Nguyễn quang Thiều kỳ 7

 19:57 21/09/2025

Kỳ 7: NGUYỄN QUANG THIỀU – TẦM VĂN HÓA QUÁ THẤP – KHÔNG NÊN LÀM CHÚ BÚT.
Đỗ Hoàng
Thông diệp của những gọn gió
(Lời tựa Viết & Đọc chuyên đề mùa xuân 2023)
Đọc đến năm, bảy cái lời tựa đầu sách của Nguyễn Quang Thiều (Ở đây ghi là Thư biên tập)thì mọi người quá thất vọng cáí kiến thức lổ mổ, kém nát, luôn luôn kêu gào, sáo rồng, ngoắng lên của Thiều! Đúng là dốt hay nói chữ, nào là tự do, kỳ vỹ, chóí lòa, thiên đường, thông điệp quyền uy, bí mật, hiện diện, ma mị, cưỡng bức,nếm trải, trái chín,giai điệu, ký diệu, hùng vỹ,vô song…nhan nhản từ Hán chưa Việt hóa!
“Chúng ta những ngọn gió thức dậy từ những nơi mà các ngươi không bao giờ biết được. Và các ngươi cũng không thể nào biết được nơi chốn chúng ta sẽ đến. Đấy vừa là quyền uy vừa là bí mật của chúng ta. Chỉ khi chúng ta tràn qua các người thì các ngươi thì các người mới biết sự hiện diện của chúng ta. Mọi nổ lực săn tìm của các người đều bất lực. Chúng ta vừa lướt mình trên các người vừa cất tiếng về Tự do.
Chúng ta bay lượn trên bầu trời kỳ vỹ và lướt trên đất đai bất tận từ ban mai đến đêm tối. Chúng ta không thuộc quyền sở hữu cuả bất kỳ ai nhưng hiện diện trong mọi ngõ ngách của đời sống này, tham dự vào đời sống cua mọi con người. Chúng ta làm cho cái cây bất động đã chết trở nên quyến rủ và kiêu hãnh. Các người hãy ngước mắt nhìn lên những vòm lá. Chúng ta đang ngự trị ở đó. Chúng ta đang làm cho những chiếc lá bị phủ đầy bụi thức dậy và ngân vang như những tiếng chuông vàng. Chúng ta làm cho những cái cây yêu hèn và biết lớn lên và sợ hãi phải cúi đầu. Chúng ta làm cho những cái cây có ý chí và biết lớn lên trong bão táp và trở thành những cái cây bền vững và kỳ vỹ ..."
Toàn sáo rỗng, hô khẩu hiệu... dạy dỗ người ta bằng nhưng chữ xơ cứng trong sách Hấn học. Lập luận sai trái Nguyễn Quang Thiều không hiểu gì vê địa lý, sinh vật, vật lý....Quá kém nát!
A D H 1

Nguyễn Quang Thiều , kỳ 5

 15:03 18/09/2025

Ky 5: NGUYỄN QUANG THIỀU – TÀM VĂN HÓA QUÁ THẤP - KHÔNG ĐỦ TẦM LÀM CHỦ BÚT VĂN CHƯƠNG
Đỗ Hoàng
Có một số anh công an khi mặc săc phục, đi giày đinh, đeo tua dãi trông rât hùng dũng nhưng khi viết lách thể hiện quan điểm học thuật thì lộ rõ những lỗ hỏng vô hoc rất tai hại!
Nguyễn Quang Thiều là một anh như thế! So với những người cùng thế hệ, Nguyễn Quang Thiều được Công an cho học tiếng Anh ở Cu Ba - dù là người Mễ Tây Cơ dạy. Méo mó co hơn không. Bài viết của Thiều đầy rẫy Hán tự , phá vỡ cái đẹp của văn chương cha ông! Thiều qui tập một dàn “vô lối – thi tặc ( 27 ) tên làm hỏngthi ca tổ tiên!
Năm cái lời tựa đọc qua, bài nào cũng giọng điệu la lối, ôm đồm, sáo rỗng, ba voi không ngọt bát xáo, lại dùng nhiều Han tự xơ cứng cũ mèm!
Bạn đọc xem “Hãy ngước măt lên dũ chỉ một lần”.Đên nổi cái lời nói đầu một tập sách cũng không biêt viêt. Nói quàng, nói xiên!
“Trong thời hiện đại mà chúng ta đang sống, nổi hoài nghi lớn nhất luôn luôn thường trực trong tôi là hoài nghi về sự tồn tại niềm vui.Có chăng lừa mị chúng ta đã đượcnếm trải chín của niềm vui trong khi cuôc sống của chúng ta luôn luôn bất toàn. Chúng ta luôn kiếm tìm , kiếm tìm bằng cả trái tim chân thành nhất,để hưởng đươc niềm vui đươc sông trong cuộc đời này. Nhưng những gì chúng ta tìm thấy chỉ là lớp áo choàng (đôi khi đã thay ra) của niềm vui.. Và tất cả những gì mà chúng ta mơ hồ đạt tới niềm vui đang đầy đoa, lừa mị chúng ta nhiều nhất. Thực tế như vậy nguy hiểm vô cùng đối với ý thức sống của chúng ta. Chúng ta đang cố tạọ dựng nó , gọi tên nó và nhiều lúc cưỡng bức nó. Sự ảo tưởng về niềm vui đang rỗng chính tâm hồn của con người như một đàn mối rời bỏ chiếc tổ ấm áp của mình chỉ vì những cơn mưa tưởng tượng. Dường như những trân mưa niềm vui còn chưa đến. Trong ảo tưởng niềm vui, con người luôn luôn có nguy cơ hư hỏng nhiều hơn. Sự ngạo mạn và ngu ngôc thường đươcsinh ra trong trạng thái ấy. Đồng thời nỗi sợ hãi, nỗi cô đơn và khát vọng vượt qua nỗi sợ hãi, cô đơn ấy bị đánh mất. Khi con người rơi vào nỗi đau đớn tinh thần họng và tuyệt vọng về chính đời sống của mình, khi mà con người dứt hêt mọi sợi dây ràng buộc của thiên nhiên, của đời sống, khi ấycon người cần đến Cái Đẹp hơn mọi nhu cầu khác.” – “Hãy ngước mắt lên dù chỉ một lần”( Viêt&Đoc chuyên đề mùa đông 2023)
Một đoạn văn dài ông Thiều không nói gì đến “ngước mắt lên dù chỉ một lần”, ông đang ba hoa về hoài nghi niềm vui”. Cái gì cũng có thể hoài nghi, chứ thớ gì niềm vui! Nhất là niềm vui trong cái chú nghĩa xã hội không tưởng bời cái học thuyết không tưởng! Nhưng trong cái không tưởng ấy thì cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trên quê ông là có thật. hàng triệu người bần cố là có thật.Hàng triệu người thoát vọng nô lệ ngoại bang là có thật. Niềm vui của hàng triệu người bần cố là có thât! Niềm vui ấy được khẳng định chứ không phải hoài nghi! Ông Nguyễn Quang Thiều đã phản lại cha ông cúả ông, phản lại chủ thuyêt của j sự cứu rỗi.
Mãi gần hết bài ông Thiều mới nói;”Có ngườ hỏi tôi về người đàn bà trong bài thoe Cái Đẹp ở tập Sự mất ngủ của lửa có y nghĩa gì .Trong bài thơ ấy cảnh con bò kéo chiêc xe đá trên đường gió lạnh. Sau xe là người đần ông cúi mặt đẩy xe. Cả con bò và người đàn ông kia đã nguyền rủa con đường gió lanh và nguyền rủa nhau. Trong khi chỉ có người đàn bà ngồi trên thùng xa đã lấy khăn che bớt khuôn mặt đẹp của mình.Con người, con bò và chiêc đá nặng nề chính là thế giới của chúng ta. Thê giới ây luôn luôn có sự ngự trị của Cái Đẹp. Người đàn bà đẹp là sự ngự trị. ấy.Nếu con người kia ngước lên dù chỉ một làn thôi thì anh ta nhận ra cái Đẹp. Anh sẽ nhạn đươc sự cứu rỗi.” Kiều làm vô lôi – thi tăc của Nguyễn Quang Thiều để thế kỷ sau giải nghĩa mới rò ý tác giả (!). Cung như bài “Những người đàn bà gánh nướs sông” người ta hỏi đư cá thiêng vào có nghĩa gì? Thiều trả lời :”Đó là thời cơ may mắn”
Muốn làm triết học nhưng kiến thức lổ mổ, các khái niêm triết học mù mờ, diễn đạt lủng ca, lủng củng dẫn đên nhiều sai lầm nghiêm trọng tổn hại đên danh dự bàn thân, danh dự gia đình, cha ông, dòng tộc, đất nước, các tổ chức chinh đảng.
Với kiến thức lổ mổ, chắp vá, ít hoc Nguyễn Quang Thiều không nên làm chủ bút!
Đoạn văn đầy Tàu ô như : Hiện đai (現代),hoài nghi (難以置信),thường trưcj (永恆的) tồn tại (存在),bất toàn (不完善),chân thành nhất (最真誠地), tất cả (全部),đạt tời (抵達),đầy đọa (折磨),ma mị(幽靈般的), (thưctế (現實),lừa mị (欺騙), nguy hiểm (危險), vô cùng (極為),tưởng tượng (想像),x bưcchinh (主要的),cưỡng bức (被迫),ảo tưởng (錯覺),hư hỏng (損壞的), ngạo mạn (傲慢的),ngu ngôc (愚蠢的),
thiên nhiên (自然),đồng thời ( 同時地)….
Đ - H
Kỳ 6 :Thông điệp của những ngọn gió

Nguyễn Quang Thiều

 14:41 15/09/2025

NGUYÊN QUANG THIỀU – TÀM VĂN HÓA QUẤ THÂP – HỌC HÀNH LỔ MỔ - KHÔNG NÊN LÀM CHỦ BÚT.(tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Mấy ông công an khi đeo dao găm, súng lục, giày đính, kiếm mác, tua dãi… trông rất hùng dũng;;nhưng khi viết lách thể hiện ý đồ, quan điểm thì lòi lổ hỏng kiên thức vô học rất trầm trọng! Nguyễn Quang Thiều là một người như thế!
Khác những người cùng thế hệ, Thiều dược Công an cho học tiếng Anh tận Cu Ba do Mễ Tây Cơ dạy. Méo mó có hơn không. Về nước làm công an ngoại tuyến (mật vụ). Thiều làm cái gọi là “thơ” – vô lối, được cài caì cắms vào văn nghệ, trở thành “nhà thơ” (thi tăc)! Thiều lamf gims đốc nhà xuất bản Hội nhà văn, có cấu Chủ tịch Hội Nhà văn. Thiều ra cái càng viêt càng sai, chuyên đề Viết & Đọc. Bằng hữu gọi là “tạp chí”! Thế là Thiều tha hồ tung tẩy viêtt mọi thứ. Càng viết càng sai, càng thể hiện cây gdường là cái xa mờỗ mục!
Xin trích dẫn bài”đít cua”, thông điệp “Chúng ta đi qua thiên đường với đôi mắt mù lòa’ in chuyên đề “Viết & Đọc mùa thu 2024”. Bài này co cùng hàng trăm bài như thế hiện tỏ rỏ lổ hỏng trong kiên thức văn chương của Thiều!
Thiên đường là nơi hạnh phúc đạt được trọn vẹn theo quan niệm của Công giáo, cũng như nó đã có hình thù chưa miền cực lac bên đạọ Phật.
"Thiên đường" (hea ven) là một khái niệm chỉ về một thế giới lý tưởng, hạnh phúc và viên mãn, thường được mô tả là nơi cư ngụ của các đấng tối cao, thần tiên, hoặc nơi an nghỉ cuối cùng của những linh hồn tốt đẹp sau khi qua đời. Ngoài ra, từ này còn có thể chỉ một Vườn địa đàng (nơi Adam và Eva cư ngụ).
Thiên đường là cái không có thực trong cuộc đời chỉ có thánh thần may mắn mới lên được. Người cộng sản lạc quan tếu nhất cũng mới nghĩ tới ” thiên đường cộng sản”. Nó đã có hình thù ra sao thi cũng chưa bết!.
Chỉ có ông hót hoc Tố Hữu Việt Nam bốc phét “miền Bắc thiên đường của các con tôi” chứ không phải thiên đường của nhân loại!!. Nay có ông cộng con Nguyễn Quang Thiều mới khẳng định có thật “thiên đường” “Chúng ta đi qua thiên đường vớ bằng đôi mắt mù lòa”! Thật diệu kỳ ‘thiên đường của Nguyễn Quang Thiều đã đi qua, dù di qua với đôi mắt dũ mù lóa!. Thiên đường đã có thật rồi.. Người cộng sản đâu phải vẽ hượu, vẽ vượn!” Ngườ主要的i người đế quốc biêt hay chăng/ Trai đát già nua, ta trẻ măng/ Trai đât ngươi ôm ôm chẳng nổi/ Trời kia ta với tới cung trăng” Vờ òa sung sướng chưa bà con công nông!
“Đã có lần tôi mơ thấy mình bay lơ lững trên cao (高) và nhìn xuống thê gian(.世界) Tôi chăc không chỉ minh tôi mơ như thế.. Và từ trên cao tôi nhìn thây chính (主要)tôi đang進行中)(cùng biêt bao người khác đang chen chuc trên những con đường trên mặt đát . Một cảnh tượng hổn lọạn (混亂)và thật tội nghiệp(職業) hiện ra (出現)trước măt tôi. Khi chúng ta thoát khỏi chúng ta để quay đầu lại nhìn chính (chúng ta, chúng ta mới thật kinh haĩ về những năm chúng ta đã sông và đang sống. Chẳng lẽ chúng ta những kẻ đươc quyền(正正確)cất giữ những giấc mơ đẹp , lại hiện ra thật tồi tệ và đày đọa (折磨) đến như thê kia.
Vì trong đám đông bât tận đang chen chúc , đang nguyền rủa nhau, đang mưu mô, đang độc ác, đang lầm lạc, đang tuyệt vọng, tôi thây dôi mắt đang ngước lên. Họ cầu xin và mơ ước đến Thiên đường(天堂) một ngày nào đó. Và trong những người ngước mắt lên mơ đến một Thiên đường đã có quá nhiều người gục xuống bởi tuyệt vọng vì chính điều họ mơ đên. Họ không đủ kiên nhẫn đợi chờ cái ngày họ được đến Thiên đường.. Họ guc gã trong bóng tôi của vô vọng (絕望)ở phía thẳm xa (邊緣c) húng ta, chỉ cách một lớp áo, một làn da và nói cho đúng hơn thì Thiên đường ở trong lòng bàn tay của chúng ta. Nhưng chúng ta đã không tin vì không nhìn thấy điều ấy….”
Ông Nguyễn Quang Thiều trên ông Mác, ông Ăng ghen, ông Lên nin… hàng triệu cái đầu. Chỉ mở lòng bàn tay Thiên đường đã có rồi. Không phải các ông vô sản đót cháy hêt núi non, thiêu trọi hàng trăm triệu mạng sống mà không thấy “Thiên đường”
Nguyễn Quang Thiều là thần tuyên truyền viên tuyên huấn bịp bợm, láo khoét, ngu độn đến Gơ ben (phát xit Đức) phải gọi bằng Cụ!
P/s: Bài viết ngăn đầy chất Tầu ô, lối câu văn nhan nhản!
Đ – H
Kỳ sau: Hãy ngước mắt lên dù chỉ một lần

Nguyễn Quang Thiều - tầm văn hóa thấp

 09:20 14/09/2025

NGUYÊN QUANG THIỀU – HỌC HÀNH LỔ MỔ - TÀM VĂN HÓA QUẤ THÂP – KHÔNG NÊN LÀM CHỦ BÚT.Đỗ HoàngMấy ông công an khi đeo dao găm, súng lục, giày đính, kiếm mác, tua dãi trông rất hùng dũng;;nhưng khi viết lách thể hiện ý đồ, quan điểm thì lòi lổ hỏng kiên thức vô học rất trầm trọng! Nguyễn Quang Thiều là một người như thế! So với những người cùng thế hệ, Nguyễn Quang Thiều được Công ân cho học tiếng Anh dù là người Mễ Tây Cu Ba dạy. ‘Méo mó có hơn không” Nhưng phong văn hóa của Thiều rất lởm khởm. Thiều qui tập một dàn “vô lối – thi tặc ( 27 ) tên.phá nát thi ca tổ tiên! Thiều viêt:”Bạn phải luôn nghĩ rằng;”Ta sẽ lảm những điều mà trước ta chưa ai làm, ta sẽ làm sẽ làm ra những điều khều khác với những gì ta đã làm”. Đấy chinh là sự can đảm. Đấy chính là bản chât của sáng tạo.. Trong sáng tạo không bao giờ không bao giờ có khái niệm “đi theo’, “làm theo”. Sáng tạo thực sự luôn mang tinh thần độc lập, riêng biết và cô đơn.”Chúng ta kinh trọng và thậm chí tôn thờ Dante, Shakesre, Nguyễn Du như những vị thánh, nhưng đừng sợ hãi họ. Nếu các vỹ nhân làm ra những ngọn núi kỳ vỹ thì bạn hãy làm ra những viên sỏi.Những ngọn núi vỹ đại hơn những viên sỏi nhưng mỗi thứ đều mang vẻ đẹp riêng của mình. Đây chính là sự kỳ vỹ của đời sống và cũng là sự kỳ vỹ của nghệ thuật sáng tạo. Nếu Dante, Shakespere, Nguyễn Du hoàn thiện đên mức trở thành một bức trường thành mà bạn không tìm được lối đi thì sự vỹ đại của họ chính là sự tuyên cáo môt “cái chết” cho nghệ thuật. Nhưng kỳ lạ thay, khi ta nhìn thật sâu vào những tác phẩm vỹ đại của họ , ta lại thấy những cửa lớn rộng lớn đầy gợi mở, đầy cảm hứng và đầy khát khao mở ra cho ta. Đấy là những tác giả và những tác phẩm lớn.(Sáng tạo – Những bước chân của sự can đảm – Viêt &Đọc –chuyên đề mùa xuân năm 2024)Một đọan văn ngắn la lối, sáo rỗng, ba , xu đầy chất Tàu ô, nhiều sai lầm trong học thuật.Tàu ô; sự(事件) can đảm (勇敢) chinh sự(政治) , vị thánh ( 位 聖 ) sáng taọ( 創造), khái niệm (概念) , vỹ nhân (偉人) , kỳ vỹ (壯麗) , nghệ thuât (藝術) , trường thành (擴張) , hóan thiện , (完善) tuyên cáo (宣言), cảm hứng(靈感), khat khao (慾望), tác giả(作者), tác phảm (作品), kỳ lạ (奇怪的). Kiểu viêt của đứa rất kém Lê Quý Đôn nói: ‘người tài giỏi hơn hêt mọi người, mọi thời cũng không chối bỏ dời trước” Trong Tâm lý học sáng taọ, có hiện thực, tưởng tượng mới sáng tạọ.(Từ trưc quan sinh dộng đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thưc tiễn). Có cái đạp bánh gỗ mới cócái xe đạp bánh cao su., co se sim sơn mới có honda,Sh,có sam 1, mới có sam2…có chữ la tinh mới có cho Thiều làm vô lối, tắc tỵ…Với tầm nghĩ quá ngắn như vậy nên Thiều đưa Vi Thùy Linh lên tầm “sư hào” in 7 bài thơ trong Viết & Đocxin trích”số Chuyên dề mùa xuân năm 2024”j tiễn)“Rút ngắn nhất về mình.ViLi là người hiếu triKhông ngừng học học và say mê nghệ thuậtNghệ thuât là nghịp thường hăngY nghĩ và liên tưởngKhi giặt, phơi, gấp đỗKhi tăm đêm để được đăm trong nước lâu hơn khi con ngủKhi đọc sach nghĩ về quyền lưc 24 chữ.Tứng ký tự ghép nhau, tách – nốiĐôc thúc tôi….”Nâng thơ Thi Hoàng lên tầm “Sư Đậu Phụ” của Thiều“Dây phơi nhà ai, chiếc nịt vu thơm lừng , nhìn đã thấy no nê” Lão già 83 tuổi (sinh 1943)Mà mới thấy nịt vú con gái phơi nhà hàng xóm cường dương như thanh niên trẻ khỏe. Bài in trên báo Văn nghệ năm 2923!(còn nữafKỳ sau: “Chúng ta đi qua thiên đường vơi đôi măt mù lòa”

Lão tử

 07:45 11/09/2025

ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
CHƯƠNG 13
YẾM SỈ
厭 恥
Hán văn:
寵 辱 若 驚. (貴) 大 患 若身. 何 謂 寵 辱 若 驚. 寵 為 (上, 辱 為) 下. 得 之 若 驚, 失 之 若 驚. 何 謂 (貴) 大 患 若 身. 吾 所 以 有 大 患 者, 為 吾 有 身. 及 吾 無 身, 吾 有 何 患? 故 貴以 身 為 天 下, 若 可 寄 天 下. 愛 以 身 為 天 下, 若 可 托 天 下.
Phiên âm:
1. Sủng nhục nhược kinh. (Quí) đại hoạn nhược* thân.
2. Hà vị sủng nhục nhược* kinh. Sủng vi (thượng, nhục vi) hạ.. Đắc chi nhược* kinh, Thất chi nhược* kinh.
3. Hà vị (quí) đại hoạn nhược* thân. Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?
4. Cố quí dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả ký thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược* khả thác thiên hạ.
Dịch nghĩa:
1. Vinh, nhục cũng làm lo âu. Sở dĩ hoạn nạn là vì có thân.
2. Tại sao vinh, nhục đều làm lo âu? Vinh là ở ngôi cao, nhục là ở địa vị thấp. Được cũng lo, mất cũng lo. Vì thế nên nói: Vinh nhục đều lo.
3. Tại sao nói: «Hoạn nạn là vì có thân?» Ta sở dĩ phải lo âu nhiều, chính vì ta có thân. Nếu không có thân, ta đâu có lo !
4. Cho nên ai quí thiên hạ hơn thân mình, thì có thể đem thiên hạ giao phó cho, ai yêu thiên hạ hơn thân mình, thì có thể gửi gắm thiên hạ cho họ được.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Có vinh nhục đều thường lo lắng
Ngôi cao, hèn đều đáng âu lo
Mất thì hoạn nạn tẽn tò,
Vinh hoa cũng bị một bồ dao đâm!
Họa phúc là vì có thân
Không thân thì cũng chẳng cần điều chi.
Nên ai yêu quý chỉ vì thiên hạ
Thì nên đem tất cả trao cho.
Ai coi thiên hạ trời to
Giao thiên hạ hết chẳng lo việc gì!

Ngục trung nhật ký (trichs)

 07:42 11/09/2025

入靖西縣獄
獄中舊犯迎新犯,
天上晴雲逐雨雲。
晴雨浮雲飛去了,
獄中留住自由人。
Nhập Tĩnh Tây huyện ngục
Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm
Thiên thượng tình vân trục vũ vân
Tình vũ phù vân phi khứ liễu
Ngục trung lưu trú tự do nhân
Dịch nghĩa
Trong ngục tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa.
Mây tạnh, mây mưa, mấy đám mây nổi bay đi hết,
Chỉ còn lại người tự do trong ngục.
Tĩnh Tây là một huyện thuộc Quảng Tây, gần biên giới Trung - Việt. Tác giả bị bắt ở huyện Thiên Bảo cách Tĩnh Tây khá xa nhưng lại bị đưa ngược về Tĩnh Tây giam giữ.
Đỗ Hoàng dịch:
Trong lao tù cũ đón tù mới
Trên trời mây trắng rượt mây tro
Mây tro, mây trắng đều xua hết
Trong tù chỉ có khách tự do!

Trich "Binh Ngô đại cao"

 07:47 10/09/2025

平吳大告 (Nguyễn Trãi - 阮廌)
Ltg: - Nước ta hiện có 27 tên trùm Sò Thi tặc.Chúng ngu độn , dốt nát tiếng Việt, cách dùng tiếng Việt, làm ra một thứ sản phẩm goi là “thơ” nhưng như chó tru, mèo mửa! Đứng đầu danh sách Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Trần Hùng, Thi Hoàng, Tuyêt Nga, Phạm Đương, Hoàng Vũ Thuật, Mai Văn Phấn, Thanh Tùng, Đinh Thị Như Thúy
Xin trich thơ không vần của cha ông!
奈以:
人才秋葉,
俊傑晨星。
奔走先後者既乏其人,
謀謨帷幄者又寡其助。
特以救民之念,每鬱鬱而欲東;
故於待賢之車,常汲汲已虛左
然其:
得人之效茫若望洋,
由己之誠甚於拯溺。
憤兇徒之未滅,
念國步之遭迍。
靈山之食盡兼旬,
瑰縣之眾無一旅。
蓋天欲困我以降厥任,
故與益勵志以濟于難。
揭竿為旗,氓隸之徒四集
投醪饗士,父子之兵一心。
以弱制彊,或攻人之不備;
以寡敵眾常設伏以出hj奇
Đỗ Hoàng dich thơ
Lại khó vì:
Nhân tài như lá mùa thu,
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi màn trướng hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.(còn nữa)
Đỗ Hoàng

Ngục trung nhật ký

 07:33 05/09/2025

入靖西縣獄
獄中舊犯迎新犯,
天上晴雲逐雨雲。
晴雨浮雲飛去了,
獄中留住自由人。
Nhập Tĩnh Tây huyện ngục
Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm
Thiên thượng tình vân trục vũ vân
Tình vũ phù vân phi khứ liễu
Ngục trung lưu trú tự do nhân
Dịch nghĩa
Trong ngục tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa.
Mây tạnh, mây mưa, mấy đám mây nổi bay đi hết,
Chỉ còn lại người tự do trong ngục.
Tĩnh Tây là một huyện thuộc Quảng Tây, gần biên giới Trung - Việt. Tác giả bị bắt ở huyện Thiên Bảo cách Tĩnh Tây khá xa nhưng lại bị đưa ngược về Tĩnh Tây giam giữ.
Đỗ Hoàng dịch:
Trong lao tù cũ đón tù mới
Trên trời mây trắng rượt mây tro
Mây tro, mây trắng đều xua hết
Trong tù chỉ có khách tự do!

Thơ Tào Tùng

 15:18 03/09/2025

曹松 NHÀ THƠ ĐỜI ĐƯỜNG
Đỗ Hoàng
(3 bài thơ)
Kỷ Hợi tuế nghĩa là năm Kỷ Hợi. Năm Kỷ Hợi nói trong bài thơ của Tào Tùng là năm dương lịch 879, thời vua Hy Tông nhà Đường. Lúc nầy nhà Đường bên Tàu xảy ra loạn Hoàng Sào. Còn ở Việt Nam, theo Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ thì đây cũng là thời điểm mà Hào trưởng vùng Chu Diên (Hải Dương bây giờ) là Khúc Thừa Dụ, ông đã cùng dân chúng nổi dậy, chiếm giữ thành Đại La, thủ phủ của Tỉnh Hải Quận (tên gọi đất Việt thời Đường Hy Tông). Năm 880 Khúc Thừa Dụ tự xưng làm Tiết độ sứ Tỉnh Hải Quận, đặt nền móng cho việc kết thúc ngàn năm Bắc thuộc, thoát khỏi ách đô hộ của Trung Hoa.

Tào Tùng 曹松 người An Huy nhà Đường. Bài thơ Kỷ Hợi Tuế của ông như sau :
己亥歲(僖宗廣明元年)

澤國江山入戰圖,
生民何計樂樵蘇。
憑君莫話封侯事,
一將功成萬骨枯。
KỶ HỢI TUẾ
(Hy Tông - Quảng Minh nguyên niên)
Trạch quốc giang sơn nhập chiến đồ
Sinh dân hà kế lạc tiều tô
Bằng quân mạc thoại phong hầu sự
Nhất tướng công thành vạn cốt khô
Do bài thơ được viết vào năm Quảng Minh nguyên niên (năm 880), nên có một vài từ mang ngữ nghĩa cổ :
- “Trạch quốc” nghĩa là Vùng sông nước. Ngày xưa gọi, chỉ vùng đất Giang Nam (phía Nam sông Trường giang).
- “Tiều tô” nghĩa là Mót củi, Cắt cỏ. Theo liệt truyện Hoài Âm Hầu trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, có câu Tiều tô hậu thoán, sư bất túc bão (Mót củi cắt cỏ mà nấu ăn, quân lính không đủ no).
Đỗ Hoàng dịch nghĩa bài thơ :
NĂM KỶ HỢI
(Hy Tông, niên hiệu Quảng Minh năm thứ nhất)
Non sông xứ Trạch đã rơi vào chiến trnh loạn lạc
Dân không còn kế sinh nhai và cảnh vui thú nhặt củi, hái rau
Xin anh đừng nói chi chuyện phong hầu, thăng quan tiến chức
Một người đươc lên tướng thì có vạn người ngoài chiến trường phơi xương trắng
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Xứ Trach núi sông bãi chiến trường
Dân tình sinh kế quá tang thương.
Xin anh đừng nói phong hầu nữa.
Một tướng đeo hàm muôn nắm xương!
Nhà Đường bên Tàu do Đường Cao Tổ - Lý Uyên kiến lập vào năm 618. Đến năm 907 thì chấm dứt triềuột tướng đeo hàm đại, khi mà các thế lực địa phương nhân loạn lạc đã không tuân phục triều đình, đã cát cứ địa phương mình, hình thành nên giai đohj, núi sông bãi chiến trường.ạn 5 triều đại, 10 nước (Ngũ đại Thập quốc) từ năm 907 đến 979 trong sử Trung Hoa.
Nhà Đường là triều đại cực thịnh về mọi mặt, nhưng cũng là triều đại hết đem binh tảo Bắc, chinh Đông, rồi lại chinh Tây. Loạn lạc trong nước cũng luôn xảy ra. Đời Đường Huyền Tông xảy ra loạn An Lộc Sơn, kéo dài từ năm 755 đến 763. Chiến trận ác liệt đã khiến vua cũng phải rời kinh đô, đem Dương Quý Phi chạy vào đất Thục lánh nạn. Người dân sống giữa binh đao, đầy cơ cực. Trong khi đó quyền thần, ngoại thích như Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung… đấu đá nhau, tạo nên các phe phái trong triều chỉ nhằm giành giật tư lợi, quyền lực, cầm quyền mà không vì quốc thái dân an. Thành thử người dân hiếm được có thời gian an lành, ngơi nghỉ. Ước mơ vui sống chỉ bằng việc mót củi, hái rau của họ thật nhỏ nhoi, nhưng cũng quả thật là to lớn.
Năm 875, trước áp chế của triều đình giành độc quyền bán muối, thương nhân bán muối người Sơn Đông là Hoàng Sào đã tập hợp người dân nổi dậy, thực hiện khí chất vốn có của ông :
Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng
Nhất trạo giang hồ tận địa duy
Nửa vai cung kiếm tung hoành trời đất / Một mái chèo đi khắp cả sông hồ. Cụ Nguyễn Du của ta đã mượn tứ nầy mà thảo nên câu thơ “Giang hồ quen thói vẫy vùng / Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” trong truyện Kiều.
Năm 879, binh Hoàng Sào tiến công Quảng Châu. Đây là bối cảnh ra đời bài thơ Kỷ Hợi Tuế của Tào Tùng.
Bài thơ đã nói lên mơ ước sống yên lành, nhỏ nhoi của người dân trong xã hội vốn đã cơ cực. Nhưng người dân cũng đã nhận chân ra khi lâm cảnh binh đao, họ là người trước tiên đứng trước đầu đạn mũi tên. Chiến đấu cho thế lực nào, đứng về phía triều đình, hay đứng về phía quân nổi dậy, họ cũng chỉ là người phải đụt pháo, xông tên. Đã từng quen với loạn lạc, binh đao, họ rõ rằng thế lực nào khi kết thúc cuộc chiến đều cũng chăm chăm những việc lo cho tư lợi, quyền lực của họ. “Bằng quân mạc thoại phong hầu sự”. Đã hiểu được thân phận của dân đen, của những kẻ khốn cùng, đã thấu hiểu sự đời, xin đừng nói là chiến đấu, lăn xả trước hàng quân để hòng được thăng quan tiến chức, nhận tước phong hầu.
Nếu được phong quan phong tướng, thì trước những khốc liệt của binh đao, ngồn ngộn mối cảm xúc trước hình ảnh những đồng đội phải nằm xuống, với cái nhìn nhân bản về cuộc sống… phải rõ rằng chức quan, hàm tướng nầy có được, chỉ một kẻ được nên danh, trong khi đó ngoài chiến trường hàng vạn ngàn xương trắng phơi khô. “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” là tiếng kêu thảng thốt của người Giang Nam vào năm Kỷ Hợi 879 trước loạn Hoàng Sào.
Cũng những tháng năm nầy, Khúc Thừa Dụ ở Giao Châu ta cũng làm cuộc binh biến giành quyền tự chủ cho đất nước. Văn thơ, sách sử của ta truyền lại không cho thấy tâm tình của dân tộc trước sự kiện đặt nền móng giành độc lập đó. Năm nhà Minh đánh chiếm Việt Nam, đền đài, sách vở… của người Việt đều bị phá hủy, đốt sạch, hoặc thu mang về Tàu, đã làm phai mờ dấu tích văn hóa của Việt Nam..
Bây giờ chỉ còn biết dựa vào chi tiết năm 906, vua nhà Đường phải chính thức công nhận, phong cho Khúc Thừa Dụ làm Tỉnh Hải Quận Tiết độ sứ. Điều nầy cho phép ta hình dung ra được nỗi vui mừng của người dân trước sự kiện người Việt ta làm chủ lấy ta. Và cũng hình dung ra được với tâm tình vốn cùng tộc Bách Việt với người Giang Nam, người Việt cũng có thể đã có chung cái nhìn “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” trong bài thơ Năm Kỷ Hợi của Tào Tùng. Cái nhìn nhân bản đối với sinh linh trước khói lửa binh đao.

Lão tử

 07:40 03/09/2025

CHƯƠNG 12
KIỂM DỤC
檢 欲
Hán văn:
五 色 令 人 目 盲. 五 音 令 人 耳 聾. 五 味 令 人 口 爽. 馳 騁 田 獵 令 人 心 發 狂. 難 得 之 貨, 令 人 行 妨. 是 以 聖 人 為 腹 不 為 目. 故 去 彼 取 此.
Phiên âm:
1. Ngũ sắc lịnh nhân mục manh..Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng.. Trì sính, điền liệp lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa, lịnh nhân hành phương.
2. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục. Cố khứ bỉ thủ thử.
Dịch nghĩa:
1. Năm màu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của cải khó được, khiến người bị tai hại.
2. Bởi vậy, thánh nhân vì bụng không vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Năm màu sắc làm cùng mù mắt
Năm tiếng kêu người đặc điếc tai.
Năm mùi lưỡi liếm lè dài
Ruổi rong săn bắn người tài hóa điên
Của cải kho, người thêm bị hại
Thánh nhân thường kinh hãi bụng mình
Thường tâm coi trọng mắt nhìn
Chọn hay loại bỏ phải tinh tận tường..

Nguc trung nhật ký

 07:36 03/09/2025

在足榮街被扣留
足榮卻使余蒙辱,
故意遲延我去程。
間諜嫌疑空捏造,
把人名譽白犧牲。
Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu
Túc Vinh khước sử dư mông nhục,
Cố ý trì diên ngã khứ trình.
Gián điệp hiềm nghi không niết tạo,
Bả nhân danh dự bạch hy sinh.
Dịch nghĩa
Phố tên Túc Vinh mà khiến ta mang nhục,
Cố ý làm chậm trễ hành trình của ta.
Bày đặt ra trò tình nghi gián điệp,
Không dưng làm mất danh dự của người.
Túc Vinh là tên một phố ở thị trấn huyện Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, nơi tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt ngày 29/08/1942. Câu đầu bài thơ còn ngụ ý chơi chữ, lấy “mông nhục” (mang nhục) đối lại với “túc vinh” (đủ vinh), làm tăng ý nghĩa mỉa mai hài hước việc bắt người vô lý
Đỗ Hoàng dịch:
Bị băt ở phố Túc Vinh
Túc Vinh mà mình ta mang nhục
Cố ý làm chậm bước chân ta
Bày đặt ra trò nghi gián điệp
Làm mất danh dự trước muôn nhà

Lão Tử

 07:05 30/08/2025

CHƯƠNG 13
YẾM SỈ
厭 恥
Hán văn:
寵 辱 若 驚. (貴) 大 患 若身. 何 謂 寵 辱 若 驚. 寵 為 (上, 辱 為) 下. 得 之 若 驚, 失 之 若 驚. 何 謂 (貴) 大 患 若 身. 吾 所 以 有 大 患 者, 為 吾 有 身. 及 吾 無 身, 吾 有 何 患? 故 貴以 身 為 天 下, 若 可 寄 天 下. 愛 以 身 為 天 下, 若 可 托 天 下.
Phiên âm:
1. Sủng nhục nhược kinh. (Quí) đại hoạn nhược* thân.
2. Hà vị sủng nhục nhược* kinh. Sủng vi (thượng, nhục vi) hạ.. Đắc chi nhược* kinh, Thất chi nhược* kinh.
3. Hà vị (quí) đại hoạn nhược* thân. Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?
4. Cố quí dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả ký thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược* khả thác thiên hạ.
Dịch nghĩa:
1. Vinh, nhục cũng làm lo âu. Sở dĩ hoạn nạn là vì có thân.
2. Tại sao vinh, nhục đều làm lo âu? Vinh là ở ngôi cao, nhục là ở địa vị thấp. Được cũng lo, mất cũng lo. Vì thế nên nói: Vinh nhục đều lo.
3. Tại sao nói: «Hoạn nạn là vì có thân?» Ta sở dĩ phải lo âu nhiều, chính vì ta có thân. Nếu không có thân, ta đâu có lo !
4. Cho nên ai quí thiên hạ hơn thân mình, thì có thể đem thiên hạ giao phó cho, ai yêu thiên hạ hơn thân mình, thì có thể gửi gắm thiên hạ cho họ được.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Có vinh nhục đều thường lo lắng
Ngôi cao, hèn đều đáng âu lo
Mất thì hoạn nạn tẽn tò,
Vinh hoa cũng bị một bồ dao đâm!
Họa phúc là vì có thân
Không thân thì cũng chẳng cần điều chi.
Nên ai yêu quý chỉ vì thiên hạ
Thì nên đem tất cả trao cho.
Ai coi thiên hạ trời to
Giao thiên hạ hết chẳng lo việc gì!

Nguc trung nhật ký

 06:54 30/08/2025

學奕棋
閑坐無聊學奕棋,
千兵萬馬共驅馳。
進攻退守應神速,
高才疾足先得之。

眼光應大心應細,
堅決時時要進攻。
錯路雙車也沒用,
逢時一卒可成功。

雙方勢力本平均,
勝利終須屬一人。
攻守運籌無漏著,
才稱英勇大將軍。

Học dịch kỳ
Nhàn toạ vô liêu học dịch kỳ,
Thiên binh vạn mã cộng khu trì;
Tấn công thoái thủ ưng thần tốc,
Cao tài tật túc tiên đắc chi.

Nhãn quang ưng đại tâm ưng tế,
Kiên quyết thời thời yếu tấn công.
Thác lộ song xa dã một dụng,
Phùng thời nhất tốt khả thành công?

Song phương thế lực bản bình quân,
Thắng lợi chung tu thuộc nhất nhân;
Công thủ vận trù vô lậu trước,
Tài xưng anh dũng đại tướng quân.
Dịch nghĩa
Ngồi trong giam cấm buồn tênh, học đánh cờ,
Nghìn quân muôn ngựa cùng rong ruổi;
Tấn công, lui giữ đều phải thần tốc,
Tài cao, chân nhanh mới được nước trước.

Tầm nhìn phải rộng, suy nghĩ phải sâu,
Phải kiên quyết, luôn luôn tấn công;
Lạc nước, hai xe cũng thành vô dụng,
Gặp thời, một tốt có thể thành công.

Thế lực hai bên vốn ngang nhau,
Kết cục thắng lợi thuộc về một người;
Tính kế đánh hay giữ không sơ hở,
Mới xứng là bậc đại tướng anh dũng.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Trong tù buồn lắm học cờ chơi.
Muôn ngựa nghìn xe rong ruỗi hoài.
Tân công, thoái thủ rất nhanh ứng.
Tài lớn, trí nhanh mới thắng người.

Mắt nhìn phải rộng , tâm suy kỷ
Kiên quyết chẳng dừng thế tấn công
Lạc nước hai xe đều uổng phí
Đươc thời một tốt gặp thành công

Thế lưc hai bên rất cân trời
Thắng lợi thì nghiêng chỉ một người
Công thủ diệu kỳ lo liệu trước
Đại tướng hùng anh bậc tuyệt vời
Lão Tử

Lão Tử

 14:21 28/08/2025

ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬLtg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!Đõ Hoàng CHƯƠNG 12KIỂM DỤC檢 欲Hán văn:五 色 令 人 目 盲. 五 音 令 人 耳 聾. 五 味 令 人 口 爽. 馳 騁 田 獵 令 人 心 發 狂. 難 得 之 貨, 令 人 行 妨. 是 以 聖 人 為 腹 不 為 目. 故 去 彼 取 此.Phiên âm:1. Ngũ sắc lịnh nhân mục manh..Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng.. Trì sính, điền liệp lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa, lịnh nhân hành phương.2. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục. Cố khứ bỉ thủ thử.Dịch nghĩa:1. Năm màu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của cải khó được, khiến người bị tai hại.2. Bởi vậy, thánh nhân vì bụng không vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.Đỗ Hoàng dịch thơ:Năm màu sắc làm cùng mù mắtNăm tiếng kêu người đặc điếc tai.Năm mùi lưỡi liếm lè dàiRuổi rong săn bắn người tài hóa điênCủa cải kho, người thêm bị hạiThánh nhân thường kinh hãi bụng mìnhThường tâm coi trọng mắt nhìnChọn hay loại bỏ phải tinh tận tường..

Ngục trung - Vãn

 14:10 28/08/2025

Ngục trung nhật ký là tập thơ gồm các bài chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943 dưới dạng một quyển sổ tay nhỏ. Tác phẩm được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay tác phẩm đã được xuất bản nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật... Ngày 1-10-2012, thủ tướng đã ra quyết định công nhận đây là bảo vật quốc gia. Tôi dịch thơ Hồ Chí Minh khi học chữ Hán ở trường trung học và khi ra công tác. Đây là ghi chép nhật ký nôm na, đơn giản. Khi trừng trải thấy ý nghĩ lớn lao, có nhiều bài rất hay.Giới thiệu để bạn đọc tham khảo! – Đỗ Hoàng

晚餐吃了日西沉,
處處山歌與樂音。
幽暗靖西禁閉室,
忽成美術小翰林。
Vãn
Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm,
Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm.
U ám Tĩnh Tây cấm bế thất,
Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm.
Dịch nghĩa
Cơm chiều xong, mặt trời lặn về tây,
Khắp nơi, rộn tiếng ca dân dã và tiếng nhạc;
Nhà ngục u ám huyện Tĩnh Tây,
Bỗhg thành một viện hàn lâm nghệ thuật nhỏ
Đỗ Hoàng dịch thơ::
Cơm xong, trời xuống hết tầng râm
Chốn chốn chim ca, rộn tiếng ngâm
Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối.
Bỗng thành quán nhỏ viện hàn lâm!

Tác giả Lý Âu Phàm

 14:14 26/08/2025

iểu sử tác giả • • • • • •
Lý Âu Phàm (Leo Ou-fan Lee), sinh năm 1939 tại Hà Nam, tốt nghiệp Khoa Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Đài Loan và nhận bằng Tiến sĩ tại Đại học Harvard. Ông từng giảng dạy tại Đại học Chicago,(芝加哥)Đại học Indiana, (印第安納州)Đại học Princeton,(普林斯頓)Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông và Đại học Harvard. Hiện ông là Giáo sư Danh dự ngành Nghiên cứu Đông Á tại Đại học Harvard, Giáo sư Chủ nhiệm tại Đại học Trung Văn Hồng Kông, và là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc. Ông là tác giả của các tác phẩm "Tiếng thét từ Nhà Sắt", "Thượng Hải Hiện đại", "Mặt khác của Tây triều" và "Diễn văn từ Hố Cáo", cùng nhiều tác phẩm khác.
Lời tựa bản dịch tiếng Trung
Phần I: Bối cảnh
Chương 1: Sự xuất hiện của giới văn chương
Phần 2: Giới văn chương và hiện tượng văn nhân
Chương 3: Lâm Thư
Chương 4: Tô Mạn Thư
(Xem thêm)
Trích đoạn từ nguyên tác
(Tất cả)
Tôi sẽ tìm kiếm người bạn tâm giao duy nhất của mình trong biển người mênh mông; nếu tìm được, tôi sẽ gặp may; nếu không, đó là số phận của tôi, không gì hơn. (Xem nguyên tác)
— Trích từ trang 137
Khi Hồ Thích chỉ ra lỗi sai trong tiếng Đức của Dư Đại Phu, Dư Đại Phu trở nên chán nản và tức giận, thậm chí còn nghĩ đến việc tự tử. Từ đó, mâu thuẫn giữa hai phe phái bắt đầu. Tuy Dư Đại Phu không đủ can đảm nhảy xuống sông Hoàng Phố, nhưng ông đã viết một bài phản bác. (Xem văn bản gốc) (còn nữa)
Đỗ Hoàng theo Tân Hoa Xã.

Nhà ần 1văn hiện đại Trung Quốc - phần 1

 15:22 25/08/2025

Nhà văn Đương đại Trung Quốc
Phần Một
Ba Kim (1904-2005) là một nhà văn hiện đại nổi tiếng. Tên khai sinh là Lý Diệu Đường, được biết đến với bút danh Ba Kim, ông sinh ra tại Thành Đô, Tứ Xuyên. Tiểu thuyết đầu tay của ông, "Hủy Diệt", được xuất bản năm 1928. Sau đó, ông viết các tiểu thuyết "Bộ ba Tình yêu": "Sương mù", "Mưa" và "Sét"; và "Bộ ba Dòng nước lũ": "Gia đình", "Xuân" và "Thu". Ông đoạt Giải thưởng Quốc tế Dante năm 1982. Ba Kim từng là Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc và Hội Nhà văn Thượng Hải.
Đỉnh Linh (1904-1986) là một nữ nhà văn hiện đại. Tên khai sinh là Khương Vỹ, còn được gọi là Khương Bỉnh Chi, bà sinh ra tại Lâm Lệ, Hồ Nam. Các tác phẩm tiêu biểu của bà bao gồm "Nhật ký của Tiểu thư Sophia" và "Mặt trời chiếu trên sông Tanggan". Năm 1951, tác phẩm "Mặt trời chiếu trên sông Tanggan" đã giành giải nhì Giải thưởng Văn học
Triệu Thục Ly (1906-1970) là một tiểu thuyết gia hiện đại đến từ huyện Tần Thủy, tỉnh Sơn Tây. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm tiểu thuyết "Những biến động ở Lệ Gia Trang" và "Tam Lý Loan"; truyện vừa "Bài diễn thuyết của Lý Hữu Tài"; và các truyện ngắn "Tiểu Nhị Hắc lấy vợ" và "Lễ nhập tịch". Các tác phẩm của ông mang đậm dấu ấn địa phương và được biết đến với tên gọi "Trường phái Sơn Diệu Đan".
Chu Lập Ba (1908-1979), một nhà văn hiện đại, tên thật là Chu Thiệu Nghĩa, quê ở Ích Dương, Hồ Nam. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm tiểu thuyết "Bão táp", tác phẩm đã giành Giải thưởng Văn học Stalin. Sau khi giải phóng, ông tham gia sản xuất bộ phim màu "Trung Quốc Giải phóng", bộ phim mà ông một lần nữa được trao Giải thưởng Stalin. Ông cũng viết tiểu thuyết "Sắt chảy" và "Những biến động lớn ở các bản miền núi". Truyện ngắn "Một đêm trên sông Tương Giang" của ông đã giành giải nhất trong Cuộc thi truyện ngắn năm 1979. Ai Qing (1910-1996) là một nhà thơ hiện đại. Tên thật của ông là Jiang Haicheng. Ông đến từ Kim Hoa, Chiết Giang. Ông gia nhập "Liên minh các nghệ sĩ cánh tả của Trung Quốc" vào năm 1932 và bị bắt cùng năm đó. Năm 1936, ông xuất bản tập thơ đầu tiên của mình, "Dòng sông Đại Nghiên". Bài thơ dài "Dòng sông Đại Nghiên - Vú em của tôi" là tác phẩm nổi tiếng của ông. Trong Chiến tranh chống Nhật, ông đã viết những bài thơ dài "Hướng về mặt trời" và "Ngọn đuốc". Sau khi giải phóng, ông đã viết "Trên đỉnh sóng" và "Tụng ca ánh sáng". Tôn Lệ (1913-2002 là một nhà văn hiện đại. Tên thật của ông là Tôn Thục Huân. Ông đến từ huyện Bình An, tỉnh Hà Bắc. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm tiểu thuyết "Bão táp khởi đầu", truyện vừa "Thiết Mộc", truyện ngắn "Ao sen"; và tập tiểu thuyết và tiểu luận "Bạch Dương Điếm biên niên sử". Các tiểu thuyết của ông tràn đầy cảm xúc thơ mộng và được mệnh danh là "tiểu thuyết thơ".
Từ Trì (1914-1996) là một nhà thơ và nhà văn phóng sự hiện đại. Tên thật của ông là Từ Cao Thọ, quê ở Vũ Hưng, tỉnh Chiết Giang. Những tác phẩm đầu tay của ông bao gồm tập thơ "Hai Mươi Tuổi" và tập văn xuôi "Những Bài Văn Đẹp". Sau khi giải phóng, ông viết các tập truyện ngắn "Người Thời Đại" và "Tiệc Mừng". Tập phóng sự "Giả thuyết của Kim Bách" xuất bản năm 1978 là một tác phẩm tri ân Hội nghị Khoa học Quốc gia.
Hạ Kính Chi (1924-) là một nhà thơ và nhà viết kịch đến từ huyện Nghi, tỉnh Sơn Đông. Năm 1942, ông và Đinh Nghị đồng sáng tác vở opera mới "Tóc Trắng Thiếu Nữ", tác phẩm đoạt Giải thưởng Văn học Stalin năm 1951. Sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ông đã viết những bài thơ nổi tiếng như "Trở về Diên An", "Hát vang" và "Cửa sổ tàu Tây".
Nhà văn thời đại mới (Hậu Cải cách và Mở cửa)
Mạc Ngôn trở thành người Trung Quốc đầu tiên đoạt giải Nobel, mang lại vinh quang cho đất nước. Tại sao ông lại bị cư dân mạng gọi là "phản quốc"?
Mạc Ngôn (1955-) là một nhà văn đương đại nổi tiếng đến từ Cao Mật, tỉnh Sơn Đông. Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Nhà văn Trung Quốc khóa VI, Ủy viên Đoàn Chủ tịch khóa VII và Phó Chủ tịch khóa VIII. Ông bắt đầu xuất bản tác phẩm của mình vào năm 1981. Ông gia nhập Hội Nhà văn Trung Quốc vào năm 1985. Ông đã viết "Tuyển tập Mạc Ngôn" (12 tập) và nhiều kịch bản phim điện ảnh, truyền hình và kịch. Truyện vừa "Cao lương đỏ" của ông đã giành được Giải thưởng Tiểu thuyết Quốc gia, "Ngực to và hông rộng" đã giành được Giải thưởng Văn học "Đại Giáp" đầu tiên, "Cú đu của chó trắng" đã giành được Giải thưởng Văn học Liên hợp Đài Loan, "Vùng rượu" (bản tiếng Pháp) đã giành được Giải thưởng Jules Bartaillon của Pháp, "Cái chết gỗ đàn hương" đã giành được Giải thưởng Văn học Định quân đầu tiên, Giải thưởng Mười cuốn sách hay nhất của Đài Loan United Daily News và cũng đã giành được Giải thưởng Văn học Quốc tế Nonino lần thứ 30 tại Ý. Vào tháng 8 năm 2011, tiểu thuyết "Ếch" của ông đã giành được Giải thưởng Văn học Mao Thuần lần thứ 8. Vào tháng 10 năm 2012, ông đã giành được Giải thưởng Nobel Văn học
Vương Mạnh (1934-), một nhà văn đương đại đến từ Bắc Kinh. Tác phẩm đầu tay của ông là tiểu thuyết "Tuổi trẻ muôn năm". Truyện ngắn "Chàng trai trẻ đến Ban Tổ chức" của ông có sức ảnh hưởng lớn. Ông đã xuất bản hơn 30 tác phẩm từ năm 1976 đến năm 1981. Trong số đó, "Quý giá nhất", "Trái tim cỏ bất tận" và "Tiếng nói mùa xuân" lần lượt giành Giải thưởng Truyện ngắn xuất sắc toàn quốc năm 1978, 1979 và 1980. Truyện vừa "Bướm bay" đã giành Giải thưởng Truyện ngắn xuất sắc toàn quốc
Thiết Ninh (1957-), sinh ra tại Bắc Kinh, quê hương tổ tiên ở Hà Bắc. Bà bắt đầu xuất bản tác phẩm văn học vào năm 1975. Các tác phẩm chính của bà bao gồm bốn tiểu thuyết "Cổng hoa hồng", "Người tắm lớn" và "Hoa ngốc", hơn 100 truyện vừa và truyện ngắn, bao gồm "Ôi, Hương Tuyết", "Đêm thứ mười hai", "Áo đỏ không cài cúc", "Đối diện" và "Vĩnh viễn xa xôi", cùng các bài luận và tiểu luận với tổng số hơn 4 triệu chữ. Bà đã xuất bản hơn 50 tiểu thuyết và tiểu luận.
Lý Thánh Giá (1935-2017), một nhà văn song ngữ đương đại, sinh ra ở Nam Kinh và lớn lên ở Thượng Hải. Sinh ra trong gia đình họ Lý ở Hàng Châu, một gia đình trí thức nổi tiếng, ông đã có thể viết câu đối từ năm sáu tuổi, sáng tác thơ từ năm tám tuổi và viết những bài báo hay bằng cả tiếng Trung và tiếng Anh khi còn là một thiếu niên. Các tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu sắc, trong đó có "Xem thủy triều: Thương tiếc Thủ tướng Chu Ân Lai", "Nghĩ về Thủ tướng Chu tháng Chín năm Quý Châu", "Hoàn Tây Sa: Mơ về hoa sen ở Khúc Nguyên mùa hè năm Gia Húc", "Thăm đền Lý và Hàng vào mùa xuân năm Tân Mậu", "Thăm đền Lý và Hàng nhưng không tìm thấy mộ Lý", "Suy nghĩ về việc xem thủy triều" và "Hái lá dâu: Tứ ca trên Tây Hồ" được công nhận là những tác phẩm kinh điển trong thơ ca đương đại. Ông là tác giả của truyện ngắn tiếng Anh "Ký ức Thượng Hải", chuyên mục tiếng Anh "Chuyên mục Lý Sinh Kiều", "Thơ Lý Sinh Kiều", "Gió xuân mưa cho Lưu Trạch Vinh", và "Hoàng hôn cô đơn, hương hoa mai vương vấn".
Tìm hiểu về nhà văn Lưu Tân Vũ trong một phút
Lưu Tân Vũ (1942-), một nhà văn đương đại, sinh ra tại Thành Đô, Tứ Xuyên. Ông bắt đầu xuất bản tác phẩm của mình vào năm 1977. Ông gia nhập Hội Nhà văn Trung Quốc vào năm 1979. Ông đã viết các truyện ngắn như "Giáo viên", "Tôi yêu từng chiếc lá xanh", "Bức tường đen", "Răng trắng", các truyện vừa như "Như Ý", "Cầu giao lộ ba chiều", "Tiểu Đôn Tử", các tiểu thuyết như "Chuông và Tháp Trống", "Tứ Môn", "Thi Phong Lâu", "Gió qua tai", và các tác phẩm tài liệu như "Mười chín tháng Năm Long Shot", "Xe buýt Aria", và "Tuyển tập của Lưu Tân Vũ" trong tám tập. Truyện ngắn "Giáo viên" của ông đã giành giải nhất của Giải thưởng Truyện ngắn Quốc gia năm 1978, và tiểu thuyết "Chuông và Tháp Trống" của ông đã giành giải thưởng Văn học Mao Thuần lần thứ hai.
Giả Bình Ao (1952-), một nhà văn đương đại, sinh ra ở Đan Phong, Thiểm Tây. Ông bắt đầu làm biên tập viên văn học và nhà văn vào năm 1975. Ông gia nhập Hội Nhà văn Trung Quốc vào năm 1979. Ông đã viết "Tuyển tập Giả Bình Ao" (26 tập). Các tác phẩm chính của ông bao gồm tiểu thuyết "Thành phố hoang", "Tần kịch", "Lò cổ", "Cùng đèn", "Lão diễn viên", "Vui vẻ", "Cực hoa", v.v., truyện vừa "Hắc thị", "Mai Tuyết đế", "Người lợn", v.v., và các tập văn xuôi "Thương Châu tam lục", "Gõ cửa", "Thời tiết", "Cổ Tây An", "Định Tây ký", v.v. "Tần kịch" đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ 7, Giải thưởng Tiểu thuyết Trung Quốc Thế giới lần thứ nhất "Mộng Hồng Lâu" và Giải thưởng Truyền thông Văn học Trung Quốc lần thứ 4. "Tuyển tập truyện dài Giả Bình Ao" đã giành Giải thưởng Văn học Lỗ Tấn. "Trăng tròn" đã giành Giải thưởng Truyện ngắn Xuất sắc Toàn quốc. "Tháng Mười Hai và tháng Một" đã giành được Giải thưởng Tiểu thuyết xuất sắc toàn quốc. "Dấu vết tình yêu" đã giành được Giải thưởng Tập văn xuôi xuất sắc toàn quốc. "Thành phố hoang tàn" đã giành được Giải thưởng Văn học Femina của Pháp. "Bốc đồng" đã giành được Giải thưởng Văn học Mobil Pegasus của Mỹ.
Trương Tiên Lượng (1936-2014), một nhà văn đương đại, sinh ra ở Nam Kinh. Ông gia nhập Hội Nhà văn Trung Quốc vào năm 1980. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Linh hồn và xác thịt", "Chuyện của lão già Hình và con chó", "Hậu duệ của dòng sông", "Nửa người đàn ông là một người phụ nữ", "Cây xanh", "Đã quen với cái chết", "Cây bồ đề của tôi", "Tuổi thanh xuân", và tiểu luận chính trị văn học dài "Tiểu thuyết Trung Quốc".
Lưu Thiếu Đường (1936-1997), một nhà văn đương đại, sinh ra ở huyện Đồng, Bắc Kinh. Ông bắt đầu viết văn từ năm mười ba tuổi và xuất bản truyện ngắn đầu tay "Cành xanh và Lá xanh" ở tuổi mười bảy. Sau năm 1979, truyện vừa "Gia đình Puli Liu" và truyện ngắn "Nga Mei" lần lượt giành được Giải thưởng Tiểu thuyết Quốc gia và Giải thưởng Truyện ngắn Quốc gia.
Ru Zhijuan (1925-1998 , một nhà văn nữ hiện đại, trước đây sử dụng bút danh Aru và Chuxu. Quê hương tổ tiên của bà là Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, và bà sinh ra ở Thượng Hải. Các tác phẩm tiêu biểu của bà bao gồm các truyện ngắn "Lily", "Bệnh viện phụ sản yên tĩnh" và "Câu chuyện về biên tập sai". Trong số đó, "Câu chuyện về biên tập sai" đã giành được Giải thưởng Truyện ngắn xuất sắc toàn quốc năm 1979.
Lý Xuân (1928-2000) là một nhà văn hiện đại đến từ huyện Mengjin, tỉnh Hà Nam. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm truyện ngắn "Tiểu sử tóm tắt của Li Shuangshuang"; Các kịch bản phim do ông chuyển thể bao gồm "Vòng hoa dưới chân núi", "Người chăn cừu", "Cựu chiến binh tiểu sử mới", v.v. Trong số đó, "Cựu chiến binh tiểu sử mới" đã giành giải Bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Moskva năm 1959.
"Bách khoa toàn thư thứ hai" Làm sao bạn có thể nói mình có văn hóa nếu bạn không biết Trương Tử Long?
Tương Tử Long (1941-), một nhà văn đương đại, quê ở huyện Thương, tỉnh Hà Bắc. Tác phẩm nổi tiếng của ông là "Một ngày làm việc của Cục trưởng Cục Cơ điện". Truyện ngắn "Ký sự nhậm chức của Cục trưởng Kiều" đã giành giải Nhất Giải thưởng Truyện ngắn Xuất sắc Toàn quốc năm 1979, và "Người tiên phong" đã giành giải Tiểu thuyết Xuất sắc Toàn quốc.
Trương Kiệt (1938-2022 , một nữ nhà văn đương đại. Tác phẩm đầu tay "Đứa trẻ trong rừng" và tác phẩm sau này "Ai sống đẹp hơn" của bà lần lượt giành Giải thưởng Truyện ngắn Xuất sắc Toàn quốc năm 1978 và 1979. Tiểu thuyết "Đôi cánh nặng nề" đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ hai.
Cao Tiểu Thăng (1928-1999, một nhà văn đương đại, sinh ra tại huyện Vũ Tiến, tỉnh Giang Tô. Các tác phẩm tiêu biểu của ông là Lý Thuận xây nhà và Trần Hoàn Sinh lên thành phố đã giành Giải thưởng Truyện ngắn Xuất sắc Toàn quốc năm 1979 và 1980.
Lý Tồn Bảo (1946-), một nhà văn đương đại, sinh ra tại huyện Vũ Liên, tỉnh Sơn Đông. Phóng sự "Con trai của tướng quân" của ông đã giành giải nhất trong Cuộc thi Tiểu luận Quân đội về Chiến tranh Phản công Tự vệ. Các truyện ngắn "Vòng hoa dưới núi" và "Mười chín ngôi mộ trên núi" của ông đều là những tác phẩm xuất sắc. Nhà văn tiên phong
Đỗ Hoàng theo Bách khoa mở

Đạo đưc kinh

 14:05 24/08/2025

Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
CHƯƠNG 12
KIỂM DỤC
檢 欲
Hán văn:
五 色 令 人 目 盲. 五 音 令 人 耳 聾. 五 味 令 人 口 爽. 馳 騁 田 獵 令 人 心 發 狂. 難 得 之 貨, 令 人 行 妨. 是 以 聖 人 為 腹 不 為 目. 故 去 彼 取 此.
Phiên âm:
1. Ngũ sắc lịnh nhân mục manh..Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng.. Trì sính, điền liệp lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa, lịnh nhân hành phương.
2. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục. Cố khứ bỉ thủ thử.
Dịch nghĩa:
1. Năm màu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của cải khó được, khiến người bị tai hại.
2. Bởi vậy, thánh nhân vì bụng không vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Năm màu sắc làm cùng mù mắt
Năm tiếng kêu người đặc điếc tai.
Năm mùi lưỡi liếm lè dài
Ruổi rong săn bắn người tài hóa điên
Của cải kho, người thêm bị hại
Thánh nhân thường kinh hãi bụng mình
Thường tâm coi trọng mắt nhìn
Chọn hay loại bỏ phải tinh tận tường..

Tảo

 14:02 24/08/2025


太陽每早從牆上,
照著籠門門未開。
籠裡現時還黑暗,
光明卻已面前來。

早起人人爭獵虱,
八鐘響了早餐開。
勸君且吃一個飽,
否極之時必泰來。

Tảo
Thái dương mỗi tảo tòng tường thướng,
Chiếu trước lung môn môn vị khai.
Lung lý hiện thời hoàn hắc ám,
Quang minh khước dĩ diện tiền lai.

Tảo khởi nhân nhân tranh liệp sắt,
Bát chung hưởng liễu tảo xan khai.
Khuyến quân thả ngật nhất cá bão,
Bĩ cực chi thì tất thái lai.
Dịch nghĩa
Mỗi sớm, mặt trời vượt lên khỏi đầu tường,
Chiếu tới cửa nhà lao, cửa chưa mở;
Giờ đây trong lao còn đen tối,
Nhưng ánh sáng đã bừng lên phía trước mặt.

Sớm dậy, mọi người đua nhau bắt rận,
Chuông điểm tám giờ, bữa cơm sáng bắt đầu;
Khuyên anh hãy cứ ăn no,
Khổ đến tột cùng, vui ắt tới.
.
Đỗ Hoàng dịch:thơ:
Mặt trời mỗi sớm trên tường rọi
Chiếu trước cửa lao, cửa vẫn cài
Trong ngục giờ đây còn mịt tối
Ánh hồng trước mặt nét hường tươi!

Sớm dậy, mọi người đua bắt rận,
Chuông điểm tám giờ, cơm sáng xơi
Khuyên anh hãy gắng ăn no bụng,
Khổ đến tột cùng, vui tới nơi.

Nguyễn Dình Thi

 19:27 23/08/2025

Chân dung 810 Văn sĩ Việt”Nguyễn Đình Thi buổi ngặt nghèo/Ôm em ôm cả súng đeo ba bên mình”-Đỗ Hoàng-NXB Hội nhà văn năm 2018.
Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập32
  • Hôm nay16,632
  • Tháng hiện tại260,886
  • Tổng lượt truy cập473,400
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi