh cãi nảy lửa với cha, cuộc tranh cãi kết thúc khi Ivan dùng cây gậy nhọn đánh vào đầu con mình, gây ra cái chết của người con trai. Sự kiện này đã được thể hiện trong bức tranh nổi tiếng của Ilya Repin, Ivan Bạo chúa và con trai Ivan vào thứ Sáu, 16 tháng 11 năm 1581 nổi tiếng hơn với tên gọi Ivan Bạo chúa giết con trai.
Ông mất ngày 18 tháng 3 năm 1584 khi đang chơi cờ. Nhưng giới khoa học có những nghi ngờ về việc ông bị đầu độc thủy ngân.
2. Adolf Hitler
[​IMG]​
Danh sách này không thể thiếu đi Hitler, vị Quốc trưởng gây ra nạn diệt chủng Do thái và khơi ngòi chiến tranh thế giới thứ 2. Adolf Hitler được bổ nhiệm làm tướng Đức vào năm 1933, trở thành Quốc trưởng vào năm 1934 khi chiến tranh kết thúc năm 1945.
Chính sách của Hitler là xâm chiếm lãnh thổ và chinh phục chủng tộc đã xem lại sự diệt chủng hàng loạt. Vào năm 1939, có khoảng 10 triệu người Do Thái sống trên những lãnh thổ bị lực lượng của Hitler chiếm đóng. Dù theo ước lượng nào, điều chắc chắn là phân nửa số người này đã bị Quốc xã sát hại. Đấy là hệ lụy chung cuộc và cái giá ghê gớm của sự lầm lạc mà nhà lãnh đạo Quốc xã truyền tải đến - hoặc chia sẻ với - nhiều người đi theo ông ta.
Hitler đã tự tử bằng súng vào ngày 30 tháng 4 năm 1945, dưới boongke riêng của mình.
1. Josef Stalin
[​IMG]​
Stalin là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1922 đến năm mất 1953. Stalin còn là Tổng tư lệnh quân đội, hàm Đại nguyên soái Liên Xô. Ông là nhà lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920 cho đến khi qua đời. Ông có công lãnh đạo Liên Xô giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức, cũng như đưa Liên Xô trở thành một siêu cường thế giới. Tuy nhiên, ông cũng bị phê phán vì những chính sách sai lầm và tệ sùng bái cá nhân, và được xem là một nhà độc tài.
Dưới sự cầm quyền của Stalin, Ukraine đã phải chịu một nạn đói kinh khủng, ước tính số người chết từ 2,5 đến 10 triệu người. Nguyên nhân nạn đói này là do những quyết định chính trị và hành chính của nhà độc tài. Stalin đã ra lệnh thực hiện vụ thảm sát Katyn, bắn chết hàng ngàn sĩ quan Ba Lan bị bắt trong cuộc chiến thế giới lần thứ Hai khi Liên Xô cùng Đức Quốc Xã tấn công Ba Lan. Stalin sử dụng các phương pháp điều hành cứng rắn, bao gồm cả khủng bố nhà nước trong thời kỳ đại thanh trừng, theo ước tính từ tháng 08/1937 đến tháng 10/1938, chỉ riêng trong nhà tù tại Ủy ban an ninh quốc gia, chế độ Stalin đã bắn bỏ 20.760 người, trong đó có khoảng 1000 người lãnh đạo tôn giáo.
Tổng số người bị sát hại dưới chế độ cầm quyền của ông nay được ước tỉnh khoảng từ 10 đến 60 triệu.
Bổ sung: Hirohito
[​IMG]​
Được biết dưới tên Thiên Hoàng Chiêu Hòa, ông là Nhật Hoàng của Nhật Bản từ 1926 đến 1989. Năm 1937, quân đội Nhật Bản đã phạm tội ác chiến tranh mà bây giờ được gọi là Thảm sát Nam Kinh, cũng thường được gọi là vụ "Cưỡng hiếp Nam Kinh", là một vụ tội ác chiến tranh do quân đội Nhật Bản tiến hành bên trong và xung quanh Nam Kinh, Trung Quốc sau khi thành phố này rơi vào tay Quân đội Thiên hoàng Nhật Bản ngày 13 tháng 12 năm 1937. Thời gian diễn ra cuộc thảm sát vẫn chưa được biết rõ, dù bạo lực đã kết thúc trong vòng sáu tuần, cho tới đầu tháng 2 năm 1938.
Trong thời gian chiếm Nam Kinh , quân đội Nhật Bản đã thực hiện rất nhiều các hành động tàn bạo như hiếp dâm, cướp bóc, đốt phá với các tù nhân chiến tranh và thường dân. Một số lượng lớn phụ nữ và trẻ em bị giết, hãm hiếp. Số người chết khoảng từ 150.000 đến 300.000.
Tuy không trực tiếp nhưng ông là người trị vì khi vụ thảm sát xảy ra nên có vai trò trách nhiệm lớn. Thiên hoàng Chiêu Hòa qua đời năm 1989 sau một thời gian ốm đau dài.
Tham khảo: Listverse​

Thơ Lục Du

  •   13/07/2025 13:56
  •   2
  •   0
ĐỖ HOÀNG
GỬI VỀ ĐỒNG TÂM CHIA SẺ NỖI ĐAU QUÂN DÂN
陸遊
Lục Du 陸遊 (1125-1209) tự Vụ Quan 務観, hiệu Phóng Ông 放翁, người Sơn Âm, Việt Châu (nay thuộc Nhạn Môn Đạo, tỉnh Sơn Tây), thời Nam Tống ông đã làm quan Tri châu, Tri phủ, còn làm quan Quốc sử biên tu, ông là một vị thi nhân ái quốc. Sống vào thời kỳ hai hai triều Tống Kim đánh nhau, Lục Du trở thành một người rất trăn trở vì mất nước. Khi đó người Nữ Chân (vương triều Kim) đã đánh chiếm xuống phía nam, đất nước chia năm xẻ bảy, dân tình ly tán loạn lạc. Ông đã từng vào đất Nam Trịnh (Tứ Xuyên hiện nay) theo phong trào chống Kim, đã từng mặc giáp cưỡi ngựa vượt qua sông Vị cùng những toán kỵ mã yêu nước, ban đêm đột kích quân Kim nhiều lần. Ông có Kiếm nam từ chuyên tập lưu truyền đến nay.

春日雜興
夜夜燃薪煖絮衾,
禺中一飯值千金。
身為野老已無責,
路有流民終動心。

XUÂN NHẬT TẠP HỨNG
Dạ dạ nhiên tân noãn nhứ khâm,
Ngung trung nhất phạn trị thiên câm (kim)!
Thân vi dã lão dĩ vô trách,
Lộ hữu lưu dân, chung động tâm!

Dịch nghĩa:
CẢM HỨNG VẶT NGÀY XUÂN
Đêm đêm đốt củi sưởi ấm chiếc mền bông,
Bữa cơm non trưa đáng giá nghìn vàng!
Đã làm ông lão nhà quê, thân mình không còn trách nhiệm gì nữa,
Nhưng thấy ngoài đường có dân liếu xiêu, lòng ta vẫn thổn thức.

Dịch thơ:

CẢM HỨNG LẶT VẶT TRONG NGÀY XUÂN
Đêm đêm đốt củi sưởi mền bông
Một bữa cơm trưa vạn lạng ròng
Ông lão nhà quê không việc xóm
Thấy dân tan nát quá đau lòng.

Đỗ Hoàng dịch năm 1972, cao điềm chốt 280, biên giới Việt - Lào

Thow Nguyên Binh Phuowng quá kém!

  •   13/07/2025 13:50
  •   2
  •   0
Tập "Buổi câu hờ hững" của Nguyễn Bình Phương hết sức yếu kém, phi thơ ca






TẬP “BUỔI CÂU HỜ HỮNG” CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG ĐOẠT GIẢI THƯỞNG HỘI NHÀ VĂN HÀ NỘI HẾT SỨC YẾU KÉM – PHI THƠ CA

Đỗ Hoàng



Tập Buổi câu hờ hững gồm 35 bài, có 2 bài văn xuôi không ra văn xuôi, thơ không ra thơ, xin nói sau do Nhà xuất bản Văn học ấn hành tháng 9 năm 2011. Trong 33 bài đều không viết theo truyền thống từ cách cảm cách nghĩ và cách thể hiện. Nó là một thứ tù mù, rối rắm, đánh đố, tắc tỵ, hủ nút, sáo rỗng, đại ngôn, lủng củng, lởm khởm, khập khà khập khểnh, so sánh thì khệnh khạng, ví von thì khiêng cưỡng, ông nói gà bà nói vịt, bắt râu ông nọ chắp cằm bà kia, tiền hậu bất nhất, phi lô gic, cũ ky, cũ kỵ; khi thì thương mại (buôn bán), khi thì toán học, khi thì hóa học, khi thì vật lý, khi thì sinh vật học, khi thì Nôm, khi thì Hán chưa Việt hóa, khi thì bê nguyên xi tiếng Anh… Có nhiều bài nếu chuyển qua vè Việt còn kém vè Việt nhiều bậc; có nhiều bài như người nước ngoài học tiếng Việt 3 tiết rồi làm thơ Việt…


Nhà thơ Nguyễn Bình Phương (đầu tiên, trái qua)

Sau hậu chiến năm 1975, nhiều người sáng tác không bằng lòng với các khuynh hướng thơ trước minh như: thơ Mới, thơ chống Pháp, thơ chống Mỹ, thơ những người cùng thập kỷ, cùng thế hệ, họ quyết đi tìm một cách thể hiện cho khác người đi trước. Có người trước đây cũng làm theo thể thơ truyền thống nhưng họ vẫn quyết đoạn tuyệt thơ cũ để đổi mới thi ca; có người ngay từ đầu đã xa lánh các huynh hướng truyền thống, chối bỏ tất cả để tìm hướng đi cho mình.

Việc ấy thời nào cũng có. Đó cũng là điêu xảy ra đúng quy luật vận động của tư duy, của cuộc sống. Như tôi đã nhiều lần phát biểu: “Cuộc sống không đổi mới tiến lên lên thì sẽ bị ngưng trệ và đến mức bị tiêu diệt”. Trong khoa học, trong thi ca nghệ thuật, trong muôn loài cũng vậy. Nhưng mới như thế nào? (Xem “Vì sao tôi dịch thơ Việt ra thơ Việt” – Tạp chí Nhà văn năm 2009. Dịch thơ Việt (trích) – Báo Hà Nội mới chủ nhật năm 2010; Tạp chí Dặm nghìn đất Việt… đó là việc các nhà cách tân hay cách mạng phải hiểu rõ!

Đổi mới cũng phải có kế thừa và phát huy truyền thống thơ ca dân tộc và nhân loại. Muôn đời là như thế. Điều này những tác giả tự xưng là hậu hiện đại chối bỏ hoàn toàn. Nguyễn Bình Phương là một trong những đại biểu đó. Và xin mạn đàm về tập Buổi câu hờ hững.

Nguyễn Bình Phương trước đây tuân thủ các phép làm thơ truyền thống từ hình thức đến nội dung và có tập, có bài đọc được. Xem Vô lối Nguyễn Bình Phương – vannghecuocsong.com. Nhưng sau đó Nguyễn bình Phương quyết tâm đổi mới và không chấp nhận thơ truyền thống cũng từ hình thức đến nội dung.

Tính từ thập kỷ 80 đến nay, những người quyết tâm cách tân thơ Việt cũng đã 30 năm. 10 năm đã đủ để một khuynh hướng thơ, một trào lưu thơ thành công. Nhưng đã hơn 30 năm, tất cả các khuynh hướng từ nhóm đến tổ được nhiều tổ chức lăng xê mà đến nay nó vẫn không hề gây được tiếng vang gì mà cũng không gặt hái được thành quả gì trên văn đàn. Những cái được in ra được trao giải chỉ là những cái thử nghiệm chưa thành công. Không phải cuộc cách tân nào cũng thành công.

*

Tập Buổi câu hờ hững gồm 35 bài, có 2 bài văn xuôi không ra văn xuôi, thơ không ra thơ, xin nói sau do Nhà xuất bản Văn học ấn hành tháng 9 năm 2011. Trong 33 bài đều không viết theo truyền thống từ cách cảm cách nghĩ và cách thể hiện. Nó là một thứ tù mù, rối rắm, đánh đố, tắc tỵ, hủ nút, sáo rỗng, đại ngôn, lủng củng, lởm khởm, khập khà khập khểnh, so sánh thì khệnh khạng, ví von thì khiêng cưỡng, ông nói gà bà nói vịt, bắt râu ông nọ chắp cằm bà kia, tiền hậu bất nhất, phi lô gic, cũ ky, cũ kỵ; khi thì thương mại (buôn bán), khi thì toán học, khi thì hóa học, khi thì vật lý, khi thì sinh vật học, khi thì Nôm, khi thì Hán chưa Việt hóa, khi thì bê nguyên xi tiếng Anh… Có nhiều bài nếu chuyển qua vè Việt còn kém vè Việt nhiều bậc; có nhiều bài như người nước ngoài học tiếng Việt 3 tiết rồi làm thơ Việt…

Mở đầu tập sách là một bài rất buôn bán (thương mại) – Chào hàng. Nhiều người không am tường thơ ca thì tưởng rằng đây cuốn sách giáo khoa trường đại học Thương Mại (buôn bán) đóng trên Cầu Giấy dùng cho sinh viên học Khoa Makettin. Nếu nhìn tục một chút thì lầm tưởng cách chào ở các quán karaooke khi họ trương biển mời khách, hay các nhà nghỉ cò mồi làng chơi đến nghỉ … để vào xem hàng.

Đọc câu thứ nhất: Đây là lụa thì ai mà chẳng tin rằng có “gái đẹp” và đọc tiếp Nhễ nhễ mê man trong thân thể mê man thì ai mà không tin chốn này có gái mềm lữ và có hút thuốc phiện!

Sau màn chào hỏi, tác giả nhồi như nhồi ngỗng một lô một lốc thuật ngữ toán học mà các nhà toán học đọc lên cũng ngợp: cái tổng số, vô vàn, đây con số, bên lề dấu cộng, một phép nhân bay lượn, đây ngày lẻ, trong góc hẹp, ngày chẵn, một chú cún con, một ly cà phê, “số” không. 34 chữ thuộc thuật ngữ toán học đúng một trăm phần trăm(!)

Đây là một bài Vô lối viết khô khan, khô hơn ngói, vô cùng gượng gạo. Đến toán học là một môn khoa học tư duy khô khan cũng mượn vẻ đẹp vần điệu, tính nhạc của thơ ca để làm cho nó bay bướm. Xin dẫn chứng:

BÀI TOÁN TÍNH SỐ KHỈ ĐÀN

Họ nhà khỉ nhân khi nhàn rỗi
Rủ bạn bè mở hội liên hoan
Trên cây dưới đất hai đàn
Dưới thì nhảy múa, trên toàn hát ca.
Khách tới chơi đi ra vườn thấy
Phần tám bầy đem lấy bình phương,
Tiếng ca trầm bỗng du dương,
Có mười hai giọng mến thương dạt dào.
Khách vui thẻ tính xem sao,
Giữa rừng xanh đẹp có bao khỉ đàn?
(Đ- H sưu tầm)
Thế mà thơ ca lại đem vứt bỏ cái tinh túy của mình, biến câu chữ, hồn vía bài thơ như một cái xác không hồn.

Đọc kỹ câu sau nữa: Đây con số tinh anh ranh ma thì thấy tác giả sai cả kiến thức cơ bản trong tri thức, đời sống. Ai cũng biết hai chữ tinh anh là chỉ phần tốt đẹp của tâm linh, trí tuệ con người và cả thần linh. Thác là thể phách, còn là tinh anh (Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du). Làm sao phẩm chất đã là tinh anh mà còn ranh ma?

Đến bài Cắt tóc thì sống sượng, xơ cứng với những con chữ như khúc xương đẽo hết da thịt:
Tôi cắt tóc
Một người cực lạ
Rũ khăn choàng váng vất bước ra.

Trong bài tự Tự xông đât cũng viết trước gương của nhà thơ Lâm Huy Nhuận đầy hồn chữ, hồn người:
Giật mình đôi mắt trũng sâu,
Người trong gương ấy còn đau hơn mình.

Đọc Lâm Huy Nhuận thấy ngậm ngùi đau xót mãi cho kiếp mình, cho kiếp người.

Tập Buổi câu hờ hững thấy cái gì cũng không thật, cũng sống sượng, cũng giả. Hàng giả thứ thiệt. Giả đến mức viết về mình, về người yêu, về con, về gia đình bạn bè như mình là người ngoài cuộc.

Ta sinh ra cô đơn
Giờ cô đơn đã cũ
Ta trưởng thành bởi sợ hãi
Sợ hãi cũng cũ rồi
(Bài thơ cũ)

Cô đơn làm sao cũ, sợ hãi làm sao mà cũ. Nỗi đau luôn luôn mới kia mà! Chụp mũ hết chỗ nói!

Cụ Tú Xương bóc thật mình ta một cách chân thành nên hậu thế nhìn được bản ngã của. Cụ mới được hậu thế tôn vinh:

Vị Xuyên có Tú Xương
Dở dở lại ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường.

Con người của Buổi câu hờ hững là con người của vô tâm hờ hững, của lạnh lẽo tâm hồn. Ngay cả tình yêu đôi lứa là thứ tình quyết liệt nhất, đam mê nhất mà tạo hóa ban phát thì Nguyễn Bình Phương vẫn:

Và láng máng hình như mình từng yêu
Cát đã vơi lẹ làng yểu điệu
(Từ đồng hồ chờ trên máy tính)

Nên nhớ khi Lục Du khi ngoài 75 tuổi trở lại thăm Vườn liễu cũ vẫn nhớ một mối tình không thành của mình:

Thân này thành đất Cối Kê ấy,
Vẫn giữ trong tim một khối tình
(Bản dịch Đỗ Hoàng)

Cái vô tình ấy, cái lạnh lùng của Nguyễn Bình Phương càng thể hiện rõ khi viết về con :

E ò e, ò e tí toe ngo ngoe vò vẹ
(Chơi với con.)

Tôi đọc mà tưởng tác giả chơi với robot dog (chó máy) hoặc toy octopus (đồ chơi bạch tuộc cho trẻ con). Trẻ nghe e ò e, ò e tí toe, ngo ngoe, vò vẹ thì các cháu sẽ đái ra cả bỉm, vải ca linh hồn ông nội.
Chưa hết, ông bố còn hù tiếp như hù cọp như vậy.:
Lăn qua chữ nghĩa
Tôi rền vang tôi
Tôi đánh rơi ở nơi không tìm thấy
Rồi voi, hổ , báo, rùa vĩnh cửu…, hết thảy khuân ra hết để hô xung phong như ông đại đội trưởng ở chiến trường (dù xung phong làm cái chảo nấu ăn) để dọa con:

Tôi bị vướng vào thế giới ta bà
Con voi bé nhỏ, con voi kềnh càng, con báo lù lì, con rùa vĩnh cửu
Tôi xung phong làm cái chảo nấu ăn…
(Bài thơ đã dẫn)

Dọa từng ấy chắc con mình chắc chưa khiếp sợ, nên dọa tiếp để mai sau nó lớn lên nó theo bố làm binh nghiệp cho đặng dũng cảm:

Khuất trong góc nhà tôi có cả ta và giặc
Bánh xe màu lục, viên đạn vô hình
Khẩu súng ấy trắng bong như bột lọc
Tôi bắn gục thời gian không thèm tiếc…
(Bài đã dẫn)

Phim hành động, bạo lực của Mỹ ở Holoniut phải cầm sách đến đây mà học Nguyễn Bình Phương về cách dọa nạt trẻ con để nó trưởng thành tướng lĩnh(!)

Trong khi đó nhiều nhà thơ về con để lại trong lòng bạn đọc những tình cảm nồng hậu, thắm thiết về tình phụ tử:

…Con ngủ đi con, bố nằm bố quạt
Bố nghĩ bài thơ vừa viết ban chiều
Bố có con tâm hồn dịu mát
Mây có trời xanh, mây mịn đường thêu..
(Huy Cận)

Trong Buổi câu hờ hững có nhiều bài vô lối tuyên ngôn thơ nhưng đơn giản, gượng gùng, xơ cứng, tù mù và cũ kỹ:

Ta im lặng
Chim hót
Họ thì vỗ cánh bay
Ta viết
Chim bay đi
Họ thẩn thơ đậu xuống
Ta nhìn ta mai mái một làn sương
(Nhà thơ)

Cách đây gần 2 000 năm Lý Bạch đã nói điều này rồi mà nói bằng thơ:

ĐỘC TỌA KÍNH ĐÌNH SAN

Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
Tương khan lưỡng bất yêm
Duy hữu Kính Đình San

NGỒI MỘT MINH BÊN NÚI KÍNH ĐÌNH

Chim bầy cao bay vút
Mây lửng lơ một mình
Nhìn nhau không biết chán
Chỉ có núi Kính Đình!

(Đỗ Hoàng dịch)

Tôi đồ rằng tác giả Buổi câu hờ hững có thể bị tâm thần hoặc là bị chấn động thần kinh, tâm hồn bất định. Nhiều bài viết rất thiểu năng trí tuệ, giả đò (giả vờ): Buổi câu hờ hững, Phân chim, Chân dung khi trống trải, Khoảng giữa, Nói với em từ nơi trống trải, Hỏi…
Đặc biệt là bài Hỏi một bài hết sức giả đò :

Này cô em dáng hiền hiền xinh xinh
Bệnh viện là gì nhỉ?

Này cô em dáng hiền hiền xinh xinh
Bệnh nhân là gì nhỉ?

Kìa cô em dáng hiền hiền xinh xinh
Là bác sỹ hay là gì đấy nhỉ?

Ngạn ngữ quê tôi ( miền Trung) có noi: Giả đò đui dòm lồn!

Đúng như vậy!

Trong tập Buổi câu hờ hững đầy những lối nói kiểu cách, lởm khởm cũ như trái đất, cũ đến mức mà Tạng thư, Kinh Phật, Kinh Thánh còn không cũ hơn như: Trong phép màu khó hiểu, Đá xanh rêu với u huyền, Những áng bay ngọt lừ, Những luồng đạn căng lừ, Người yểu mệnh đứng bên lề dấu cộng, Tinh mơ luôn trở lại, Chứa những điều vằng vặc bên trong, Rạng đông nhen dưới gót chân Hời, Kìa vũ trụ thanh tân uyển chuyển, Lẩy bẩy chết dọc theo kim phút, Khóe miệng sương mù, Ngả từ thao thức vào hoang vắng… kể mãi cũng không hết những câu đại loại như thế!

Rồi rất nhiều triết lý vặt, lên gân, vô bổ: Tuồng như sống chỉ là rơi, Và hãy nhớ chúng ta không lay động…

Tiếp đến là lạm dụng âm Hán Việt chưa được Việt hóa bao nhiêu: Luyến ái, phù sinh, lạc thú, u huyền, hỏa xa, ngoạn mục, thanh tân… Rồi lại viết nguyên xi tiếng Anh trong câu tiếng Việt làm người đọc vô cùng khó chịu:

Lũ trẻ online câu hy vọng(!)

Nhiều người mỉa mai sao không viết hết cả câu tiếng Anh để thể hiện tác giả giỏi Englisch:
Childrens online sentence hope!

Hai bài như là văn xuôi Về một người thương binh hỏng mắt, Những cư dân vùng châu thổ sông Hồng, nhưng cùng không ra văn xuôi, nó là một thứ lưỡng cư, chấm phẩy lung tung, câu nọ xọ câu kia, nhiều đoạn tối mò, vô nghĩa. Ví dụ: - Anh bảo quê anh ở bên kia mùa hạ, tôi bắt gặp những rặng núi xanh và lau bạc. Chấm ở chữ hạ là đủ nghĩa tại sao lại phẩy ở đây? Tôi bắt gặp không ăn nhập gì với đoạn câu trước. Nhiều và nhiều lắm. Đến nỗi nhà văn Nguyễn Thiện Đạo nói với tôi: - Tôi đọc văn Nguyễn Bình Phương không biết ông ta viết gì (!)

Là người lính chuyên nghiệp nhưng trong tập sách Buổi câu hờ hững chỉ thấy thấp thoáng hai bài có “hương vị” lính đó là Trên đồi cao và Về một người thương binh hỏng mắt. Hai bài này người không ở lính vẫn viết được và viết hay hơn nhiều. Không thấy dáng đồng đội, tình quân dân ở đâu cả. Các nhà thơ thế hệ trước đã viết về đồng đội về tình quân dân cảm động:

Đồng đội ta là hớp nước uống chung
Là miếng cơm sẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia nhau đứng trong chiến hào chất hẹp
Chía nhau cuộc đời
Chia nhau cái chết!
(Đồng đội - Chính Hữu)

Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh Vệ quốc quân ơi!
Sao mà yêu anh thế!
(Cá nước – Tố Hữu)

Anh về cối lại vang lừng
Chim reo trên mái, gà mừng dưới sân
Anh về sáo lại ái ân
Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca
(Về làng- Hoàng Trung Thông)

Viết về người lính và không viết thì cũng không ai bắt. Nhưng nhà thơ của đất nước nào cũng phải thể hiện phẩm chất công dân của nước mình, nhất là những nhà thơ mặc áo lính. Mạc Ngôn là một dẫn chứng sinh động!

Nguyễn Bình Phương rất cố gắng tìm tòi cách tân nội dung, hình thức, ngôn từ biểu hiện nhằm làm cho thơ mình và thơ thế hệ có một nét khác biệt, mở đường cho cuộc đổi mới thơ ca của lớp nhà thơ sau thống nhất đất nước năm 1975., đó là điều đanghs trân trọng Nhưng tiếc thay nhà thơ không hiểu rằng: Cuộc cách tân nào, thậm chí cả cách mạng đều phải có kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc và nhân loại thì những cách tân, cách mạng ấy sẽ thành công lâu dài. Còn cuộc cách tân, cách mạng nào pha nát đạp quá khư thì sẽ thật bại. Nhãn tiền ấy ai cũng biết. Từ sau năm 1975 đến nay nhiều trào lưu tự xưng là hậu hiện đại hậu hậu hiện đại đều thất bại là vì thế!

Tập Buổi câu hờ hững rốt cuộc không có gì là mới, cha ông đã từng noi rồi:

Hà Nội ngày 5 tháng 11 năm 2012

Đ - H

Vịnh Đỗ Chu

  •   11/07/2025 21:38
  •   2
  •   0
Vịnh Đỗ Chu
Vịnh Đỗ Chu
Thứ năm - 31/12/2015 12:31
Ltg: Văn xuôi Đỗ Chu uyển chuyển, chữ nghĩa thanh thoát, nhẹ nhàng rất đặc trưng văn xuôi Bắc Hà nhưng rất nhạt với sự hời hợt, phớt Ăng lê trước nỗi đau tột cùng của nhân quần trong chiến tranh dai dẳng huynh đệ tương tàn xương chất thành núi, máu chảy thành sông! Và tiếc tác phẩm của ông không có tư tưởng gì, chỉ là một thứ tụng ca không mới! Ví như phim Bác Hồ năm 1946, Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, Biệt động Sải Gòn, Ván bài lật ngửa, Dòng sông phẳng lặng…
Vậy có thơ rằng:


Đỗ Hoàng


VỊNH ĐỖ CHU

Nhàn nhạt văn xuôi có Đỗ Chu.
Thuộc dòng xưng tụng loại ba xu!
Tum toe mấy chữ kênh bà,Đốp
Chóp chép vài lời đỡ Bố Cu!
Cứ tưởng đây là quầng điện sáng,
Nào ngờ đấy chính chóp đèn lu.
Văn chương Nam Việt mà như thế.
Không thẹn những thời rạng Đại Ngu!
Hà Nội, 2014
Đ - H

Người đăng: do hoang vào lúc 21:43 Không có nhận xét nào:

TRÁNH HÁO DANH

Nguyễn Tài Cẩn là một nhà nghiên cứu văn học có uy tính ở nước ta!

Thăm dò ý kiến

Bạn biết gì về NukeViet 4?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập12
  • Hôm nay233
  • Tháng hiện tại27,022
  • Tổng lượt truy cập129,971
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi