Chuyện máu thành sông

 08:26 30/04/2025

Thơ tự do của Đỗ Hoàng (Bài 14)
CHUYỆN SÔNG MÁU, NÚI XƯƠNG (*)
Mới vào lính,
Họ chưa biết đâu!
Con gái lớn lên buổi đầu xa mẹ.
Tôi xót xa nhìn những cô gái ngây thơ, trươi trẻ.
Ái ngại cuộc đời chinh chiến xâm lăng!
Họ ngủ êm lành đêm nay,
Họ có biết không?
Những miền rừng xa xôi đang há mồm chờ họ đến.
Những miền rừng của chúa sơn lâm và thần sốt rét.
Sẽ làm cho những thân thể kiện cường thành xanh tái, vàng rơ!
Họ có biết không?
Những vùng rừng họ đi qua.
Trăm năm hút hun đừng hòng mong ngày trở lại
Trăm năm quay cuồng chẳng nhìn đâu ra dáng mẹ!
Và anh mắt người trai từng thuở yêu đương!
Họ đã kinh hoàng chưa?
Hai chữ Trường Sơn!
Đã chôn vùi biết bao nhiêu thế hệ
Đã lấy mất biết bao nhiêu tuổi trẻ.
Những binh đoàn rủi số đi qua!
Rồi còn biết bao nhiêu điều cay đắng xót xa.
Trong bom đạn, người với người là thú dữ.
Trong bom đạn máu tim hồng thành máu quỷ.
Cái chết oán thù còn mang hận đến nghìn năm!
Kẻ nào dù có mệnh số may mắn hơn.
Được sống sót trở về sau vạn nghìn ngày chinh chiến,
Thì mẹ già quê hương không thể nào nhận diện
Con gái minh ngày xưa yêu kiều nay còm cõi ma tàn!
Tôi biết các cô gái dịu hiền, ngây thơ không suy nghĩ gì hơn
.
Khi cái bịp đã nâng lên thành chủ nghĩa.
Khi cái ác đã lên ngôi hoàng đế.
Khi cuộc đời bị ngự trị bất công!
Lần đầu tiên xa nhà
Chạm mặt với chiến tranh!
Thấy cảnh đạn bom, thấy máu đào rơi họ giật mình khủng khiếp
Thực trạng cuộc đời họ chưa hiểu hết.
Sẽ là mối hận nghìn thu!
Tôi bần thần nhìn những cô gái ngây thơ,
Con gái tuổi mộng mơ độ trăng tròn lẻ,
Con gái nhà quê buổi đầu xa mẹ.
Sẽ sống thế nào trong năm tháng chiến tranh?
Lòng riêng tôi như biển cả đau ngầm!
Khi nghĩ đến những vùng rừng đầy sọ người và xương cốt.
Những vùng rừng người ta không mong sống sót,
Để trở về nhìn sông nước quê nhà.
Họ sẽ đến những vùng rừng tử địa tha ma.
Con gái ngây thơ lỡ phải choàng áo lính,
Họ sẽ tận mắt nhìn chiến trận,
Như nhìn những cái chết hôm nay!
Hết lớp này lại lớp khác lên thay.
Chuyện máu thành sông,
Chuyện xương thành núi.
Không phải chuỵện hoang đường văn chương diệu vợi.
Mà chuyện cuộc đời, chuyện thật hôm nay!
Ôi con gái rộn ràng
Lứa tuổi đắm say.
Sẽ sống ra sao?
Người nào sống sót!
Riêng tôi
Tôi mong cho họ trở về được hết.
Để gặp lại mẹ hiền
Gặp lại quê hương.
Chứ sự thật thì
Sự thật…
Đừng nghĩ chuyện sông máu,
núi xương!
20 – 11 – 1973
Đ - H
(*) Rút trong tập thơ Tâm sự người lính - NXB Văn học 1996 - NXB Hội Nhà văn 2018 (tái bản)

27vTREEN TRÙM SÒ THI TẶC...

 05:31 29/04/2025

27 TÊN TRÙM THI TẶC - GIẶC THƠ
Dịch thơ tiếng mẹ đẻ ra thơ tiếng mẹ đẻ
Thứ sáu - 17/09/2021 04:51
Dịcn sang thơ Việt:
,,Dịch thơ tiếng mẹ đẻ ra thơ tiếng mẹ đẻ là nỗi đau bậc nhất của nhân loại trong sáng tạo thơ ca,,
,Nhà thơ Triệu Lam Châu,
CÕI LẶNG
Cõi lặng, anh soi thật mình
Nỗi buồn trong sạch, trắng trinh giữa trời.
Cõi lặng, không tiếng nào rơi,
Tiếng tim anh đập muôn đời nào yên!
Dịch thơ tiếng mẹ đẻ ra thơ tiếng mẹ đẻ
Dịcn sang thơ Việt:
,,Dịch thơ tiếng mẹ đẻ ra thơ tiếng mẹ đẻ là nỗi đau bậc nhất của nhân loại trong sáng tạo thơ ca,,
,Nhà thơ Triệu Lam Châu,
CÕI LẶNG
Cõi lặng, anh soi thật mình
Nỗi buồn trong sạch, trắng trinh giữa trời.
Cõi lặng, không tiếng nào rơi,
Tiếng tim anh đập muôn đời nào yên!
Yêu người tha thiết, thiêng liêng,
Nguyện cùng sống chết, đảo điên vì người!
Cõi lặng, ghềnh thác vượt rồi,
Đến miền trong sạch, tuyệt vời xanh trong!
Đỗ Hoàng dịch
Hà Nội ngày 29 -1 – 2012
Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên bản
ANH ĐỢI (*)
Đến sớm một ngày
Vượt trước thôi đường
Cao hơn thói thường
Anh đợi
Đánh đổ một đời
Cuối đất cùng trời
Anh đợi
Anh tìm em
Từ cõi hư vô
Đến phiên chợ trời
Âm dương xanh thẳm
Thương nhớ bồi hồi
Anh đợi
Vứt hết sách vở
Hai tay bụi trần
Núi cao anh trèo
Sông sâu anh lội
Anh đi tìm em
Mây chiều bạc tóc
Thương nhớ lao lung
Một thời trận mạc
Một thời cấy trồng
Anh là hạt thóc
Em là cánh đồng
Gieo bao thương nhớ
Vẫn còn mênh mông
Còn chăng điều tốt
Trong cuộc đời này?
Còn bao nông mặn
Em dành hai ta?
Ngàn năm, trăm năm
Anh mong, anh đợi
Một ngày xuôi tay
Đường xa để lại
Anh còn ngoái lại
Những lời hôm qua:
Anh đợi!
Ngày 27 – 9 -2006
Nhà thơ Vũ Quần Phương có bài Đợi
“Anh đứng một giờ
Đất lạ thành quen”
Một sự phát giác từ hiện thực, rất hay, ai cũng biết nhưng không ai nói được. Bài Anh đợi của Nguyễn Khoa Điềm vô duyên hết chỗ nói. Nó vừa quê, vừa cổ lỗ sỉ, không có phát hiện gì mới, lại dưới cả vè thì đọc giả làm sao chấp nhập được?
Đỗ Hoàng Tạm dịch qua vè truyền thống người Việt:
VÈ ANH ĐỢI
Vè vẻ, vè ve
Nghe vè anh đợi.
Đến sớm một ngày
Không thì trời tối.
Vượt trước thôi đường
Cao hơn thói thường
Anh chờ, anh đợi
Anh tìm, tìm em
Từ cõi hư vô
Đến phiên chợ trời
Âm dương sáng tối
Thương nhớ bồi hồi
Anh chờ, anh đợi.
Vở sách trôi nổi
Hai tay bụi trần
Núi cao anh lần
Sông sâu anh lội
Anh đi tìm em
Mây chiều tóc rối
Thương nhớ lao lung
Chiến trường lạc lối
Một thời cấy trồng
Anh hạt thóc thối
Em là cánh đồng
Gieo bao thương nhớ
Vẫn còn mênh mông!
Còn chăng điều tốt,
Trong cuốc đời này?
Còn bao nồng mặn
Dành ta, ai hay?
Ngàn năm, ngàn năm
Anh mong, anh đợi
Một ngày xuôi tay.
Đường xa để lại
Anh ngoái lần này,
Những lời hôm qua!
Vẫn còn chói lọi!
Hà Nội ngày 29 – 1 - 2012
Ngyễn Khoa Điềm
Nguyên bản:
NGỒI VỚI CÂY LONG NÃO NHÀ BẠN
Ngồi với tôi mỏi mê
Anh quay vào bếp
Xong nồi lục đục
Mỗi âm thanh dễ nhận ra
Củi – diêm - nước mắm
Và những gì gian khó
Không âm thanh
Tôi một mình
Một nình với cây long não
Cây long não già mà lá trẻ
Như ta giữa cuộc đời này
Cây long não lặng im
Cây long não trịu trần
Năm tháng bên nhau
Nhận lấy phấn bụi bặm
Trả ta hương lành
Và một chút gì sâu xa
Không rõ nữa nữa
Bây giờ cây tiếp chuyện tôi
Gác một chân lên hè phố
Chúng tôi nói về anh
Những trang chứa biết đến của một người cầm bút...
Bên cầu Phủ Cam, tháng 5 năm 1982
Đỗ Hoàng dịch:
VỚI BẠN
Ngồi với tôi mải mê
Anh lại quay vào bếp
Tiếng song nồi, nhôm thép
Âm thanh dễ nhận ra
Nước mắm, muối, diêm, cà...
Vì những gì gian khó
Chắng có một âm thanh!
Còn tôi chỉ một mình
Một mình với long não
Long não già lá trẻ
Như ta cuộc đời này.
Cây long não lặng im
Một thân hình trần trụi
Năm tháng ta bên nhau
Nhận lấy phần bậm bụi
Trả cho ta hương lành
Chút sâu xa vời vợi
Mà không còn rõ nữa.
Bây giờ cây tiếp tôi
Gác chân lên hè phố
Chúng tôi nói về anh
Trang sách còn viết dở!...
Hà Nội ngày 29- 1 – 2012
Nhà thơ Đỗ Hoàng
Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên bản:
HOA QUỲ VÀNG
Thông đã mọc nghìn năm
Thành phố trăm năm
Anh đến một ngaỲ
Đà Lạt trẻ
Mà anh thì quá tuổi
Hoa quỳ vàng
Lặng im bên cửa
Hoa quỳ vàng
Ái ngại
Nở chờ anh
Đã sang thu?
Là hạ?
Vẫn là đông?
Không cao thấp
Sao chập chùng
Ẩn hiện
Hoa quỳ vàng
Nghiêng nghiêng
Cánh mỏng
Hồn cao nguyên
Nương náu đến bao dung
Em thanh xuân
Anh quá đỗi
Ngại ngùng với sương gió
Đượm buồm từng tấc cỏ
Đà Lạt
Anh có gì
Để nhớ
Sao âm thầm lưu luyến
Tôi muôn xưa
Hoa quỳ vàng
Em chợt đến
Sau mưa
Để chợt héo
Trước ngày đông
Tháng giá
Anh chợt đến
Và chợt về
Xa lạ
Chợt trăm năm
Một khoảnh khắc
Giao mùa
Hoa quỳ vàng
Hoa quỳ nở
Như mưa.
Ngày 22 .1. 1993
Nhận xét:
Một ông trên 70 tuổi mang danh nhà thơ, giữ trọng trách quốc gia mà viết như thế này thì hoạ là điên loạn.
Dịch dễ hiểu:
HOA QUỲ VÀNG
Thông đã nghìn năm
Phố thị trăm năm
Anh đến một ngày
Ơi! Đà Lạt trẻ.
Anh thì quá thể
Mà hoa quỳ vàng
Lặng im bên cửa
Là hoa quỳ vàng
Chút gì ái ngại
Nở chờ anh sang!
Là đã tới thu?
Hay là đang hạ?
Hay vẫn là đông
Mịt mùng sương giá.
Không cao, không thấp
Mà sao vẫn chập chùng!
Mờ mờ ẩn hiện
Ơi, hoa quỳ vàng
Nghiêng nghiêng cánh mỏng
Hớp hồm cao nguyên
Chút gì nương náu
Bao dung nhân duyên!
Em mãi thanh xuân
Anh thì quá đỗi
Ngại ngùng sương núi
Tấc có đượm buồm
Đà Lạt tơ vương.
Anh có gì nhớ
Mà sao âm thầm
Mà sao lưu luyến
Tới buồn muôn xưa!
Hà Nội ngày 29 – 1- 2012
Nguồn : Đỗ Hoàng's Blog

Chữ Hán bẻ đôi không biết mà dịch Đường thi...

 22:34 28/04/2025

CHỮ HÁN BẺ ĐÔI KHÔNG BIẾT MÀ DỊCH ĐƯỜNG THI!
Thứ Ba, 20 tháng 9, 2016
Đỗ Trung Lai dịch phá nát Đường thi - Phan Cẩm Thượng nịnh thối
ĐỖ TRUNG LAI DỊCH PHÁ NÁT ĐƯỜNG THÌ
PHAN CẨM THƯỢNG NỊNH THỐI ĐỖ TRUNG LAI
Đỗ Hoàng
Một lần tôi gặp nhà nghiên cứu Văn học Lại Nguyên Ân ở cơ quan tôi 65- Nguyễn Du, Hà Nội, tôi nói: - Cả rừng người biết chữ Hán sao lại để Đỗ Trung Lai múa may dịch thơ Đường trên sân Văn Miếu thế tiên sinh?
Anh Ân lắc đầu:
- Mấy ông bộ đội họ làm văn chương trại lính theo kiểu họ, chào thua!
Cũng không phải việc của mình nên tôi cũng chẳng hơi đâu bới lông tìm vết. Nhưng vừa qua đọc nghe nhà sách Giáo dục thông báo Thơ Đường mấy cuốn do Đỗ Trung Lai dịch đã đưa vào nhà trường, lại đọc thấy Phan Cẩm Thượng nịnh thối Đỗ Trung Lai quá đáng đành phải lên tiếng. Tôi đã viết hai bài: “Đỗ Trung Lai đánh trống qua cửa sấm”. “ Đỗ Trung Lại dịch hỏng Đường thi” nhằm phê phán việc Đỗ Trung Lai không biết chữ Hán mà lại đi dịch các thi hào gây tai hại vô cùng cho văn hóa nhân loại!
Trong bài ngắn này chỉ phê phán Phan Cẩm Thượng không hiểu biết thơ Đường lại đi nịnh thối Đỗ Trung Lai làm cho bạn đọc hiểu sai Đường thi.
Phan Cẩm Thượng viết:
“Cách đây hai năm, tôi nhờ Đỗ Trung Lai viết cho những bài bình thơ trên tạp chí Khoa học và Tổ quốc, chọn thơ nào bình ra sao là tùy ông. Dịp tết năm đó ông đã dịch và bình bài Tương tiến tửu của Lý Bạch, và ngay lập tức nhiều người cho rằng đây là bản dịch hào sảng nhất về bài thơ. Ngay ba câu đầu Lý Bạch viết : Quân bất kiến / Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai/Bôn lưu đáo hải bất phục hồi. Ông dịch:
"Anh không thấy
Nước trời rơi mãi
Thành mênh mông một dải Hoàng Hà
Chẩy mau về với biển xa
Có trôi trở lại cùng ta bao giờ…"
Sau đó, ông dịch liền bốn bài Nguyệt hạ độc chước (Uống rượu dưới trăng ) có câu : Sầu cùng thiên vạn đoan / Mỹ tửu tam bách bôi / Sầu đa tửu tuy thiểu / Tửu khuynh sầu bất lai. Được dịch là: Sầu thì ngàn vạn mối/ Rượu ba trăm chén thôi / Sầu nhiều rượu lại ít / Uống vào sầu tạm lui.
Như vậy Đỗ Trung Lại vừa nắm được cái khẩu khí của nguyên tác, lại mạnh dạn đưa vào trong bản dịch cái cảm hứng thi ca của chính mình”
Xin thưa với đồng chí Phan Cẩm Thượng nguyên tác thế này:
君不見:
黃河之水天上來,
奔流到海不復回?
Quân bất kiến:
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Nghĩa là:
Anh không thấy:
Nước sông Hoàng Hà chảy từ trên trời xuống
Cuồn cuộn tuôn ra biển không quay trở về”
Nhiều người đều dịch thơ đúng nghĩa:
“Há chẳng thấy:
Nước sông Hoàng từ trời tuôn xuống
Chảy nhanh ra biển, chẳng quay về, “
(Hoàng Tạo và Tương Như)
“Bác chẳng thấy
Sông Hoàng từ trời nước đổ xuôi
Một mạch xuống biển không hề lui? “
(Khương Hữu Dụng)
“Thấy chăng anh
Nước Hoàng Hà từ trời tuôn xuống
Chảy băng ra biển chẳng quay về. “
(Ngô Văn Phú)
“Kìa anh
Trời đổ sông Hoàng
Nước tuôn ra biển không đường trở lui”
(Đỗ Hoàng)
“Thấy chăng ai
Nước sông Hoàng từ trên trời đỏ xuống
Cuồn cuộn ra biển không trở về”
(Hữu Loan)
Nhà thơ nào cũng dịch đúng thơ, đúng nghĩa, riêng Đỗ Trung Lai phịa ra “ Nước trời rơi mãi”. Không biết nước trời rơi mãi ở đâu ra? Trong nguyên bản không có. Nếu có thì phải “Thiên thủy cửu lưu”. Bịa ra một câu sai nguyên bản như thế gây tác hại không nhỏ cho người đọc. Rồi Đỗ Trung Lai lại tiếp: “Thành mênh mông một dải Hoàng Hà” là một kiểu dịch bịa , ba láp, loại tam thiên chí đế! Sao là mênh mông một dải Hoàng Hà được. Dù hình tượng hóa đến đâu,thì sông Hoàng không thể thành mênh mông một dải như Thiên Hà. Rồi Đỗ Trung Lai lại phịa tiếp: “Có trôi trở lại cùng ta bao giờ?” Thật là ngô nghê, không nói là dốt nát! “Nguyên bản “ bôn lưu đáo hải bất phục hồi” (Cuộn cuộn chảy về biển không trở lại). “Trở lại cùng ta bao giờ” là vẽ rắn thêm chân”. Đỗ Trung Lai hay vẽ rắn thêm chân khi dịch.
Thơ Lý Bạch là thơ hiện đại, như dòng chảy sông Hoàng, Đỗ Trung Lai dịch ra lục bát nên phải vần vè, Đã đưa ra chữ “mãi” thì phải tìm chữ “dãi”, như:
“Bọn ruồi là giống hiểm nguy
Vì chân của nó rất vi trùng nhiều”
Chung quy là chả biết chữ Hán, căn cứ vào bản dịch nghĩa, có bài không có dịch nghĩa thì dịch lung tung!
Lý Bạch có 4 bài “ Nguyệt hạ độc chước” (Uống rượu dười trăng
). Bài nào cũng tuyệt tác. Kỳ tư (bài 4) có bốn câu mở đầu rất hay.
窮愁千萬端,
美酒三百杯。
愁多酒雖少,
酒傾愁不來
“Cùng sầu thiên vạn đoan,
Mỹ tửu bách tam bôi.
Sầu đa tửu tuy thiểu,
Tửu khuynh sầu bất lai. …”
Nghĩa là: “
Sầu tận cùng đến nghìn vạn mối. Mà rượu ngon chí có ba trăm chén. Sầu quá nhiều mà rượu quá ít. Đã say đổ thì sầu không còn đến nữa.”
Các nhà văn nhà thơ cổ kim đã dịch rất hay tuy không bằng nguyên bản. Đỗ Trung Lai cóp lại của tiền nhân mà cóp rất dở, thêm thắt lung tung cho có vần điệu nên càng dở hơn!
Bản dịch của Khái Hưng:
“Sầu lớn nghìn muôn mối
Ba trăm chén rượu ngon !
Sầu nhiều, rượu tuy ít
Rượu nghiêng sầu phải bon. “…
(Trên đường xe chạy bon bon
Niềm vui được lúa hạt tròn hạt vuông)
(Bút Tre)
Bản dịch Trần Trọng San:
“Sầu cùng ba vạn mối,
Rượu ngon ba trăm bôi.
Sầu nhiều rượu tuy ít,
Uống rượu cho sầu lui. “…
Bản Đỗ Trung Lai:
Sầu thì ngàn vạn mối
Rượu ba trăm chén thôi.
Sầu nhiều rượu lại ít
Uống vào sầu tạm lui!...
Tuy không bằng nguyên bản nhưng bản dịch của Khái Hưng và Trần Trọng San đều đạt được thần thơ và ý tứ. Bản dịch Đỗ Trung Lai, Phan Cẩm Thượng bốc thơm là cóp của tiền nhân rồi chế biến ra của mình nên nó vừa dở vừa thối, vừa thêm thắt chữ vô lối như chữ “thì” , chữ “thôi” cho có hiệp vần lại sai nghĩa nguyên bản, lại nhiều chữ Hán chưa Việt hóa mà các bản dịch trước không phạm phải! Ví dụ: Bản Khái Hưng không dùng chữ Hán “thiên, vạn” mà dùng “nghìn muôn”. Rồi lại dịch sai nghĩa “ Tửu khuynh sầu bất lai” (Say đổ sầu không đến nữa) chứ không phải “ Sầu tạm lui”. Sầu không đến nữa mới thần thi!
Tóm lại Đỗ Trung Lai không biết chữ Hán nên dịch bậy bạ, Phan Cẩm Thượng chẳng biết anh nào, chắc không biết Đường thi nên khen bừa, khen ẩu vô cùng nguy hại cho nhân quần! Các ông đừng nịnh thối nhau nữa!
Nhục nhã thay!
Hà Nội 12 – 9 – 2016
Đ - H
Ảnh của Do Hoang.á nát thơ

Thư Phan Nhật Nam gửi...

 22:25 28/04/2025

Đỗ Hoàng
Phóng tác thư Hữu Thính gửi Phan Nhật Nam và thư từ chối Phân Nhật Nam gửi Hữu Thỉnh
PHONG TÁC THƯ ĐIỆN TÍN HỮU THỈNH MỜI PHAN NHẬT NAM VỀ DỰ HÒA HỢP DÂN TỘC
Xin gửi tiên sinh điện tính này.
Nước nhà tổ chức nối vòng tay.
Anh Kha gặp bác bia nghiêng ngả,
Mỗ Thỉnh thấy hình tửu ngất ngây!
Đỏ lửa mùa hè tôi đọc biết, (*)
Trường ca tới biển bác xem hay! (**)
Hận thù quá khứ ta găm lại
Đại diện Đáng, Đoàn hân hạnh thay!
Hà Nội ngày 20 – 9 – 2017
Đ - H
(*) Mùa hè đỏ lửa ký Phan Nhật Nam
(**) Trường ca Biển thơ Hữu Thỉnh
Đỗ Hoàng
PHÓNG TÁC THƯ TỪ CHỐI CỦA PHAN NHẬT NAM
Trước hết là tôi từ chối bay!
Gửi về quốc nội để ông hay.
Một trăm năm cộng dân tan tác,
Hai thế kỷ ma đảng đọa đày!
Mồ mả quê nhà tàn tán tác,
Thân già hải ngoại còm còm cay!
Bao giờ cộng sản không còn nữa
Khỏi khiến chúng tôi sẽ đến ngay!
Hà Nội 20 – 9 – 2017
Đ - H
Đỗ Hoàng
BÀY CHỌI GÀ MẠT KẾ MOI TIỀN CHÙA
Chúng trói gà nhà khóa cẳng tay
Mời gà rừng tới đá lăn quay!
Phổng phao mái bự xiên bơ rán,
Núc níc trống cồ xé thịt phay!
Huyết đổ nghìn đời, sông suối nghẽn,
Xương phơi vạn thuở, núi đồi lay!
Chọi gà trò cũ moi hào mới
Cách kiếm tiền chùa mạt kiếp thay!
Hà Nội 30 – 9 – 2017
Đ - H

Thơ phản chiên Đỗ Hoàng...

 01:44 27/04/2025

“TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH” TỪ BÓNG RÂM CHIẾN KHU
ĐẾN QUẢNG TRƯỜNG PHẢN TỈNH CỦA LƯƠNG TRI
( Viết về nhà thơ Đỗ Hoàng )
Nguyễn Hoàng Đức
Tôi gặp nhà thơ Đỗ Hoàng lần đầu tiên ở nhà tôi, anh đi cùng nhà văn Nguyễn Đình Chính đến để mời tôi giữ chân biên tập trang lý luận cho tạp chí Văn Học Nghệ Thuật (nhưng việc không thành). Cảm giác đầu tiên của tôi về các nhà thơ nói chung là cái gì nhũn nhẽo, ẻo lả, yếu ớt, tí tởn, ham vui, đồng bóng. Và nhà thơ Đỗ Hoàng trưởng ban biên tập thơ của Tạp chí Nhà văn dường như còn vượt qua cả mức đó, anh sinh ra ở Quảng Bình nơi người ta nói như hát, rồi đi lính vào Huế nơi hát còn nhiều hơn nói, rồi anh lại là nhà thơ ngâm nga lới lơ, thành thử giọng của anh cứ võng võng ngòn ngọt một thứ chè nhão cho quá nhiều đường… thành thử sau khi gặp vài lần tôi cứ mặc định, lại một ông nhà thơ hâm hấp không nên chấp.
Thời gian sau, đặc biệt khi anh gọi với tôi, tôi dừng lại một cách khiên cưỡng gượng gạo có chút kiêu kỳ. Tôi đã cầm cuốn thơ dịch “Chinh Phụ Ngâm” của anh. Mặc dù trước đó tôi đã nghe và đọc những bài thơ anh dịch lại cả tiếng Việt, tôi vẫn cho là thứ “thừa công rồi nghề”. Tôi đọc “Chinh Phụ Ngâm” của anh với ý định: hãy cố bỏ chút đỉnh thời gian xem tay này công phá thần tượng ra sao? Triết gia Nietzsche có nói: “Rồi một ngày học trò sẽ phản thầy, vì chính học trò cũng có sứ mệnh phải làm thầy”. Đọc xong, tôi ngạc nhiên vì nhà thơ Đỗ Hoàng ít nhất là đã luôn bới việc thơ ra để làm với một tình yêu tự nhiên không thể nào sống nổi nếu không hít thở thơ. Thứ hai, anh đã dám cày xới lại luống cày đã định hình của các thần tượng để làm nên vụ mùa mới của mình.
Thời gian trôi đi không lâu, tôi nhận thấy trong con người của Đỗ Hoàng không đơn giản là một tâm hồn ngê nga thơ phú kiểu chè đường, mà là một con người rất có bản lĩnh thơ. Rất cứng rắn! Rất dũng cảm! Và hôm nay tôi quyết định viết về anh sau khi đã đọc tập thơ phản chiến rất sớm của anh có tên “Tâm sự người lính”. Cây nào quả nấy, chúng ta thử xem cái cây Đỗ Hoàng là gì?
Đỗ Hoàng trước hết khá giỏi tiếng Trung, có cả kho tàng thơ cổ trong người. Tôi đã nghe anh nói tiếng Anh, bình thơ có tiếng Pháp, lại còn nhắn tin cho tôi bằng tiếng Nga. Riêng về vốn thơ, tôi gặp ba người làm tôi đáng nể và luôn cho rằng họ giầu vốn thơ nhất Việt Nam, đó là, Đỗ Hoàng, Nguyễn Hưng Quốc và Trần Mạnh Hảo.

Nhà thơ Đỗ Hoàng và tập thơ Tâm sự người lính
Đó mới là vốn thơ! Nhưng còn ý chí thơ, sức sống thơ, và bản lĩnh thơ. Đỗ Hoàng là một quan chức thơ sống giữa môi trường thơ mậu dịch, vậy mà anh dám sống và sáng tác, bình thơ như một người cô đơn. Cô đơn là một cái gì hết sức tê tái đặc biệt là trong nền văn hóa tiểu nông cực kỳ lạc hậu và bè phái của Việt Nam. Nhà thơ, nhà văn hóa Inrasara đã nói, các nhà thơ Việt rất sợ bị cô đơn và cô lập. Chúng ta biết trong nền văn hóa tiểu nông giầu tính cục bộ đố kỵ của nước nhà, người ta dễ dàng bỏ rơi tập đoàn, đánh hội đồng vào cá nhân nào muốn có cá tính hay định chơi chòi. Người ta có thể đồng loạt yêu, đồng loạt ghét, đồng loạt bao vây, nhất quán trong cả hành động cô lập hiếu – hỉ, đăng bài hay rút bài… tóm lại rất tiểu nhân. Vậy mà Đỗ Hoàng dám phê phán nhiều nhà thơ, nền thơ bằng cách không ngại chỉ tận tay day tận trán, như: “…cái Văn chương Mậu Dịch dở hơi ngự trị văn đàn hơn 5 thập kỷ. Ai cũng biết nhưng không ai dám nói. Nguyễn Hoàng Đức đập Thanh Thảo là để đập vào nghìn thế hệ nói leo ăn theo, khen bừa, khen ẩu, nói láo. Tệ hại nhất là những tiến sỹ bò, học giả, học thật như Đỗ Lai Thúy, Hồ Thế Hà, Phạm Quang Trung, Văn Giá, Chu Văn Sơn và ông thấp học Phạm Xuân Nguyên không làm được cái tiến sỹ Vịt…”

Trước khi nói về thơ Đỗ Hoàng, tôi muốn bàn qua về bút pháp kẻo lại rơi vào tùy tiện khen – chê không chuẩn đích:
1- Tầm vóc của nhà thơ (cả nhà văn, và các loại nhà) được xác định đầu tiên bằng tính đề tài. Đề tài chim, hoa, cá, lá, gái thì không thể lớn bằng đề tài của thế giới, con người, chiến tranh hay hòa bình. Đề tài sinh họat vi mô ăn ngủ hút hít gái gú thì không thể bằng các đề tài đầu tiên đó là Sinh – Tử của con người.
2- Thơ hay không phải cứ viết bằng bút pháp phóng đại bột nở vống lên. Thơ hay luôn phải được dùng cái hư cấu kết hợp với tính chân thực. Chẳng hạn hai câu thơ vào loại hay nhất của Tây và Đông:
“Anh cùng tôi không một xu dính túi
Vẫn mua được hương thơm của cả trái đất này” (Whitman)
Hoặc:
“Mái chèo cắt vòm trời trên sóng biếc
Thuyền lướt lên trăng theo dòng nước nổi” (Giả Đảo)

Đỗ Hoàng là một người lính, nhưng thơ anh không chỉ đơn giản hành quân ra chiến trường để nhằm bắn và đếm xác cả quân thù lẫn quân ta. Nhà văn Bảo Ninh đã từng được báo chí phương Tây đánh giá rất cao khi gọi là “cuộc phản tỉnh đầu tiên của chiến tranh” ( The first reflexion of the war). Họ đánh giá cao vì cho đó là một ngoại lệ khác hẳn các nhà văn ăn tem phiếu chỉ viết theo định hướng ta đỏ địch đen, ta tốt địch xấu, ta chính nghĩa địch phi nghĩa, ta khôn ngoan địch nham hiểm, ta to địch bé, ta trước địch sau, ta chiến thắng vinh quang địch thất bại ê chề. Vậy thì có lẽ Đỗ Hoàng là một trong những nhà thơ hàng đầu đồ sộ viết về phản chiến.
Triết gia Kant có lẽ là người đầu tiên nêu ra khái niệm “Công dân nhân loại”. Công dân đó là người đã vượt khỏi lằn ranh biên giới, con người ai cũng là người, khi ngã xuống thì đều là một nhân mạng thiệt vong, người lính nông dân ở phía Bắc bắn chết người lính nông dân ở phía Nam, rõ ràng cả hai người chỉ làm theo mệnh lệnh của cấp trên, họ đều là giai cấp nông dân, không có chuyện họ là kẻ thù giai cấp của nhau.
Trong tâm hồn nhà thơ Đỗ Hoàng, mối ưu tư về nhân loại bao giờ cũng lên cao nhất, nó không chỉ là đỉnh cao mà là hệ thống, là con đường dằng dặc chạy lên đỉnh, chứ không phải mấy thoáng chốc bồng bột vu vơ. Đỗ Hoàng ưu tư và bộc bạch, sợ rằng con người sẽ quên đi bài học mất mát của chiến tranh:
Khi chiến tranh đi xa,
Cuộc đời hồi sinh lại.
Đã ai hiểu cho mà,
Có một thời dữ dội!
Thơ tôi rồi sẽ chết,
Như cuộc đời của tôi.
Qua tháng năm trận mạc,
Thời gian quên con người!
( THỜI GIAN QUÊN 11 – 1973)
Mối ưu tư của Đỗ Hoàng thường gắn với những gì kỳ vĩ, những nhãn quan vũ trụ, những suy nghĩ gắn liền với nguyên lý sống còn:
NGỦ QUÊN

Không có mặt trời,
Trái đất ngủ quên.
Trong triệu năm băng giá!
Không có con thuyền,
Dòng sông ngủ quên.
Và tự xoá mình khi về biển cả!
Không có người­ đi,
Con đ­ường ngủ quên .
Rồi cũng tan vào cây cỏ!
Không có tình yêu,
Trái tim
ngủ quên.
Huế 1983
Anh ra trận với một cây súng dường như cũng không có được giấc ngủ thiếp lịm của sắt thép vô tri mà nó luôn ưu tư vì sự điểm hỏa của mình. Ưu tư về một chiến trường nằm giữa hố thẳm yêu bạo lực của cả một thế giới còn hiếu sát. Vì suy tư trên tầm rộng lớn nên lời thơ của anh rất hào sảng mạnh mẽ:
Tôi đã hành quân dã chiến dưới đáy cuộc đời lớp lớp chiến binh.
Mới nhìn rõ trái tim đen ngòm hơn họng súng.
Mới biết chẳng có gì tốt đẹp như những triết lý rơm nghìn đời mộng tưởng.
Mỗi một ngày trái tim thêm nỗi đau thương!
Nghĩ về cuộc đời hôm nay
Người lính không thể dửng dưng.
Không thể hướng nòng súng mình theo những lời giả dối.
Không thể dại khờ hành quân đi tới
Tử địa chiến trường bờ vực của chiến tranh!
( NGHĨ VỀ CUỘC ĐỜI HÔM NAY)

Tình yêu và thương xót trong chiến tranh mới chỉ là cảm xúc thuần túy giành cho những gì đã mất ở cấp độ tình cảm, nhưng để có phản tỉnh người ta đã phải leo lên rất cao ở tầng lý trí. Chính Đỗ Hoàng đã bày tỏ cuộc sống suy tư trong sáng tạo của mình:
Tôi đã đi đến cái thực chất bên trong của cuộc chến đời này
Cái thực chất mà sử sách, thơ văn đương kim người ta chưa hề nói đến.
Mặc dù báo chí, loa đài ra rả suốt ngày đêm.
Cuộc đời ơi! Chẳng có gì quý mến
Nếu con người chẳng có nghĩ suy riêng!
( THỰC CHẤT CUỘC CHIÊN)

Cái nhìn đầu tiên của Đỗ Hoàng dường như luôn có tầm nhìn bao quát ở trên cao, trước khi nhìn thấy đồng đội của mình anh luôn thấy số phận của nhân loại đang lầm than mất mát trong chiến tranh. Một người lính ngã xuống dù ở bên nào liệu khi biết tin mẹ anh ta có đau xót không ? Và chính lô gic đó Đỗ Hoàng luôn nhìn xa trông rộng về một thế giới phủ bóng tang thương qua nhiều biên giới chiến tranh :

Đêm nay ai không ngủ?
Nghĩ số phận loài người.
Hận thù đang còn ngự,
Mấy triệu đời chưa thôi!

Trái đất đen một nửa,
Bom đạn găm đầy mình.
Những đường gươm ly loạn,
Đang chém nát hành tinh!
( SỐ PHẬN LOÀI NGƯỜI)
Đỗ Hoàng đã đặt ra cho mình cũng như loài người những câu hỏi rất lớn, những câu hỏi mang tầm vĩ mô, hỏi về con người với bản tính đầu tiên, xem có phải đó là thứ tâm hồn hiếu sát chỉ đòi ăn thịt đồng loại:
bao nhiêu triệu năm ta mới có được chữ Người
- dẫn ta tới những tình yêu kỳ lạ
- dẫn Ta tới cái căm hờn nghiệt ngã
trên hành tinh này nửa trắng, nửa đen.
( LOÀI NGƯỜI)
Sau câu hỏi về thế giới tồn tại trong không gian là câu hỏi về thời gian, về thời đại mà tác giả đang sống và hành quân, về những trận chiến làm đổ máu những người lính cả quân ta lẫn công dân nhân loại. Bên này hay bên kia chiến tuyến ư, họ chẳng là những con người sao ?
thế kỷ hai mươi
con người ở đâu cũng tàn ác như nhau!
đâu phân biệt bên kia bờ chiến tuyến!
đất bằng này
sẵn súng, sẵn dao
sẵn những lời đổi đen ra trắng!
cái chết ở đây
nào có khác gì.
phát súng bên này, phát súng bên kia.
( THẾ KỶ HAI MƯƠI )
Đỗ Hoàng giành cho những đồng đội của mình cái nhìn thật yêu thương và trìu mến. thậm chí một nỗi đau còn đến trước nỗi đau:

Lính lại vào đầy bến.
Chỗ chuyển quân bầm tím cả chân trời
Mùa đông đi ra trận,
Có ánh mắt nào vui!
Và:
Ngày mai không biết nơi nào đánh?
Nhất định có người phải chết oan!
Một cái nhìn không chỉ lo lắng việc sinh tử mà còn là thứ tình cảm tàn phai trống vắng hoang vu phía tình yêu. Một cái gì thật xót xa:
Anh hành quân qua những lề đời chật hẹp.
Nắng phai màu quân phục trái tim anh.
Và em ạ ! Em đừng thương tưởng tiếc.
Một con người trong đời lính chiến chinh!
Đỗ Hoàng suy tư rốt ráo về kết cục của cuộc chiến, kẻ thì chết, người trở về thì khánh kiệt sức lực và mất mát. Một mất mát không nằm trong chi thể mà còn bị vắt kiệt trong cả mơ ước. Một làng quê không còn ánh lửa thắp lên nghĩa là dường như khống có cả ánh sáng cho tư duy, còn người lính rệu rã quay về liệu có còn sinh lực cho những ước mơ ?
mẹ hiền đón anh,
một người trọng bệnh.
qua vạn năm chưa ai chữa cho lành!
bây giờ anh không muốn tìm về người thân,
bởi sức lực trong anh đã kiệt.
tuổi yêu đương ngày xưa đánh mất,
trái tim vết chém u bầm!
phía quê nhà không một ánh lửa thắp lên.
bom đạn xáo trộn cày sông bến.
người lính tần ngần như kẻ chưa hồi sinh sự sống,
nhìn tầng mây ngơ ngác giữa trời quê.
chiến tranh,
chiến tranh
là thế kia!
lứa tuổi yêu đương không còn mơ ước.

( TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH )
Lãnh tụ Stalin có nói: chiến tranh, chết chóc nhiều khi chỉ là những con số thống kê. Nhưng nhà thơ Đỗ Hoàng không nghĩ vậy, cái nhìn của anh là một nhà thơ phải mang tính nhân văn, thơ anh dường như bao sân đến tất cả những người lính, những khía cạnh vất vả, gian lao, hy sinh, và anh không quên giành cái nhìn thật thương xót cho những cô gái chân yếu tay mềm, cành vàng lá ngọc phải lấm láp cát bụi khói lửa và hy sinh tàn khốc của chiến trường. Trong bài “Lính Gái” anh viết:
Đoàn lính gái áo quần còn mới
Lứa lính này đưa tới miền trong.
Họ không hề bị đeo gông,
Mà sao ánh mắt mênh mông nỗi buồn!
Xương trắng phơi nẻo ra tiền tuyến
Mồ gái tơ diều liệng, chồn giay!.
Lớp này rồi lớp khác thay,
Màu cờ lau trắng rợn lay sa trường!
Và cái chết sẽ chờ mọi lối,
Trên con đường dẫn tới miền trong.
Chiến tranh dai dẳng chưa xong.
Còn bao nhiêu chuyện đau lòng xảy ra!

Rồi Đỗ Hoàng khóc than cho một người đẹp ngã xuống bằng một khúc bi ca thật trữ tình tráng lệ. Một tiếng khóc khiến người ta thấy chiến tranh đã tàn hủy và tiêu diệt cả cái đẹp đau xót hoài phí đến nhường nào:
CÁI CHẾT NGƯỜI ĐẸP

Em chết rồi.
Người đẹp!
Viên đạn của thế kỷ nào bắn em?
Anh sững sờ giữa trái đất máu đổ.
Xác em nằm trong huyền ảo xa xôi.

Anh đi trên trái đất cô đơn.
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.

Anh không thể nào viết nỗi lời thơ.
Khóc em để loài người nguyền rủa!
Trong vô biên
Mạng em thua hạt cỏ.
Khóc em
Anh phản lại Trường Tồn!
Chiến trường Quảng Trị tháng 1 – 1974
Người Việt có câu: có cứng mới đứng đầu gió, với vốn liếng văn hóa dạn dầy, dài rộng, sâu lắng, và thi ca kim cổ đông tây đồ sộ, lại mang một tầm nhìn lớn cho thơ, một tầm vóc hoành tráng cho chữ nghĩa, làm gì Đỗ Hoàng chẳng tự tin và dám tả xung hữu đột đối mặt với lực lượng làm thơ mậu dịch đông rinh ríc. Có một phát hiện mới của loài người rằng: sáng tạo là việc của cá nhân chứ không phải làm việc là sản phẩm của đám đông. Hàng nghìn, hàng vạn người làm việc cũng không thể được gọi là sáng tác mà đó chỉ là sản xuất. Chính thế văn thơ bao cấp nhiều khi chỉ là chỗ không người. tôi vừa chia sẻ sự cô lập của Đỗ Hoàng vừa buộc phải thán phục anh. Nếu không có tâm hồn chịu sóng gió cô lập trước đám đông vần vèo nhũn nhẽo thì làm sao có được một Đỗ Hoàng thơ ca hoành tráng như vậy, dám làm một cây bút hàng đầu phản tỉnh lại cuộc chiến “nồi da sáo thịt”?! Bái phục! Bái phục!
NHĐ 30/94/2013

Thơ phản chiên Đỗ Hoàng...

 01:44 27/04/2025

“TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH” TỪ BÓNG RÂM CHIẾN KHU
ĐẾN QUẢNG TRƯỜNG PHẢN TỈNH CỦA LƯƠNG TRI
( Viết về nhà thơ Đỗ Hoàng )
Nguyễn Hoàng Đức
Tôi gặp nhà thơ Đỗ Hoàng lần đầu tiên ở nhà tôi, anh đi cùng nhà văn Nguyễn Đình Chính đến để mời tôi giữ chân biên tập trang lý luận cho tạp chí Văn Học Nghệ Thuật (nhưng việc không thành). Cảm giác đầu tiên của tôi về các nhà thơ nói chung là cái gì nhũn nhẽo, ẻo lả, yếu ớt, tí tởn, ham vui, đồng bóng. Và nhà thơ Đỗ Hoàng trưởng ban biên tập thơ của Tạp chí Nhà văn dường như còn vượt qua cả mức đó, anh sinh ra ở Quảng Bình nơi người ta nói như hát, rồi đi lính vào Huế nơi hát còn nhiều hơn nói, rồi anh lại là nhà thơ ngâm nga lới lơ, thành thử giọng của anh cứ võng võng ngòn ngọt một thứ chè nhão cho quá nhiều đường… thành thử sau khi gặp vài lần tôi cứ mặc định, lại một ông nhà thơ hâm hấp không nên chấp.
Thời gian sau, đặc biệt khi anh gọi với tôi, tôi dừng lại một cách khiên cưỡng gượng gạo có chút kiêu kỳ. Tôi đã cầm cuốn thơ dịch “Chinh Phụ Ngâm” của anh. Mặc dù trước đó tôi đã nghe và đọc những bài thơ anh dịch lại cả tiếng Việt, tôi vẫn cho là thứ “thừa công rồi nghề”. Tôi đọc “Chinh Phụ Ngâm” của anh với ý định: hãy cố bỏ chút đỉnh thời gian xem tay này công phá thần tượng ra sao? Triết gia Nietzsche có nói: “Rồi một ngày học trò sẽ phản thầy, vì chính học trò cũng có sứ mệnh phải làm thầy”. Đọc xong, tôi ngạc nhiên vì nhà thơ Đỗ Hoàng ít nhất là đã luôn bới việc thơ ra để làm với một tình yêu tự nhiên không thể nào sống nổi nếu không hít thở thơ. Thứ hai, anh đã dám cày xới lại luống cày đã định hình của các thần tượng để làm nên vụ mùa mới của mình.
Thời gian trôi đi không lâu, tôi nhận thấy trong con người của Đỗ Hoàng không đơn giản là một tâm hồn ngê nga thơ phú kiểu chè đường, mà là một con người rất có bản lĩnh thơ. Rất cứng rắn! Rất dũng cảm! Và hôm nay tôi quyết định viết về anh sau khi đã đọc tập thơ phản chiến rất sớm của anh có tên “Tâm sự người lính”. Cây nào quả nấy, chúng ta thử xem cái cây Đỗ Hoàng là gì?
Đỗ Hoàng trước hết khá giỏi tiếng Trung, có cả kho tàng thơ cổ trong người. Tôi đã nghe anh nói tiếng Anh, bình thơ có tiếng Pháp, lại còn nhắn tin cho tôi bằng tiếng Nga. Riêng về vốn thơ, tôi gặp ba người làm tôi đáng nể và luôn cho rằng họ giầu vốn thơ nhất Việt Nam, đó là, Đỗ Hoàng, Nguyễn Hưng Quốc và Trần Mạnh Hảo.

Nhà thơ Đỗ Hoàng và tập thơ Tâm sự người lính
Đó mới là vốn thơ! Nhưng còn ý chí thơ, sức sống thơ, và bản lĩnh thơ. Đỗ Hoàng là một quan chức thơ sống giữa môi trường thơ mậu dịch, vậy mà anh dám sống và sáng tác, bình thơ như một người cô đơn. Cô đơn là một cái gì hết sức tê tái đặc biệt là trong nền văn hóa tiểu nông cực kỳ lạc hậu và bè phái của Việt Nam. Nhà thơ, nhà văn hóa Inrasara đã nói, các nhà thơ Việt rất sợ bị cô đơn và cô lập. Chúng ta biết trong nền văn hóa tiểu nông giầu tính cục bộ đố kỵ của nước nhà, người ta dễ dàng bỏ rơi tập đoàn, đánh hội đồng vào cá nhân nào muốn có cá tính hay định chơi chòi. Người ta có thể đồng loạt yêu, đồng loạt ghét, đồng loạt bao vây, nhất quán trong cả hành động cô lập hiếu – hỉ, đăng bài hay rút bài… tóm lại rất tiểu nhân. Vậy mà Đỗ Hoàng dám phê phán nhiều nhà thơ, nền thơ bằng cách không ngại chỉ tận tay day tận trán, như: “…cái Văn chương Mậu Dịch dở hơi ngự trị văn đàn hơn 5 thập kỷ. Ai cũng biết nhưng không ai dám nói. Nguyễn Hoàng Đức đập Thanh Thảo là để đập vào nghìn thế hệ nói leo ăn theo, khen bừa, khen ẩu, nói láo. Tệ hại nhất là những tiến sỹ bò, học giả, học thật như Đỗ Lai Thúy, Hồ Thế Hà, Phạm Quang Trung, Văn Giá, Chu Văn Sơn và ông thấp học Phạm Xuân Nguyên không làm được cái tiến sỹ Vịt…”

Trước khi nói về thơ Đỗ Hoàng, tôi muốn bàn qua về bút pháp kẻo lại rơi vào tùy tiện khen – chê không chuẩn đích:
1- Tầm vóc của nhà thơ (cả nhà văn, và các loại nhà) được xác định đầu tiên bằng tính đề tài. Đề tài chim, hoa, cá, lá, gái thì không thể lớn bằng đề tài của thế giới, con người, chiến tranh hay hòa bình. Đề tài sinh họat vi mô ăn ngủ hút hít gái gú thì không thể bằng các đề tài đầu tiên đó là Sinh – Tử của con người.
2- Thơ hay không phải cứ viết bằng bút pháp phóng đại bột nở vống lên. Thơ hay luôn phải được dùng cái hư cấu kết hợp với tính chân thực. Chẳng hạn hai câu thơ vào loại hay nhất của Tây và Đông:
“Anh cùng tôi không một xu dính túi
Vẫn mua được hương thơm của cả trái đất này” (Whitman)
Hoặc:
“Mái chèo cắt vòm trời trên sóng biếc
Thuyền lướt lên trăng theo dòng nước nổi” (Giả Đảo)

Đỗ Hoàng là một người lính, nhưng thơ anh không chỉ đơn giản hành quân ra chiến trường để nhằm bắn và đếm xác cả quân thù lẫn quân ta. Nhà văn Bảo Ninh đã từng được báo chí phương Tây đánh giá rất cao khi gọi là “cuộc phản tỉnh đầu tiên của chiến tranh” ( The first reflexion of the war). Họ đánh giá cao vì cho đó là một ngoại lệ khác hẳn các nhà văn ăn tem phiếu chỉ viết theo định hướng ta đỏ địch đen, ta tốt địch xấu, ta chính nghĩa địch phi nghĩa, ta khôn ngoan địch nham hiểm, ta to địch bé, ta trước địch sau, ta chiến thắng vinh quang địch thất bại ê chề. Vậy thì có lẽ Đỗ Hoàng là một trong những nhà thơ hàng đầu đồ sộ viết về phản chiến.
Triết gia Kant có lẽ là người đầu tiên nêu ra khái niệm “Công dân nhân loại”. Công dân đó là người đã vượt khỏi lằn ranh biên giới, con người ai cũng là người, khi ngã xuống thì đều là một nhân mạng thiệt vong, người lính nông dân ở phía Bắc bắn chết người lính nông dân ở phía Nam, rõ ràng cả hai người chỉ làm theo mệnh lệnh của cấp trên, họ đều là giai cấp nông dân, không có chuyện họ là kẻ thù giai cấp của nhau.
Trong tâm hồn nhà thơ Đỗ Hoàng, mối ưu tư về nhân loại bao giờ cũng lên cao nhất, nó không chỉ là đỉnh cao mà là hệ thống, là con đường dằng dặc chạy lên đỉnh, chứ không phải mấy thoáng chốc bồng bột vu vơ. Đỗ Hoàng ưu tư và bộc bạch, sợ rằng con người sẽ quên đi bài học mất mát của chiến tranh:
Khi chiến tranh đi xa,
Cuộc đời hồi sinh lại.
Đã ai hiểu cho mà,
Có một thời dữ dội!
Thơ tôi rồi sẽ chết,
Như cuộc đời của tôi.
Qua tháng năm trận mạc,
Thời gian quên con người!
( THỜI GIAN QUÊN 11 – 1973)
Mối ưu tư của Đỗ Hoàng thường gắn với những gì kỳ vĩ, những nhãn quan vũ trụ, những suy nghĩ gắn liền với nguyên lý sống còn:
NGỦ QUÊN

Không có mặt trời,
Trái đất ngủ quên.
Trong triệu năm băng giá!
Không có con thuyền,
Dòng sông ngủ quên.
Và tự xoá mình khi về biển cả!
Không có người­ đi,
Con đ­ường ngủ quên .
Rồi cũng tan vào cây cỏ!
Không có tình yêu,
Trái tim
ngủ quên.
Huế 1983
Anh ra trận với một cây súng dường như cũng không có được giấc ngủ thiếp lịm của sắt thép vô tri mà nó luôn ưu tư vì sự điểm hỏa của mình. Ưu tư về một chiến trường nằm giữa hố thẳm yêu bạo lực của cả một thế giới còn hiếu sát. Vì suy tư trên tầm rộng lớn nên lời thơ của anh rất hào sảng mạnh mẽ:
Tôi đã hành quân dã chiến dưới đáy cuộc đời lớp lớp chiến binh.
Mới nhìn rõ trái tim đen ngòm hơn họng súng.
Mới biết chẳng có gì tốt đẹp như những triết lý rơm nghìn đời mộng tưởng.
Mỗi một ngày trái tim thêm nỗi đau thương!
Nghĩ về cuộc đời hôm nay
Người lính không thể dửng dưng.
Không thể hướng nòng súng mình theo những lời giả dối.
Không thể dại khờ hành quân đi tới
Tử địa chiến trường bờ vực của chiến tranh!
( NGHĨ VỀ CUỘC ĐỜI HÔM NAY)

Tình yêu và thương xót trong chiến tranh mới chỉ là cảm xúc thuần túy giành cho những gì đã mất ở cấp độ tình cảm, nhưng để có phản tỉnh người ta đã phải leo lên rất cao ở tầng lý trí. Chính Đỗ Hoàng đã bày tỏ cuộc sống suy tư trong sáng tạo của mình:
Tôi đã đi đến cái thực chất bên trong của cuộc chến đời này
Cái thực chất mà sử sách, thơ văn đương kim người ta chưa hề nói đến.
Mặc dù báo chí, loa đài ra rả suốt ngày đêm.
Cuộc đời ơi! Chẳng có gì quý mến
Nếu con người chẳng có nghĩ suy riêng!
( THỰC CHẤT CUỘC CHIÊN)

Cái nhìn đầu tiên của Đỗ Hoàng dường như luôn có tầm nhìn bao quát ở trên cao, trước khi nhìn thấy đồng đội của mình anh luôn thấy số phận của nhân loại đang lầm than mất mát trong chiến tranh. Một người lính ngã xuống dù ở bên nào liệu khi biết tin mẹ anh ta có đau xót không ? Và chính lô gic đó Đỗ Hoàng luôn nhìn xa trông rộng về một thế giới phủ bóng tang thương qua nhiều biên giới chiến tranh :

Đêm nay ai không ngủ?
Nghĩ số phận loài người.
Hận thù đang còn ngự,
Mấy triệu đời chưa thôi!

Trái đất đen một nửa,
Bom đạn găm đầy mình.
Những đường gươm ly loạn,
Đang chém nát hành tinh!
( SỐ PHẬN LOÀI NGƯỜI)
Đỗ Hoàng đã đặt ra cho mình cũng như loài người những câu hỏi rất lớn, những câu hỏi mang tầm vĩ mô, hỏi về con người với bản tính đầu tiên, xem có phải đó là thứ tâm hồn hiếu sát chỉ đòi ăn thịt đồng loại:
bao nhiêu triệu năm ta mới có được chữ Người
- dẫn ta tới những tình yêu kỳ lạ
- dẫn Ta tới cái căm hờn nghiệt ngã
trên hành tinh này nửa trắng, nửa đen.
( LOÀI NGƯỜI)
Sau câu hỏi về thế giới tồn tại trong không gian là câu hỏi về thời gian, về thời đại mà tác giả đang sống và hành quân, về những trận chiến làm đổ máu những người lính cả quân ta lẫn công dân nhân loại. Bên này hay bên kia chiến tuyến ư, họ chẳng là những con người sao ?
thế kỷ hai mươi
con người ở đâu cũng tàn ác như nhau!
đâu phân biệt bên kia bờ chiến tuyến!
đất bằng này
sẵn súng, sẵn dao
sẵn những lời đổi đen ra trắng!
cái chết ở đây
nào có khác gì.
phát súng bên này, phát súng bên kia.
( THẾ KỶ HAI MƯƠI )
Đỗ Hoàng giành cho những đồng đội của mình cái nhìn thật yêu thương và trìu mến. thậm chí một nỗi đau còn đến trước nỗi đau:

Lính lại vào đầy bến.
Chỗ chuyển quân bầm tím cả chân trời
Mùa đông đi ra trận,
Có ánh mắt nào vui!
Và:
Ngày mai không biết nơi nào đánh?
Nhất định có người phải chết oan!
Một cái nhìn không chỉ lo lắng việc sinh tử mà còn là thứ tình cảm tàn phai trống vắng hoang vu phía tình yêu. Một cái gì thật xót xa:
Anh hành quân qua những lề đời chật hẹp.
Nắng phai màu quân phục trái tim anh.
Và em ạ ! Em đừng thương tưởng tiếc.
Một con người trong đời lính chiến chinh!
Đỗ Hoàng suy tư rốt ráo về kết cục của cuộc chiến, kẻ thì chết, người trở về thì khánh kiệt sức lực và mất mát. Một mất mát không nằm trong chi thể mà còn bị vắt kiệt trong cả mơ ước. Một làng quê không còn ánh lửa thắp lên nghĩa là dường như khống có cả ánh sáng cho tư duy, còn người lính rệu rã quay về liệu có còn sinh lực cho những ước mơ ?
mẹ hiền đón anh,
một người trọng bệnh.
qua vạn năm chưa ai chữa cho lành!
bây giờ anh không muốn tìm về người thân,
bởi sức lực trong anh đã kiệt.
tuổi yêu đương ngày xưa đánh mất,
trái tim vết chém u bầm!
phía quê nhà không một ánh lửa thắp lên.
bom đạn xáo trộn cày sông bến.
người lính tần ngần như kẻ chưa hồi sinh sự sống,
nhìn tầng mây ngơ ngác giữa trời quê.
chiến tranh,
chiến tranh
là thế kia!
lứa tuổi yêu đương không còn mơ ước.

( TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH )
Lãnh tụ Stalin có nói: chiến tranh, chết chóc nhiều khi chỉ là những con số thống kê. Nhưng nhà thơ Đỗ Hoàng không nghĩ vậy, cái nhìn của anh là một nhà thơ phải mang tính nhân văn, thơ anh dường như bao sân đến tất cả những người lính, những khía cạnh vất vả, gian lao, hy sinh, và anh không quên giành cái nhìn thật thương xót cho những cô gái chân yếu tay mềm, cành vàng lá ngọc phải lấm láp cát bụi khói lửa và hy sinh tàn khốc của chiến trường. Trong bài “Lính Gái” anh viết:
Đoàn lính gái áo quần còn mới
Lứa lính này đưa tới miền trong.
Họ không hề bị đeo gông,
Mà sao ánh mắt mênh mông nỗi buồn!
Xương trắng phơi nẻo ra tiền tuyến
Mồ gái tơ diều liệng, chồn giay!.
Lớp này rồi lớp khác thay,
Màu cờ lau trắng rợn lay sa trường!
Và cái chết sẽ chờ mọi lối,
Trên con đường dẫn tới miền trong.
Chiến tranh dai dẳng chưa xong.
Còn bao nhiêu chuyện đau lòng xảy ra!

Rồi Đỗ Hoàng khóc than cho một người đẹp ngã xuống bằng một khúc bi ca thật trữ tình tráng lệ. Một tiếng khóc khiến người ta thấy chiến tranh đã tàn hủy và tiêu diệt cả cái đẹp đau xót hoài phí đến nhường nào:
CÁI CHẾT NGƯỜI ĐẸP

Em chết rồi.
Người đẹp!
Viên đạn của thế kỷ nào bắn em?
Anh sững sờ giữa trái đất máu đổ.
Xác em nằm trong huyền ảo xa xôi.

Anh đi trên trái đất cô đơn.
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.

Anh không thể nào viết nỗi lời thơ.
Khóc em để loài người nguyền rủa!
Trong vô biên
Mạng em thua hạt cỏ.
Khóc em
Anh phản lại Trường Tồn!
Chiến trường Quảng Trị tháng 1 – 1974
Người Việt có câu: có cứng mới đứng đầu gió, với vốn liếng văn hóa dạn dầy, dài rộng, sâu lắng, và thi ca kim cổ đông tây đồ sộ, lại mang một tầm nhìn lớn cho thơ, một tầm vóc hoành tráng cho chữ nghĩa, làm gì Đỗ Hoàng chẳng tự tin và dám tả xung hữu đột đối mặt với lực lượng làm thơ mậu dịch đông rinh ríc. Có một phát hiện mới của loài người rằng: sáng tạo là việc của cá nhân chứ không phải làm việc là sản phẩm của đám đông. Hàng nghìn, hàng vạn người làm việc cũng không thể được gọi là sáng tác mà đó chỉ là sản xuất. Chính thế văn thơ bao cấp nhiều khi chỉ là chỗ không người. tôi vừa chia sẻ sự cô lập của Đỗ Hoàng vừa buộc phải thán phục anh. Nếu không có tâm hồn chịu sóng gió cô lập trước đám đông vần vèo nhũn nhẽo thì làm sao có được một Đỗ Hoàng thơ ca hoành tráng như vậy, dám làm một cây bút hàng đầu phản tỉnh lại cuộc chiến “nồi da sáo thịt”?! Bái phục! Bái phục!
NHĐ 30/94/2013

Nguyễn quang Thiều không biêt làm văn chương

 05:22 11/04/2025

NGUYỄN QUANG THIỀU KHÔNG BẾT LÀM VĂN CHƯƠNG
Đỗ Hoàng
Nguyễn Quang Thiều viết thơ cũng hỏng (ra vô lối – thi tặc):“ Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua/Như dao sắc phất vào tôi tứa máu/Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói/Rằng nếu tôi lấy họ/Tôi sẽ ngủ với họ thế nào- Sự mất ngủ của lửa. Câu nầy quê tôi gọi giả đò hỏi – giả vờ hỏi – giả đò đui giòm lồn – giả mù xem lồn! Viết văn thì văn nô – Kẻ ám sát cánh đồng!- Chúng ta những ngọn gió thức dậy từ những nơi mà các ngươi không bao giờ biết được. Và các ngươi cũng không thể nào biêt được nơi chốn chúng ta sẽ đên. Đấy vừa là quyền uy vừa là bí mật của chúng ta. “ Thông điệp của những ngọn gió” - Chuyên đê Viết & Đọc” Sáo rỗng, dao to búa lớn, tù mù, khệnh khạng…(Đỗ Hoàng)
Các Cụ thời Pháp thuộc như Huy Cận, Xuân Diệu học trường Tây, cụ Huy Cận kể: “Họ hỏi mính chọn ngoại gì? “ Mình báo tiếng An nam! Nhờ thế mình viết được “Tràng giang”. Nếu mình học tiếng Anh thì mình có thể làm những bái ảnh hưởng của Bairon, Philip Larkin, George Orwell, William Golding. Ted Hughes, Doris Lessing . Đến nay chả ai nhớ thơ mình!
Các Cụ khiêm tốn nói thế chứ các Cụ học đến đại học thì tiếng Việt, chữ Hán của các Cụ cũng khá lám rồi. Những thiên – trời, địa – đát, tử - mât, tồn - còn, tử - con, tôn – cháu, lục – sáu, tam – ba, gia – nhà, quốc – nước, tiền – trước – hậu – sau, ngưu – trâu, mã – ngưa, cự - cửa, nha – răng, vô – chăng, hữu – có, khuyển – chó, dương – dê, qui - về, bái - lạy, qụy – quỳ, khứ - đi, lai – lại, nữ - gái, nam – trai, đái – đai, quan – mũ, túc – đủ, đa - nhiều, ái yêu, tăng – ghét, thức – biết, tri – hay, mộc – cây, căn rể…các Cụ thuộc như cháo. Bây giờ các người làm văn chương mà không biết Hán – Việt là một thiệt thòi lớn!
(trích) THÔNG ĐIỆP (通牒) CỦA NHỮNG NGỌN GIÓ – Nguyễn Quang Thiều
Chúng ta những ngọn gió thức dậy từ những nơi mà các ngươi không bao giờ biết được. Và các ngươi cũng không thể nào biêt được nơi chốn chúng ta sẽ đên. Đấy vừa là quyền uy ( 权威) vừa là bí mật (祕密) của chúng ta. Chỉ khi chúng ta tràn qua các ngươi thì các ngươi mới biết sự (亊) hiện diện (現面) của chúng ta. Mọi sự nổ lực (努力) săn tìm của sác ngươi đều bất lực (不力).C Chúng ta vừa lướt mình trên các ngươi vừa cất tiêng về Tự do (自由).
Chúng ta bay lượn trên bàu trời kỳ vĩ (奇伟)và lướt trên dất đai bât tận (不儘) từ ban mai đên đêm tối. Chúng ta không thuộc quyền sở hữu (属拳所有)của bất cứ ai nhưng hiện diện (現面) trong mọi ngóc ngách của đời sống này, tham dự(與)vào đời sống của mọi con người.
Chúng ta làm cho những cái cây bất động (不動) như đã chết trở nên quyến r(卷) rũ và kiêu hãnh (憍婞). Các ngươi hãy ngước măt lên những vòm lá. Chúng ta đang ngự trị (御治) ở dó. Chúng ta làm cho những chiếc lá bị phủ đầy bụi thức dậy và ngân (听) vang như những tiếng chuông vàng. Chúng ta làm cho những cái cây yếu hèn và sợ hãi phải cúi đầu. Chúng ta làm cho những cái cây có ý chí (意志) biết lớn lên trong bão táp trở thành (成) những cái cây bền vững và kỳ vĩ (奇伟)Trong những đêm tối của cô độc (孤独,chúng ta mang tiếng thì thầm của các Thiên thần (天神)qua khu vườn. Chúng ta mang đến cho những người đang thao thức trong đêm tối những điều nhân văn (人文), giai điệu kỳ diệu (佳調奇妙)của chúng ta. Chúng ta lách mình qua cửa và thì thầm với một cố bé,’ Hãy mở của giấc mơ của em ra”. Và trong giấc mơ lộng (弄)lẫy ngập tràn ánh Thiên thanh (映天青), cô bé xòe dôi cánh móng và thơm như nhưng cánh hoa tầm xuân nở trong ngày đầu xuân, bay đến xứ sở thần tiên (處所神仙) của mình. (hết tích)
Tôi ở trong miền Trung ra học Hà Nội nghe tin đồn Nguyễn Quang Thiều gia đình hiểm hoi nên xin Thiều con của người Chăm làm con nuôi vì thấy Thiều giông giống người Chăm!
Nhưng đọc trang viết của Thiêu ở trên thi Thiều đich thưc là Tàu Ô! Viết thế mặt mũi nào đi làm văn chương!

Chuyển truyện ngắn ra Thơ

 05:02 06/04/2025

VÌ SAO TÔI DỊCH “THƠ VIỆT” RA THƠ VIỆT

Đỗ Hoàng

Tôi không phải là nhà phê bình chuyên nghiệp, nên thấy thơ thích là đọc, không thích thì thôi. Hơn nữa tôi là người làm thơ, mà thơ thì trăm người trăm vẻ, người thích kiểu này, người thích kiểu kia, không ai giống ai. Mình chê thơ người ta thì khác nào chị hàng cá nguýt chị hàng thịt. Vậy nên khi các kiểu thơ đua nhau ra đời, thậm chí có tác giả thơ được lăng xê này nọ hoặc đoạt những giải thưởng do nhiều tổ chức trao tặng, tôi vẫn mảy may làm im.
Nhưng rồi càng ngày càng thấy nhiều người sa đà vào viết kiểu thơ tắc tỵ hoặc dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống ( tức là đa ngôn ) thơ không vẫn, không điệu, không giống Việt, cũng chẳng ra Tàu, ra Tây. Thơ họ giống như người nước ngoài học 100 tiết tiếng Việt làm thơ Việt, cũng như chúng ta học 100 tiết tiếng Anh làm thơ tiếng Anh! Ấy vậy mà cũng có người hết lời ca ngợi xem đó là cách tân, đổi mới thơ Việt. Thật ra khi đọc kỹ thì thấy những người viết ấy chẳng có gì là cách tân, đổi mới, họ chỉ khuấy nước đục lên để không ai biết cái ao thơ của họ quá cạn mà thôi. Họ càng làm tắc tỵ để càng nhiều người không hiểu, để họ càng “thiên tài”.
Lại thêm nhiều người viết ca ngợi. Tôi thấy không đúng. Người không hiểu thơ, ca ngợi đã đành; người hiểu thơ cũng vì thế này, thế nọ mà ca ngợi là không được!. Cái hại cuói cùng không phải người làm thơ đích thực mà hại cho người đọc. Người đọc hoang mang không biết định hướng thế nào, đâu là thật, đâu là giả, vàng thau lẫn lộn! Họ hoang mang vì họ thấy những nhà phê bình có tên tuổi khen, những nhà thơ có thương hiệu khen. Như vậy thật là bất công.
Tôi thấy tôi phải làm một việc gì đó họa may cung cấp một thông tin chính xác cho người đọc về cái gọi là “ Thơ ” đang ngự trị văn đàn.. Tôi chẳng có diễn đàn nào, thôi chỉ có cách duy nhất là dịch nó ra thơ Việt, vừa cho mình hiểu biết đâu có người nào đó hiểu cũng được, thế là mừng rồi! Rồi đi đọc chui, xuất bản “miệng”!
Dịch những kiểu viết trên ra thơ Việt, tôi cũng áy náy lắm! Không cứ là thơ mà mọi điều trong cuộc sống đều phải luôn luôn mới, không có đổi mới tức là sự sống bị ngừng trệ! Nhưng đổi mới như thế nào?
Bố mẹ để cho cái nhà, mình chỉ xây thêm một gác nhỏ là mới rồi.; chứ bỏ nó đi rồi ra đồng che một túp rạ cũng gọi là mới sao? Chỉ cần một cơn gió nhẹ thì túp lều ấy bay ra thành bụi. Chưa nói đến chó sủa, mèo kêu cũng hoảng hồn! Rồi còn bọn trộm cướp đầy đường, đầy chợ!
Nhà thơ Hàn Mặc Tử có viết: “ Vẫn biết nghệ thuật chuộng ở sự tiến bộ, sự hoàn toàn từ tinh thần đến hình thức của bài thơ, song le ta không quên rằng, thơ của ta là thơ Quốc âm. Ta phải giữ đúng tinh thần Việt Nam của ta. Hơn nữa cái tinh thần phương Đông là nhờ ở cái đẹp kín đáo, cái tình sâu sắc, cái buồn thấm thía.”
Ngay cả cổ nhân cũng dạy: “Công phu thâm xứ thi bình dị” ( Thơ đạt đến chỗ thâm hậu công phu hay nhất vẫn là thơ rất bình dị ).
Trên thế giới này chưa có một nhà thơ thiên tài nào tự mình tạo ra được một hình thức của thơ kể cả Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, Lục Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Puskin…
Bỡi vì hình thức thơ của một dân tộc phải trải qua hàng nghìn năm mới có. Dân tộc ta cũng vậy mà các dân tộc trên thế giới cũng thế.
Rồi còn vần điệu. Những câu có vần điệu chưa phải là thơ. Nhưng đã là thơ có vần điệu thì đạt đến mức tuyệt bích. Từ khi mới có loài người, các tộc người chưa có quá một nghìn từ để trao đổi đã có thơ không vần. Loài người tìm ra vần điệu trong ngôn ngữ chẳng khác nào trong cuộc đời mình loài người tìm ra lửa. Trong tiến trình lịch sử tiến lên, thơ không vần điệu bị loại bỏ, chỉ còn thơ có vần điệu. Nhưng thời hiện đại, khi tư duy con người phát triển, những suy nghĩ đột phá, những ý tưởng độc đáo cũng để lại trong trí nhớ người đọc thì thơ không vần có chỗ đứng và trở thành hàng “độc”. Tuy vậy trên thế giới này những bài thơ không vần được người đời ghi nhận cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay! Làm thơ không vần cũng giống như đi xiếc trên dây, rất dễ thất bại!
Bây giờ có người làm thơ in đến bảy tám tập thơ không vần để bắt đọc giả coi đó là thơ siêu việt thì là một điều hoang tưởng!
Nhiều tác giả cắt, chẻ câu thơ, xuống dòng lên dòng một cách tùy tiện, viết không vần , không điệu một cách lạm phát, đấy chưa phải là sáng tạo ra hình thức thơ mới. Đấy chỉ là sự làm rối rắm lên mà thôi!
Tôi là người dịch Đường thi, tôi thấy những kiểu thơ bầy giờ nó còn lởm khởm hơn cả bản dịch nghĩa thơ của nước ngoài ra tiếng Việt. Người Việt mình có nhiều cách nghĩ, cách cảm, cách nói phong phú mà nhiều người không phát huy mà còn lược bỏ đi thì thật đáng tiếc!
Khi đọc bài thơ “ Mẹ sinh tôi” in trên phụ san Thơ - Báo Văn nghệ năm 2003 của một nhà thơ có câu:
“ Mẹ sinh tôi ra từ dưới đáy xã hội
Cũng từ dưới đáy xã hội, mẹ tôi nuôi tôi lớn lên…”
Tôi nảy ra ý nghĩ: - Hai câu thơ này có thể chuyển ra câu thơ lục bát truyền thống của Việt Nam nhưng vẫn không mất ý nghĩa mà còn giản bỏ nhiều từ thừa. Thế là tôi dịch:
“ Mẹ sinh tôi duới đáy đời,
Nuôi tôi khôn lớn nên người hôm nay…”
Khi đọc khổ thơ của một tác giả khác:
“ Đêm rơi qua dải khăn mây
Gió đợi chờ thơ thác
Nảy đọt yêu thương
Lớn trên tay những mầm khao khát
Khẻ về sắc cỏ thanh miên..”
Tôi nghĩ là tác giả này có tứ rất là hay, sao không thể hiện cái hay của mình mà đi nói lảm nhảm, thật uổng phí. Tôi liền dịch nó ra thơ Việt:
“Mây đêm buông xuống bất ngờ,
Thơ reo tiếng nhac, gió chờ đợi nhau.
Tình yêu có phép nhiệm màu,
Dồn khao khát nhớ lên đầu ngón tay!...”
Đến khi đọc Tạp chí Thơ số 5 năm 2006 có bài thơ “Ngươi Dig an” của một nhà thơ :
“Người Di gan không buồn/ chỉ biết hát/ nhiệt cuồng và mê loạn

người Di gan không đau/ chỉ biết múa/ vũ điệu ngã nghiêng phố xá/ rạch rúi làm xiếc diễn tuồng

người Di gan không khóc/ chỉ biết cười/ chào mời đổi chác/ giơ tay xin giơ tay vẫy mặt trời”
Viết thế là không hiểu con người. Một con người bình thương cũng không phải thế, huống gì cả dân tộc thương khó như dân tộc Di gan. Họ suôt đời lang thang kiếm sống bằng lời ca, điệu múa, họ đau buồn lắm chứ, tôi liền dịch:
“ Người Di gan quên buồn!
Khi họ múa, họ hát.
Nhiệt cuồng và mê thác,
Suốt ngày dài đêm thâu!

Người Di gan quên đau!
Khi họ hát và múa
Vũ điệu nghiêng phường phố,
Thân làm xiếc, diễn tuồng!

Người Di gan thậm buồn!
Tiếng cười thay tiếng khóc
Chào mời và đổi chác
Ngửa tay ăn xin trời!”
Thế là từ đó, khi đọc các loại thơ trên, tôi thấy bài nào quá tắc tỵ, quá đa ngôn tôi liền dịch ra thơ Việt. Lúc đầu tôi dịch để tự mình cố hiểu tác giả họ viết gì, hơn nữa khi tôi dịch ra thơ Việt, tôi mới nhớ bài thơ của họ qua bản dịch của tôi. Hầu như bài thơ nào tôi dịch lại tôi đều thuộc, còn đọc nguyên bản dù tôi là người học khoa học tự nhiên tôi không tài nào thuộc được! Sau đó thì đọc cho anh em thân hữu nghe, thay một lời phê bình!
Khi có Blog, tôi post lên blog chơi, giao lưu với mọi người.
Tôi được một nửa anh em, bạn bè đồng tình, nhà thơ Nguyễn Trác – Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn, nhà thơ Lê Đình Cánh, nhà văn Văn Vinh động viên tôi cứ dịch; một nửa phản đối kịch liệt. Thậm chí khi tôi trích dẫn những câu thơ tục tỉu của các tác giả để phê phán, họ lại vu cho tôi là người làm bẩn thỉu, làm ô uế blog và cảnh cáo blog tôi một tuần, nhưng vì bị sự cố nên bị cấm mất gần một tháng. Tất cả bài vở đều bị delete hết!
Số đồng tình viết trên blog của tôi, ca ngợi việc làm này! Tôi nhớ có chị Phương Phương, anh Nguyên Hùng, Tùng Bách, Nguyễn Đức Đát, Vương Trọng, Hồ Văn Thiện, Trần Quang Đạo, Nguyễn Hữu Quý…. Họ đều là những nhà thơ cự phách, nhà quản lý kinh tế, nhà khoa học. Anh Nguyên Hùng còn là tiến sỹ khoa học ở Nga, dịch giả thơ Nga!
Nhiều tác giả tán đồng bảo rằng: - Tôi đã làm rõ nghĩa các bài thơ mà khi đọc nguyển bản, họ không hiểu ra. Nhà thơ Nguyên Hùng viết:
“ Hoan hô bác Đỗ thật cừ,
Dịch Văn Cầm Hải cứ như uống trà.
Nguyên bản em đọc không ra,
Nhờ qua bản dịch biết là thật hay!”

Nhà thơ Tùng Bách viết:
“Kể ra chú cũng hào hoa
Dịch thơ Việt ra thơ Ta tuyệt vời
Riêng vụ “ Hoe chân lời” ( Một bài thơ tắc tỵ của Văn Cầm Hải )
Chú cũng phiên được, khiến tôi phục tài !”.
Nhà thơ Tùng Bách viết tiếp:
“Đỗ Hoàng là thi sỹ có công đầu trong việc giữ gìn sự trong sáng thơ Việt”.
Anh Hồ Văn Thiện viết: “Đỗ Hoàng đã làm một công việc tuyệt vời, còn khó hơn dịch thơ Tàu, thơ Tây ra tiếng Việt”
Ngay nhà thơ Hoàng Vũ Thuật khi tôi dịch bài “Mãi viên trà” của anh ra thơ Việt, anh cũng viết cho tôi: “Đỗ Hoàng dịch như thế là sát nghĩa, vừa sáng tạo lại mà không làm mất nguyên bản, thế cũng là tài hoa!”.
Nhưng cũng có nhiều ý kiến phản bác, có người viết tên thật, có người nặc danh, “ khủng bố”, viết với một thái độ hằn học quá đáng!
Ý kiến phản ứng của họ là:- Đỗ Hoàng đã làm một công việc vô bổ, làm trò cười cho thiên hạ, có lẽ ông bị điên hay ông tự quảng cáo mình. Nếu tự quảng cáo thì ông được điểm 9, còn các tác giả ấy họ được điểm 10. Cô Kim Oanh ( Bình Định ), cô Võ Thanh Hoa ( Vũng Tàu ), Khải Nguyên ( không biết ở đâu ) thì gay gắt hơn : “ Mỗi nhà thơ họ có đọc giả của họ, ông có đọc giả của ông, chúng tôi phản đối việc làm của ông! Cảnh cáo blog của ông là một việc làm rất đúng, để răn dạy người khác!”
Tự tôi, tôi thấy rằng, không chỉ làm thơ mà viết văn, để cho người đọc không hiểu và ngay cả bản thân mình không hiểu là có lỗi với công chúng, đó là chưa kể về sự sai lầm thi pháp, trong tư duy, và quy luật tâm lý tình cảm của con người. Nhà thơ Vương Trọng viết cho tôi:
“ Miệt mài chú dịch thơ Ta
Điên đầu nhức óc để ra cái gì?
Tự mình hành hạ làm chi!
Rồi thì nằm khểnh, thích thì uống bia.
Đặt bày trò nọ, trò kia,
Còn hơn chú định hành nghề dịch chui.
Lung tung họ nói những lời,
Họ còn chẳng hiểu, chú thời hiểu sao?
Chi bằng kệ họ với nhau!”
Đỗ Phủ đã từng nói: “Thi bất kinh nhân, tử bất hưu” ( Thơ chưa làm xúc động lòng ngươi, chết chưa yên!”
Cái được, cái không được chỉ chờ độc giả phán quyết! Còn thâm tâm tôi, tôi muốn phân vàng ra thau ra thau!. Đời lừa chúng ta nhiều quá rồi, các nhà thơ không nên lừa người đọc nữa!
Xin chờ ý kiến của mọi người!

Hà Nội ngày 23 tháng 1 năm 2008
Đ - H

Đỗ Hoàng
Nguyên văn:
Cỏ
Tác giả: Thanh Tâm Tuyền

Em bao giờ là thiên nhiên
anh cuối đầu xuống ngực
giòng mưa sắc lá
đau môi
Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín
cho thơm đường hôm nay đến sớm mai
hôn từ ngày dài tội lỗi
chưa quên
Gai trắng con ngươi mở mù lòa
hơi đất nằm trong tóc
thèm muốn mỗi hàm răng
từng móng vuốt
đầy đồng xanh hoa nhiều màu một người
sống sót
cỏ ơi cỏ kết thành lời
dàn nhạc huy hoàng
cô đơn
Giấc vụng về
tia nhọn sáng
đừng rơi hoàng hôn cánh rừng dầy
những ngực thương nhau
không áo
vì cỏ dại rối bời
Chúng ta ôm thời gian trong suốt
chẳng phân vân
như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ
như lá cây thầm ngã phủ vai trần
như tiếng tim thốt cười ngoài dĩ vãng
BÌNH GIẢNG
Hồi miền Nam tạm bị chiếm có hai tác giả Vô lối là Thanh Tâm Tuyền và Lê Văn Ngăn. Thanh Tâm Tuyền cón có làm thơ Việt, Lê Văn Ngăn toàn tòng Vô lối. Hai tác giả đã chết. Tuyền chết bên Mỹ, Ngăn chết trong nước. Ngăn sau giải phong miền Nam theo phe ta vào được Đảng Cộng sản Việt Nam. Vô lối của Thanh Tâm Tuyền thì dở hơi, cụt lủn, như bị thần kinh, Vô lối của Ngăn dài dòng văn tự, dây cà ra dây muốn lòng thòng xu thời báo công với Cách mạng không có ý nghĩa gì! Thua xa hàng vạn dặm các bản dịch nghĩa thơ nước ngoài!
Để giúp bạn đọc hiểu thêm đám Vô lối, tôi sẽ lần lượt phân tích, bình giảng các tác giả Vô lối được trích dẫn. Đầu tiên là bài Cỏ của Thanh Tâm Tuyền. Trước đây tạp chí thơ đã lăng xê Thanh Tâm Tuyền in một chùm thơ hẳn hoi. Vừa rôi tạp chí Nhầ văn & Tác phẩm cũng in thơ Tuyền và một bình luận khá dài. Tôi đã dịch ra thơ Việt của Tuyên và một bài phản biện tạp chí Nhà văn & Tác phẩm. Có là một loại bài đặt trưng cho lối viết dở hơi của Thanh Tâm Tuyền.
Mở đầu bài Cỏ là một câu rất ngớ ngẩn, vớ vẩn:
“Em bao giờ là thiên nhiên”
Em là con người, con người là một phần của thiên nhiên, sao còn nói một cách vô nghĩa, ngớ ngẩn như vậy!
Thiên nhiên đã được định nghĩa: “Tự nhiên hay cũng được gọi thiên nhiên, thế giới vật chất, vũ trụ và thế giới tự nhiên (tiếng Anh: nature) là tất cả vật chất và năng lượng chủ yếu ở dạng bản chất. "Tự nhiên" nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất, và cũng nhắc đến sự sống nói chung. Phạm vi bao quát của nó từ cấp hạ nguyên tử cho tới những khoảng cách lớn trong vũ trụ. Nghiên cứu về tự nhiên là một mảnh ghép lớn trong thế giới khoa học. Dù cho con người hiển nhiên là một phần của tự nhiên, nhưng những hoạt động của con người thường được phân biệt rạch ròi khỏi những hiện tượng tự nhiên.(Theo từ điên Wikipedia)
Em đã là thiên nhiên. Em to lớn như vậy, anh cúi đầu xuống ngực, làm sao được.Phóng đại em thành kẻ khổng lồ khủng long thế thì mần ăn chi được!
Câu tiếp là câu lại vô nghĩa, ngớ ngẩn, hâm hấp:
“giòng mưa sắc lá
đau môi”
Ba câu tiếp theo cũng vô thưởng, vô phạt, thừa chữ, thừa lời:
“Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín “
Thơ phải kiệm lời, tùy hoàn cảnh nhấn mạnh, còn ở đây có gì mà dùng đến ba chữ “những”
Tiếp theo cả một đoạn hôn hít, điên dại, tính dục bẩn thỉu, rời rạc, không có một ngữ nghĩa gì:

“hôn từ ngày dài tội lỗi
chưa quên
Gai trắng con ngươi mở mù lòa
hơi đất nằm trong tóc
thèm muốn mỗi hàm răng
từng móng vuốt
đầy đồng xanh hoa nhiều màu một người
sống sót “

Nối theo đoạn này cũng là một đoạn vô bổ, cũng đầy dục tính bẩn thỉu, rời rạc, tắt tỵ, đánh đố, còn thua ông nói gà, bà nói vịt. Ngỡ như Thanh Tâm Tuyên đang từ trong trại tâm thần Trâu Quỳ đi ra! Nào “ Cỏ ơi, cỏ kết thành lời”, “thèm muốn mỗi hàm răng”, “giàn nhạc huy hoàng”, “cô đơn” đến “những ngực thương nhau/ không áo”…:
“dàn nhạc huy hoàng
cô đơn
Giấc vụng về
tia nhọn sáng
đừng rơi hoàng hôn cánh rừng dầy
những ngực thương nhau
không áo
vì cỏ dại rối bời “
Đoạn kết cũng tù mù, uốn éo, vô nghĩa “ôm thời gian trong suốt chẳng phân vân” sao còn so sánh như”, sáo rỗng “ huy hoàng”, “những ngực thương nhau” “ như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ”?.
Ngoài việc triệt tiêu trăm phần trăm vần, điệu Vô lối củaThanh Tâm Tuyền có cả bài Cỏ này là một kiểu viết quái thai không chấp nhận được trong văn học dân tộc Việt.
Hà Nội 10 – 12 – 2017
Đ - H

Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt
CỎ
Mong em nét đẹp như tiên
Cho anh cúi đầu xuống ngực
Mặc dòng mưa dài lá sắc
Cỏ hoa hoa cỏ làn môi!

Những ngón tay thon, nụ cười
Mưa nắng tháng ba, tháng bảy
Thơm đường đến ngày mai ấy
Nụ hôn dài không hề quên!

Hương đất còn trong tóc em
Ơi hàm răng đều trắng muốt
Đầy đồng hoa thơm tươi tốt
Sống vui lại một kiếp người!

Cỏ yêu, cỏ kết thánh lời
Cô đơn huy hoàng dàn nhạc
Giấc mơ vọng về tiếng hát
Đừng rơi hoàng hôn rừng dày!

Hai ta cầm tay trong tay
Ôm lấy thời gian trong suốt
Mặt trời chuyện trò hẹn ước
Tiếng tim vang vọng tiếng cười!

Hà Nội 10 – 12 – 2017
Đ – H

Dịch Thơ Việt ra thơ Việt

Thanh Tâm Tuyền

Liên những bài thơ tình thời chia cách ( 1 )

I- Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
( nếu đời người không có những sớm mai )
anh trở dậy
đọc thơ Nguyễn Du
những câu lục bát buồn rưng rưng cuối đường của một ngày
chợt anh muốn viết tặng em
không thể được
em làm con tin ở một thế giới
mà lòng sầu héo là một trọng tội
anh cố viết những lời thơ thật tự nhiên
như câu chuyện buổi còn gặp gỡ
như khoảng trời đơn sơ sau cửa sổ
anh gọi thầm một mình
trong giấc mơ phủ làn tóc biếc
anh biết anh gọi thầm một mình

II Sự vắng mặt của em và bãi biển mùa đông
thành phố đau từ mỗi cột đèn
mỗi bậc thềm cửa đóng
em đi không nón không áo choàng
mưa tầm tả
những cửa sổ đêm muốn hé ra
nỗi loạn
và mắt em mặt trời cỏ hoa với môi anh đằm thắm
và rực rỡ nhớ thương
( 1 ) Bài in trên Tạp chí Thơ năm 2006

Dịch:

Thơ chia xa

Có em như những sớm mai
Cho anh trở dậy đọc tài Nguyễn Du.
Những câu lục bát buồn ru,
Anh muốn viết tặng, nhường như khó làm.
Em con tin một địa đàng,
Mà lòng sầu héo đã mang tội đồ.
Anh cố viết những lời thơ,
Như câu chuyện buổi bất ngờ gặp nhau.
Khoảng trời cửa sổ nhạt màu,
Một mình anh gọi mơ đau tóc thề!

Em xa mùa lạnh biển mê,
Cột đèn, thềm phố tái tê nỗi buồn.
Em đi không nón, áo buông,
Mưa tầm tả cửa, đêm tuồng hé ra.
Mắt em trời thắm cỏ hoa,
Môi anh nồng cháy vỡ òa nhớ thương!

Hà Nội ngày 25 - 9 - 2006

Chuyển truyện ngắn hay ra thơ!

 22:15 04/04/2025

CHUYỂN TRUYỆN NGẮN HAY RA THƠ (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Ltg : Báo Mậu dịch hai ba chục năm nay luôn tung hê, lăng xê đám thơ vô lối – thi tăc lêm trời cao ! Những cái tên nghe lộn mửa đươc nhắc đi, nhắc lại khắp các tờ báo vô văn chương : Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phú Trạm Inasara, Vi Thùy Linh, Mai Văn Phấn…
Nguyễn Quang Thiều mới đây nhất ra tập « Lò Mổ » - một tập hoạn heo. Tôi chưa đọc trọn tác phẩm (chỉ mới đọc những câu trích trên mạng) nhưng như tôi từng phát biểu, Nguyễn Quang Quang Thiều không biết làm thơ, phú , viết rât ẩu sỉ, dung tục bẩn thiu, bô đen đạo đức, thuần phong mỹ tục…Tuy cs vđi du học, nhưng du học Cu Ba, người Mỹ la tinh dạy cho tiêsng Anh nên kiến văn rất lỏm bỏm. Hò Chí Minh là nhà thơ lớn đa viết « Tự do tiên khách trên đời, Biết đâu trong ngục có người khách tiên ! » Một câu thơ tổng hợp bao quát rộng rãi. Trong toán học học gọi là bao hàm ngoài, Nguyễn Quang Thiều chẻ ra kiểu quy nạp không hoàn toàn cũng trong toán học « Ngọn có tự do sẽ thành thảo nguyên / Con chim tư do sẽ thành bầu trời/ Con người tự do sè làm nên vũ trụ… » Con tâm linh thì sao ? Qui nạp không hoàn toàn kể đến lúc nào mới hêt !
Vô lối – thi tăc Hoàng Thụy Hưng thường ký Hoang Hưng. Hoàng Hưng sinh năm 1942, quê Hưng Yên. Tốt nghiệp đại học năm 1965. Thời đó có bằng cấp đại học là quá danh giá. Bao nhiêu người không vào được đại học phải đi làm công nhân, phụ hồ, phu phen lục lộ (bây giờ gọi là thợ đụng) « Em ơi em ! Đừng yêu anh nữa . Trái tim anh vôi vữa hết rồi » ! Hoàng Hưng được về làm bao Người giáo viên nhân dân ! Một tờ báo có chữ1 Ai cũng có chữ ! Riêng Hoàng Hưng không có chữ (Mặc dù ở tù Hoàng Hưng tự học chữ Pháp dịch được thơ Pháp). Tuổi của Hoàng Hưng là tuổi tham gia trận mạc. Những người cùng tuổi , cùng thời đã rât nổi danh :Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ…Hoàng Hưng chuyên bàn đèn thuốc phiện (đưa thơ Hoàng Cầm ra nước ngoài – gọi là đổ nước đái cho Hoàng Cầm). Tư cách thế nên Công an giam tù. Ra tù gã làm tho, in thơ rất bậy bạ : « Con gà đen, con gà đen/ Cởi quần chưởi thề ! »/Bạn giờ giao hợp nơi đâu/ Hay về gác cũ sắc màu đung đưa !». Gã tâm hồn bẩn thỉu, tăm tối. Gã được Nguyên Ngọc cho giữ trang Văn Việt, gã trao giải thơ cho ga, tặng những ddwass viết hỏ lốn như Thái Hạo…Gã tâng bốc vô lối – thitawcj Nguyễn Quang Thiều để Thiều in cho một chùm 10 bài vô lôi khệnh khang cho mình là « chân trời », sắp giật giải Nobel (Viết &Đọc chuyên đề mùa đông năm 2023, trang 213) « « Hai bên Tam Đảo Ba Vì/ Tôi đứng giữa/ Lặn lẽ trèo/ Hết bên này đến bên kia. »
VIÊT THEO KIẾU CÂU THƠ – Truyện ngắn MUA NHÀ của Nam Cao.
Một lúc sau, chẳng biết đã gửi em cho ai được, đứa con gái lân la gần tôi, xem dỡ nhà. Tôi có dịp trông gần nó. Nó gầy ốm quá. Cổ tay, cổ chân chỉ con con. Mặt chau chau. Quần áo rách lượt thượt. Răng của nó cứ nhe ra một cách thương hại lắm. Tự nhiên tôi ngán ngẩm. Tôi thở dài một tiếng. Rồi tôi buột mồm hỏi nó:
- Từ sáng tới giờ, em đã có gì ăn chưa?
Nó không đáp, chỉ lắc đầu uể oải. Hình như nó đang bận nghĩ ngợi điều gì. Mắt nó nheo lại. Cái mặt nó cứ cau cau. Có lẽ chỉ vì nắng quáng. Nhưng tôi thấy nó có vẻ thù ghét tôi lắm. Tôi nhắc thầm trong trí: ta không mua thì người khác …
Những mè, rui đã xong rồi. Người thợ mộc bắt đầu tháo gỗ. Tiếng dùi đục kêu chan chát. Những tiếng rắn chắc vang lên, lộng óc. Tôi thấy con bé bừng mắt. Nó không nhe răng ra nữa. Đôi môi nó bụm lại. Hai má nó phình ra một chút. Cứ thế, nó chẳng nói chẳng rằng, chạy bình bịch sang nhà hàng xóm. Nó định làm gì vậy? Lòng tôi thắc mắc nỗi lo không rõ rệt. Bỗng tôi nghe một tiếng trẻ con khóc nức nở và hờ:
- Mẹ ơi!…
Tim tôi động một cái giống như bước hụt. Rồi nó đập loạng choạng. Tôi hơi lảo đảo. Bây giờ thì tôi không lẩn trốn những ý nghĩ của tôi được nữa. Tôi ác quá! Tôi ác quá! Tôi phải thú với tôi nhiều rồi…
Phải, tôi ác quá, anh Kim nhỉ. Rồi đây, hối hận sẽ toả một bóng đen vào trong cái nhà mới của tôi, rộng rãi và sạch sẽ hơn cái trước. Những chiều đông lạnh lẽo, một con thạch sùng nấp trên một cái xà ngang, sẽ tặc lưỡi nhắc cho tôi biết: Tôi ác quá! Tôi ác quá!… Nhưng mà thôi anh Kim ạ! Nghĩ ngợi làm gì nữa? Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc cũng chỉ là một cái chăn hẹp. Người này co thì người kia bị hở. Đâu phải tôi muốn tệ? Nhưng biết làm sao được? Ai bảo đời cứ khắt khe vậy? Giá người ta vẫn có thể nghĩ đến mình mà chẳng thiệt gì đến ai!…
VIẾT THEO KIỂU CÂU THƠ :
Một lúc sau, chẳng biết đã gửi em cho ai được, đứa con gái lân la gần tôi, xem dỡ nhà.
Tôi có dịp trông gần nó.
Nó gầy ốm quá.
Cổ tay, cổ chân chỉ con con.
Mặt chau chau.
Quần áo rách lượt thượt.
Răng của nó cứ nhe ra một cách thương hại lắm.
Tự nhiên tôi ngán ngẩm.
Tôi thở dài một tiếng. Rồi tôi buột mồm hỏi nó:
- Từ sáng tới giờ, em đã có gì ăn chưa?
Nó không đáp, chỉ lắc đầu uể oải.
Hình như nó đang bận nghĩ ngợi điều gì.
Mắt nó nheo lại.
Cái mặt nó cứ cau cau.
Có lẽ chỉ vì nắng quáng.
Nhưng tôi thấy nó có vẻ thù ghét tôi lắm.
Tôi nhắc thầm trong trí: ta không mua thì người khác …
Những mè, rui đã xong rồi.
Người thợ mộc bắt đầu tháo gỗ.
Tiếng dùi đục kêu chan chát.
Những tiếng rắn chắc vang lên, lộng óc.
Tôi thấy con bé bừng mắt.
Nó không nhe răng ra nữa.
Đôi môi nó bụm lại.
Hai má nó phình ra một chút.
Cứ thế, nó chẳng nói chẳng rằng, chạy bình bịch sang nhà hàng xóm.
Nó định làm gì vậy?
Lòng tôi thắc mắc nỗi lo không rõ rệt.
Bỗng tôi nghe một tiếng trẻ con khóc nức nở và hờ:
- Mẹ ơi!…
Tim tôi động một cái giống như bước hụt.

Rồi nó đập loạng choạng.
Tôi hơi lảo đảo.
Bây giờ thì tôi không lẩn trốn những ý nghĩ của tôi được nữa.
Tôi ác quá! Tôi ác quá!
Tôi phải thú với tôi nhiều rồi…
Phải, tôi ác quá, anh Kim nhỉ.
Rồi đây, hối hận sẽ toả một bóng đen vào trong cái nhà mới của tôi, rộng rãi và sạch sẽ hơn cái trước.
Những chiều đông lạnh lẽo, một con thạch sùng nấp trên một cái xà ngang, sẽ tặc lưỡi nhắc cho tôi biết:
Tôi ác quá! Tôi ác quá!…
Nhưng mà thôi anh Kim ạ!
Nghĩ ngợi làm gì nữa?
Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc cũng chỉ là một cái chăn hẹp.
Người này co thì người kia bị hở.
Đâu phải tôi muốn tệ?
Nhưng biết làm sao được?
Ai bảo đời cứ khắt khe vậy?
Giá người ta vẫn có thể nghĩ đến mình mà chẳng thiệt gì đến ai!…
Trích “Mua nhà” – Truyện ngắn Nam Cao.
Ltg: Bọn vô lối – thi tặc chúng đâu tỉnh người. Chúng hãy xem lạ vô lối – thi tặc của chúng có trâng nào xa xót âm vang như truyện ngăn của Nam Cao.Toàn một lũ bệnh hoạn giặc chữ ngu độn, gian manh, lèo lá!
(còn nữa )

Chuyển văn xuôi ra thơ

 04:12 04/04/2025

CHUYỂN VĂN XUÔI THÀNH THƠ
Đỗ Hoàng
Đám thi tặc – vô lối bây giờ cứ viết bỏ vần điệu là chúng coi đó là thơ. Bởi vì chunhs viết ngô ngọng, lủng ca, lủng củng, chuột không ra chuột, dơi không ra dơi! Trong 27 tên Trùm Sò vô lối – thi tặc, đứa nào cũng như đứa nào phản lại thơ ca tổ tiên!
Câu hỏi cuối ngày
Nguyễn Quang Thiều
“…Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào

Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào”
Chuyển ra văn xuôi là bài viết dung tục, bậy bạ nhất, không có chỗ đứng trong văn chương nước nhà!
“giòng mưa sắc lá
đau môi”
….
“Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín “
(Thanh Tâm Tuyền)
Thanh Tâm Tuyền bài này không viết dâm ô, bẩn thỉu, giả đò đui dòm lồn như Nguyễn Quang Thiêu nhưng chẳng biết gã lảm nhảm điều gì! Như một thằng ở Trâu Quỳ!
Hãy xem bai thơ sau ‘ Chuyển từ văn xuôi sang” – Đường chúng ta đi – Nguyễn Trung Thành – Nguyên Ngọc
“Đêm nay là một đêm chuẩn bị. Ngày mai chúng tôi sẽ ra trận.
Chúng tôi đóng trong làng. Bây giờ đã khuya, bốn bề đều im lặng. Cho đến ngôi sao xa ngoài khung cửa cũng đứng im, lóng lánh như giọt nước mắt vui lặng lẽ của người vợ ở quê ta gặp chồng sau mười năm trời gian lao và cách biệt. Gió se lạnh, thoang thoảng hương lúa lên đòng, thơm như sữa một người mẹ trẻ.
Tôi nằm đã lâu, không ngủ. Không sao ngủ được. Có gì đấy, vừa êm ả vừa trào sôi đang dậy trong lòng tôi, người lính đêm nay.
Sáng mai chúng tôi sẽ ra trận. Đội trưởng của chúng tôi nói:
- Ngủ đi, ngủ cho ngon. Mai sẽ làm một trận tiêu diệt thật gọn!
Tôi nghe lời, nhắm mắt, rồi mở mắt. Không ngủ được. Sáng mai chúng tôi sẽ ra trận. Tôi bồi hồi suy nghĩ vì việc đó ư? Không, tôi là một người lính cũ. Trong đời tôi, đêm nay là đêm chuẩn bị ra trận lần thứ bao nhiêu rồi, cũng không còn nhớ rõ. Điều gì đây? Có gì đây đang trào dậy trong lòng tôi, như một linh cảm mơ hồ, như một hơi men cay, một cơn sóng ngầm xao động ở tận chỗ sâu kín của tâm hồn.
Viết dài ngắn theo hình thức của Thơ:
“Đêm nay là một đêm chuẩn bị.
Ngày mai chúng tôi sẽ ra trận.
Chúng tôi đóng trong làng.
Bây giờ đã khuya, bốn bề đều im lặng.
Cho đến ngôi sao xa ngoài khung cửa cũng đứng im, lóng lánh như giọt nước mắt vui lặng lẽ của người vợ ở quê ta gặp chồng sau mười năm trời gian lao và cách biệt.
Gió se lạnh, thoang thoảng hương lúa lên đòng, thơm như sữa một người mẹ trẻ.
Tôi nằm đã lâu, không ngủ.
Không sao ngủ được.
Có gì đấy, vừa êm ả vừa trào sôi đang dậy trong lòng tôi, người lính đêm nay.
Sáng mai chúng tôi sẽ ra trận. Đội trưởng của chúng tôi nói:
Ngủ đi, ngủ cho ngon. Mai sẽ làm một trận tiêu diệt thật gọn!
Tôi nghe lời, nhắm mắt, rồi mở mắt.
Không ngủ được. Sáng mai chúng tôi sẽ ra trận.
Tôi bồi hồi suy nghĩ vì việc đó ư?
Không, tôi là một người lính cũ.
Trong đời tôi, đêm nay là đêm chuẩn bị ra trận lần thứ bao nhiêu rồi, cũng không còn nhớ rõ.
Điều gì đây?
Có gì đây đang trào dậy trong lòng tôi, như một linh cảm mơ hồ, như một hơi men cay, một cơn sóng ngầm xao động ở tận chỗ sâu kín của tâm hồn.(trích)
Ltg : Bài thơ văn xuôi nó hay gấp vạn lân các loại thơ vô lối – thi tặc in nhan nhản trên mặt báo mậu dịch. Cả Nguyễn Quang Thiều (Chủ tịch Hội Nhà văn Viêt Nam) , Nguyễn Bình Phương (phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam) và 27 tên Trùm Sõ vô lôi – thi tặc cả đời của chúng không có được một chữ vào đứng trong bài thơ chuyển từ văn xuôi này !
(còn nữa)

Văn chương giật lùi...

 23:39 03/04/2025

VĂN CHƯƠNG GIẬT LÙI
Đỗ Hoàng
Trong sinh vật, muôn loài phát triển, người ta càng phân chia nhánh, giống, loài, bộ….Văn chương cũng vậy! Người ta chia ra văn vần (thơ), văn viết (nói và viêt). Về thơ cũng chia ra nhiều thể loại thơ (như thơ ngắn, lục bát, song thất lục bát, đường luật, thơ dài (trường ca)…
Đến thế kỷ XIV, XV, XVI…ở châu Âu, nhất là các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha …các nhà thơ bỏ vần điệu để cảm hứng trọn ven!
Nước ta, từ rất sơm cha ông chúng ta đã phân chia thể loại khá chính xác! Các Cụ phân ra văn viết, văn vần (thơ). Văn “Vần” gọi thơ! Còn những loại thơ bỏ vần điệu, đối…các Cụ gọi: Hịch, Chiều, Tụng, Cáo, Sắc, Phú, Sấm, …
Những nước có dân tộc nói (phát âm) đa âm , mỗi từ của họ như một câu tho cua người đơn âm bỏ vần điệu còn có thành côn. Những nước phát âm đơn âm như các nước phương Đông thì thơ bỏ vần điệu khó thành công.
Việt Nam cũng là nước đơn âm. Giữa thế ký XX đến nay các cây bút làm thơ không vần bùng phát rầm rộ.
“Mẹ đã hóa vào cao xanh kia
Cao sang và hư ảo

Đó là gương mặt thật của mẹ
Gương mặt của người mẹ vỹ đại đã sinh ra con
Tiếp đoạn sau lại rất thủ phận, người mẹ vỹ đại biến mất, chỉ còn:
“Bởi vì mẹ ơi mẹ con mình thật nhỏ bé
Chỉ như cái bòng côi cút trong cuộc đời”
Giáng Vân
“tôi kêu toáng lên thức giấc mơ vẫn
cứ thấp lùn chạy xộc vào nhà trong
……
soi lại trăm lẻ lần mới đốn ngộ
ra rằng làng nước quỷ thần ơi cả
xóm đang sống bằng đầu gối.”
(Đầu gối 1) – Inrasara Phú Trạm
Sóng vẫn đập vào eo biển - Lê Văn Ngăn
1.
Tôi thầm hỏi có phải em đang gửi lòng mình qua sóng biển
nhắn cho tôi biết
rằng nỗi đau đớn em vẫn còn mang nặng
Qui Nhơn Qui Nhơn đồng ruộng mía phía Tây
phất phới vườn bông gòn
những đầm nước mặn
im bóng cửa nhà
Qui Nhơn Qui Nhơn trên thảm nước xanh rờn của thuyền đánh cá và chim én
Buổi sáng hay chiều hôm từng chuyến phi cơ
Vô lối – Phản lại thơ ca!
Vô lối manh nha và xuất hiện ở Việt Nam trên dưới nửa thế kỷ từ giữa thập kỷ 50 thế kỷ trước cho đến hôm nay. Nó bùng phát như nấm độc mọc sau mưa là từ thập kỷ 90 thế kỷ trước và nhất là khi Hội Nhà văn Việt Nam trao giải cho tập Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều. Và nó bị kết liễu khi Hội Nhà văn Việt Nam trao giải cho nó vào năm 2010 – 2011 với 4 tập Vô lối của Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Đinh Thị Như Thúy.
Thời gian Vô lối bùng phát đến nay đã trên dưới 20 năm (1992 – 2012) nhưng nó không gây được tiếng vang, không dấy lên một phong trào thơ ca nào cả. Nó có cách cảm, cách nghĩ tù mù, rối rắm, khập khà khập khễnh, kênh kiệu, lôm nhôm, loam nhoam, lộn xà lộn xộn… với một loại hình câu chữ dài dòng lê thê lếch thếch hoặc kể lể con cà con kê, hoặc nói năng lảm nhảm rối rắm, hoặc làm duyên làm dáng vô bổ, hoặc uốn éo da lươn, hoặc tịch mịch tối bưng, hoặc đen ngòm da gấu, hoặc đa ngôn đa quái, hoặc lai căng chữ nghĩa nước ngoài một cách thô thiển đàng điếm hoặc mê muội bệnh hoạn về tình dục thể hiện trong câu viết, trong tâm tưởng ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nó bị đại đa số công chúng, bạn đọc của toàn dân tộc phản bác dù nó được báo chí chính thống, cục vụ viện chính thống, giáo sư, tiến sỹ văn chương, học giả đầu ngành, cánh hẩu lăng xê, tán tụng đưa lên mây xanh và dành không ít tiền thuế của dân đeo vòng “nguyệt quế” rởm cho nó!
Xin nhắc lại một vài nhận dạng Vô lối.
Đó là một loại hình không có trong tất các loại thể văn học nước nhà và thế giới. Nó dịch không ra dịch, mô phỏng không ra mô phỏng, không phải phú, không phải tế, không phải hát nói, không phải kịch, không phải ca từ, không phải ngâm, không phải vịnh, không phải hát vui chơi, không phải hát ru em, không phải nói lối, không phải văn xuôi, không phải kể chuyện, nó là một loại quái thai của văn chương! Nó chính là Vô lối!
Đặc điểm của Vô lối là: Thứ nhất là nó chối bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, chối bỏ thẩm mỹ của loài người; thứ hai là triệt tiêu một trăm phần trăm vần điệu; thứ ba là viết dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống; thứ tư là tù mù, tịch mịch, rối rắm, đánh đố mình, đánh đố người đọc; thứ năm là đại ngôn, sáo rỗng, trống hơ, trống hoắc, hô khẩu hiệu; thứ sáu là dung tục bẩn thỉu và tình dục bệnh hoạn; thứ bảy là sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, chưa Việt hóa…
Gooki nhà văn Xô viết (Liên Xô cũ) đã từng nói: “Nhà văn không biết đến văn học dân gian là một nhà văn tồi”. Đến Kalinin lãnh tụ của Liên Xô cũ cũng nói đại ý: “ Nội dung và hình thức văn học dân gian là thiên tài, các tài năng lơn về văn học đều biết tiếp thu và học tập thành công văn học dân gian. Bao nhiều tài năng lớn trong nước và thế giới đã minh chứng điều đó: Puskin, Lecmongtop, Bairon, Oma Khayam, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ…
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẻ ngược xuôi hở chàng
Đưa nhau một bước lên đàng
Cỏ xanh hai dãy mấy hàng châu sa
(Ca đao)
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Đoạn trường tân thanh – Nghuyễn Du)
Sinh vi vạn nhân thê
Tử vi vô phu quỷ
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chống
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)

Những người viết Vô lối chổi bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và dân tộc, chối bỏ cách nói cách cảm của ông cha. Trước tiên, Vô lối triệt tiêu 100% vần điệu nhưng câu viết thì cứng cỏi, khô khan, không có một chút truyền cảm, không rung động lòng người. giống như ông nói gà, bà nói vịt, tù mù, hủ nút. Đọc nó có cảm giác lê thê, vô bổ:

“…Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
(nếu đời người không có những sớm mai)
anh trở dậy
đọc thơ Nguyễn Du
những câu lục bát buồn rưng rưng cuối đường của một ngày
chợt anh muốn viết tặng em
không thể được
em làm con tin ở một thế giới
(Thanh Tâm Tuyền)

Phan Rang, những năm ấy, có lẽ chị Ba không nhớ nữa
nhưng tôi kẻ từng chịu ơn chị, tôi không thể nào quên quá khứ.
Năm ấy, tôi đến từ phương xa
không giấy tờ, không người quen, không nhà không cửa
và tương lai tôi
tương lai ở trong tay những kẻ bố ráp bắt người đi đánh thuê cho quân xâm lược
tương lai buồn tênh như con đường bụi khô ngoài quán cà phê chiều hôm gió cuốn.
(Lê Văn Ngăn)

Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Đêm ấy tôi nằm trong chăn nghe tiếng chim đập cửa
Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi
(Nguyễn Quang Thiều)

Tôi đã làm khổ cô láng diềng niên
khóa cuối trung học trước khi làm lang
thang. Năm năm nàng chờ, thằng Wang nói
mầy quá tệ làm nó khổ mầy ngủ
ngon ăn khỏe còn nhăn răng cười như
khỉ. Ôi em còn hay đã thành ma,
hôm nay trời trăng nào biết? Tôi đã
chửi tệ bà nhà quê đáng tuổi mẹ
….
Ông không làm gì cả, đi loanh
quanh. Ông không đi đến đâu cả,
đi rồi về. Ông không làm gì
cả, ông suy nghĩ – không nghĩ ra
cái gì cả. Con cháu nói thứ
ăn hại, ông cười buồn. Lối xóm
bảo đồ lười biếng, ông nín lặng.
(In ra sa ra)…
Bây giờ là lúc có thể chia tay với điện thoại để bàn, cá vi dít, nắm đấm mi crô
Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường
Một mình một ba lô với xe đạp
Bây giờ gió gọi anh đi
Mặt trời đánh nhịp về tám hướng
Từ giã cà vạt, giày đen lời trịnh trọng
Anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ
Hò hét một mình, đọc những gì mình yêu thích, ghi chép những gì cần ghi chép
(Nguyễn Khoa Điềm)

Thành đôi môi đẫm rượu
Lênh đênh qua hàng quán tàn phai
Với cái nhìn bạc màu kiêm ái
Anh nhận ra tro tàn kim cương
Sau chớp mắt chậm như vĩnh cửu
Còn nhớ chăng bầu trời quạnh hiu
Trong thân thể gầy gò nơi giam giữ phận anh thoáng chốc
Em hay vầng trăng khiến nó mịt mù
(Nguyễn Bình Phương )

thanh tẩy (2) mãi vẫn không thấy sạch
quay về tắm bằng ngọn đèn

thử đưa bờ vai về phía ánh sáng
rồi cả hai tay
bàn chân, cằm, đầu gối
cả đôi tròng mắt và tiếng ho khan

xối ánh sáng vào từng góc khuất
gốc khuất như lò thúc mầm (3)
như thép nóng đem tôi vào nước
như quả trứng trong ổ đang ấp
rễ thân cành đã chết đâm ngang
(Mai Văn Phấn)
Trăng sáng
Ngư dân ở nhà chơi với vợ
đợi đêm còn ra với phong ba

Trăng sáng
ước bạc, lưới không sao giấu mắt
Cá băng tung tẩy từng đàn

Ngộp thở
Phố cổ oi, đèn lồng vàng và đỏ
Người đi từng đang đổ về phía bờ sông
(Phan Thị Vàng Anh)
Vô lối viết câu dây cà ra dây muống, dài dòng văn tự mà lại không có một thông tin, một ý nghĩa, đọc lên như hủ nút, rối rắm, ngúc nga, ngúc ngắc, tâm thần, đa số các câu dài câu dài 30 , 40 chữ, thậm chí có câu dài đến 40, 50 chữ. Đặc biệt có câu dài 41, 58 chữ, như điển hình các câu sau: câu trong bài “Sinh ngày 4 – 4”. Câu này đã vượt câu thơ Nguyễn Thị Kiêm thời Thơ mới 15 chữ;
Trò Domino với hiệu ứng lan truyền, đổ sang nhau những ăn năn – bất cần, trong sạch – vấy bẩn, ý nghĩa – vô bổ, cạn kiệt – lấp đầy, tuyệt vọng và ngộ nhận, đoàn tụ và lưu lạc, trấn tỉnh và hoảng loạn.
(Vi Thùy Linh)
Câu của Nguyễn Quang Thiều trong Cây ánh sáng đạt kỷ lục, vượt Nguyễn Thị Kiêm đến 31 chữ (!) tức là 58 chữ.
Cả những người đàn bà tội lỗi và thánh thiện vẫn vuốt ve con đỉa khổng lồ bám chặt bộ xương chàng và thì thầm run rẩy với con đỉa ấy, bị hành hạ vì con đỉa ấy, tự vẫn vì con đỉa ấy và tìm thấy một chút ý nghĩa đầy ảo giác với con đỉa ấy
(Nguyễn Quang Thiều)
Người đọc nào kiên nhẩn đọc câu trên chắc cũng phải điên lên cùng kẻ viết!
Trong khi đó thơ ca tinh hoa của thế giới phương Tây hay phương Đông chỉ một bài thơ 20 chữ đã sống mài hơn 2 000 năm và còn sồng lâu hơn nữa:
“Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm túy sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai”
(Lưu Vũ Tích – Đời Đường)
Trước hoa giờ nâng chén
Mấy chén ngất ngư say
Chỉ buồn hoa lại nói
Không nở cho lão này!
(Đỗ Hoàng dịch)
27 chữ của Nguyễn Thị Kiêm thời Thơ mới đã không còn thì câu 41 chữ của Vi Thùy Linh và câu 58 chữ của Nguyễn Quang Thiều thời Vô lối sẽ tan như bong bóng xà phòng!
Những người làm Vô lối bây giờ ngoài việc chối bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, họ còn dấn thêm một bước là dung tục hóa câu viết mà các sách dâm thư cổ ( Nhục bồ đoàn) kim (các trang mạng đen bẩn thỉu ) hiện nay cũng còn thua, cái nhìn rất bệnh hoạn vào người khác giới:
Mặt hồ thủ dâm nỏi sóng
(Nguyễn Quang Thiều)

Một bài thơ viết ở Hà nội

Có một bài thơ tôi viết
Trong bóng tối
Của thành phố này

Đấy không phải là đêm
Tôi vẫn nhìn thấy những đám mây nặng
Bò trên những mái nhà thành phố
Và vẫn nhìn thấy
Một người đàn bà
Tắm trong một toilet không có rèm che
Kỳ cọ như tuốt hết da thịt mình
Và vẫn nhìn thấy
Cuộc làm tình ban ngày
Của những kẻ thất nghiệp
Trong chính công sở của họ

Viết lúc 10 giờ 13 phút

H ngủ muộn. 10h13 phút chưa dậy.
Những sự sống trôi qua chiếc giường.
Những cái chết trôi qua chiếc giường.
Và H nhìn thấy trong giấc ngủ
Một tấm thân đàn ông nóng rừng rực
Trôi qua chiếc giường và dừng lại
ở một khoảng trên đầu

lúc 10h13 một người đàn bà khác
khoả thân trong một chiếc giường
đặt ở giữa thành phố
(Nguyễn Quang Thiều)
Nhắc bọn vô lối - thi tặc thật bẩn bút, mất thời gian!
(còn nữa)
Đ - H

Thơ vô lối - thi tặc (tiếp theo)

 06:52 03/04/2025

THƠ VÔ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Như đã nhiều lần tôi phát biểu “thơ vô lối” là loại quái thai của văn chương Việt nở rộ trong khoảng giữa thế kỷ XX đến nay, Đến nay khi đám vô lối tranh đoạt đoạt sự quản lý văn học, nghệ thuât của đât nước thì thơ vô lối lên ngôi. Có một điêu đám thơ vô lôi làm chủ Hội nhà văn Việtt Nam – Nguyễn Quang Thiều – Chủ tịch Hội; Nguyễn Bình Phương – Phó Chủ tịch Hội, Phan Hoàng - Ủ y viên Ban Chấp hành – phụ trách Webrite vanviet.vn . Nhưng chúng cũng là số ít và Vô lối – thi tặc không có thành tựu gì nên các khóa Ban Chấp hành của chúng chưa đưa được một tác phẩm tiêu biểu nào ra trình làng. Chúng phải đưa Thơ lục bát truyền thống của cha ông “Thơ Thành Hưng – Nguyễn Phúc Lộc Thành – Chủ buôn giàu có! Các tác giả phương Tây, mỗi câu thơ của họ như sự phát hiện ý tứ, âm luật; mỗi chữ, mỗi câu của họ đều là sự phát hiện
Marlowe là người đầu tiên khai thác tiềm năng của thơ không vần để tạo nên bài phát biểu mạnh mẽ và sâu sắc:
“Hỡi những vì sao đã ngự trị trong ngày sinh của tôi,
Những vì sao đã gây ra cái chết và địa ngục,
Giờ hãy kéo Faustus lên như một làn sương mù
Vào bên trong những đám mây đang lao động kia,
Để khi chúng phun ra không trung,
Tứ chi của tôi có thể nhô ra khỏi miệng khói của chúng,
Để linh hồn tôi có thể bay lên Thiên đường.”
Tác phẩm:
—  Vua John
Shakespeare cũng sử dụng kỹ thuật ngắt dòng ngày càng thường xuyên hơn trong thơ của mình, và trong những vở kịch cuối cùng của ông đã sử dụng các âm cuối giống cái (trong đó âm tiết cuối của câu không được nhấn mạnh, ví dụ như dòng 3 và 6 trong ví dụ sau); tất cả những điều này làm cho thơ không vần sau này của ông trở nên vô cùng phong phú và đa dạng.
“Hỡi các yêu tinh của những ngọn đồi, những con suối, những hồ nước đứng và những lùm cây,
Và những kẻ trên bãi cát với bàn chân không dấu chân
Đang đuổi theo thần Neptune đang rút lui, và xua đuổi ngài
Khi ngài quay trở lại; các ngươi là những con rối nửa người nửa thú,
Nhờ ánh trăng tạo nên những lọn tóc xoăn xanh chua Mà
con cừu cái không cắn; và các ngươi có trò tiêu khiển
Là làm nấm lúc nửa đêm, vui mừng
Khi nghe lệnh giới nghiêm trang trọng; với sự giúp đỡ của các ngươi,
Mặc dù các ngươi là những chủ nhân yếu đuối, Ta đã làm
tối Mặt trời giữa trưa, triệu hồi những cơn gió nổi loạn,
Và giữa biển xanh và vòm trời xanh ngắt
Gây ra chiến tranh dữ dội - trước tiếng sấm rền đáng sợ
Ta đã ban lửa, và rạch cây sồi chắc khỏe của thần Jove Bằng chính
tia chớp của mình;”
Các nhà thơ phương Đông, đa số phát âm đa số “đơn âm tiết” nhưng thơ không vần của họ rất chú ý sắp xếp, ý tứ, đối đáp:
Nguyễn Trãi
Bình Ngô đại cáo:
Bình Ngô đại cáo 平吳大告 • Cáo bình Ngô
…神武不殺,予亦體上帝孝生之心。
參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;
總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。
彼既畏死貪生,而修好有誠;
予以全軍為上,而欲民之得息。
非惟謀計之極其深遠,
蓋亦古今之所未見聞。
社稷以之奠安,
山川以之改觀。
乾坤既否而復泰,
日月既晦而復明。
于以開萬世太平之基,
于以雪天地無窮之恥。
是由天地祖宗之靈有,
以默相陰佑而致然也!

於戲!
一戎大定,迄成無競之功;
四海永清,誕布維新之誥…
…Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,
Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.

Ô hô!
Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,

Đỗ Hoàng dịch thơ ….
Ta chẳng giết hại, thể lòng trời, ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn xiêu, phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, đem cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy bảo toàn là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Non sông từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại sáng
Trời trăng tối rồi lại hừng
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;…
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay!
Trần Hưng Đạo – Hịch tướng sĩ
Nguyên bản Việt cổ (chữ Nho)
Phiên âm tiếng Việt
余常聞之
Dư thường văn chi:
紀信以身代死而脫高帝
Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế;
由于以背受戈而蔽昭王
Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương.
豫讓吞炭而復主讎
Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù;
申蒯断臂而赴國難
Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn.
敬德一小生也 身翼太宗而得免世充之圍
Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi;
杲卿一遠臣也 口罵禄山而不從逆賊之計
Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế.
自古忠臣義士 以身死國 何代無之
Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi?
設使數子區區為兒女子之態
Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thá
徒死牖下 烏能名垂竹白
Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch,
與天地相為不朽哉
Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai!
“Ta thường nghe:’
Kỷ Tín lấy thân chết thay, cứu thoát được vua Cao-đế;
Do Vu chìa lưng chịu giáo che chở được vua Chiêu-vương;
= Dự Nhượng nuốt than để trả thù cho thầy;
Thân Khoái chặt tay để gánh nạn cho nước;
Uất Trì Cung một viên tướng nhỏ, còn biết che đỡ Đường-chủ, ra khỏi vòng vây của Thế Sung;
Nhan Cảo-Khanh là bầy tôi xa, còn biết mắng chửi Lộc Sơn, không nghe lời dụ của nghịch-tặc.
Từ xưa, những bậc trung thần nghĩa sĩ, lấy thân theo nước, đời nào là không có đâu?
Nếu mấy người kia, chăm chăm học thói dútdát của con gái trẻ con, chẳng qua cũng đến chết dũ ở dưới cửa sổ, đâu được ghi tên vào trong thẻ tre lụa trắng,
danh tiếng cùng trời đất cùng lâu bền?
(còn nữa)

Thơ vô lối - thi tặc Việt Nam

 02:43 02/04/2025

THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶN VIỆT NAM.(tiếp theo)
Đỗ Hoàng

Bạch Đằng giang phú 白藤江賦 •
Phú sông Bạch Đằng
Bạch Đằng giang phú 白藤江賦 • Phú sông Bạch Đằng
Thơ » Việt Nam » Trần » Trương Hán Siêu
白藤江賦
客有:
掛汗漫之風帆,
拾浩蕩之海月。
朝嘎舷兮沅湘,
暮幽探兮禹穴。
九江五湖,
三吳百粵。
人跡所至,
靡不經閱。
胸吞雲夢者數百而,
四方壯志猶闕如也。
乃舉楫兮中流,
縱子長之遠遊。
涉大灘口,
溯東潮頭。
抵白藤江,
是泛是浮。
接鯨波於無際,
蘸繇尾之相繆。
水天一色,
風景三秋。
渚获岸蘆,
瑟瑟颼颼。
折戟沉江,
枯骨盈丘。
慘然不樂,
佇立凝眸。
念豪傑之已往,
嘆蹤跡之空留。
江邊父老,
謂我何求。
或扶黎杖,
或棹孤舟。
揖余而言曰:
此重興二聖擒烏馬兒之戰地,
與昔時吳氏破劉弘操之故洲也。
當期:
舳艫千里,
旌旗旖旎。
貔貅六軍,
兵刃蜂起。
雌雄未決,
南北對壘。
日月昏兮無光,
天地凜兮將毀。
彼:
必烈之勢強,
劉龔之計詭。
自謂投鞭,
可掃南紀。
既而:
皇天助順,
凶徒披靡。
孟德赤壁之師談笑飛灰,
符堅合淝之陣須臾送死。
至今江流,
終不雪恥。
再造之功,
千古稱美。
雖然:
自有宇宙,
故有江山。
信天塹之設險,
賴人傑以奠安。
孟津之會鷹揚箬呂,
濰水之戰國士如韓。
惟此江之大捷,
猶大王之賊閒。
英風可想,
口碑不刊。
懷古人兮隕涕,
臨江流兮厚顏。
行且歌曰:
大江兮滾滾,
洪濤巨浪兮朝宗無盡。
仁人兮聞名,
匪人兮俱泯。
客從而賡歌曰:
二聖兮並明,
就此江兮洗甲兵。
胡塵不敢動兮,千古昇平。
信知:不在關河之險兮,
惟在懿德之莫京。
Bạch Đằng giang phú
Khách hữu:
Quải hạn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên, Tương,
Mộ u thám hề Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nhân tích sở chí,
Mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách nhi,
Tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
Nãi cử tiếp hề trung lưu,
Túng Tử Trường chi viễn du.
Thiệp Đại Than khẩu,
Tố Đông Triều đầu.
Để Bạch Đằng giang,
Thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế,
Trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc,
Phong cảnh tam thu.
Chử địch ngạn lô,
Sắt sắt sâu sâu.
Chiết kích trầm giang,
Khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc,
Trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng,
Thán tung tích chi không lưu.
Giang biên phụ lão,
Vị ngã hà cầu.
Hoặc phù lê trượng,
Hoặc trạo cô châu.
Ấp dư nhi ngôn viết:
“Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã.”
Đương kỳ:
Trục lô thiên lý,
Tinh kỳ ỷ nỉ.
Tỳ hưu lục quân,
Binh nhẫn phong khỉ.
Thư hùng vị quyết,
Nam Bắc đối luỹ.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang,
Thiên địa lẫm hề tương huỷ.
Bỉ:
Tất Liệt chi thế cường,
Lưu Cung chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên,
Khả tảo Nam kỷ.
Ký nhi:
Hoàng thiên trợ thuận,
Hung đồ phi mỵ.
Mạnh Đức Xích Bích chi sư đàm tiếu phi hôi,
Bồ Kiên Hợp Phì chi trận tu du tống tử.
Chí kim giang lưu,
Chung bất tuyết sỉ.
Tái tạo chi công,
Thiên cổ xưng mỹ.
Tuy nhiên:
Tự hữu vũ trụ,
Cố hữu giang san.
Tín thiên tạm chi thiết hiểm,
Lại nhân kiệt dĩ điện an.
Mạnh Tân chi hội ưng dương nhược Lã,
Duy Thuỷ chi chiến quốc sĩ như Hàn.
Duy thử giang chi đại tiệp,
Do đại vương chi tặc nhàn.
Anh phong khả tưởng,
Khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Hành thả ca viết:
“Đại giang hề cổn cổn,
Hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận.
Nhân nhân hề văn danh,
Phỉ nhân hề câu dẫn.”
Khách tòng nhi canh ca viết:
“Nhị thánh hề tịnh minh,
Tựu thử giang hề tẩy giáp binh.
Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề,
Duy tại ý đức chi mạc kinh.”
Lời dẫn của tác giả:
Cuối đời nhà Đường trong thời Ngũ Đại, Lưu Cung tiếm ngôi, xưa quốc hiệu là Hán. Giữa lúc Nam Bắc phân tranh, nước ta chưa có thông thuộc, Dương Đình Nghệ cầm quyền cai trị trong châu, bị kẻ con nuôi là Kiều Công Tiễn giết để lên thay chân. Tướng của Đình Nghệ là Ngô Quyền dấy binh đánh Công Tiễn. Tiễn cầu cứu với Lưu Cung, Cung bèn sai con là Hoằng Thao đem quân sang cứu. Thao đem chiến thuyền từ sông Bạch Đằng kéo vào. Lúc ấy Quyền đã giết được Công Tiễn, và đã ngầm cắm những cây gỗ nhọn ở hai bên cửa bể, rồi dụ Hoằng Thao vào bên trong, đến khi nước thuỷ triều rút lui, ông mới tung quân ra đánh, giết được Hoằng Thao.
Đời vua Nhân Tông nhà Trần, niên hiệu Trùng Hưng năm thứ 4 (1288), vua Thế Tổ nhà Nguyên sai Ô Mã Nhi sang xâm lược, kéo binh vào sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương là Trần Quốc Tuấn cũng trồng cột nhọn ở lòng sông từ trước, rồi chờ lúc thuỷ triều lên thì ra khiêu chiến rồi giả cách thua chạy, đến lúc thuỷ triều xuống mới tung ra đánh, phá vỡ được quân địch, bắt sống được Ô Mã Nhi. Trận này vua Nhân Tông và thái thượng hoàng là Thánh Tông cùng ra cầm quân.
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than,
Ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng,
Thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa:
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Bản dich Ngô Tất Tố
Khách có kẻ:
Chèo quế bơi trăng
Buồm mây giong gió
Sớm ngọn Tương kia
Chiều hang Vũ nọ
Vùng vẫy Giang, Hồ
Tiêu dao Ngô, Sở
Đi cho biết đây
Đi cho biết đó

Chằm Vân, Mộng chứa ở trong kho tư tưởng, đã biết bao nhiêu:
Mà cái chí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở
Mới học thói Tử Trường
Bốn bể ngao du
Qua cửa Đại Thần
Sang bến Đông Triều
Đến sông Bạch Đằng
Đủnh đỉnh phiếm chu
Trắng xoá sóng kình muôn dặm
Xanh rì dặng ác một màu
Nước trời lộn sắc
Phong cảnh vừa thu
Ngàn lau quạnh cõi
Bến lách đìu hiu
Giáo gãy đầy sông
Cốt khô đầy gò
Ngậm ngùi đứng lặng
Ngắm cuộc phù du
Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá?
Mà đây dấu vết vẫn còn lưu
Kìa kìa bên sông, lão phủ người đâu?
Lượng trong bụng ta, chừng có sở cầu
Hoặc gậy chống trước, hoặc thuyền bơi sau.

Vái tạ mà thưa rằng:
Đây là chỗ chiến địa của vua Trần bắt giặc Nguyên,
Và là nơi cố châu của vua Ngô phá quân Lưu đấy.

Đương khi:
Muôn đội thuyền bày, hai quân giáo chỉ
Guơm tuốt sáng loè, cờ bay đỏ khé
Tướng Bắc quân Nam
Đôi bên đối luỹ
Đã nổi gió mà bay mây
Lại kinh thiên mà động địa
Kìa Nam Hán nó mưu sâu
Nọ Hồ Nguyên nó sức khoẻ

Nó bảo rằng:
Phen này đạp đổ nước Nam, tưởng chừng cũng dễ.

May thay:
Trời giúp quân ta
Mây tan trận nó

Khác nào như:
Quân Tào Tháo bị vỡ ở sông Xích Bích khi xưa.
Giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp Phì thuở nọ
Ấy cái nhục tầy trời của họ, há những một thời
Mà cái công tái tạo của ta, lưu danh thiên cổ
Tuy vậy, từ thuở có trời có đất, vẫn có giang san
Trời đất ra nơi hiểm trở
Người tính lấy cuộc tôn an
Hội nào bằng hội Mạnh Tân như vương sư họ Lã
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ như quốc sĩ họ Hàn

Kìa trận Bạch Đằng này mà đại thắng
Bởi chưng Đại vương coi thế giặc nhàn
Tiếng thơm còn mãi
Bia miệng bao mòn
Nhớ ai sa giọt lệ
Hổ mình với nước non

Rồi vừa đi vừa hát rằng
Sông Đằng một giải dài ghê
Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông
Trời Nam sinh kẻ anh hùng
Tăm kình yên lặng, non sông vững vàng
Khách lại nối mà hát rằng
Triều ta hai vị thánh nhân
Sông kia còn dấu tẩy trần giáp binh
Nghìn xưa gẫm cuộc thăng binh
Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao.
THƠ KHÔNG VẦN ĐÁM VÔ LỐI - THI TẶC HÔM NAY
Ý kiến Nam Sơn Lê: ”Quả thật, ngày nay có một phong trào "cách tân" thơ quá đà sinh ra hàng loạt những bài thơ không chủ đề không ý tưởng không lề lối thơ phú ...mà chỉ như những câu văn của kẻ say rượu, nói lung tung, vừa hát vừa nói, pha trộn cả chèo, chầu văn, cải lương, tuồng ...nghe nực cười lắm ! Thế rồi tung hô nhau lên tận mây xanh, đạp đổ không thương tiếc, trơ trẽn nền văn thơ truyền thống giầu bản sắc dân tộc. Thế mà, cơ quan hữu trách, nhất là QH cứ lờ lớ lơ, mặc anh có thóc mặc chị có gà, tha hồ chọi nhau nảy lửa, phá tan nền thơ ca Việt Nam. Thật là vô tâm vô cảm vô nhiệm !”
BÀI VÔ LỐI "THỜI SỰ CUỐI NGÀY" CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Bài này đã in trên các trang mạng xã hội một vài năm trước. Nó là một trong những bài theo khuynh hướng Vô lối, mà Nguyễn Khoa Điềm là một trong những đại biểu. Nói chung Vô lối là sự bất lực của sáng tạo thi ca. Tôi không muốn động bút vì trang mạng xã hội thì hòa cả làng, không ai chấp. Nhưng nay nó được Tạp chí Nhà văn & Tác phẩm của Hội Nhà văn Việt Nam in trang trọng chùm thơ Nguyễn Khoa Điềm gồm 7 bài trên số 2 /2013 nên buộc tôi phải dịch nó ra thơ Việt để mọi người hiểu.
Cách đây mấy năm nhà thơ Triệu Nguyễn có viết cho tôi đại ý là:
“Thiều chi thơ Tống, thơ Đường
Mà sao ngửi cái mắm tương thối trời
Thương cho bác Đỗ bạn tôi
Lại đi dịch cái dở hơi thơ nhà!...”
Tôi vẫn dịch cho mọi người rõ.

Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên văn:
THỜI SỰ CUỐI NGÀY

5 giờ chiều. Từ trên cầu Tràng Tiền
Một cô gái nhảy xuống sông tự tử
Ngay lập tức có hai chàng trai
Từ cầu lao xuống nước
Vớt cô lên
Cả ba ra về. Không một lời để lại

Tôi chỉ muốn nói to:
Tôi mừng cho sông Hương
Trong sạch
Tôi mừng cho nước tôi
Vẫn còn Thạch Sanh
Dù không ít tên Lý Thông đĩ bợm
3 – 6 -2013
Ng – Kh – Đ

Đỗ Hoàng: Bài Vô lối này rất kém, thua Bản tin tối ngày tiếng Anh. Các bạn học văn chương đã biết bài “Chuyện hai người tự tử” của Lê Đạt nổi tiếng làm thay đổi những trường phái thơ tụng ca thời 1956 – 1957 ở miền Bắc Việt Nam.

Đỗ Hoàng
Dịch ra thơ Việt:

GÁI TRINH TỰ TỬ

Tràng Tiền chiều muộn dòng Hương
Gái trinh tự tử nát xương còn gì
Hai chàng trai trẻ đang đi
Từ cầu lao xuống tức thì vớt lên.

Ra về không để tuổi tên
Tôi gào muốn vỡ hai bên bên bờ:
"Mừng Hương Giang sạch đường tơ
Mừng cho đất nước như thơ trong lành.
Vẫn còn hảo hán Thạch Sanh
Lý Thông đĩ bợm gian manh vẫn còn!"
Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2013
Đ –H

Vi Thùy linh
Nguyên bản (1)

Mùa thụ mầm

Đêm song song phố uớt – cặp đùi dài
Nàng đếm ngày người yêu về lại
Đếm bằng ngón tay như những phím cầm nâu của anh
Đôi chân ch¬a nhìn thấy
Chỉ những dấu chân vân nhấn trời mang bầu vĩnh cửu

Từ kiếp trước
Chúng mình đã yêu cẫn mẫn . Và im lặng

Đời người thì ngắn
Giấc mơ lại dài
Anh giấu đôi tay trước sự chờ đợi của em

Ngoài kia
Tất cả thành phố cây xanh bỗng rạc vàng cành khô. Lá vàng ngân nga nhu¬ những át – cơ hồi hộp

Căn phong say mềm tay
ánh vàng toát từ những lọ gốm nh¬ mồ hôi mặt trời chiều
Níu anh, em sóng.
Không thể đu lên giữ chiếc kim giờ hiện thực
Vì khuôn mặt chúng ta là chiếc đồng hồ

Gửi cho anh hai mơi búp ngọc lan ủ bên ngực em từ đêm anh choáng ngợp
Vốc tay đầy hương linh
Mạch mạch nước nấc lên vì nhớ
Bừng từng đêm lỡi như ngọn lửa
Liếm vào thân sóng nóng
Nguyên một mùa đắm đuối
Tình yêu sinh ra Con người

Khi em lúng túng không cất tiếng, là lúc nỗi sợ hãi xa cách quất lên
Ngôn ngữ không quyền uy cho diễn đạt yếu đuối
Đôi mắt ôi mùi nồng nàn ơi

Tạo hóa cho chúng ta ánh sáng mới tinh sau một đêm mê man còn váng sữa Mảnh trăng như miếng dưa hấu đỏ
Bỏ lạc giữa trời
Váng vất cơn cơn mùa mê sảng
Những giọt mưa tuột ra từ những đám mây bụng mang dạ chửa
Khiến cái túi ni lon tứ tung bỗng vỡ nước ối từ một số mái nhà
Vỡ không gian rối tung bê tông cọc sắt
Muưa tới tấp vừa rơi, vừa yêu

Không phải Phật nghìn mắt, nghìn tay
Anh ủ em trong im lặng đầy hơi ấm bằng đôi tay xuất thần
Con đường khểnh theo chiếc răng bên trái
Cầu vồng mọc từ hai ngón tay cái
Em ngập vào ngân gió
Ngân anh
Giữa nỗi lạc lõng

Trong ánh sáng đỏ của mặt trăng dưa hấu đang hồi lại màu thu non vì được bú dịu dàng
Những chiếc máy bay nhu¬ bầy chuồn chuồn ớt
Cắn rồn Ngày và Đêm

Thế mà Đêm chẳng biết bơi băng qua những ngăn cách, khủng hoảng của loài người
Đêm một mình và đêm yêu nhau. Lúc nào cũng tóc
Tóc ươớt trong phòng tắm tóc khô héo gối
Dòng sông đầy tóc rụng đang ngân gió
Gọi xanh

Kìa búp sen xanh mắt quyền uy khép đêm giao linh
Ôm cơn khát để anh tung vó
Chỉ hơi thở và tiếng hân hoan tới đầy mặt đất
Hằng hà mầm cây như những núm vú bật lên từ hoang hóa đất đai
Tiếng lục lạc tràn hoang mạc
Ngày sinh của chúng : sự nhân chia đôi tiền định hai người tháng Tư
Em nấp vào vết tay anh để lại trên bàn vàng căn phòng quen lạ ấy
Nơi lỡi nến phập phồng vươn cả khi sắp tắt trong cái nhìn hình phễu của chiếc lới chụp bên nụ hồng vàng khô nép cánh giống đôi môi em

Ngày anh về, chưa biết rõ
Phố đầy cây phượng gọi anh từ mùa hoa này
Nơi bay lên bầy vú thiếu nữ
Con đường đêm héo như quả phượng già
Tháng 9 nhớ về chín nhịp phồn sinh trong tiếng gọi đóa hoa kèn tháng Tư nở vào mùa thu tinh khiết.

Con đường trỗi cặp chân dài

(1) Theo Đặc Trưng – Thơ
Dịch:
Mùa sinh sôi

Đêm đôi ngã trải dài phố ướt
Nàng tính ngày người yêu trở về.
Bấm đốt tay như bấm phím cầm mơ u¬ớc,
Chưa thấy người trong khoảng trời quê!

Từ kiếp trước tình đôi ta im lặng
Với lời yêu gửi chốn địa đàng.
Đời thì ngắn, ước mơ thì dài rộng,
Anh có bồi hồi trước nỗi em mong?

Ngoài kia là nhiệt nồng phố xá,
Hàng cây xanh bỗng rực rỡ thắm vàng
Những chiếc là hoe ngân nga trong gió
Như lá bài hồi hộp âm vang!

Nhớ căn phòng mềm say tay ấm,
Ánh vàng như nuớc giọt trời chiều
Dập dìu níu anh em như sóng
Giữa thì giờ hiện thực phiêu diêu.

Gương mặt ta, chiếc đồng hồ báo thức
Giữ cho anh những búp ngọc lan
Ủ ngực em làm anh choáng ngợp
Vốc tay đầy lan hương linh thơm!

Ngầm mạch đời cuộn sôi nỗi nhớ
Lưỡi mềm như ngọn lửa rực hồng
Đi đến tận ngọn nguồn sóng vỗ
Tình yêu sinh nhân loại kiêu hùng!

Lúc bối rối, em làm sao nói hết.
Em sợ nhiều hoang vắng cách xa.
Chút yếu mềm làm em mỏi mệt
Đôi mắt đầy nồng thắm thiết tha.

Dêm thăm thẳm giữ giùm ta ánh sáng
Mảnh trăng thanh tựa mảnh dưa hồng,
Ai bỏ lạc giữa trời cao rộng
Từng cơn mưa váng vất rót thinh không.

Mưa rơi xuống trên mây mờ sủng nu¬ớc,
Nước tứ tung gõ những mái nhà,
Làm vỡ cả bê tông, cốt thép.
Mưa nồng nàn tình cảm đôi ta!

Không phải Phật nghìn tay, nghìn mắt.
Anh ủ em bằng cả tâm hồn
Đu¬ờng đời ấy còn biết bao trở trắc
Ngón tay anh như ánh cầu vồng!

Em ngụp lặn trong anh ngàn gió,
Giữa cô đơn lạc lõng lứa đôi.
Trong ánh sáng mặt trời dưa đỏ
Dòng sữa thơm bú mớm tuyệt vời.

Đêm ồn tiếng máy bay chuồn ớt,
Cố băng qua khoảng cách loài ngu¬ời
Đêm nồng nàn yêu mùi hương tóc,
Ngân gió ngàn, xanh gọi sông trôi.

Đêm giao linh, mắt quyền uy khép mở
Em phi thân trên cơn khát đời anh,
Tươi mặt đất phút hân hoan ngẹt thở
Mầm cây lên cho bằng địa êm lành!

Trên hoang mạc rung vang lục lạc,
Ngày tháng Tu của ta sinh sôi.
Em ngập vào tay anh thân thuộc
Ngọn nến mềm dịu ấm làn môi.

Ngày trở về, em chưa tường tỏ
Phượng hồng ơi! Anh của mùa này
Sẽ bay lên như bầy thiếu nữ
Nở mùa thu tinh khiết đắm say!
Hà Nội ngày 10 – 9 - 2007

Thơ không vần thế giới - Vô lối thi tặc hôm nay

 21:22 31/03/2025

THƠ KHÔNG VẦN CỦA CHA ÔNG – THƠ VÔ LÔI – THI TĂC HÔM NAY
(tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Bình Ngô đại cáo 平吳大告
Bình Ngô đại cáo 平吳大告 • Cáo bình Ngô
平吳大告
代天行化皇上若曰。
蓋聞:
仁義之舉,要在安民,
弔伐之師,莫先去暴。
惟,我大越之國,
實為文獻之邦。
山川之封域既殊,
南北之風俗亦異。
自趙丁李陳之肇造我國,
與漢唐宋元而各帝一方。
雖強弱時有不同
而豪傑世未常乏。
故劉龔貪功以取敗,
而趙禼好大以促亡。
唆都既擒於鹹子關,
烏馬又殪於白藤海。
嵇諸往古,
厥有明徵。
頃因胡政之煩苛。
至使人心之怨叛。
狂明伺隙,因以毒我民;
惡黨懷奸,竟以賣我國。
焮蒼生於虐焰,
陷赤子於禍坑。
欺天罔民,詭計蓋千萬狀;
連兵結釁稔惡殆二十年。
敗義傷仁,乾坤幾乎欲息;
重科厚歛,山澤靡有孑遺。
開金場塞冒嵐瘴而斧山淘沙,
採明珠則觸蛟龍而緪腰汆海。
擾民設玄鹿之陷阱,
殄物織翠禽之網羅。
昆虫草木皆不得以遂其生,
鰥寡顛連俱不獲以安其所。
浚生靈之血以潤桀黠之吻牙;
極土木之功以崇公私之廨宇。
州里之征徭重困,
閭閻之杼柚皆空。
決東海之水不足以濯其污,
罄南山之竹不足以書其惡。
神民之所共憤,
天地之所不容。
予:
奮跡藍山,
棲身荒野。
念世讎豈可共戴,
誓逆賊難與俱生。
痛心疾首者垂十餘年,
嘗膽臥薪者蓋非一日。
發憤忘食,每研覃韜略之書,
即古驗今,細推究興亡之理。
圖回之志,
寤寐不忘。
當義旗初起之時,
正賊勢方張之日。
奈以:
人才秋葉,
俊傑晨星。
奔走先後者既乏其人,
謀謨帷幄者又寡其助。
特以救民之念,每鬱鬱而欲東;
故於待賢之車,常汲汲已虛左。
然其:
得人之效茫若望洋,
由己之誠甚於拯溺。
憤兇徒之未滅,
念國步之遭迍。
靈山之食盡兼旬,
瑰縣之眾無一旅。
蓋天欲困我以降厥任,
故與益勵志以濟于難。
揭竿為旗,氓隸之徒四集
投醪饗士,父子之兵一心。
以弱制彊,或攻人之不備;
以寡敵眾常設伏以出奇。
卒能:
以大義而勝兇殘,
以至仁而易彊暴。
蒲藤之霆驅電掣,
茶麟之竹破灰飛。
士氣以之益增,
軍聲以之大振。
陳智山壽聞風而褫魄,
李安方政假息以偷生。
乘勝長驅,西京既為我有;
選兵進取,東都盡復舊疆。
寧橋之血成川,流腥萬里;
窣洞之屍積野,遺臭千年。
陳洽賊之腹心,既梟其首;
李亮賊之奸蠹,又暴厥屍。
王通理亂而焚者益焚,
馬瑛救鬥而怒者益怒。
彼智窮而力盡,束手待亡;
我謀伐而心攻,不戰自屈。
謂彼必易心而改慮,
豈意復作孽以速辜。
執一己之見以嫁禍於他人,
貪一時之功以貽笑於天下。
遂靈宣德之狡童,黷兵無厭;
仍命晟昇之懦將,以油救焚。
丁未九月柳昇遂引兵猶邱溫而進,
本年十月木晟又分途自雲南而來。
予前既選兵塞險以摧其鋒,
予後再調兵截路以斷其食。
本月十八日柳昇為我軍所攻,計墜於支稜之野;
本月二十日柳昇又為我軍所敗,身死於馬鞍之山。
二十五日保定伯梁銘陣陷而喪軀,
二十八日尚書李慶計窮而刎首。
我遂迎刃而解,
彼自倒戈相攻。
繼而四面添兵以包圍,
期以十月中旬而殄滅。
爰選貔貅之士,
申命爪牙之臣。
飲象而河水乾,
磨刀而山石鈌。
一鼓而鯨刳鱷斷,
再鼓而鳥散麇驚。
決潰蟻於崩堤,
振剛風於稿葉。
都督崔聚膝行而送款,
尚書黃福面縛以就擒。
僵屍塞諒江諒山之途,
戰血赤昌江平灘之水。
風雲為之變色,
日月慘以無光。
其雲南兵為我軍所扼於梨花,自恫疑虛喝而先以破腑;
其沐晟眾聞昇軍所敗於芹站,遂躪藉奔潰而僅得脫身。
冷溝之血杵漂,江水為之嗚咽;
丹舍之屍山積,野草為之殷紅。
兩路救兵既不旋踵而俱敗,
各城窮寇亦將解甲以出降。
賊首成擒,彼既掉餓虎乞憐之尾;
神武不殺,予亦體上帝孝生之心。
參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;
總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。
彼既畏死貪生,而修好有誠;
予以全軍為上,而欲民之得息。
非惟謀計之極其深遠,
蓋亦古今之所未見聞。
社稷以之奠安,
山川以之改觀。
乾坤既否而復泰,
日月既晦而復明。
于以開萬世太平之基,
于以雪天地無窮之恥。
是由天地祖宗之靈有,
以默相陰佑而致然也!
於戲!
一戎大定,迄成無競之功;
四海永清,誕布維新之誥。
播告遐邇,
咸使聞知。
Phiên âm Hán Việt Bản dịch
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,
Trí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.
Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Đồ hồi chi chí
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nhiên kỳ:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.
Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá khôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quán.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.
Ô hô!
Nhất nhung đại định,
ngật thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh,
đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.
Dỗ Hoàng dịch Thơ
Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những nổi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
VÔ LỐI – THI TẶC HÔM NAY
LỜI TẠ LỖI; “Lần nữa phải châp tay lay cha ông khi con phải đưa bọn vô lối – thi tặc cõi Việt viết nhơ bẩn , thối tha như thế đứng cùng trang với tiền nhân! Bỡi do cái đời nhơ nhuốc, nhố nhăng tôn vinh bọn này là tinh hoa là đại diện cho tầng lớp đổi mới,
VÔ LỐI – THI TẶC HÔM NAY
Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ - Nguyễn Quang Thiều
Người hướng dẫn: Được dệt thủ công bởi một người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ
Người mua: Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
Chủ nhân: Quà tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm.
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5, nói:
“Mẹ đau lắm”
21 năm tấm thảm không thay đổi chỗ treo
Người đàn ông 50 tuổi thường trở về và đứng
Trong ngôi nhà nửa bóng tối
Tràn ngập tấm thảm tiếng hô hoán
Và phía sau tấm thảm
Một lưỡi dao lạnh lùng đợi
Và một cái chảo sùng sục sôi
Người hướng dẫn: Những ngón tay người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt
Người mua: Ông già da đen Cuba đã tự vẫn
Chủ nhân: Tôi chỉ nhớ gương mặt con trai tôi khi nó mở bức thảm ra
Có một người lúc nào cũng rét
Đứng nhìn tấm thảm
Hai bàn chân bị đông cứng trong vũng máu
Ở chân tường
Người hướng dẫn: (đã bỏ nghề)
Người mua: Hình như không phải tấm thảm tôi đã mua
Chủ nhân: Tôi nhìn thấy những người thân đã chết chạy nấp sau những gốc cây trong tấm thảm
Bây giờ là năm thứ 22.
CÂU HỎI CUỐI NGÀY
Nguyễn Quang Thiều
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày
Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên
Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào
Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.
Quán Sứ - Hà Đông, 1991
BÌNH GIẢNG
Câu mở đầu không có gì gọi là câu thơ. Một câu nói đơn sơ như các ông, các bà quét rác ở các công ty Vệ sinh môi trường, sau ngày làm mệt nhọc vẫn thường nói. Mà nói hay hơn, thơ hơn:
“Ngày dài mưa nắng trên đường
Mong về có đọi cơm thương ở nhà”.
Tiếp theo 5 câu sau có tới 31 từ mà lại là 5 câu rất vô nghĩa, vô bổ không nói lên được điều gì:
“Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên”
Trong khi tiền nhân chỉ 20 từ đã làm nên thi phẩm bất hủ muôn đời!
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Lưu Vũ Tích
飲酒看牡丹
劉禹錫)
飲酒看牡丹
今日花前飲,
甘心醉數杯。
但愁花有語,
不為老人開。
Lưu Vũ Tích
Ẩm tửu khán mẫu đơn
Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm tuý sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ:
Bất vị lão nhân khai.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Trước hoa giờ được uống
Mấy chén ngất ngư say
Sợ rằng hoa sẽ nói:
Không nở cho già này!
Cao điểm chốt 176 –
Biên giới Việt Lào 1972
Tiếp đến 6 câu sau là những câu có ý nghĩ dục tình rất bậy bạ, ý nghĩ khiên cưỡng mang tính hiếp dâm cao:
“Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào”
Những người con gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua có sao đâu. Họ làm đẹp cho phố phường đường làng có cuộc đời khởi sắc mà ông bà váy cồng lộn ngược, mò cua bắt ốc không có đôi dép mo cau mà đi thì sao? Tại sao lại nói “Như dao sắc phất vào tôi tứa máu”? Một câu khẩu phàm, hàm hồ, hàm chứa, căm giận cái đẹp còn hơn phát xít Hitle bắn đại bác vào Viện Bảo tàng nghệ thuật Paris (Pháp) những năm 1940 – 1942. Người ta cưỡi xe máy, một nét đẹp của con gái Việt Nam thời đổi mới nghìn đời mới có, sao mình lại có cái nhìn thù hận như vậy?
Bên châu Âu như bà Angela Dorothea Merkel, thủ tướng Đức mặc váy cởi xe máy phóng qua anh cũng tứa máu như dao sắc phất vào người chăng?
Đúng là điên rồ!
Cha ông nói:
“Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc áo hở lườn mới xinh!”
Bây giờ người đẹp mới mặc váy cưỡi xe máy phóng qua mà mình đã hồng hộc sôi máu lên như đỉa phải vôi? Anh lại còn “ nấc “ lên như bị nghẹn. Việc chi mà anh ghen tức lồng lộn với cái đẹp như thế? Cái đẹp vĩnh cửu của thời đổi mới nước ta có phương hại gì đến thẫm mỹ, đến thuần phong mỹ tục gì đâu?
Người đẹp mặc thế là quá kín đáo, bây giờ chúng nó còn mặc quần đùi lên tận bẹn cởi xe máy nữa đấy. Chỉ những đám vua quan dâm dục vô độ “ Nhất dạ lục giao hoan, sinh ngũ tử” nhưng lại căm thù cái đẹp:
“Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng”
(Ca dao)
Chưa hết, anh còn đặt ra ảo tưởng rất bậy bạ, của đám cái bang, homeless people, vô lương tri:
“Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào “
Rằng anh làm sao lấy họ được. Anh Vua chúa sao mà lấy họ dễ dàng như thế. Anh không phải Đặng Mậu Lân em gái Đặng Thị Huệ khênh giường đi giữa Thăng Long thấy gái đẹp là kéo lên làm tình, cũng không phải Beria (Nga) có xe đặc chúng đóng giường chiếu riêng để đi trên phố hễ thấy nữ sinh viên là kéo lên giao hợp… Đến như vua Napoleon cũng phải lấy mạ giòng (đàn bà có con riêng), thứ gì anh thấy người đẹp mặc váy cưỡi xe máy đi trên phố thoáng qua mà đã đòi làm tình! Anh có nứng cặc thì anh chạy vào gốc cây thủ dâm cho nó hạ hỏa, chứ làm sao tiếp cận với người ta!
Anh còn chưa biết, biết đâu trong đám đàn bà, cả đẹp cả xấu đó là tình báo viên, đặc tình, đặc vụ của Công an cài cắm, mà ngành anh theo học. Anh bờm xơm họ sẽ cho một lưỡi dao găm thì anh đi đời, không họ sẽ điện đàm trực tuyến đến bộ phận tham mưu cho anh vào Hỏa Lò! Anh có dám không?
Tiếp đến là đoạn kể như học sinh lớp 2 Hà Nội thời miền Bắc hòa bình mới lặp lại tả cảnh các bà, các cô buôn vịt, buôn cá khô, buôn nước mắm đi trên tàu điện:
“Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia”
Rồi anh lại lần nữa nổi máu Sở Khanh không phải lối:
“Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.”
Thật là một ý nghĩ tà dâm rất bậy bạ!
Đến như Nguyễn Du chỉ mới nói, dù tên Mã Giám Sinh vô cùng mất dạy, bất lương, không còn luân thường đạo lý:
“Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến duyên”
Đó là đã có ba trăm lạng vàng nhé. Còn anh bô xu dính tíu sao anh có ý nghĩ hoang dâm vô độ ấy được?
Khi tập “ Sự mất ngủ của lửa” được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng, ngay năm1993, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết “ Nguyễn Quang Thiều tự dịch thơ mình ra tiếng Việt” và phong cho ông nhà “ Khóc Học” . Tôi nghĩ rất đúng mà chưa hết. Nguyễn Quang Thiều có du học học ngành Công an chuyên nghiệp, nhưng Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt. Tập “Sự mất ngủ của lửa” đầy hàng chục chữ khóc, riêng bài này đã hơn bốn chữ gần khóc: tôi nấc lên, tôi sặc khói, tôi sẽ ngủ, tôi nhói lên…
Người ta chẳng thấy nấc, sặc, nhói, ngủ… như thế nào!
Nói chung Nguyễn Quang Thiều Thiều không biết làm thơ tiếng Việt, viết rất kém, dẫu sau này anh có sáng tác lục bát “ Dâng trà”, “Con đường”…
Hội Nhà Văn Việt Việt Nam thời ấy (1993) tặng giải thướng cho Nguyễn Quang Thiều là có tội với nhân dân, với lịch sử!
Bài Vô lối Nguyễn Quang Thiều
Những người đàn bà gánh nước sông (1)
Nguyễn Quang Thiều.
Nguyên bản:
Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết rồi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi
1992
(1) Bài được chọn là trong 100 bài thơ hay của thế kỷ XX
Đỗ Hoàng dịch :
Những người đàn bà gánh nước sông
Bàn chân toẽ như chân gà mái,
Quá nửa đời thơ dại tôi trông.
Cô, bà xuống gánh nước sông,
Bối tóc vỡ xối bềnh bồng trên lưng
Tay giữ chặt giữa chừng đòn gánh,
Tay vịn vào mây trắng như tơ
Sông trôi úp mặt vô bờ,
Trai mang mơ biển lặng tờ ra đi.
Cá thiêng khóc rầu rì, quạnh quẻ,
Chiếc phao ngô cô lẻ chết rồi!
Đàn ông giận dữ ôi thôi.
Nuốt sầu ngao ngán chán đời đi luôn.
Nửa đời trải, thấm buồn tôi thấy
Lũ trẻ thơ bám váy u già
Lớn lên giữa chốn bùn sa.
Gái thay mẹ gánh nghèo qua bến thuyền
Con trai mộng triền miên mơ biển,
Vác cần câu lặng biến tha hương
Cá thiêng quay mặt lệ tuôn,
Để trơ cái lưỡi câu lươn lộ mồi!
Hà Nội ngày 6 tháng 5 năm 2010
Đ - H
Nguyễn Bình Phương
Nguyên bản:
VƯỜN KHUYA
Cánh rất mỏng những bông quỳnh nở chậm
Trong nhụy hoa vàng mơ có tiếng nói thầm
- Anh đã hẹn em chiều thứ Năm
Cúc đang sáng chập chờn bên tay áo
Không ai vượt qua ngày thứ Tư
Nở như người ác ngồi tư lự
Nở như nỗi buồn đi mang làn môi xanh
Nở như ngọn đèn trôi êm ru từ bãi tha ma về
Sau tình yêu con đường lạnh
Hôn anh em làm anh mòn mỏi
Ta sẽ chết trong nhụy hoa những cánh hoa khép lại
Lời thì thầm đêm đêm nhắc nhở
- Kiêu hãnh không thắng nỗi thờ ơ.
(*) Bài in trên tạp chí Thơ - Hội Nhà văn Việt Nam số 1&2 - 2016
BÌNH GIẢNG
VƯỜN KHUYA - MỘT KIỂU VIẾT VÔ LỐI NGU TỐI
Cha ông ta nói: “Dốt hay nói chữ”, đầu bò sát mà làm ra vẻ đầu Niuton, điều nay rất đúng với Nguyễn Bình Phương khi đẻ ra hàng loạt bài Vô lối đánh đố, tắc tỵ, quái thai:
- Anh đã hẹn em chiều thứ Năm
Cúc đang sáng chập chờn bên tay áo
Cúc nào đây? Cúc áo hay hoa cúc, hay một cô Cúc mắt bị thẹo nào? Một sự đánh đố quá vô lối, quá ngu tối!
Việc gì không viết cúc áo đang sáng chập chờn? Bây giờ có kiều viết bắt người ta đoán mò thế mới cho là thơ khó, thơ thế mới hay, mới siêu. Toán khó rồi thơ khó mới là sang!
Thật ra thơ khó, người xưa làm lâu rồi:
“Lồn tròn thì cặc cũng tròn
Đâm vô thì cặc càng mòn, càng hao”!
(Ca dao)
Rồi tác giả lại khẳng định cũng vô lối nốt :
“Không ai vượt qua ngày thứ Tư”
Có chắc không? Tôi vượt qua ngày thứ tư thì sao? Cô ca ve vượt qua ba ngày thứ tư thì sao?
Rồi ví von, so sánh rất ác độc. Ai đem hoa quỳnh nở so với cái ác, so với ma quỷ:
“Nở như người ác ngồi tư lự
Nở như nỗi buồn đi mang làn môi xanh
Nở như ngọn đèn trôi êm ru từ bãi tha ma về”
Những câu viết về tình yêu cũ hơn trái đất:
“Hôn anh em làm anh mòn mỏi
Ta sẽ chết trong nhụy hoa những cánh hoa khép lại”
Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu đã viết nhiều rồi:
“Yêu là chết ở trong lòng một ít”
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu:
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết...”
Xuân Diệu học nhà thơ Edmond Harucourt ( 1856 - 1941 )
Partir, c’est mourir un peu,
C’est mourir à ce qu’on aime :
On laisse un peu de soi-même
En toute heure et dans tout lieu.
(Rondel De L?adieu)
Đi là chết ở trong lòng một ít.
Nỗi chết riêng mang cho người đắm yêu thương:
Còn để lại chút gì như thể vấn vương.
Trong mỗi giờ, mỗi nơi, mỗi bước.
(Khúc ca ly biệt)
Nguyễn Bình Phương hay dùng quy nạp không hoàn toàn, quy nạp như thế thì bao giờ cho đủ, cho hết ý:
“Sau tình yêu con đường lạnh”
Người ta có thể viêt:
“Sau tình yêu con gái sinh ra...”
Viết như thế này mới đúng và đủ nghĩa:
“Sau tình yêu con đường lạnh và N sự việc hiện tượng xảy ra!”
Có lẽ không nên mất thì giờ với kiểu viết ngu tối như thế này!
Đỗ Hoàng dịch:
VƯỜN KHUYA
Cánh mỏng mảnh bông quỳnh nở chậm
Nhụy vàng mơ có tiếng thĩ thầm
Chiều thứ Năm như lời anh hẹn
Mới thứ Tư anh đã lỡ, lầm!
Hoa quỳnh nở như người thiền tư lự
Như nỗi buồn mang làn môi xanh
Như ngọn đèn trôi qua mồ lạnh
Sau tình yêu con đường vắng tanh!
Nụ hôn em làm anh mòn mỏi
Rồi sẽ tan trong nhụy hoa vàng
Lời thầm thì đêm đêm nhắc mãi
Nỗi thờ ơ thắng sự kiêu hùng!
(còn nữa)
Vô lối - thi tặc Nguyễn Bình Phương

Thơ không vẩn 7

 01:13 30/03/2025

THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM
(tiếp theo)
Đô Hoàng
SO SANH TIÊNG NGƯỜI “XỈ ÂM” VÀ NGƯỜI “HẦU ÂM”.
Đỗ Hoàng
Tôi đã có nhiều chuyên luận viết về tiếng nói người người “xỉ âm”(phát âm qua kẻ răng) và người “hầu âm”(phát âm qua thực quản (cổ họng âm)..Giờ chỉ dẫn chứng so sánh:
Tiếng Anh
America – Ơ re mi cần –Mỹ
Television – Televísần -Tivi
have breakfast- Het bơretphat – Ăn sáng
daily conversation – đàm thoại hàng ngày
Tiếng Việt: Mỳ, Vô tuyên , Ăn sáng, Nói hàng ngày!
Tiếng Trung : Mỹ, Vô tuyến, Tảo thực, Đàm thoại nhật
Tiếng Pháp:
la maison – cái nhà
la cochon – lợn
boutique – cửa hàng
numéro un – số một
Tiếng Việt : nhà, lợn, cửa hàng, số một
Tiếng Anh và tiêng Pháp những từ rời rac trên khi đọc, xêp lại như một bài thó tứ tuyệt của phương Đông,, còn tiếng Việt và tiêng Trung nó không có ngữ nghĩa gì!
Vây vần điệu trong thó người phát « xỉ âm » rất quan trọng !
THƠ KHÔNG VẦN NƯỚC TA TỪ CỔ ĐẾN NAY
Vì lý do « xỉ âm » nên từ cổ cha ông ta gọi làm thơ không vần là :chiếu, biểu, cáo, thư, tụng, biểu, tế, đói, sấm, hich, tô tụng, trát, phú, lệnh…Điển hình nhát là ‘BÌNH NGÔ DẠI CAO » - Bái cáo bình Ngô) của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo 平吳大告 • Đại cáo bình Ngô
蓋聞:
仁義之舉,要在安民,
弔伐之師,莫先去暴。
惟,我大越之國,
實為文獻之邦。
山川之封域既殊,
南北之風俗亦異。
自趙丁李陳之肇造我國,
與漢唐宋元而各帝一方。
雖強弱時有不同
而豪傑世未常乏。
故劉龔貪功以取敗,
而趙禼好大以促亡。
唆都既擒於鹹子關,
烏馬又殪於白藤海。
嵇諸往古,
厥有明徵。
頃因胡政之煩苛。
至使人心之怨叛。
狂明伺隙,因以毒我民;
惡黨懷奸,竟以賣我國。
Đỗ Hoàng trích dịch
Thế trời làm việc, Vua truyền rằng.
Đã nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà bán nước cầu vinh… »
Phú
Tú Xương
Phú hỏng khoa Canh Tý
Đau quá đòn hằn
Rát hơn lửa bỏng.
Hổ bút hổ nghiên;
Tủi lều tủi chõng.
Nghĩ đến chữ “lương nhân đắc ý” thêm nỗi thẹn thùng;
Ngắm đến câu “quyển thổ trùng lai” nói ra ngập ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng;
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.
Có một thầy:
Dốt chẳng dốt nào;
Chữ hay, chữ lỏng.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu;
Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng.
Quanh năm phong vận, áo hàng tầu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh;
Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng.
Tú rốt bảng giữa năm Giáp Ngọ, nổi tiếng tài hoa;
Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng.
Năm vua Thành Thái mười hai;
Lại mở khoa thi Mĩ Trọng.
Kỳ đệ tam văn đã viết rồi;
Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem giò;
Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng.
Sáng đi lễ Phật, còn kỳ này kỳ nữa là xong;
Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.
Nào ngờ:
Bảng nhỏ có tên,
Ngoại hàm còn trống.
Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang;
Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.
Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?
Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với bóng!
Giá cứ chăm nghề đèn sách thì mười lăm mười sáu đỗ tự bao giờ;
Những là mải việc đùa chơi nên một tuổi một già, hoá ra lóng đóng.
Thôi thì thôi:
Sách vở mập mờ;
Văn chương lóng ngóng.
Khoa trước đã chầy;
Khoa sau hẳn chóng.
Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;
Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!
Canh Tý tức năm 1900.
Chiếu
Thiên đô chiếu (chữ Hán: 遷都詔) tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư[1], bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La.
Theo ý kiến của sử gia Trần Quốc Vượng, Chiếu dời đô đã khẳng định được vai trò của kinh đô Thăng Long,[3] là tác phẩm văn học khai sáng của nhà Lý. Tuy nhiên, Chiếu dời đô chưa nêu bật được chủ nghĩa dân tộc và khát vọng độc lập, hơn nữa ngôn ngữ sử dụng trong văn bản này mang đượm màu sắc dị đoan, phong thủy.
昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億萬世子孫之計。上謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。筭數短促。百姓耗損。萬物失宜。朕甚痛之。不得不徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。萬物極繁阜之豐。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要會。爲萬世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。
Bản dịch tiếng Việt:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà 2 nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)
Sắc
Những người làm quan từ tứ phẩm trở lên, xưa được nhà vua ban sắc phong tặng cho cha mẹ, ông bà cụ kỵ tùy theo phẩm tước của mình. Nhất phẩm được triều đình truy phong đến cao tổ, nhị phẩm được truy phong đến ông bà, tam tứ phẩm được truy phong đến cha mẹ.
Trong sắc phong có kể lại công trạng chức tước của người làm quan, rồi suy âm truy phong đến cha mẹ, ông bà hay các cụ. Sắc phong được báo về dân làng, dân làng phải tổ chức đi rước sắc về nhà chủ. Nếu những người được phong còn sống, sẽ có lễ khao dân làng, cùng với cáo yết gia tiên và lễ thần linh tại đình.
(Theo Từ điển Lễ tục Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, 1996)
Sắc chí vua Tự Đức
“Thí sai Suất đội Lê Non thuộc đội 5 đội thủy vệ Bình Thuận đã kinh qua chức Thí sai do viên Cai tỉnh đề cử. Nay Bộ binh đồng ý chuẩn y bổ thụ giữ chức Chánh đội trưởng Suất đội Suất nội đội binh thủy đồng thời cai quản việc điều động người thi hành công vụ. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 29 tháng 5 năm Tự Đức thứ 17 (1863).
“Hiệp quản Lê Non thuộc Tinh binh Suất đội thủy vệ Bình Thuận đã được ân chuẩn thăng một trật, nay Cai tỉnh y theo đó chuẩn thăng làm Cai đội tinh binh đồng thời cai quản đội biện binh. Phàm mọi việc cứ y theo lệ mà thừa hành. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 8 tháng 5 năm Tự Đức thứ 23 (năm 1869).
(còn nữa)
Đ - H
THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIÊT NAM (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Chiếu, biếu , sắc phong, cáo, tụng, hịch…của cha ông nhiều nhiều lắm! Không kể hết! Thời cận đại và hiện nay vẫn có nhiều nhà thơ viết thơ không vần thành công . Như thời khàng chiến chống Pháp: Trần Mai Ninh, Hữu Loan, Hồng Nguyên…Thời nay: Lò Ngân Sủn (dân tộc Giáy)…
Nhà thơ Trần Mai Ninh
Trần Mai Ninh tên thật là Nguyễn Thường Khanh. Vốn xuất thân trong một gia đình công chức thời Pháp thuộc, ngay từ nhỏ Trần Mai Ninh đã chịu ảnh hưởng của Nho học và văn hóa Pháp. Bởi thế mà ông sớm có những luồng tư tưởng tiến bộ.
Nhắc đến Trần Mai Ninh nhiều người nhớ ông với tư cách một nhà thơ thời kỳ kháng chiến chống Pháp với những bài thơ: Tình sông núi, Nhớ máu, Thắc mắc, Nhịp muôn đời, Nắng tù, Cơm mới... thể hiện sự “căm thù tột cùng mà yêu thương hết mức”.
Cố nhà thơ Mai Ngọc Thanh trong cuốn sách “Nhà văn Việt Nam hiện đại Thanh Hóa” có kể lại câu chuyện khi ông được gặp nhạc sĩ Văn Cao, nhạc sĩ có nói: Này! Thanh Hóa cậu có Trần Mai Ninh là đáng phải tự hào lắm đấy. Chỉ với hai bài Tình sông núi và Nhớ máu thôi, Trần Mai Ninh đã là ngôi sao sáng chói trên thi đàn cách mạng Việt Nam. Một loạt các nhà thơ lứa mình được ảnh hưởng của thơ Trần Mai Ninh dẫn dắt đấy. Phải cúi đầu mà học ông đi”... Những vần thơ ông để lại cũng là những trải nghiệm của đời sống cách mạng, những ngày làm báo, viết báo.
Theo nhiều tài liệu ghi lại, ngay từ khi còn học ở Thanh Hóa, Trần Mai Ninh đã tham gia viết bài và tự vẽ tranh biếm họa trang trí cho “tờ báo tay” với nội dung đả kích thói hủ lậu của một số thầy giáo và học sinh.
Năm 1935, sau khi thi đỗ thành chung, ông ra Hà Nội học tiếp lên tú tài. Tại nơi đây, ông thực sự giác ngộ cách mạng, được Đảng dìu dắt. Ông tham gia nhóm “nghiên cứu Mác xít”, tích cực hoạt động trong phong trào Thanh niên Dân chủ Đông Dương và sớm trở thành một chiến sĩ cách mạng. Ông hoạt động nhiều trên mặt trận báo chí và văn học nghệ thuật với các bút danh: Trần Mai Ninh, Hồng Diện, Mạc Đỗ, Tố Chi, TK...
Đến năm 1937, Trần Mai Ninh tham gia công tác báo chí của Đảng xuất bản ở Hà Nội. Ông viết bài, làm thơ và làm họa sĩ chủ yếu của nhiều tờ báo Đảng như tờ Tin tức, Bạn dân, Thế giới, Thời mới...
Tuy vậy, kể từ năm 1939, chiến tranh thế giới II bùng nổ, thực dân Pháp đàn áp cách mạng Việt Nam, chúng thủ tiêu các quyền tự do dân chủ mà Nhân dân ta đã giành được trong thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939). Các tờ báo tiến bộ lần lượt bị đóng cửa, một số tòa soạn báo bị đe dọa, Trần Mai Ninh bị mật thám theo dõi, ông phải lui về hoạt động cách mạng ở thị xã Thanh Hóa (nay là TP Thanh Hóa). Ông viết bài cho báo Bạn đường, và làm biên tập chủ chốt của báo Tự do, cơ quan tuyên truyền và đấu tranh bí mật của Mặt trận phản đế cứu quốc Thanh Hóa. Đây là thời gian ông có nhiều cống hiến cho cách mạng trên lĩnh vực văn hóa và tư tưởng khi dùng thơ ca, báo chí để ca ngợi tình yêu thương, tự do và tuyên ngôn cách mạng.
Tháng 9/1941, Trần Mai Ninh gia nhập Chiến khu Ngọc Trạo, làm đội trưởng Đội xung kích. Trong khoảng thời gian chiến đấu ấy, ông vẫn miệt mài với công việc cổ vũ tinh thần đồng bào, đồng chí thêm tin yêu vào lý tưởng của Đảng bằng nhiều áng thơ và cuốn tự truyện Khi Chiến khu Ngọc Trạo bị vỡ, Trần Mai Ninh bị giặc bắt và bị giam cầm trong nhà lao Thanh Hóa. Đầu năm 1944, thực dân Pháp đày ông đi Buôn Ma Thuột. Lợi dụng lúc Nhật đảo chính Pháp, ông đã vượt ngục, về hoạt động ở Khu V, rồi tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Ngãi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tháng 5/1946 ông tham gia quân đội và là Trưởng ban tuyên truyền Đại đoàn 27 (sau đổi là Quân khu 6). Cuối năm 1947, theo yêu cầu của công tác vùng sau lưng địch, ông được cử vào cực Nam Trung Bộ hoạt động. Trong thời gian này, Trần Mai Ninh tiếp tục làm báo ở tờ Tiến hóa - cơ quan Văn nghệ cứu quốc tỉnh Quảng Ngãi.
Đang ở thời kỳ chín nhất của sự nghiệp cầm bút, Trần Mai Ninh bị sa vào tay giặc trong một chuyến công tác. Chúng đưa ông về giam ở nhà tù Nha Trang, tra tấn dã man và giết ông một cách hèn hạ. Về cái chết của Trần Mai Ninh đến nay vẫn còn là bí ẩn, người thì cho rằng, ông bị địch chọc mù mắt vì vẽ tranh cách mạng, người khác lại nói bị địch cắt lưỡi vì luôn chửi rủa chúng. Thậm chí, sau đó ông còn bị địch dùng xe kéo lê xác trên đường phố... tựu chung cũng chỉ khẳng định lòng yêu nước, quên thân của ông.
Không chỉ là một nhà thơ, một nhà báo, Trần Mai Ninh còn là một họa sĩ. Những bức tranh của ông phóng khoáng, dễ hiểu mang tính tuyên truyền cao. Hiện nay ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam còn lưu trữ được hơn 30 bức tranh biếm họa, áp phích của ông rải rác trên các tờ báo: Bạn dân, Thế giới, Thời nay, Bạn đường... Ông còn là một người viết văn xuôi, viết kịch. Đặc biệt, ông chính là người đầu tiên dịch tiểu thuyết “Người mẹ” (M.Gorki) ở Việt Nam. Ông còn dịch, giới thiệu văn học Xô-viết trên báo Tiến hóa; viết về nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua trên tạp chí Tiên phong - cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam...
Nhà báo Trần Mai Ninh: Sống và viếtTrần Mai Ninh và những trang viết sống mãi với bạn đọc.
Trần Mai Ninh trên hết vẫn là một nhà cách mạng. Ngay từ đầu những năm 40 trước Cách mạng Tháng Tám ông đã có quan niệm, trước hết là phải sống, phải hoạt động và phản ánh thân phận con người. “Một nhà văn, muốn sáng tạo cho thực có giá trị trong suốt cả cuộc đời, điều quan trọng nhất, điều quan hệ nhất là suốt cả cuộc đời, nhà văn ấy phải học ngay bằng máu thịt của mình tung ra giữa trời hoạt động, trong sự sống ngang tàng, chăm chỉ không ngừng một phút” (Trần Mai Ninh, Sống đã... rồi viết văn, Thanh Nghị số 42 ngày 1/8/1943). Và thực tế, ông đã sống, đã viết với tất cả tâm hồn và trái tim của mình. Trái tim ấy chưa bao giờ ngừng thổn thức, ngừng reo; một ý chí không biết sợ, không chịu khuất phục như những câu thơ hừng hực khí thế trong bài Nhớ máu:
"Sống... trong đáy âm thầm
Mà nắm chắc tối cao vinh dự
Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai
Vững tin tưởng nơi oai hùng
Và chiến thắng
Câu Việt Nam: dân tộc!".
Nhớ máu
Nhà thơTrần Mai Ninh
Ơ cái gió Tuy Hoà…
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng.
Gió đi ngang, đi dọc,
Gió trẻ lại – lưng chừng
Gió nghỉ
Gió cười,
Gió reo lên lồng lộng.
Tôi đã thấy lòng tôi dậy
Rồi đây
Còn mấy bước tới Nha Trang
– A, gần lắm!
Ta gần máu,
Ta gần người,
Ta gần quyết liệt.
Ơi hỡi Nha Trang!
Cái đô thành vĩ đại
Biết bao người niệm đọc tên mi.
Và Khánh Hoà vĩ đại!
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người,
Cả hồn ta sát tới
Nhìn mi!
Ta có nhớ
Những con người
Đã bước vào bất tử!
Ơ, những người!
Đen như mực, đặc thành keo
Tròn một củ
Hay những người gầy sát lại
Mặt rẹt một đường gươm
Lạnh gáy,
Lòng bàn tay
Khắc ấn chuôi dao găm.
Chân bọc sắt,
Mắt khoét thủng đêm dày
Túi chứa cả Nha Trang… họ bước
Vương Gia Ngại… Cung Giữ Nguyên
Chút chít Hoàng Bá San… còn nữa!
Cả một đàn chó ghẻ
Sủa lau nhau
Và lần lượt theo nhau
Chết không ngáp!
Dao găm để gáy,
Súng màng tang
Ồng ộc xối đầy đường máu chó.
Chúng nó rú.
Cả trại giặc kinh hoàng.
Quy-lát khua lắc cắc
Giày đinh xôn xao
Còi và kèn…
Cả trại giặc bạt hồn, bạt vía…
Chạy lung tung
-Sớm mai xét và bắt
Thiết giáp cam nhông
Rầm rập nối đuôi nhau
Và đêm khuya: lại chết
Chồn Pháp, chó Việt gian
Ằng ặc máu
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người
Cả hồn ta sát tới
Biết bao người
Sống lẩn lút nhưng ngang tàng
Bên lưng giặc!
Vẫn tổ chức, vẫn tuyên truyền
Hoặc giao thông hay liên lạc
Rải giấy
Treo cờ
Hay gồng vai tiếp tế
Từ bình minh cho tới trăng tàn
Đúc bê tông bên mặt trận
Và thì thào cùng du kích đi lên…
Cả ngàn chiến sĩ
Cả ngàn con bạc, con vàng
Của Tổ quốc!
Sống…trong đáy âm thầm
Mà nắm chắc tối cao vinh dự
Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai
Vững tin tưởng nơi oai hùng
Và chiến thắng
Câu Việt Nam: dân tộc!...”
Nhà thơ Hữu Loan:
Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan; Bút danh: Hữu Loan ; sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916 (theo lý lịch, còn có thông tin ông sinh năm 1914) tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh (nay là xã Nga Phượng), huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi dạy học và tham gia Mặt trận Bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê và khi cuộc Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn học, xuất bản tại Hà Nội . Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia quân đội Nhân dân Việt nam, phục vụ trong Đại đoàn 304.
Sau năm 1954, ông làm việc tại Báo Văn nghệ trong một thời gian. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Sau khi phong trào này bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải đi học tập chính trị, tiếp đó ông về quê sinh sống. Ông sống bằng nhiều nghề như đẩy xe cút kít, khai thác đá, làm bún[4]. Cuối đời ông về sống tại quê nhà ở tỉnh Thanh Hóa
Ông nổi tiếng với bài thơ Màu tím hoa sim do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến. Ông từ trần vào lúc 19h00 ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi.
MÀU TÍM HOA SIM
Khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
1949
Nhà thơ Hồng Nguyên
Xuất hiện vào thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, gần như cùng lúc với Đèo cả của Hữu Loan, Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Nhớ của Hồng Nguyên đã làm nên bộ “ngũ tư bất tử” của thơ chống Pháp nói riêng và trong lịch sử thi đàn Việt Nam nói chung.
Ngay từ khi mới xuất hiện, Nhớ của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện, được lan truyền rộng rãi và bám vào trí nhớ của nhiều người, nhiều lớp người dọc theo năm tháng.
NHỚ
I
Lũ chúng tôi,
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến,
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm đao kiếm.
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Ba năm rồi gửi lại quê hương,
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô,
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng.
Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng,
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ Độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp,
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.
II
Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động,
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng.
Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng,
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau.
Có tiếng gà gáy sớm,
Có “khai hội, yêu cầu, chất vấn”
Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa.
Trăng lên tập hợp hát om nhà
Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa,
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui,
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ,
Đồng chí mô nhớ nữa,
Kể chuyện Bình Trị Thiên,
Cho bày tôi nghe ví,
Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí
- Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ,
Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.
Đêm đó chúng tôi đi,
Nòng súng nghiêng nghiêng,
Đường mòn thấp thoáng...
Trong điếm nhỏ,
Mươi người trai tráng,
Sờ chuôi lựu đạn,
Ngồi thổi nùn rơm
Thức vừa rạng sáng.
Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi.
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni,
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc!
1948
Lò Ngân Sủn
Lò Ngân Sủn là một nhà thơ dân tộc Giáy. Ông sinh ngày 26 tháng 04 năm 1945 tại Bản Vền, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lao Cai. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991. Ông mất ngày 15 tháng 12 năm 2013.
Người đẹp
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
(Dân ca Dáy)
Người đẹp trông như tuyết
chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết - nhìn người đẹp lại không muốn chết nữa
Ơ! Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!
(còn nữa)
Đ - H
Không có thông tin chi tiết để hiển thị



THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIƠI – THƠ VÔ LÔI – THI TẶC VIỆT NAM (tiếp theo)
Đỗ Hoàng … Xem thêm
Không có thông tin chi tiết để hiển thị

Thơ không vần thế giới

 01:04 30/03/2025

THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Nhân loai cũng không bỏ làm thơ có vần, có nhịp điệp, cũng không cầm làm thơ không vần, không nhịp điệu! Tùy bản săc dân tôc, tùy từng thời điêm và nhận thức của con người, thơ nào nhân đân nhớ thì chúng ta phát huy! Thời dại đang sống thấy loại hình nào tốt, nhân dân đều yêu chuộng. Thơ không vần mà là thơ là món quà quý cho nhân loại, nó không phải là thơ thì là con quỷ dữ!
Đã nhiều lần tôi viết trên mạng “vô lối” – thi tặc tàn phá nền văn chương Việt. Cả nước có hàng triệu người viết. Viết thì không sao, nhưng các tố công quyền , tư quyến tung hê, lăng xê điển hình như Hội Nhà văn Việt Nam hàng năm luôn trao giải cho các tác giả làm thơ “vô lối’- thi tặc. Năm 1993 tặng giải cho tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiêu; năm 2010 -2012 trao giải cho các giả: Mai Văn Phấn- Bầu trời không mái che; Từ Quôc Hoài – Sóng và khoảng lặng; Mã Giang Lân, Đinh Thị Như Thúy, Đỗ Doãn Phương. Trước đó Phú Trạm Inasara, Hoàng Vũ Thuật, con gái Hoàng Hưng… nhiều nhiều lắm! Tư nhân Văn đoàn Độc lâp: Thơ Hoàng Hưng, “Những con chuột chết” của Thái Hạo…
Thanh Tâm Tuyền (đã có chuyên luận riêng) một thi tặc ở Việt Nam Cộng Hòa được cả phe thắng, phe thua tâng bốc. Ông náy kiến thức rất ốm yếu, viết những câu vô học: “Sự em đến cần thiết như những sớm mai”. Cụ Nguyễn Đình Chiều thời Han học hưng thịnh viêt: “Việc cày, việc bừa việc cấy, tay vốn làm quen.” Viết như Thanh Tâm Tuyền ma nào nó ngửi! “Sự cày, sự bừa, sự cấy tay vốn lầm quen:!
“Sự em đến cần thiết như những sớm mai
Cho anh trở dậy đọc Nguyễn Du Việc em đến những sơm mai
Chuyển ra thơ Việt: “Việc em đên những sớm mai
Cho anh thức dậy đọc tài Nguyễn Du”
Đọc vừa dễ hiểu, vừa lược bỏ từ Hán Việt.
Thanh Tâm Tuyền :” Em bao giờ là thiên nhiên?”. Con người là một phần của thiên nhiên sao lại viết ngớ ngẩn vô học đến thế!
Thanh Tâm Tuyền tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13 (có nơi ghi 15) tháng 3 năm 1936, tại Vinh, Nghệ An. Trong bài Thơ mừng năm tuổi, làm năm Nhâm Tý 1972, ông đã kể chi tiết tiểu sử. Từ 1952, ông đã đi dạy học, trường Minh Tân, Hà Đông và có truyện đăng báo Thanh Niên, Hà Nội.
Sau đó, 1954 vào Nam hoạt động trong Tổng Hội Sinh Viên Hà Nội di cư, cùng với những người sẽ trở thành bạn văn nghệ về sau: Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, cùng chủ trương nguyệt san Lửa Việt.
Tại Sài Gòn, 1955, ông viết cho các tuần báo Dân Chủ, Người Việt và nổi tiếng từ những tác phẩm đầu tay, tập thơ Tôi Không còn Cô Độc, 1956, và truyện Bếp lửa, 1957. Thời điểm này, ông tích cực tham gia biên tập báo Sáng tạo (1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, và ông thường được xếp vào “nhóm” Sáng Tạo, có ảnh hưởng lớn trên văn học Miền Nam suốt một thập niên.
Năm1962, bị động viên vào trường Sĩ quan Thủ Đức, được giải ngũ, rồi tái ngũ trong Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, phụ trách chủ yếu việc huấn luyện văn hoá,và làm báo quân đội, “tám năm quân ngũ chưa nổ một phát súng với địch” (1972), cấp bực cuối cùng là Đại uý. Sau 1975, bị bắt đi học tập, trong 7 năm, tại trại Long Giao (Long Khánh) và nhiều trại cải tạo Miền Bắc. Cuối cùng sang định cư tại Hoa Kỳ từ 1990. Ông qua đời vì ung thư phổi, tại nơi cư ngụ.
Thanh Tâm Tuyền thèm quyền lực: “Đêm nay anh là vua
Em là hoàng hậu”
“Đời người, vô cùng rồi cũng đến vậy thôi.
Vô cùng Thanh Tâm Tuyền.
Thanh. Tâm. Tuyền.
Thanh Tâm
Tuyền.”
Dịch thơ Việt ra thơ Việt:
Nguyên văn:
CỎ
Tác giả: Thanh Tâm Tuyền
Em bao giờ là thiên nhiên
anh cuối đầu xuống ngực
giòng mưa sắc lá
đau môi
Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín
cho thơm đường hôm nay đến sớm mai
hôn từ ngày dài tội lỗi
chưa quên
Gai trắng con ngươi mở mù lòa
hơi đất nằm trong tóc
thèm muốn mỗi hàm răng
từng móng vuốt
đầy đồng xanh hoa nhiều màu một người
sống sót
cỏ ơi cỏ kết thành lời
dàn nhạc huy hoàng
cô đơn
Giấc vụng về
tia nhọn sáng
đừng rơi hoàng hôn cánh rừng dầy
những ngực thương nhau
không áo
vì cỏ dại rối bời
Chúng ta ôm thời gian trong suốt
chẳng phân vân
như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ
như lá cây thầm ngã phủ vai trần
như tiếng tim thốt cười ngoài dĩ vãng
BÌNH GIẢNG
Hồi miền Nam tạm bị chiếm có hai tác giả Vô lối là Thanh Tâm Tuyền và Lê Văn Ngăn. Thanh Tâm Tuyền cón có làm thơ Việt, Lê Văn Ngăn toàn tòng Vô lối. Hai tác giả đã chết. Tuyền chết bên Mỹ, Ngăn chết trong nước. Ngăn sau giải phong miền Nam theo phe ta vào được Đảng Cộng sản Việt Nam. Vô lối của Thanh Tâm Tuyền thì dở hơi, cụt lủn, như bị thần kinh, Vô lối của Ngăn dài dòng văn tự, dây cà ra dây muốn lòng thòng xu thời báo công với Cách mạng không có ý nghĩa gì! Thua xa hàng vạn dặm các bản dịch nghĩa thơ nước ngoài!
Nhiều người cho rằng Thanh Tâm Tuyền có học vấn cao, đọc nguyên bản tiêng Anh, tiếng Pháp, điều ấy có thể đúng với những người ở bên kia chiến tuyến (Việt Nam Cộng Hòa).. Tuyền dạy sơ học nên kiên thức có là do tự học chứ không phải được đào tạo bài bản. Học rất quan trọng, nhưng mới một phần, cái gì đáng học. Các nhà thơ tiền chiến chư Pháp giỏi đên mức thừa chữ chưởi bọn Tây nhưng các Cụ học đúng nghề. Huy Cận, Xuân Diệu đều đăng ký học thêm ngoại ngữ là tiếng Việt, học tiếng Việt phải học Hán Nôm nên chữ nghia trong thơ các Cụ trong sáng tiếng Việt đến giờ. Thanh Tâm Tuyên câu văn tràn lan Hán tự, câu văn dai lòng thong, câu này vắt qua câu khác :
« Tôi đứng nhìn mưa bên sông, mưa nửa dòng nước. Ôi nếu được ngủ dưới mái tranh, mùi đất bốc mưa mới đầu mùa ấm phổi hơn một hơi thuốc lá.
Tôi sẽ đưa em về bên ấy, nền nhà ẩm và em chân đất. Từ bỏ thành phố nhà máy xe điện xe buýt ánh đèn ngã tư. Tôi can đảm như thế. Con đường vào làng men chân đê hoa cỏ hoang dại nói tâm hồn những vật những người sắp gặp. Em đi thăm vườn trái cây và em có thể bắt đầu làm việc. Ngực trần không vướng víu anh thấy anh với hơi thở với bầu trời với cây màu đất là một…. » (Mưa – Tôi không cô đọc) hay ‘Chiều trên phi trường anh bỗng nhớ em, nhớ
chuyến đi xa ước hẹn. Đây mùa xuân không
đến, những đám cỏ hèn bên diện tích xi măng
khô, bánh thép lăn nhanh thành chấn động cuồng
điên, sự đổ vỡ của vô vàn ảo vọng, thuyền
không gian chở người đến mùa đông tuyết giá
đang già, anh ngồi lặng nhìn anh ở lại.
(Chiều trên phi trường)
Để giúp bạn đọc hiểu thêm đám Vô lối, tôi sẽ lần lượt phân tích, bình giảng các tác giả Vô lối được trích dẫn. Đầu tiên là bài Cỏ của Thanh Tâm Tuyền. Trước đây tạp chí thơ đã lăng xê Thanh Tâm Tuyền in một chùm thơ hẳn hoi. Vừa rôi tạp chí Nhầ văn & Tác phẩm cũng in thơ Tuyền và một bình luận khá dài. Tôi đã dịch ra thơ Việt của Tuyên và một bài phản biện tạp chí Nhà văn & Tác phẩm. Có là một loại bài đặt trưng cho lối viết dở hơi của Thanh Tâm Tuyền.
Mở đầu bài Cỏ là một câu rất ngớ ngẩn, vớ vẩn:
“Em bao giờ là thiên nhiên”
Em là con người, con người là một phần của thiên nhiên, sao còn nói một cách vô nghĩa, ngớ ngẩn như vậy!
Thiên nhiên đã được định nghĩa: “Tự nhiên hay cũng được gọi thiên nhiên, thế giới vật chất, vũ trụ và thế giới tự nhiên (tiếng Anh: nature) là tất cả vật chất và năng lượng chủ yếu ở dạng bản chất. "Tự nhiên" nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất, và cũng nhắc đến sự sống nói chung. Phạm vi bao quát của nó từ cấp hạ nguyên tử cho tới những khoảng cách lớn trong vũ trụ. Nghiên cứu về tự nhiên là một mảnh ghép lớn trong thế giới khoa học. Dù cho con người hiển nhiên là một phần của tự nhiên, nhưng những hoạt động của con người thường được phân biệt rạch ròi khỏi những hiện tượng tự nhiên.(Theo từ điên Wikipedia)
Em đã là thiên nhiên. Em to lớn như vậy, anh cúi đầu xuống ngực, làm sao được.Phóng đại em thành kẻ khổng lồ khủng long thế thì mần ăn chi được!
Câu tiếp là câu lại vô nghĩa, ngớ ngẩn, hâm hấp:
“giòng mưa sắc lá
đau môi”
Ba câu tiếp theo cũng vô thưởng, vô phạt, thừa chữ, thừa lời:
“Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín “
Thơ phải kiệm lời, tùy hoàn cảnh nhấn mạnh, còn ở đây có gì mà dùng đến ba chữ “những”
Tiếp theo cả một đoạn hôn hít, điên dại, tính dục bẩn thỉu, rời rạc, không có một ngữ nghĩa gì: Bon thi tặc – vô lối đứa nào ngoài đời thực đã dâm loạn mà trong thơ ca dâm dật không tưởng nổi !
“hôn từ ngày dài tội lỗi
chưa quên
Gai trắng con ngươi mở mù lòa
hơi đất nằm trong tóc
thèm muốn mỗi hàm răng
từng móng vuốt
đầy đồng xanh hoa nhiều màu một người
sống sót “
Nối theo đoạn này cũng là một đoạn vô bổ, cũng đầy dục tính bẩn thỉu, rời rạc, tắt tỵ, đánh đố, còn thua ông nói gà, bà nói vịt. Ngỡ như Thanh Tâm Tuyên ddang từ trong trại tâm thần Trâu Quỳ đi ra! Nào “ Cỏ ơi, cỏ kết thành lời”, “thèm muốn mỗi hàm răng”, “giàn nhạc huy hoàng”, “cô đơn” đến “những ngực thương nhau/ không áo”…:
“dàn nhạc huy hoàng
cô đơn
Giấc vụng về
tia nhọn sáng
đừng rơi hoàng hôn cánh rừng dầy
những ngực thương nhau
không áo
vì cỏ dại rối bời “
Đoạn kết cũng tù mù, uốn éo, vô nghĩa “ôm thời gian trong suốt chẳng phân vân” sao còn so sánh như”, sáo rỗng “ huy hoàng”, “những ngực thương nhau” “ như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ”?.
Ngoài việc triệt tiêu trăm phần trăm vần, điệu Vô lối của Thanh Tâm Tuyền có cả bài Cỏ này là một kiểu viết quái thai không chấp nhận được trong cõi Việt.
Nhiều người cho rằng Thanh Tâm Tuyền có học vấn cao, đọc nguyên bản tiêng Anh, tiếng Pháp, điều ấy có thể đúng với những người ở bên kia chiến tuyến (Việt Nam Cộng Hòa).. Tuyền dạy sơ học nên kiên thức có là do tự học chứ không phải được đào tạo bài bản. Học rất quan trọng, nhưng mới một phần, cái gì đáng học. Các nhà thơ tiền chiến chư Pháp giỏi đên mức thừa chữ chưởi bọn Tây nhưng các Cụ học đúng nghề. Huy Cận, Xuân Diệu đều đăng ký học thêm ngoại ngữ là tiếng Việt, học tiếng Việt phải học Hán Nôm nên chữ nghia trong thơ các Cụ trong sáng tiếng Việt đến giờ. Thanh Tâm Tuyên câu văn tràn lan Hán tự, câu văn dai lòng thòng, câu này vắt qua câu khác :
« Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy
bởi vì người vào trong đất đai của tôi
người hoàn toàn tự do
để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục
nếu người muốn nhập lãnh thổ
người hoàn toàn tự do
và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ
(Ở đây tôi là vị Hoàng đế)
Tật nói chữ « dao to búa lớn », rỗng tuếc…
đại lộ bờ cây hoang lạnh
những cửa hàng kín bưng
anh không nhìn thấy chân trời
thành trì oán hờn đứng lên ngang dọc
anh mang nhốt tự do vào công trường máu xương
giam hòa bình trong trại tập trung địa ngục
công trình hủy diệt kiên cố nghênh ngang
rồi đường phố rẫy đầy vách tường gạch ngói
lối cụt gài bẫy quanh mình
một chút ánh sáng một chút chân trời
cho những người tù nô đày đọa
(Mắt biêc)
Tiếng Việt viết thơ triệt tiêu vần điệu cũng được, nhiều nhà học cách này, có nhiều người có bài thành công. Nhưng triệt tiêu vần điệu đưa từ sáo rỗng, viêt ngu ngơ là phá hoại thơ tiếng Việt. Thanh Tâm Tuyên là một gã như thế. Người đương thời nói gã điềm đạm, khiêm tôn nhưng gã cung loại tráo lừa, giả dôi. Những người bên kia chiễn tuyến khi về vơi Cách mạng đều nói tôi không dính líu Mỹ nguy, tôi có cầm sung nhưng cả đơi không bắn một viên đạn nào ! Học Tây không ra Tay, học Tàu không ra Tàu, viết thơ Viêt thành quỷ ba đầu sáu tay. Tồi tệ hơn bài thơ dịch tiếng Anh :
Song of Myself - Walt Whitman
I celebrate myself, and sing myself,
And what I assume you shall assume,
For every atom belonging to me as good belongs to you.
I loafe and invite my soul,
I lean and loafe at my ease observing a spear of summer grass.
My tongue, every atom of my blood, form’d from this soil, this air,
Born here of parents born here from parents the same, and their parents the same,
I, now thirty-seven years old in perfect health begin,
Hoping to cease not till death.
Creeds and schools in abeyance,
Retiring back a while sufficed at what they are, but never forgotten,
I harbor for good or bad, I permit to speak at every hazard,
Nature without check with original energy.
Đỗ Hoàng dịch - Bài hát chính tôi - Walt Whitman
Tôi ca ngợi mình, tôi hát về tôi
Tôi nhận về các vị tự nhận về mình như tôi.
Vì mỗi nguyên tử thuộc về tôi, cũng thuộc về các ngài..
Tôi là người tha phương, tôi gọi hồn tôi về
Tôi, không nghề nghiệp, cúi nhìn hoa cỏ mùa hè.
Lưỡi tôi, mỗi nguyên tử trong máu tôi là từ đất đai, từ không khí
Tôi cùng cha mẹ sinh ra ở đây
Năm nay tôi 37, cái tuổi đang rực lửa
Ước mong mãi mãi cho đến ngày tôi nằm xuống
Những giáo điều và những trường học sẽ trống không
Tạm quay lại một thời gian, chúng tốt đẹp ở nơi cần, chẳng sợ ai quên
Tôi ấp ủ trong thiên nhiên như vốn có, thừa nhận mọi nơi, mọi lúc
Nói hết mọi điều với sức lực năng lượng buổi đầu tiên!
(còn nữa)

Thơ không vần thề giới -

 00:58 30/03/2025

THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIÊT NAM (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Người ta tổng kết các thê kỷ trước, nước Anh có 2/3 thơ không vần. kiểu quan niệm thơ như hiện nay ở ta cac bài viết của cha ông ta đều là Thơ hết!. Ở miền Nam thời tạm chiếm có một nhân vật không nổi bằng Thanh Tâm Tuyền là Lê Văn Ngăn cũng được phe thắng lăng xê là Lê Văn Ngăn. Lê Văn Ngăn toàn tong vô lôi – thi tặc. Gã sống lèo lá, bội nghĩa quên tình rất xu thời ninh Cộng triệt để mình.
Trong lịch sử thơ văn cận đại, nhà thơ Lê Văn Ngăn và bài thơ “Sóng vẫn đập vào eo biển” là trường hợp duy nhất được cả hai bên chiến tuyến Nam - Bắc Việt Nam trân trọng.
Thi sĩ Lê Văn Ngăn.
Lê Văn Ngăn sinh năm 1944 ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên- Huế, hiện sống tại TP Quy Nhơn, Bình Định. Ông là một tiếng thơ vừa vang dội, vừa lắng đọng trong phong trào học sinh - sinh viên yêu nước trong các đô thị miền Nam trước 1975. Về già, thơ ông vẫn "sung", vẫn tả xung hữu đột…
Năm học đệ nhất (lớp 6 bây giờ) ông từng có thơ in trên Báo Phụ nữ Thứ bảy - Sài Gòn. 18 tuổi, ông viết bài "Người phu xe": "Cha đã lăn cho con những vòng xe / mồ hôi chảy xuống lấp lánh mặt trời/ đọ sức cùng thiên nhiên/ (…) Sao mà những nếp nhăn/ sao mà khuôn mặt héo…". Bài thơ này đã làm nhiều bạn bè của ông xúc động khôn xiết!
Thời sinh viên (khóa 3, năm 1964 - 1966) ở Trường Sư phạm Quy Nhơn, ông đã từng in ronéo tập thơ có tựa "Trên đồng bằng". Năm 1972, Đài Tiếng nói Việt Nam và Báo Văn nghệ phát đi bài thơ "Sóng vẫn đập vào eo biển", tờ Thống Nhất đăng bài "Đất của những người bất phục" khiến tên tuổi Lê Văn Ngăn được các kẻ sĩ Bắc Hà chia sẻ như một đồng chí trên cùng một chiến tuyến...
Năm 1972, lúc nghe Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng bài thơ của mình, anh lính tiếp vụ người Huế (lính hậu cần) của chính quyền Sài Gòn là Lê Văn Ngăn sung sướng đến bàng hoàng khi biết mình bị những người bên kia chiến tuyến… “đạo thơ”. Đến tận bây giờ, ông cũng không hiểu bài thơ của mình ra đến miền Bắc và lên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam bằng cách nào?
Thi sĩ quân ta “săn lùng” nhà thơ quân địch
Ngay khi mới ra đời, bài thơ ấy được những người yêu nước cả hai miền thấy trong đó như có cả nỗi lòng của mình: Tiếng sóng nơi em bắt nhịp với còi tàu Long Biên…./Cho nên tiếng bom nổ ở miền Bắc/Dù không nói, tôi cũng biết lòng em chấn động.
Bài thơ ấy nổi danh ngoài miền Bắc, các thi sĩ nhà ta trong đoàn quân giải phóng tiến vào Nam không ai không biết, nhưng mặt mũi Lê Văn Ngăn ra sao thì mù tịt. Sau khi giải phóng, bất ngờ “ngài” trung sĩ quân tiếp vụ của Việt Nam cộng hòa bị gọi lên, người gọi lên cũng là một nhà thơ, tất nhiên là “quân ta”, đó là thi sĩ Thanh Thảo, người hiện nay đang nổi tiếng về viết… bình luận bóng đá.
Gặp mặt lần ấy, Thanh Thảo chỉ hỏi “Anh là Lê Văn Ngăn hả? Vậy anh có biết một Lê Văn Ngăn làm thơ không?”, thi sĩ lừng danh của “quân địch” chỉ dám thưa “dạ! Tui là Lê Văn Ngăn và cũng có làm thơ” – “Vậy bài thơ “Sóng vẫn đập vào eo biển” và “Mảnh đất của những người bất phục” là của ai?” – “Dạ! Là tui làm ạ”… Vậy là khỏe! Chàng thi sĩ “quân địch” này được hẳn một chiếc xe Jeep hộ tống đưa về tận nhà. Ơn giời! Nhờ có giải phóng mà lần đầu tiên, Lê Văn Ngăn mới biết là làm thi sĩ nó oai thế nào?
Được Trịnh Công Sơn giác ngộ
Có một điều hiếm người biết, từ trước khi bài thơ lừng danh kia ra đời rất lâu thì trong lòng Lê Văn Ngăn đã rất nể trọng những anh lính Việt Cộng dù ông chưa một lần giáp mặt. Việc này bắt nguồn từ một câu chuyện kể của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Hoạt động nghệ thuật cùng lứa với các đồng hương Trịnh Công Sơn, Tôn Thất Lập… nhưng Lê Văn Ngăn “lặng lẽ như một kẻ thơ thẩn tìm thơ”, trong lòng ông lúc nào cũng dành một góc trang trọng cho người nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh mà ông luôn coi là bậc đàn anh đáng kính.
“Gần như không dám so sánh mình Trịnh Công Sơn mà thi sĩ họ Lê chỉ ngậm ngùi “anh Sơn là người hay, gia cảnh sang giàu, không vướng víu nên anh trốn đi lính Cộng hòa nhẹ như lông hồng. Còn moa vướng mẹ già, em dại, gia cảnh bần hàn nên không theo được anh Sơn. Đau dễ sợ!” - Thi sĩ Lê Văn Ngăn
(Theo Dân Việt)
Sóng vẫn đập vào eo biển – Lê Văn Ngăn – Chung chung , nhạt nhẽo
“…vâng, điều ấy
giữa những khung cửa đầy bóng tối, hàng me cao
giữa mùi bánh nướng báo tin một ngày quang đãng
giữa tiếng xe thổ mộ lúc bình minh, vẫn còn những kẻ phản bội em
vẫn còn những kẻ từng sống bên em, nay đã mặc cho những kẻ xâm chiếm dày vò
vẫn còn những kẻ man trá, những kẻ thỏa hiệp, những kẻ dã tâm yêu hết mọi giống nòi
vâng, điều ấy
khi bạo lực còn bắt tay nhau
khi bạo lực còn dẫn quân đi nhục mạ quyền làm người
khi ấy, bằng chất liệu gì để rửa sạch thân em
đây là điều tôi dứt khoát
quê hương quê hương, nơi trái tim tôi rung động dưới bầu trời sao
nơi tôi muốn nhắm mắt dưới lòng đất quen thuộc
chết cho tình yêu
đấy là việc của con người
bao nhiêu năm ở gần em, những chiếc phi cơ đáp xuống buổi mai
rời khi trời tối
bao nhiêu năm, những chiếc xe lam, những thỏi đường mới lọc, những bàn tay trong những bàn tay
bao nhiêu năm em chưa trả lời cho tôi biết
nhưng tôi tin
dù nơi nào, trong ngục tù hay giữa cánh đồng
bằng tín hiệu của sóng biển
em vẫn cần gọi tôi về, lấy thân làm vật cản che chở em
3
Qui Nhơn Qui Nhơn, đồng ruộng mía phía Tây
phất phới vườn bông gòn
những cửa hàng lấm bụi, những chiếc ga tạm hoang tàn, những người định cư, những người tứ chiếng
nơi em
quê hương chẳng phải điều trừu tượng
điều ấy, tôi giữ trong lòng
và đi xa em. Tiếng sóng vẫn đập vào eo biển.”
Thơ Vô lối Lê Văn Ngăn
Khi dịch bài Vô lối Chị Ba ở Phan Rang của Lê Văn Ngăn tôi những tưởng Lê Văn Ngăn trốn được lính ngụy. Nhưng khi đọc lại tiểu sử Báo điện tử Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh thì nói Lê Văn Ngăn từng là trung sỹ quân tiếp vụ quân đội Sài Gòn. Sau này Lê Văn Ngăn vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Lình ngụy hay bộ đội Cụ Hồ thì cũng là một thời đã qua. Cái đáng nói là Lê Văn Ngăn viết những thứ vô lối không phải văn chương, thơ ca. Đã không phải thì phải lên án những nơi lăng xê.
VÔ LỐI
Lê Văn Ngăn
Nguyên bản:
THƠ TẶNG CHỊ BA Ở PHAN RANG (1)
Bác Hồ có viêt:
...Nói về văn nghệ, Bác thú thật có ít thì giờ xem các bài văn nghệ. Có lẽ vì thế mà có lúc xem đến thì thấy cách viết thường ba hoa, dây cà, dây muống; và hình như viết là để đếm dòng lấy tiền, có những bài nhạt nhẽo thế nào ấy.
Còn viết về chính trị thì khô khan và có hai cái tệ: một là rập khuôn, hai là dùng quá nhiều chữ nước ngoài. Cái bệnh dùng chữ, là phổ biến trong tất cả các ngành. Đáng lẽ báo chí phải chống lại cái bệnh đó, nhưng trái ngược lại báo chí lại tuyên truyền cho cái tệ đó. Cố nhiên, có những chữ không thể dịch được thì ta phải mượn chữ nước ngoài. Ví dụ: những chữ kinh tế, chính trị... thì ta phải dùng. Hoặc có những chữ nếu dịch ra nếu dịch ra thì mất cả ý nghĩa, như chữ “độc lập”. Nếu “Việt Nam độc lập” mà nói “Việt Nam đứng một” thì không thể nghe được.
Nhưng có những tiếng ta sẵn có, thì tại sao lại dùng chữ nước ngoài. Ví dụ: vì sao không nói “đường to” mà lại nói “đại lộ”, không nói “người bắn giỏi” mà lại nói “xạ thủ”, không nói “hát múa” mà lại nói “ca vũ”?... Những ví dụ như vậy nhiều lắm, nhiều lắm. Các báo Nhân dân, Thời mới, Quân đội nhân dân... đều dùng chữ nhiều lắm.
Tóm lại chúng ta dùng chữ nhiều quá, có khi lại còn dùng sai nữa. Mong rằng báo chí cố gắng sửa đổi cái tệ ấy đi. Tiếng nói là một thứ của rất quý báu của dân tộc, chúng ta phải hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi.
Khoa học ngày càng phát triển, có những chữ mới mà ta chưa có, thì ta phải mượn. Ví dụ: ta phải nói “kilô”, vì nếu nói chữ “cân”, thì không đúng nghĩa là 1.000 gram. Song những chữ dùng tiếng ta cũng đúng nghĩa thì cứ dùng tiếng ta hơn. Có những người hình như sợ nói tiếng ta thì nói xấu hổ thế nào ấy! Họ làm cho các cháu học sinh cũng bị lây bệnh nói chữ, như “phụ đạo”, “giáo cụ trực quan”... Thật là tai hại!
HỒ CHÍ MINH
Trích bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ hai Hội nhà báo Việt Nam, 16-4-1959
Hồ Chí Minh toàn tập
Bài "Thơ tặng chị Ba ở Phan Rang" của Lê Văn Ngăn in trong chùm 6 bài trên báo Nghệ thuật mới, Phụ trương báo Người Hà Nội ra số 1 tháng 2 năm 2012. Lê Văn Ngăn được nhiều báo, nhiều tổ chức lăng xê và tự gọi cách viết của mình là thơ. Cá nhân tôi, tôi cho đó là một kiểu viết vô lối, vô cảm, dây cà, ra dây muống, nhạt nhẽo, cũ rích đang thịnh hành làm tổn hại đến thẫm mỹ của người đọc, đúng như Bác Hồ đã nhắc nhở cách viết của báo chi, văn nghệ sỹ hơn 50 năm trước đây.
Thêm đề dẫn này để cho người đọc rõ nguồn xuất xứ.
Đỗ Hoàng
VÔ LỐI Lê Văn Ngăn
Nguyên bản:
THƠ TẶNG CHỊ BA Ở PHAN RANG (1)
Phan Rang, những năm ấy, có lẽ chị Ba không nhớ nữa
nhưng tôi kẻ từng chịu ơn chị, tôi không thể nào quên quá khứ.
Năm ấy, tôi đến từ phương xa
không giấy tờ, không người quen, không nhà không cửa
và tương lai tôi
tương lai ở trong tay những kẻ bố ráp bắt người đi đánh thuê cho quân xâm lược
tương lai buồn tênh như con đường bụi khô ngoài quán cà phê chiều hôm gió cuốn.
Có thể tôi rơi vào bước đường cùng
nếu không tình cớ gặp chị
Dưới rặng me già bên chiếc xe những ổ bánh mì lặng im
chị ngồi trông khách đến
Và chiều hôm ấy
kẻ lỡ bước được chị mướn về nhà dạy kèm con cái chị học hành.
Từ ấy, tôi biết thế nào là hạnh phúc khi được sống dưới mái nhà
được chiếc bàn bên khoảng trời xanh khung cửa sổ
được ăn cơm mỗi ngày hai bữa
được uống vị dịu dàng trong đôi mắt chị dịu dàng.
Cuộc bố ráp và sự chết
Có thể đầy tung cánh cửa vào đây lúc nào
Nhưng trước thời khắc đó, tôi vẫn còn một ít ngày tháng êm đềm.
tâm hồn không lạnh lẽo
Bây giờ chị còn sống không chị Ba
Bao nhiêu năm, dù chưa trở lại mái nhà xưa
Tôi vẫn nhìn thấy chị mỗi ngày qua những người lao động bình thường
Những người lao động bình thường ấy
không bao giờ tầm thường trong đôi mắt nhìn đời.
Viết liền văn xuôi:
THƠ TẶNG CHỊ BA Ở PHAN RANG
Phan Rang, những năm ấy, có lẽ chị Ba không nhớ nữa, nhưng tôi kẻ từng chịu ơn chị, tôi không thể nào quên quá khứ. Năm ấy, tôi đến từ phương xa, không giấy tờ, không người quen, không nhà không cửa và tương lai tôi, tương lai ở trong tay những kẻ bố ráp bắt người đi đánh thuê cho quân xâm lược. Tương lai buồn tênh như con đường bụi khô ngoài quán cà phê chiều hôm gió cuốn.
Có thể tôi rơi vào bước đường cùng nếu không tình cờ gặp chị. Dưới rặng me già bên chiếc xe những ổ bánh mì lặng im, chị ngồi trông khách đến. Và chiều hôm ấy kẻ lỡ bước được chị mướn về nhà dạy kèm con cái chị học hành. Từ ấy, tôi biết thế nào là hạnh phúc khi được sống dưới mái nhà, được chiếc bàn bên khoảng trời xanh khung cửa sổ, được ăn cơm mỗi ngày hai bữa, được uống vị dịu dàng trong đôi mắt chị dịu dàng.
Cuộc bố ráp và sự chết có thể đầy tung cánh cửa vào đây lúc nào! Nhưng trước thời khắc đó, tôi vẫn còn một ít ngày tháng êm đềm.. Tâm hồn không lạnh lẽo!
Bây giờ chị còn sống không chị ba! Bao nhiêu năm, dù chưa trở lại mái nhà xưa., tôi vẫn nhìn thấy chị mỗi ngày qua những người lao động bình thường. Những người lao động bình thường ấy, không bao giờ tầm thường trong đôi mắt nhìn đời.
Nhận xét:
Về thơ ca cho điếm Zê rô
Không bàn!
Một bức thư gửi người thân có chút chịu ơn hết sức bình thường của lúc trốn llính nguỵ mà người Việt nào ở miền Nam thời tạm bị chiếm cũng viết được, nếu biết đọc và biết viết.
Người có kỷ niệm và tâm hồn có thể viết hay hơn vì thật hơn, tình cảm hơn.
Đây là kiểu sám hối của nhiều trí thức công chức trong vùng miền Nam tạm chiếm. Khi Quân đôi nhân dân Việt Nam giải phóng miền Nam, hỏi ai cũng nói tôi bị bắt lính, tôi trốn lính. Điều đó có thật trong trong một số tầng lớp trí thức và thanh niên miền Nam vùng tạm chiếm trước đây, chứ không phải tất cả.
Miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa không có nhiều trường hợp này, nhưng miền Nam thì nhan nhản.
Bây giờ đất nước thống nhất lâu rồi, người đọc có thể chất vấn: “Thế miền Nam buông lỏng vậy sao? Ông chạy không giấy tờ, không căn cước mà vẫn được mời dạy học thì xứ sở đó là Thiên Đàng rồi!”
Ở miền Bắc ông gắn với Hợp tác xã, với tem, phiếu gạo, ông chạy đi đâu, giáo dục phổ thông, ai được dạy ngoài. Cụ Diệm quá "dân chủ"!
Chưa nói đến cái tệ nghĩa tình, tác giả ở Quy Nhơn vào Phan Rang mấy cây số mà không vào thăm ân nhân cứu mạng mình được - Giả dối hết sức, sến hết sức!
Ở miền Bắc hầu hết không ai trốn đi bộ đội, có người còn viết đơn bằng máu mình chích ra từ cổ tay. Anh hùng Lê Mã Lương là một ví dụ. (Bây giờ là Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam)
Cái bức thư của Lê Văn Ngăn mà ai đó gọi là thơ thì sỷ nhục cho nền văn chương nước nhà!
Đỗ Hoàng
Dịch ra thơ Việt
THƯ GỬI CHỊ BA Ở PHAN RANG
Phan Rang, năm ấy chị Ba!
Chị còn có nhớ hay là đã quên?
Em chịu ơn chị bề trên,
Một thời quá khứ đảo điên thế mà.
Thời em tơi tả phương xa,
Giấy tờ nỏ có, cửa nhà cũng không.
Tương lai quả thật phiêu bồng,
Tương lai ở kẻ tay không bắt người.
Những phường dạ thú đười ươi,
Tóm dân, đôn lính cho loài xâm lăng.
Tương lai buồn tẻ, lặng tăm,
Con đường bụi đỏ, quán tăng, gió nồng.
Số em đến bước đường cùng,
Nếu không gặp chị, tình chung đồng bào.
Mẹ già, xe nặng, bánh bao,
Chị ngồi trông có khách nào đến xơi,
Và chiều hôm ấy, ai ơi!
Cầm tay chị dẫn về nơi nhà mình.
Bảo kèm con cái học hành,
Hạnh phúc tôi có nên thành từ đây.
Chiếc bàn học, bên trời mây,
Được ăn uống thoả mỗi ngày hai ca,
Dịu dàng thấm thịt thơm da,
Trông đôi mắt chị như là trăng sao!
Dễ chết, bọn ráp ập vào,
Đẩy tung cánh cửa thế nào cũng xong.
Trước thời khắc của tồn vong,
Tôi còn dan díu trong vòng ấm êm!
Bây giờ, chị đâu? Chị hiền?
Bao năm chưa lại bên thềm nhà xưa.
Tôi nhìn sớm nắng, chiều mưa
Chị trong những kẻ cày bừa cần lao.
Bình thường, cam chịu, nhường bao
Đôi mắt nhân ái như sao siêu phàm!
Toàn giả dối, sáo sến. Quy Nhơn cách Phan Rang mấy cây số mà khi Lê Văn Ngăn nịnh Cộng được làm công chức, vào Đảng Cộng sản Việt Nam, phó tổng tạp chí tỉnh có xe pháo mà không lần thăm lại?
Vô lối- Thi tăc Lê Văn Ngăn
Vô lối Lê Văn Ngăn thừa chữ, thừa lời, thiếu chữ thiếu lời, hết sức nhạt nhẽo, kể lễ dài dòng, không có một tí gì gọi là thơ.
Vừa rồi, Tạp chí Thơ Hội Nhà văn Việt Nam tháng 10 – 2013 giới thiệu một chùm 7 bài Vô lối Lê Văn Ngăn, xin trích dịch bài.
Ở QUÁN CƠM BÌNH DÂN
Nguyên bản Lê Văn Ngăn
Ở một quán cơm bình dân
Quán cơm bình dân ấy mở cửa bên lề đường đô thị
cô chủ quán vừa nhen bếp lửa cho bữa ăn chiều
chẳng bao lâu nữa, mưa sẽ thôi rơi trên ngọn cây cao
và những người khách nghèo sẽ lần lượt đến
Chúng tôi, những người sinh viên xa quê hương
chúng tôi đến đây mỗi ngày bên đĩa cơm, chậm rãi nhai và không nói
Để có thêm chữ nghĩa và tương lai
đành phải sống những ngày ở trọ
Trong những đôi mắt thỉnh thoảng ngước nhìn lên
thường thấp thoáng hình bóng mái nhà riêng ở cuối chân trời
Người mẹ già thức dậy giữa đêm khuya
thầm hỏi về con cái mình nơi xứ lạ
Còn mối tình đầu mới chỉ được nối kết bằng chiếc khăn thêu
vẫn mỏng manh như niềm hy vọng
Quê hương xa xôi
chúng tôi tin hơi ấm của người sẽ sưởi ấm những ngày tạm trú
Cô chủ quán xinh đẹp
xin cô bước lại gần đây và đừng lo ngại
Khẩu phần này, giá cả đã được thỏa thuận từ đầu
Chúng tôi không thể đòi thêm thức ăn mới
Chúng tôi chỉ mong
một nụ cười xinh đẹp
vài câu nói dịu dàng
Với vẻ đẹp, dù vẻ đẹp có phần bán mua
chiếc quán sẽ có thêm hơi ấm
những ngày tạm trú sẽ có thêm giây phút êm đềm
Dịch ra thơ Việt
Đỗ Hoàng dịch:
QUÁN CƠM NGHÈO
Quán nghèo mở bên lề phố
Cô chủ nhen bửa ăn chiều
Cây cao mưa không rơi nữa
Khách nghèo đổ đến liêu xiêu!
Chúng tôi sinh viên xa xứ
Úp mặt xuống sát đĩa cơm
Hy vọng tương lai nghĩa chữ
Những ngày ở trọ u buồn!
Đôi tròng ngước lên thi thoảng
Mơ bóng nhà riêng cuối trời
Mẹ già sớm khuya loạng quạng
Thương con xa lạ xứ người!
Cô chủ quán cơm xinh đẹp
Xin cô bước lại gần đây
Giá cơm đã được thỏa thuận
Ngại chi rau cỏ vơi đầy!
Sinh viên là loài nghèo kiết
Nhưng mà chúng tôi thường mong
Nụ cười cô luôn xinh đẹp
Dịu dàng câu nói, má hồng!
Vẽ đẹp trên đời vô giá
Mặc đời vẫn đem bán mua
Quán nghèo thêm hơi ấm lạ
Êm đềm thường trú nắng mưa!”
(còn nữa )

Thơ không vần thế giới - thơ vô lối - thi tặc Việt Nam

 00:50 30/03/2025

doseoStnrp007

:
6gg
H
9
4h
c
u
cg
q
5l394
ú
59

87
a
218
0
183
4
7g9
ô
6c
m
l

1
c58
·
Đã chia sẻ với Công khai
THƠ KHÔNG VẤN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM (tiêp theo)
Đỗ Hoàng
Tôi đã sàng lọc tìm ra 27 tên Trùm Sò thơ vô lối – thi tặc Việt Nam: Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Hưng, Phú Trạm In ra sa ra, Phan Hoàng, Phạm Đương, Mã Giang Lân, Từ Quốc Hoài, Vi Thùy Linh, Trúc Thông, Thi Hoàng, Tuyết Nga, Đinh Thị Như Thúy, Dư Thị Hoàn, Giáng Vân, Phan Thị Vàng Anh, Hoàng Vũ Thuật, Thanh Tùng, Văn Cầm Hải, Đỗ Doãn Phương, Phan Thị Huyền Thư,
Trên thế giới có kẻ lam thơ không vần đòi đuổi và dẹp bỏ thơ có vần, có nhịp điệu! Đấy là những ý tưởng điên rồ! Đơn giản quy luật nhận thức của con người là từ hiện thực đến tưởng tượng rồi mới đến sáng tạo. Có chiếc xe đạp bánh gỗ, sua đến chiếc xe đạp bánh cao su, sau đến chiếc xe máy, sau mới đến sim sơn, đến hon da, @, sh; các loại ô tô, tiên tiến cũng như vậy. Nhân loại không thể mới đẻ ra đã có máy nổ, có tàu con thoi! Văn tự cũng vậy, con người mới đẻ ra ở truồng, mới có áo quần, có mốt, có ký tự, có chữ viết, có thơ không vần cuối mới có thơ có vàn điệu…Mới đẻ ra trong bụng mẹ, anh đã bay lên sao Hỏa, sao Kim ..là chuyện hoang đường!
Vô lối – thi tặc Nguyễn Quang Thiều đã làm chuyện hoang đường như thế! Học công an nhà nghê bên Cu Ba do người Mý la tinh dạy tiếng Anh: Cuba, prison, detention, torture, dagger, pistol, sword, throat-cutting…(cu ba, nhà tù, tra tấn, dao găm, súng lục , cắt tiết, tra tấn, trói người…) gã đã tưởng mình người văn chương của thế giới. Nobel Văn chương là con muỗi. Trung Quốc bỏ tiền đạt được Nobel , ta cũng đạt được. Tình hình thế giới nay gã đạt được thật! Ảo mộng của Thiều sắp thành hiện thưc (!)
Từ thằng lưu học sinh Cu ba thèm gái, dân Cu Ba phải đụ bò (đéo bò) thứ gì lưu học sinh. Nguyễn Quang Thiều phải víết rất bẩn thỉu “ Mặt hồ thủ dâm nổi sóng”. Bài in ở báo Tiền phong năm 1978. Để xem giỏ chữ của Nguyễn Quang Thiều bao nhiêu?!
Thời Pháp thuộc và thời phong kiến nước ta không chuộng xướng ca ! Họ cho xướng ca vô loài. Điều ấy lá đúng. Các Cụ để cho họ tự do. Ai giỏi lên làm Trùm. Chính trị không như thế. Con vua dù một tuổi vẫn lên làm vua! Thể chế Cộng sản muốn quản hết. Thành ra có quan chèo,quan múa, quan thơ, quan nhac (quản kèn), quan vẽ (bôi sĩ). Tiêu chuẩn Trùm các quan có ô tô riêng chứ không phải đi bộ, xư hăng cải (hai chân). Việc hảm hại, tâng bốc, đâm chém của loại quan phường chèo cũng dữ dội như quan chính tri.
Nguyễn Quang Thiều từ Geheimagent- giet ta po-espionner-间谍- spy (mật vụ Đức, Pháp, Tàu, Anh ) nhờ tay Hữu Thỉnh chuyên làm hàng giả đôn lên Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (!), Nguyễn Quang Thiều phải lưu manh. Việc ấy trăm ngàn kê không thể biết. Tôi chỉ biêt có người bạn cùng quê, cùng cấp săc ngọai tuyến (công an chìm) là nhạc sĩ, thi sĩ - ông ta là bạn nối khối với vua Tô Lâm cùng song ca quan họ ở Côn Đảo) bây giờ nói “Thằng này tệ lắm, lên chức, lên tước đố mời đồng hương”.
Bỏ chuyện ấy để nói chuyện tài thơ của vị Chủ tịch Hội Nhà văn đương nhiệm! Tôi (Đỗ Hoàng) là nhà thơ có mác hội viên Hội nhà văn Việt Nam năm 2001, tôi phán Nguyễn Quang Thiều viết văn, viết thơ Zê rô (sô không), vẽ thi bôi sĩ. Đâm chém, móc tim người, tôi không rõ! Các bạn xem viết hế này chẳng phải ta, chẳng phải Tây mà là vô học! “ Những con rắn được thủy táng trong rượu”, (Thi tửu – NXB Hội Nhà văn năm 2000).Bọn nịnh bút tâng bốc “Thơ rất hiện đại, mô déc…”. Người ta không lấy rắn thường ngâm rượu, phải rắn độc mới ngâm rượu. Kiến thức ẩm thực quá kém. Chữ nghĩa lại lem nhem. Táng là chôn. Thủy là nước. Không ai ngâm rắn thường vào rượu. Diễn đat cho giống kiểu Tây nhưng rất ngu. “ Thủy táng trong rượu”. Chắng ai cho rắn vào nước bọc lại rồi ngam vào rượu?. Nó thành mắm rắn. Nguyễn Quang Thiều ăn uống kiểu gì vậy?
Trong quán rượu rắn
Tặng D.K.M
Những con rắn được thủy táng trong rượu
Linh hồn chúng bò qua miệng bình cuộn khoanh đáy chén
Bò tiếp đi… bò tiếp đi qua đôi môi bạc trắng
Có một kẻ say gào lên những khúc bụi bờ
Một chóp mũ và một đôi giày vải
Mắt ngơ ngơ loang mãi đến chân trời
Nhóm u uất trong những vòm tháp cổ
Người suốt đời hoảng hốt với hư vô
Như đá vỡ, như vật vờ lau chết
Thơ âm âm, thơ thon thót giật mình
Kinh hãi chảy điên cuồng như lửa liếm
Ngửa mặt cười trong tiếng khóc mộng du
Bò nữa đi… bò nữa đi hỡi những linh hồn rắn
Nọc độc từng tia phun chói trong bình
Người không uống rượu mà uống từng ký ức
Mạch máu căng lên những vệt rắn bò
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng
Rượu câm lặng chở những linh hồn rắn
Có một kẻ say hát lên bằng nọc độc trong mình
Thị xã Hà Đông, tháng hai năm 1992
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt
TRONG RƯỢU MẮM RẮN
Lũ rắn độc bị đem tửu tàng
Hồn bò quanh đáy chén, miệng bình
Bò nữa đi qua đôi môi bạc trắng
Kẻ say gào, giọng rượu thất kinh
Một chóp mũ, một đôi giày vải
Mắt ngu ngơ hoang mạc chân trời
Nỗi u uất trong tầng tháp cũ
Với hư vô lảm nhảm suốt đời
Như đá vỡ, như vật vờ lau chết
Thơ âm âm, thơ thon thót giật lòng
Kinh hoảng cháy điên cuồng như lửa liếm
Ngử mặt cười khóc mộng du không!
Bò nữa đi những linh hồn rắn
Nọc độc phun bầm tím đáy vò
Không uống rượu mà uống từng ký ức
Mạch máu căng lên nhưng vệt rắn bò!
Đêm dài rộng chôn vùi trong quán vắng
Rừng mang mang những khúc thu vàng
Rượu câm lặng chơ muôn linh hồn rắn
Hát bằng nọc độc của mình, kẻ xỉn hú rất hăng!
CÂU HỎI CUỐI NGÀY
Nguyễn Quang Thiều
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày
Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên
Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào
Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.
Quán Sứ - Hà Đông, 1991
BÌNH GIẢNG
Câu mở đầu không có gì gọi là câu thơ. Một câu nói đơn sơ như các ông, các bà quét rác ở các công ty Vệ sinh môi trường, sau ngày làm mệt nhọc vẫn thường nói. Mà nói hay hơn, thơ hơn:
“Ngày dài mưa nắng trên đường
Mong về có đọi cơm thương ở nhà”.
Tiếp theo 5 câu sau có tới 31 từ mà lại là 5 câu rất vô nghĩa, vô bổ không nói lên được điều gì:
“Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên”
Trong khi tiền nhân chỉ 20 từ đã làm nên thi phẩm bất hủ muôn đời!
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Lưu Vũ Tích
飲酒看牡丹
劉禹錫)
飲酒看牡丹
今日花前飲,
甘心醉數杯。
但愁花有語,
不為老人開。
Lưu Vũ Tích
Ẩm tửu khán mẫu đơn
Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm tuý sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ:
Bất vị lão nhân khai.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Trước hoa giờ được uống
Mấy chén ngất ngư say
Sợ rằng hoa sẽ nói:
Không nở cho già này!
Cao điểm chốt 176 –
Biên giới Việt Lào 1972
Tiếp đến 6 câu sau là những câu có ý nghĩ dục tình rất bậy bạ, ý nghĩ khiên cưỡng mang tính hiếp dâm cao:
“Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào”
Những người con gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua có sao đâu. Họ làm đẹp cho phố phường đường làng có cuộc đời khởi sắc mà ông bà váy cồng lộn ngược, mò cua bắt ốc không có đôi dép mo cau mà đi thì sao? Tại sao lại nói “Như dao sắc phất vào tôi tứa máu”? Một câu khẩu phàm, hàm hồ, hàm chứa, căm giận cái đẹp còn hơn phát xít Hitle bắn đại bác vào Viện Bảo tàng nghệ thuật Paris (Pháp) những năm 1940 – 1942. Người ta cưỡi xe máy, một nét đẹp của con gái Việt Nam thời đổi mới nghìn đời mới có, sao mình lại có cái nhìn thù hận như vậy?
Bên châu Âu như bà Angela Dorothea Merkel, thủ tướng Đức mặc váy cởi xe máy phóng qua anh cũng tứa máu như dao sắc phất vào người chăng?
Đúng là điên rồ!
Cha ông nói:
“Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc áo hở lườn mới xinh!”
Bây giờ người đẹp mới mặc váy cưỡi xe máy phóng qua mà mình đã hồng hộc sôi máu lên như đỉa phải vôi? Anh lại còn “ nấc “ lên như bị nghẹn. Việc chi mà anh ghen tức lồng lộn với cái đẹp như thế? Cái đẹp vĩnh cửu của thời đổi mới nước ta có phương hại gì đến thẫm mỹ, đến thuần phong mỹ tục gì đâu?
Người đẹp mặc thế là quá kín đáo, bây giờ chúng nó còn mặc quần đùi lên tận bẹn cởi xe máy nữa đấy. Chỉ những đám vua quan dâm dục vô độ “ Nhất dạ lục giao hoan, sinh ngũ tử” nhưng lại căm thù cái đẹp:
“Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng”
(Ca dao)
Chưa hết, anh còn đặt ra ảo tưởng rất bậy bạ, của đám cái bang, homeless people, vô lương tri:
“Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào “
Rằng anh làm sao lấy họ được. Anh Vua chúa sao mà lấy họ dễ dàng như thế. Anh không phải Đặng Mậu Lân em gái Đặng Thị Huệ khênh giường đi giữa Thăng Long thấy gái đẹp là kéo lên làm tình, cũng không phải Beria (Nga) có xe đặc chúng đóng giường chiếu riêng để đi trên phố hễ thấy nữ sinh viên là kéo lên giao hợp… Đến như vua Napoleon cũng phải lấy mạ giòng (đàn bà có con riêng), thứ gì anh thấy người đẹp mặc váy cưỡi xe máy đi trên phố thoáng qua mà đã đòi làm tình! Anh có nứng cặc thì anh chạy vào gốc cây thủ dâm cho nó hạ hỏa, chứ làm sao tiếp cận với người ta!
Anh còn chưa biết, biết đâu trong đám đàn bà, cả đẹp cả xấu đó là tình báo viên, đặc tình, đặc vụ của Công an cài cắm, mà ngành anh theo học. Anh bờm xơm họ sẽ cho một lưỡi dao găm thì anh đi đời, không họ sẽ điện đàm trực tuyến đến bộ phận tham mưu cho anh vào Hỏa Lò! Anh có dám không?
Tiếp đến là đoạn kể như học sinh lớp 2 Hà Nội thời miền Bắc hòa bình mới lặp lại tả cảnh các bà, các cô buôn vịt, buôn cá khô, buôn nước mắm đi trên tàu điện:
“Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia”
Rồi anh lại lần nữa nổi máu Sở Khanh không phải lối:
“Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.”
Thật là một ý nghĩ tà dâm rất bậy bạ!
Đến như Nguyễn Du chỉ mới nói, dù tên Mã Giám Sinh vô cùng mất dạy, bất lương, không còn luân thường đạo lý:
“Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến duyên”
Đó là đã có ba trăm lạng vàng nhé. Còn anh bô xu dính tíu sao anh có ý nghĩ hoang dâm vô độ ấy được?
Khi tập “ Sự mất ngủ của lửa” được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng, ngay năm1993, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết “ Nguyễn Quang Thiều tự dịch thơ mình ra tiếng Việt” và phong cho ông nhà “ Khóc Học” . Tôi nghĩ rất đúng mà chưa hết. Nguyễn Quang Thiều có du học học ngành Công an chuyên nghiệp, nhưng Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt. Tập “Sự mất ngủ của lửa” đầy hàng chục chữ khóc, riêng bài này đã hơn bốn chữ gần khóc: tôi nấc lên, tôi sặc khói, tôi sẽ ngủ, tôi nhói lên…
Người ta chẳng thấy nấc, sặc, nhói, ngủ… như thế nào!
Nói chung Nguyễn Quang Thiều Thiều không biết làm thơ tiếng Việt, viết rất kém, dẫu sau này anh có sáng tác lục bát “ Dâng trà”, “Con đường”…
Hội NhàVăn Việt Việt Nam thời ấy (1993) tặng giải thướng cho Nguyễn Quang Thiều là có tội với nhân dân, với lịch sử!
Hội Nhà văn Việt Nam thành lập năm 1957 cùng các hội nghệ thuật khác như: Sân khấu, nhạc, múa, vẽ. Hội thành một cơ quan nhà nước.có ban, bệ cấp sắc tương đương một vụ. Các văn nghệ thời tiền chiến thường nói: Nghệ thuật đẻ cho nó hoạt động tự do thế mà thanh, gom vào Nhà nước nó chẳng làm được gì. Đúng vậy. Các phường chèo, phường xiếc tự sản, tự tiêu không động đến tiên quốc khố, họ làm có tiếng tăm. Gom họ lại thì cãi nhau, tranh giành vật chất, bỗng lộc cho đến già!
Chủ tịch Hội trước đó như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân là những vị thực tài, thực tâm đên Nguyễn Đình Thi bát đầu xuống câp đến Vũ Tú Nam thì “Cuối cùng bầu Chủ tịch hội ta, tướng công đích thực tên là Văn Ngan”. Hữu Thỉnh thì quá tệ. Nguyễn Quang Thiêu là thi tặc, văn nô! Thôi rồi lượm ơi!
“Nguyễn Quang Thiều qua bọt bèo
Thi tặc vô lối cố đeo làm gì!”
(còn nữa)

Thơ không vần cha ông - thơ vô lối - thi tặc hôm nay!

 00:47 30/03/2025

THƠ KHÔNG VẦN CHA ÔNG – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC HÔM NAY
Đỗ Hoàng
諭諸裨將檄文-
Dụ chư tỳ tướng hịch văn - HỊCH ĐỘNG VIÊN TƯỚNG LĨNH – Thống úy Trần Quốc Tuấn
Nguyên bản Việt cổ (chữ Nho)
Phiên âm tiếng Việt
余常聞之
Dư thường văn chi:
紀信以身代死而脫高帝
Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế;
由于以背受戈而蔽昭王
Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương.
豫讓吞炭而復主讎
Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù;
申蒯断臂而赴國難
Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn.
敬德一小生也 身翼太宗而得免世充之圍
Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi;
杲卿一遠臣也 口罵禄山而不從逆賊之計
Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế.
自古忠臣義士 以身死國 何代無之
Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi?
設使數子區區為兒女子之態
Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thái,
徒死牖下 烏能名垂竹白
Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch,
與天地相為不朽哉
Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai!
汝等世為將種 不曉文義
Nhữ đẳng thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa,
其聞其說 疑信相半
Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán.
古先之事姑置勿論
Cổ tiên chi sự cô trí vật luận.
今余以宋韃之事言之
Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi:
王公堅何人也
Vương Công Kiên hà nhân dã?
其裨將阮文立又何人也
Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã?
以釣魚瑣瑣斗大之城
Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đẩu đại chi thành,
當蒙哥堂堂百萬之鋒
Đương Mông Kha đường đường bách vạn chi phong,
使宋之生靈至今受賜
Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ!
骨䚟兀郎何人也
Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã?
其裨將赤脩思又何人也
Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã?
冒瘴厲於萬里之途
Mạo chướng lệ ư vạn lý chi đồ,
獗南詔於數旬之頃
Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh,
使韃之君長至今留名
Sử Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh!
況余與汝等生於擾攘之秋
Huống dư dữ nhữ đẳng, Sinh ư nhiễu nhương chi thu;
長於艱難之勢
Trưởng ư gian nan chi tế.
竊見偽使往來 道途旁午
Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ.
掉鴞烏之寸舌而凌辱朝廷
Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình;
委犬羊之尺軀而倨傲宰祔
Ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ.
托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅求
Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu;
假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥庫
Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng hố.
譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉
Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai?
余常臨餐忘食 中夜撫枕
Dư thường lâm xan vong thực, Trung dạ phủ chẩm,
涕泗交痍 心腹如搗
Thế tứ giao di, Tâm phúc như đảo.
常以未能食肉寢皮 絮肝飲血為恨也
Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã.
雖余之百身高於草野
Tuy dư chi bách thân, cao ư thảo dã;
余之千屍裹於馬革
Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách,
亦願為之
Diệc nguyện vi chi.
汝等久居門下 掌握兵權
Nhữ đẳng cửu cư môn hạ, Chưởng ác binh quyền.
無衣者則衣之以衣
Vôy giả tắc ý chi dĩ y;
無食者則食之以食
Vô thực giả tắc tự chi dĩ thực.
官卑者則遷其爵
Quan ti giả tắc thiên kỳ tước;
祿薄者則給其俸
Lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng.
水行給舟 陸行給馬
Thủy hành cấp chu; Lục hành cấp mã.
委之以兵則生死同其所為
Ủy chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi;
進之在寢則笑語同其所樂
Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc.
其是公堅之為偏裨 兀郎之為副貳亦未下爾
Kỳ thị Công Kiên chi vi thiên tì, Ngột Lang chi vi phó nhị, Diệc vị hạ nhĩ.
汝等坐視主辱曾不為
Nhữ đẳng tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu;
身當國恥曾不為愧
Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý.
為邦國之將侍立夷宿而無忿心
Vi bang quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm;
聽太常之樂宴饗偽使而無怒色
Thính thái thường chi nhạc, yến hưởng ngụy sứ nhi vô nộ sắc.
或鬥雞以為樂或賭博以為娛
Hoặc đấu kê dĩ vi lạc; Hoặc đổ bác dĩ vi ngu.
或事田園以養其家
Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia;
或戀妻子以私於己
Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ.
修生產之業而忘軍國之務
Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ;
恣田獵之遊而怠攻守之習
Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập.
或甘美酒或嗜淫聲
Hoặc cam mỹ tửu; Hoặc thị dâm thanh.
脱有蒙韃之寇來
Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai,
雄雞之距不足以穿虜甲
Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp;
賭博之術不足以施軍謀
Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu.
田園之富不足以贖千金之軀
Điền viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu;
妻孥之累不足以充軍國之用
Thê noa chi lụy, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng.
生產之多不足以購虜首
Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ;
獵犬之力不足以驅賊眾
Liệp khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng.
美酒不足以沈虜軍
Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ quân;
淫聲不足以聾虜耳
Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ.
當此之時 我家臣主就縛 甚可痛哉
Đương thử chi thời, Ngã gia thần chủ tựu phọc, Thậm khả thống tai!
不唯余之采邑被削
Bất duy dư chi thái ấp bị tước,
而汝等之俸祿亦為他人之所有
Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở hữu;
不唯余之家小被驅
Bất duy dư chi gia tiểu bị khu,
而汝等之妻孥亦為他人之所虜
Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ;
不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵
Bất duy dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn xâm,
而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘
Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật;
不唯余之今生受辱 雖百世之下 臭名難洗 惡謚長存
Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường tồn,
而汝等之家清 亦不免名為敗將矣
Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi bại tướng hĩ!
當此之時汝等雖欲肆其娛樂得乎
Đương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu lạc, đắc hồ?
今余明告汝等
Kim dư minh cáo nhữ đẳng,
當以措火積薪為危
Đương dĩ thố hỏa tích tân vi nguy;
當以懲羹吹虀為戒
Đương dĩ trừng canh xuy tê vi giới.
訓練士卒習爾弓矢
Huấn luyện sĩ tốt; Tập nhĩ cung thỉ.
使
Sử
人人逄蒙家家后羿
Nhân nhân Bàng Mông; Gia gia Hậu Nghệ.
購必烈之頭於闕下
Cưu Tất Liệt chi đầu ư khuyết hạ;
朽雲南之肉於杲街
Hủ Vân Nam chi nhục ư cảo nhai.
不唯余之采邑永為青氈
Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên,
而汝等之俸祿亦終身之受賜
Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ tứ;
不唯余之家小安床褥
Bất duy dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục,
而汝等之妻孥亦百年之佳老
Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão;
不唯余之宗廟萬世享祀
Bất duy dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự,
而汝等之祖父亦春秋之血食
Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết thực;
不唯余之今生得志
Bất duy dư chi kim sinh đắc chí,
而汝等百世之下芳名不朽
Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ;
不唯余之美謚永垂
Bất duy dư chi mỹ thụy vĩnh thùy,
而汝等之姓名亦遺芳於青史矣
Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh sử hĩ.
當此之時汝等雖欲不為娛樂得乎
Đương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu lạc, đắc hồ!
今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略
Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư, danh viết Binh thư yếu lược.
汝等或能專習是書 受余教誨 是夙世之臣主也
Nhữ đẳng hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã;
或暴棄是書 違余教誨 是夙世之仇讎也
Hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã.
何則
Hà tắc?
蒙韃乃不共戴天之讎
Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù,
汝等記恬然不以雪恥為念 不以除凶為心
Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm,
而又不教士卒 是倒戈迎降 空拳受敵
Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch;
使平虜之後 萬世遺羞
Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu,
上有何面目立於天地覆載之間耶
Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da?
故欲汝等明知余心 因筆以檄云
Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm, Nhân bút dĩ hịch vân.
Đỗ Hoàng dịch từ nguyên bản
“Ta từng nghe: Kỷ Tín quên mình cứu thoát vua Cao-đế;
Do Vu giơ lưng chịu giáo dâm che chở được vua Chiêu-vương;
Dự Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ;
Thân Khoái chặt tay để gánh nạn cho nước;
Uất Trì Cung một viên tướng nhỏ, còn biết che đỡ vua Đườn thoát khỏi khỏi vòng vây của Thế Sung;
Nhan Cảo Khanh là bầy tôi xa, còn biết mắng chửi Lộc Sơn, không nghe lời nghịch-tặc.
Từ xưa, những bậc trung-thần nghĩa-sĩ, quên thân vì nước, đời nào cũng có.
Nếu mấy người kia, chăm chăm học thói nhút nhát của con gái trẻ con, chẳng qua cũng đến chết rũ ở nơi xó bếp, đâu được ghi tên vào trong thẻ tre lụa trắng, danh tiếng cùng trời đất lâu bền?
“Các người đời đời là con nhà võ, không biết chữ nghĩa, nghe những chuyện ấy, thảy đều nửa tin nửa ngờ.
Thôi thì những việc cổ xưa, hãy để đó không nói đến nữa.
Nay ta hãy đem chuyện nước Tống, giống Thát (là chuyện gần đây) kể cho các người cùng nghe: Nguyễn Văn Lập tỳ-tướng của y lại là người thế nào?,
Chỉ có vòng thành Điếu Ngư nhỏ như cái đấu mà hai người ấy chống nổi toán quân trăm vạn của Mông Kha,
khiến cho con dân nước Tống, đến nay hãy còn nhớ ơn!
Đường ngột Ngại là người gì?
Xích tu Tư tỳ tướng của y lại là người gì?
xông pha lam-chướng trên đuờng muôn dặm,
hai người ấy đánh được quân Nam-chiếu trong vài tuần,
khiến cho vua chúa giòng Thát nay còn để tiếng!
“Huống chi ta với các ngươi,
sinh ở buổi rối ren,
lớn lên nhằm khi khó nhọc,
chính mắt ngó thấy sứ ngụy đi lại, đường xá nghẽn-ngang,
chúng uốn cái lưỡi cú diều bắt nạt tể phụ,
chúng giơ cái thân chó dê, kiêu ngạo với quan triều đình
; chúng nhờ mệnh lệnh của chúa Mông-Cổ,
mà đòi nào ngọc nào lụa, sự vòi vĩnh thật vô cùng;
chúng mượn danh hiệu của vua Vân-nam mà hạch nào bạc nào vàng; của kho đụn đã hồ hết Cung-đốn cho chúng giống như đem thịt mà liệng cho cọp đói, sao cho khỏi lo về sau?
“Ta thường thì tới bữa quên ăn, giữa đêm vỗ gối, nước mắt tràn xuống đầy mép, tấm lòng đau như bị đâm, vẫn lấy cái sự chưa thể ăn thịt nằm da, nuốt gan uống máu của chúng làm tức.
Dẫu cho một trăm cái thân của ta phải đem đốt ở đồng cỏ,
một nghìn cái thân của ta phải đem bọc vào da ngựa, ta cũng vui lòng.
Các ngươi lâu nay ở dưới cửa ta cầm giữ binh-quyền, thiếu áo thì ta cho áo ,
thiếu ăn thì ta sẽ cho ăn
quan nhỏ thì ta thăng chức, bổng lôc ít ta cho thêm lương,
đi thủy cấp thuyền, đi bộ cấp ngựa, n
những khi trận mạc, sự sống thác cùng nhau xông pha,
lúc nhà hạ cung nhau vui cười vui cười !
So vớ Vương Công Kiên, Ngột Ngại ở ngôi phó nhị, có khác gì đâu.
“Thế mà các ngươi thấy chủ bị nhục chẳng bận tâm;gặp nước bị dơ chẳng lấy làm thẹn,
làm tướng nhà nước phải hầu mấy đứa chum mường, mà không có lòng căm hờn,
nghe khúc nhạc Thái thường đem thết một tên ngụy sứ, mà không có vẻ tức giận;
kẻ thì chọi gà cho thích, kẻ thì đánh bạc mua vui,
có người chỉ chăm vườn ruộng, cốt nuôi được nhà; có người chỉ mến vợ con, lấy mình làm trọng; cũng có kẻ chỉ lo làm giàu làm có,
việc quân quốc chẳng thèm đoái hoài,
cũng có người chỉ ham về săn bắn mà quên việc binh, hoặc là đam mùi rượu ngọt, hoặc là mê tiếng hát hay.
“Một khi giặc Mông đến nơi, thì cựa con gà trống không đâm thủng áo giáp
Mẹo cò bạc không mưu lược nhà binh.
Dẫu rằng ruộng lắm, vương nhiều
tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc;
vợ con tuy sẳn, trong đám ba quân khó dùng,
của cải tuy nhiều, không thể mua được đầu giặc;
chó săn tuy giỏi , không thể đuổi được quân thù,
rượu ngon không đủ để cho giặc phải mê;
hát hay không đủ làm cho giặc phải chết mêt;
lúc đó thầy trò ta sẽ cùng bị trói, đáng đau đớn biết chừng nào!
Nếu thế, chẳng những là thái ấp của ta không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng bị kẻ khác chiếm mất;
chẳng những là gia quyến của ta phải đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi;
chẳng những xã tắc của tổ tông ta sẽ bị dày xéo, mà đến mồ mả của cha mẹ các ngươi cũng sẽ bị kẻ khác đào lên,
chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, và trăm kiếp khác tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu vẫn còn, mà gia thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng là nhà bại tướng.
Đã đến khi đó các ngươi muốn chơi bời cho thỏa, được chăng?
“Nay ta bảo rõ các ngươi: cái chuyện dấm lửa đống củi phải lo, mà câu sợ canh thổi rau nên nhớ.
Các ngươi hãy nên huấn luyện quân-sĩ, rèn-tập cung tên, khiến cho người người giỏi như người người như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ,
Để bêu đầu Tất-Liệt dưới cửa khuyết, ướp thịt Thoát-Hoan trong trại rơm.
Như thế chẳng những là thái-ấp của ta mãi mãi còn, mà bổng-lộc các ngươi cũng được suốt đời hưởng thụ;
chẳng những gia-quyến của ta được yên giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng được sum họp đến già;
chẳng những là tông-miếu ta sẽ được muôn đời tế lễ,
mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm;
chẳng những thân ta kiếp này đắc chí,
mà đến các người dưới trăm đời nữa tiếng thơm vẫn lưu truyền;
chẳng những tên tuổi ta không bị mai một, mà đến tên họ các người cũng để tiếng thơm trong sử xanh.
Khi ấy các ngươi không muốn vui chơi, được chăng?
“Nay ta lựa chọn binh pháp các nhà, làm một quyển sách, đặt tên là sách "Binh-thư yếu-lược".
Nếu các ngươi biết chuyên-tập sách ấy, nghe lời dạy-bảo của ta, ấy là duyên thầy trò thuở xưa;
Nếu các ngươi bỏ bê sách ấy, trái lời dạy-bảo của ta, ấy là mối cựu thù kiếp trước,
Sao vậy?
Bởi vì như vậy tức là kẻ thù không đội chung trời,
Thế mà các ngươi không nghĩ tới, điềm nhiên không lo đến sự rửa thẹn, không tinh; đến việc trừ hung, không nhớ đến chuyện dạy tập quân-sĩ.
Thế là giở giáo hàng giặc, nắm tay chống giặc
Rồi đây, sau khi dẹp yên quân giặc, các ngươi sẽ phải thẹn muôn đời,
còn mặt-mũi nào đứng giữa khoảng trời đất che chở?
Nay ta làm bài hịch này để các ngươi biết bụng ta!

THƠ VÔ LỐI – Thi tặc
Nguyễn Quang Thiêu
Ltg; - Tôi làm việc nay thật xúc phạm cha ông. Đưa loại châu chấu , bọ giòi đặt trên bàn thờ. Nhưng không làm không được được! Cái đời nhố nhăng này đang tôn vinh bọn giòi bọ, châu châu , cao cào đặt chúng trên cả bàn thờ


BỎ BÀI “TIẾNG VỌNG” RA KHỎI SÁCH GIÁO KHOA
(Tiếng Việt - Lớp 5 tập một)
Những tác phẩm được tuyển chọn vào sách giáo khoa là những tác phẩm tinh hoa kinh điển có giá trị cao về nội dung tư tưởng, nghệ thuật được thử thách qua thời gian và phù hợp tâm lý lứa tuổi học sinh. Chúng ta ai cũng có tuổi thơ cắp sách đến trường và những bài văn, bài thơ từ thuở ấu trò được ăn sâu trong trí nhớ và đi theo suốt cuộc đời của chúng ta, nó là mẫu mực trong sáng về tình yêu quê hương, đất nước, về tình cảm yêu thương không thể xóa nhòa:
"Bờ cỏ còn hơi sương
Nắng vàng trải trên đường
Cành cao chim chào đón
Chúng em đi tới trường
Một hồi kẻng khua vang
Từng đội đứng xếp hàng
Mắt nghiêm nhìn cờ đỏ
Phấp phới ánh sao vàng
Em hứa thầm cùng Bác
Năm nay cháu học ngoan!"
(Tập đọc cấp một những năm học thập kỷ 60 thế kỷ trước)
Lứa tuổi năm sáu mươi hôm nay không ai là không nhớ bài thơ tới trường này!
Thế hệ sau này, các em cũng được học những bài thơ rất hay, những vần thơ chan chứa tình cảm, hàm súc, âm vang và ngân xa:
"Hôm qua em tới trường
Mẹ dắt tay từng bước
Hôm nay mẹ lên nương
Một mình em tới lớp
Hương rừng đưa thơm ngát
Nước suối trong thì thầm
Cọ xòe ô che nắng
Râm mát đường em đi!..."
Hay:
"Rừng cọ ơi rừng cọ
Lá đẹp xanh ngời ngời
Khi yêu thường vẫn gọi
Mặt trời xanh của tôi!"
Thế mà sang thế kỷ XXI, trong sách giáo khoa lại có tuyển chọn những bài thơ không ra thơ, văn không ra văn, có những bài đang ở dạng thể nghiệm chưa được công chúng thẩm định, thế mà lại được đưa vào sách giáo khoa ở tuổi ấu trò giảng dạy. Điển hình là bài "Tiếng vọng' của Nguyễn Quang Thiều - sách giáo khoa Tiếng Việt - lớp 5 tập một - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tái bản lần thứ 5 - tháng 1 năm 2011).
Nguyên bản:
Nguyễn Quang Thiều
TIẾNG VỌNG
Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Đêm ấy tôi nằm trong chăn nghe tiếng chim đập cửa
Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi
Và tôi ngủ ngon lành đến lúc bão vơi.
Chiếc tổ cũ trong ống tre đầu nhà chiều gió hú
Không còn nghe tiếng cánh chim sẻ về
Và tiếng hót mỗi sớm mai trong vắt
Nó chết trước cửa nhà tôi lạnh ngắt
Một con mèo hàng xóm lại tha đi
Nó để lại trong ổ những quả trứng
Những con chim non mãi mãi chẳng ra đời
Đêm đêm tôi vừa chợp mắt
Cánh cửa lại rung lên tiếng đập cánh
Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ
Tiếng lăn như đá lở trên ngàn ./.
ĐỖ HOÀNG DỊCH RA THƠ VIỆT
TIẾNG VỌNG
Chim sẻ mẹ mất rồi
Đêm bão về gần sáng
Tôi nằm trong chăn ấm
Ngon lành đến bão vơi!
Thế mà ở ngoài trời
Tổ chim đầy gió hú
Con mèo như thú dữ
Cắp sẻ mẹ chạy dài!
Từ nay không còn nữa
Cánh chim vờn ban mai!
Và vầng trăng của trứng
Mãi mãi chẳng ra đời!
Đêm đêm tôi chợp mắt
Cánh cửa nhà rung vang
Trứng lăn vào giấc ngủ
Như đá lở trên ngàn

CÂU HỎI CUỐI NGÀY
Nguyễn Quang Thiều

Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày

Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên

Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào

Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.

Quán Sứ - Hà Đông, 1991
BÌNH GIẢNG
Câu mở đầu không có gì gọi là câu thơ. Một câu nói đơn sơ như các ông, các bà quét rác ở các công ty Vệ sinh môi trường, sau ngày làm mệt nhọc vẫn thường nói. Mà nói hay hơn, thơ hơn:
“Ngày dài mưa nắng trên đường
Mong về có đọi cơm thương ở nhà”.
Tiếp theo 5 câu sau có tới 31 từ mà lại là 5 câu rất vô nghĩa, vô bổ không nói lên được điều gì:
“Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên”
Trong khi tiền nhân chỉ 20 từ đã làm nên thi phẩm bất hủ muôn đời!
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Lưu Vũ Tích
飲酒看牡丹
劉禹錫)

飲酒看牡丹
今日花前飲,
甘心醉數杯。
但愁花有語,
不為老人開。
Lưu Vũ Tích
Ẩm tửu khán mẫu đơn
Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm tuý sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ:
Bất vị lão nhân khai.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Trước hoa giờ được uống
Mấy chén ngất ngư say
Sợ rằng hoa sẽ nói:
Không nở cho già này!

Cao điểm chốt 176 –
Biên giới Việt Lào 1972
Tiếp đến 6 câu sau là những câu có ý nghĩ dục tình rất bậy bạ, ý nghĩ khiên cưỡng mang tính hiếp dâm cao:
“Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào”
Những người con gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua có sao đâu. Họ làm đẹp cho phố phường đường làng có cuộc đời khởi sắc mà ông bà váy cồng lộn ngược, mò cua bắt ốc không có đôi dép mo cau mà đi thì sao? Tại sao lại nói “Như dao sắc phất vào tôi tứa máu”? Một câu khẩu phàm, hàm hồ, hàm chứa, căm giận cái đẹp còn hơn phát xít Hitle bắn đại bác vào Viện Bảo tàng nghệ thuật Paris (Pháp) những năm 1940 – 1942. Người ta cưỡi xe máy, một nét đẹp của con gái Việt Nam thời đổi mới nghìn đời mới có, sao mình lại có cái nhìn thù hận như vậy?
Bên châu Âu như bà Angela Dorothea Merkel, thủ tướng Đức mặc váy cởi xe máy phóng qua anh cũng tứa máu như dao sắc phất vào người chăng?
Đúng là điên rồ!
Cha ông nói:
“Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc áo hở lườn mới xinh!”
Bây giờ người đẹp mới mặc váy cưỡi xe máy phóng qua mà mình đã hồng hộc sôi máu lên như đỉa phải vôi? Anh lại còn “ nấc “ lên như bị nghẹn. Việc chi mà anh ghen tức lồng lộn với cái đẹp như thế? Cái đẹp vĩnh cửu của thời đổi mới nước ta có phương hại gì đến thẫm mỹ, đến thuần phong mỹ tục gì đâu?
Người đẹp mặc thế là quá kín đáo, bây giờ chúng nó còn mặc quần đùi lên tận bẹn cởi xe máy nữa đấy. Chỉ những đám vua quan dâm dục vô độ “ Nhất dạ lục giao hoan, sinh ngũ tử” nhưng lại căm thù cái đẹp:
“Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng”
(Ca dao)
Chưa hết, anh còn đặt ra ảo tưởng rất bậy bạ, của đám cái bang, homeless people, vô lương tri:
“Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào “
Rằng anh làm sao lấy họ được. Anh Vua chúa sao mà lấy họ dễ dàng như thế. Anh không phải Đặng Mậu Lân em gái Đặng Thị Huệ khênh giường đi giữa Thăng Long thấy gái đẹp là kéo lên làm tình, cũng không phải Beria (Nga) có xe đặc chúng đóng giường chiếu riêng để đi trên phố hễ thấy nữ sinh viên là kéo lên giao hợp… Đến như vua Napoleon cũng phải lấy mạ giòng (đàn bà có con riêng), thứ gì anh thấy người đẹp mặc váy cưỡi xe máy đi trên phố thoáng qua mà đã đòi làm tình! Anh có nứng cặc thì anh chạy vào gốc cây thủ dâm cho nó hạ hỏa, chứ làm sao tiếp cận với người ta!
Anh còn chưa biết, biết đâu trong đám đàn bà, cả đẹp cả xấu đó là tình báo viên, đặc tình, đặc vụ của Công an cài cắm, mà ngành anh theo học. Anh bờm xơm họ sẽ cho một lưỡi dao găm thì anh đi đời, không họ sẽ điện đàm trực tuyến đến bộ phận tham mưu cho anh vào Hỏa Lò! Anh có dám không?
Tiếp đến là đoạn kể như học sinh lớp 2 Hà Nội thời miền Bắc hòa bình mới lặp lại tả cảnh các bà, các cô buôn vịt, buôn cá khô, buôn nước mắm đi trên tàu điện:
“Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia”
Rồi anh lại lần nữa nổi máu Sở Khanh không phải lối:
“Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.”
Thật là một ý nghĩ tà dâm rất bậy bạ!
Đến như Nguyễn Du chỉ mới nói, dù tên Mã Giám Sinh vô cùng mất dạy, bất lương, không còn luân thường đạo lý:
“Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến duyên”
Đó là đã có ba trăm lạng vàng nhé. Còn anh bô xu dính tíu sao anh có ý nghĩ hoang dâm vô độ ấy được?
Khi tập “ Sự mất ngủ của lửa” được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng, ngay năm1993, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết “ Nguyễn Quang Thiều tự dịch thơ mình ra tiếng Việt” và phong cho ông nhà “ Khóc Học” . Tôi nghĩ rất đúng mà chưa hết. Nguyễn Quang Thiều có du học học ngành Công an chuyên nghiệp, nhưng Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt. Tập “Sự mất ngủ của lửa” đầy hàng chục chữ khóc, riêng bài này đã hơn bốn chữ gần khóc: tôi nấc lên, tôi sặc khói, tôi sẽ ngủ, tôi nhói lên…
Người ta chẳng thấy nấc, sặc, nhói, ngủ… như thế nào!
Nói chung Nguyễn Quang Thiều Thiều không biết làm thơ tiếng Việt, viết rất kém, dẫu sau này anh có sáng tác lục bát “ Dâng trà”, “Con đường”…
Hội NhàVăn Việt Việt Nam thời ấy (1993) tặng giải thướng cho Nguyễn Quang Thiều là có tội với nhân dân, với lịch sử!
(còn nữa)

(còn tiếp)

Thơ không vần thế giới - Thi tặc Việt Nam

 23:22 25/03/2025

THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM
(tiếp theo)
Đô Hoàng

SO SANH TIÊNG NGƯỜI “XỈ ÂM” VÀ NGƯỜI “HẦU ÂM”.
Đỗ Hoàng
Tôi đã có nhiều chuyên luận viết về tiếng nói người người “xỉ âm”(phát âm qua kẻ răng) và người “hầu âm”(phát âm qua thực quản (cổ họng âm)..Giờ chỉ dẫn chứng so sánh:
Tiếng Anh
America – Ơ re mi cần –Mỹ
Television – Televísần -Tivi
have breakfast- Het bơretphat – Ăn sáng
daily conversation – đàm thoại hàng ngày
Tiếng Việt: Mỳ, Vô tuyên , Ăn sáng, Nói hàng ngày!
Tiếng Trung : Mỹ, Vô tuyến, Tảo thực, Đàm thoại nhật
Tiếng Pháp:
la maison – cái nhà
la cochon – lợn
boutique – cửa hàng
numéro un – số một
Tiếng Việt : nhà, lợn, cửa hàng, số một
Tiếng Anh và tiêng Pháp những từ rời rac trên khi đọc, xêp lại như một bài thó tứ tuyệt của phương Đông,, còn tiếng Việt và tiêng Trung nó không có ngữ nghĩa gì!
Vây vần điệu trong thó người phát « xỉ âm » rất quan trọng !

THƠ KHÔNG VẦN NƯỚC TA TỪ CỔ ĐẾN NAY
Vì lý do « xỉ âm » nên từ cổ cha ông ta gọi làm thơ không vần là :chiếu, biểu, cáo, thư, tụng, biểu, tế, đói, sấm, hich, tô tụng, trát, phú, lệnh…Điển hình nhát là ‘BÌNH NGÔ DẠI CAO » - Bái cáo bình Ngô) của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo 平吳大告 • Đại cáo bình Ngô
蓋聞:
仁義之舉,要在安民,
弔伐之師,莫先去暴。
惟,我大越之國,
實為文獻之邦。
山川之封域既殊,
南北之風俗亦異。
自趙丁李陳之肇造我國,
與漢唐宋元而各帝一方。
雖強弱時有不同
而豪傑世未常乏。
故劉龔貪功以取敗,
而趙禼好大以促亡。
唆都既擒於鹹子關,
烏馬又殪於白藤海。
嵇諸往古,
厥有明徵。
頃因胡政之煩苛。
至使人心之怨叛。
狂明伺隙,因以毒我民;
惡黨懷奸,竟以賣我國。
Đỗ Hoàng trích dịch
Thế trời làm việc, Vua truyền rằng.
Đã nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.

Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.

Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà bán nước cầu vinh… »
Phú
Tú Xương
Phú hỏng khoa Canh Tý
Đau quá đòn hằn
Rát hơn lửa bỏng.
Hổ bút hổ nghiên;
Tủi lều tủi chõng.
Nghĩ đến chữ “lương nhân đắc ý” thêm nỗi thẹn thùng;
Ngắm đến câu “quyển thổ trùng lai” nói ra ngập ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng;
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.
Có một thầy:
Dốt chẳng dốt nào;
Chữ hay, chữ lỏng.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu;
Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng.
Quanh năm phong vận, áo hàng tầu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh;
Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng.
Tú rốt bảng giữa năm Giáp Ngọ, nổi tiếng tài hoa;
Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng.
Năm vua Thành Thái mười hai;
Lại mở khoa thi Mĩ Trọng.
Kỳ đệ tam văn đã viết rồi;
Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem giò;
Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng.
Sáng đi lễ Phật, còn kỳ này kỳ nữa là xong;
Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.
Nào ngờ:
Bảng nhỏ có tên,
Ngoại hàm còn trống.
Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang;
Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.
Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?
Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với bóng!
Giá cứ chăm nghề đèn sách thì mười lăm mười sáu đỗ tự bao giờ;
Những là mải việc đùa chơi nên một tuổi một già, hoá ra lóng đóng.
Thôi thì thôi:
Sách vở mập mờ;
Văn chương lóng ngóng.
Khoa trước đã chầy;
Khoa sau hẳn chóng.
Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;
Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!
Canh Tý tức năm 1900.
Chiếu
Thiên đô chiếu (chữ Hán: 遷都詔) tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư[1], bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La.
Theo ý kiến của sử gia Trần Quốc Vượng, Chiếu dời đô đã khẳng định được vai trò của kinh đô Thăng Long,[3] là tác phẩm văn học khai sáng của nhà Lý. Tuy nhiên, Chiếu dời đô chưa nêu bật được chủ nghĩa dân tộc và khát vọng độc lập, hơn nữa ngôn ngữ sử dụng trong văn bản này mang đượm màu sắc dị đoan, phong thủy.
昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億萬世子孫之計。上謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。筭數短促。百姓耗損。萬物失宜。朕甚痛之。不得不徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。萬物極繁阜之豐。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要會。爲萬世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。
Bản dịch tiếng Việt:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà 2 nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)
Sắc
Những người làm quan từ tứ phẩm trở lên, xưa được nhà vua ban sắc phong tặng cho cha mẹ, ông bà cụ kỵ tùy theo phẩm tước của mình. Nhất phẩm được triều đình truy phong đến cao tổ, nhị phẩm được truy phong đến ông bà, tam tứ phẩm được truy phong đến cha mẹ.
Trong sắc phong có kể lại công trạng chức tước của người làm quan, rồi suy âm truy phong đến cha mẹ, ông bà hay các cụ. Sắc phong được báo về dân làng, dân làng phải tổ chức đi rước sắc về nhà chủ. Nếu những người được phong còn sống, sẽ có lễ khao dân làng, cùng với cáo yết gia tiên và lễ thần linh tại đình.
(Theo Từ điển Lễ tục Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, 1996)
Sắc chí vua Tự Đức
“Thí sai Suất đội Lê Non thuộc đội 5 đội thủy vệ Bình Thuận đã kinh qua chức Thí sai do viên Cai tỉnh đề cử. Nay Bộ binh đồng ý chuẩn y bổ thụ giữ chức Chánh đội trưởng Suất đội Suất nội đội binh thủy đồng thời cai quản việc điều động người thi hành công vụ. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 29 tháng 5 năm Tự Đức thứ 17 (1863).
“Hiệp quản Lê Non thuộc Tinh binh Suất đội thủy vệ Bình Thuận đã được ân chuẩn thăng một trật, nay Cai tỉnh y theo đó chuẩn thăng làm Cai đội tinh binh đồng thời cai quản đội biện binh. Phàm mọi việc cứ y theo lệ mà thừa hành. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 8 tháng 5 năm Tự Đức thứ 23 (năm 1869).
(còn nữa)
Đ - H





THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIÊT NAM (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Chiếu, biếu , sắc phong, cáo, tụng, hịch…của cha ông nhiều nhiều lắm! Không kể hết! Thời cận đại và hiện nay vẫn có nhiều nhà thơ viết thơ không vần thành công . Như thời khàng chiến chống Pháp: Trần Mai Ninh, Hữu Loan, Hồng Nguyên…Thời nay: Lò Ngân Sủn (dân tộc Giáy)…
Nhà thơ Trần Mai Ninh
Trần Mai Ninh tên thật là Nguyễn Thường Khanh. Vốn xuất thân trong một gia đình công chức thời Pháp thuộc, ngay từ nhỏ Trần Mai Ninh đã chịu ảnh hưởng của Nho học và văn hóa Pháp. Bởi thế mà ông sớm có những luồng tư tưởng tiến bộ.
Nhắc đến Trần Mai Ninh nhiều người nhớ ông với tư cách một nhà thơ thời kỳ kháng chiến chống Pháp với những bài thơ: Tình sông núi, Nhớ máu, Thắc mắc, Nhịp muôn đời, Nắng tù, Cơm mới... thể hiện sự “căm thù tột cùng mà yêu thương hết mức”.
Cố nhà thơ Mai Ngọc Thanh trong cuốn sách “Nhà văn Việt Nam hiện đại Thanh Hóa” có kể lại câu chuyện khi ông được gặp nhạc sĩ Văn Cao, nhạc sĩ có nói: Này! Thanh Hóa cậu có Trần Mai Ninh là đáng phải tự hào lắm đấy. Chỉ với hai bài Tình sông núi và Nhớ máu thôi, Trần Mai Ninh đã là ngôi sao sáng chói trên thi đàn cách mạng Việt Nam. Một loạt các nhà thơ lứa mình được ảnh hưởng của thơ Trần Mai Ninh dẫn dắt đấy. Phải cúi đầu mà học ông đi”... Những vần thơ ông để lại cũng là những trải nghiệm của đời sống cách mạng, những ngày làm báo, viết báo.
Theo nhiều tài liệu ghi lại, ngay từ khi còn học ở Thanh Hóa, Trần Mai Ninh đã tham gia viết bài và tự vẽ tranh biếm họa trang trí cho “tờ báo tay” với nội dung đả kích thói hủ lậu của một số thầy giáo và học sinh.
Năm 1935, sau khi thi đỗ thành chung, ông ra Hà Nội học tiếp lên tú tài. Tại nơi đây, ông thực sự giác ngộ cách mạng, được Đảng dìu dắt. Ông tham gia nhóm “nghiên cứu Mác xít”, tích cực hoạt động trong phong trào Thanh niên Dân chủ Đông Dương và sớm trở thành một chiến sĩ cách mạng. Ông hoạt động nhiều trên mặt trận báo chí và văn học nghệ thuật với các bút danh: Trần Mai Ninh, Hồng Diện, Mạc Đỗ, Tố Chi, TK...
Đến năm 1937, Trần Mai Ninh tham gia công tác báo chí của Đảng xuất bản ở Hà Nội. Ông viết bài, làm thơ và làm họa sĩ chủ yếu của nhiều tờ báo Đảng như tờ Tin tức, Bạn dân, Thế giới, Thời mới...
Tuy vậy, kể từ năm 1939, chiến tranh thế giới II bùng nổ, thực dân Pháp đàn áp cách mạng Việt Nam, chúng thủ tiêu các quyền tự do dân chủ mà Nhân dân ta đã giành được trong thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939). Các tờ báo tiến bộ lần lượt bị đóng cửa, một số tòa soạn báo bị đe dọa, Trần Mai Ninh bị mật thám theo dõi, ông phải lui về hoạt động cách mạng ở thị xã Thanh Hóa (nay là TP Thanh Hóa). Ông viết bài cho báo Bạn đường, và làm biên tập chủ chốt của báo Tự do, cơ quan tuyên truyền và đấu tranh bí mật của Mặt trận phản đế cứu quốc Thanh Hóa. Đây là thời gian ông có nhiều cống hiến cho cách mạng trên lĩnh vực văn hóa và tư tưởng khi dùng thơ ca, báo chí để ca ngợi tình yêu thương, tự do và tuyên ngôn cách mạng.
Tháng 9/1941, Trần Mai Ninh gia nhập Chiến khu Ngọc Trạo, làm đội trưởng Đội xung kích. Trong khoảng thời gian chiến đấu ấy, ông vẫn miệt mài với công việc cổ vũ tinh thần đồng bào, đồng chí thêm tin yêu vào lý tưởng của Đảng bằng nhiều áng thơ và cuốn tự truyện Khi Chiến khu Ngọc Trạo bị vỡ, Trần Mai Ninh bị giặc bắt và bị giam cầm trong nhà lao Thanh Hóa. Đầu năm 1944, thực dân Pháp đày ông đi Buôn Ma Thuột. Lợi dụng lúc Nhật đảo chính Pháp, ông đã vượt ngục, về hoạt động ở Khu V, rồi tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Ngãi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tháng 5/1946 ông tham gia quân đội và là Trưởng ban tuyên truyền Đại đoàn 27 (sau đổi là Quân khu 6). Cuối năm 1947, theo yêu cầu của công tác vùng sau lưng địch, ông được cử vào cực Nam Trung Bộ hoạt động. Trong thời gian này, Trần Mai Ninh tiếp tục làm báo ở tờ Tiến hóa - cơ quan Văn nghệ cứu quốc tỉnh Quảng Ngãi.
Đang ở thời kỳ chín nhất của sự nghiệp cầm bút, Trần Mai Ninh bị sa vào tay giặc trong một chuyến công tác. Chúng đưa ông về giam ở nhà tù Nha Trang, tra tấn dã man và giết ông một cách hèn hạ. Về cái chết của Trần Mai Ninh đến nay vẫn còn là bí ẩn, người thì cho rằng, ông bị địch chọc mù mắt vì vẽ tranh cách mạng, người khác lại nói bị địch cắt lưỡi vì luôn chửi rủa chúng. Thậm chí, sau đó ông còn bị địch dùng xe kéo lê xác trên đường phố... tựu chung cũng chỉ khẳng định lòng yêu nước, quên thân của ông.
Không chỉ là một nhà thơ, một nhà báo, Trần Mai Ninh còn là một họa sĩ. Những bức tranh của ông phóng khoáng, dễ hiểu mang tính tuyên truyền cao. Hiện nay ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam còn lưu trữ được hơn 30 bức tranh biếm họa, áp phích của ông rải rác trên các tờ báo: Bạn dân, Thế giới, Thời nay, Bạn đường... Ông còn là một người viết văn xuôi, viết kịch. Đặc biệt, ông chính là người đầu tiên dịch tiểu thuyết “Người mẹ” (M.Gorki) ở Việt Nam. Ông còn dịch, giới thiệu văn học Xô-viết trên báo Tiến hóa; viết về nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua trên tạp chí Tiên phong - cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam...
Nhà báo Trần Mai Ninh: Sống và viếtTrần Mai Ninh và những trang viết sống mãi với bạn đọc.
Trần Mai Ninh trên hết vẫn là một nhà cách mạng. Ngay từ đầu những năm 40 trước Cách mạng Tháng Tám ông đã có quan niệm, trước hết là phải sống, phải hoạt động và phản ánh thân phận con người. “Một nhà văn, muốn sáng tạo cho thực có giá trị trong suốt cả cuộc đời, điều quan trọng nhất, điều quan hệ nhất là suốt cả cuộc đời, nhà văn ấy phải học ngay bằng máu thịt của mình tung ra giữa trời hoạt động, trong sự sống ngang tàng, chăm chỉ không ngừng một phút” (Trần Mai Ninh, Sống đã... rồi viết văn, Thanh Nghị số 42 ngày 1/8/1943). Và thực tế, ông đã sống, đã viết với tất cả tâm hồn và trái tim của mình. Trái tim ấy chưa bao giờ ngừng thổn thức, ngừng reo; một ý chí không biết sợ, không chịu khuất phục như những câu thơ hừng hực khí thế trong bài Nhớ máu:
"Sống... trong đáy âm thầm
Mà nắm chắc tối cao vinh dự
Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai
Vững tin tưởng nơi oai hùng
Và chiến thắng
Câu Việt Nam: dân tộc!".
Nhớ máu
Nhà thơTrần Mai Ninh
Ơ cái gió Tuy Hoà…
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng.
Gió đi ngang, đi dọc,
Gió trẻ lại – lưng chừng
Gió nghỉ
Gió cười,
Gió reo lên lồng lộng.
Tôi đã thấy lòng tôi dậy
Rồi đây
Còn mấy bước tới Nha Trang
– A, gần lắm!
Ta gần máu,
Ta gần người,
Ta gần quyết liệt.
Ơi hỡi Nha Trang!
Cái đô thành vĩ đại
Biết bao người niệm đọc tên mi.
Và Khánh Hoà vĩ đại!
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người,
Cả hồn ta sát tới
Nhìn mi!
Ta có nhớ
Những con người
Đã bước vào bất tử!
Ơ, những người!
Đen như mực, đặc thành keo
Tròn một củ
Hay những người gầy sát lại
Mặt rẹt một đường gươm
Lạnh gáy,
Lòng bàn tay
Khắc ấn chuôi dao găm.
Chân bọc sắt,
Mắt khoét thủng đêm dày
Túi chứa cả Nha Trang… họ bước
Vương Gia Ngại… Cung Giữ Nguyên
Chút chít Hoàng Bá San… còn nữa!
Cả một đàn chó ghẻ
Sủa lau nhau
Và lần lượt theo nhau
Chết không ngáp!
Dao găm để gáy,
Súng màng tang
Ồng ộc xối đầy đường máu chó.
Chúng nó rú.
Cả trại giặc kinh hoàng.
Quy-lát khua lắc cắc
Giày đinh xôn xao
Còi và kèn…
Cả trại giặc bạt hồn, bạt vía…
Chạy lung tung
-Sớm mai xét và bắt
Thiết giáp cam nhông
Rầm rập nối đuôi nhau
Và đêm khuya: lại chết
Chồn Pháp, chó Việt gian
Ằng ặc máu
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người
Cả hồn ta sát tới
Biết bao người
Sống lẩn lút nhưng ngang tàng
Bên lưng giặc!
Vẫn tổ chức, vẫn tuyên truyền
Hoặc giao thông hay liên lạc
Rải giấy
Treo cờ
Hay gồng vai tiếp tế
Từ bình minh cho tới trăng tàn
Đúc bê tông bên mặt trận
Và thì thào cùng du kích đi lên…
Cả ngàn chiến sĩ
Cả ngàn con bạc, con vàng
Của Tổ quốc!
Sống…trong đáy âm thầm
Mà nắm chắc tối cao vinh dự
Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai
Vững tin tưởng nơi oai hùng
Và chiến thắng
Câu Việt Nam: dân tộc!...”

Nhà thơ Hữu Loan:
Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan; Bút danh: Hữu Loan ; sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916 (theo lý lịch, còn có thông tin ông sinh năm 1914) tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh (nay là xã Nga Phượng), huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi dạy học và tham gia Mặt trận Bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê và khi cuộc Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn học, xuất bản tại Hà Nội . Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia quân đội Nhân dân Việt nam, phục vụ trong Đại đoàn 304.
Sau năm 1954, ông làm việc tại Báo Văn nghệ trong một thời gian. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Sau khi phong trào này bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải đi học tập chính trị, tiếp đó ông về quê sinh sống. Ông sống bằng nhiều nghề như đẩy xe cút kít, khai thác đá, làm bún[4]. Cuối đời ông về sống tại quê nhà ở tỉnh Thanh Hóa
Ông nổi tiếng với bài thơ Màu tím hoa sim do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến. Ông từ trần vào lúc 19h00 ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi.

MÀU TÍM HOA SIM
Khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh

Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...

Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh

Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...

Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí

Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
1949
Nhà thơ Hồng Nguyên
Xuất hiện vào thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, gần như cùng lúc với Đèo cả của Hữu Loan, Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Nhớ của Hồng Nguyên đã làm nên bộ “ngũ tư bất tử” của thơ chống Pháp nói riêng và trong lịch sử thi đàn Việt Nam nói chung.
Ngay từ khi mới xuất hiện, Nhớ của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện, được lan truyền rộng rãi và bám vào trí nhớ của nhiều người, nhiều lớp người dọc theo năm tháng.
NHỚ
I
Lũ chúng tôi,
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến,
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm đao kiếm.
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Ba năm rồi gửi lại quê hương,
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô,
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng.
Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng,
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ Độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp,
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.
II
Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động,
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng.
Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng,
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau.
Có tiếng gà gáy sớm,
Có “khai hội, yêu cầu, chất vấn”
Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa.
Trăng lên tập hợp hát om nhà
Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa,
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui,
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ,
Đồng chí mô nhớ nữa,
Kể chuyện Bình Trị Thiên,
Cho bày tôi nghe ví,
Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí
- Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ,
Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.

Đêm đó chúng tôi đi,
Nòng súng nghiêng nghiêng,
Đường mòn thấp thoáng...
Trong điếm nhỏ,
Mươi người trai tráng,
Sờ chuôi lựu đạn,
Ngồi thổi nùn rơm
Thức vừa rạng sáng.
Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi.
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni,
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc!
1948
Lò Ngân Sủn
Lò Ngân Sủn là một nhà thơ dân tộc Giáy. Ông sinh ngày 26 tháng 04 năm 1945 tại Bản Vền, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lao Cai. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991. Ông mất ngày 15 tháng 12 năm 2013.
Người đẹp
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
(Dân ca Dáy)

Người đẹp trông như tuyết
chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết - nhìn người đẹp lại không muốn chết nữa

Ơ! Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!
(còn nữa)
Đ - H

Nghiên Cứu phê bình- CẦN GIẢI TÁN CÁC HỘI, ĐOÀN THỂ TIÊU TỐN TIỀN CỦA NHÀ NƯỚC

Trong năm năm (2001 - 2005) các họi âm nhạc, hội nhà văn ,hội ,mỹ thuât, hội Nhiệp anh, hội Sân kaaus, hội Điện ảnh tiêu 200 tỷ đồng.

Thăm dò ý kiến

Bạn biết gì về NukeViet 4?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập4
  • Hôm nay386
  • Tháng hiện tại875
  • Tổng lượt truy cập18,299
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi