Tìnhạo nhà mẹ

 14:55 02/08/2025

Gạo nhà mẹ hêt lâu rôi
Mẹ ăn xác sắn ngui ngùi cho con!
Mẹ ơi nhận lấy vài lon
Ngày mai đơn vị con cnf đi xa
Mẹ nhìn lòng nghẹn mắt nhòa
Rét run tay gậy, hân già hụt hơi

Xiêu xiêu bóng mẹ xa rồi
Thóp thoi chiếc lá vàng rơi giữa chiều
Chiến trwong mnawm 1972

Xiêu xiêu b

Hung trạch -

 14:50 02/08/2025

HUNG TRẠCH – Bạch Cư Dị
凶宅
長安多大宅,
列在街西東。
往往朱門內,
房廊相對空。
梟鳴松桂樹,
狐藏蘭菊叢。
蒼苔黃葉地,
日暮多旋風。
前主為將相,
得罪竄巴庸。
後主為公卿,
寢疾歿其中。
連延四五主,
殃禍繼相鐘。
自從十年來,
不利主人翁。
風雨壞檐隙,
蛇鼠穿牆墉。
人疑不敢買,
日毀土木功。
嗟嗟俗人心,
甚矣其愚蒙。
但恐災將至,
不思禍所從。
我今題此詩,
欲悟迷者胸。
凡為大官人,
年祿多高崇。
權重持難久,
位高勢易窮。
驕者物之盈,
老者數之終。
四者如寇盜,
日夜來相攻。
假使居吉土,
孰能保其躬。
因小以明大,
借家可喻邦。
周秦宅崤函,
其宅非不同。
一興八百年,
一死望夷宮。
寄語家與國,
人凶非宅凶。
Bạch Cư Dị
Hung trạch
Trường An đa đại trạch,
Liệt tại nhai tây đông.
Vãng vãng chu môn nội,
Phòng lang tương đối không.
Kiêu minh tùng quế thụ,
Hồ tàng lan cúc tùng.
Thương đài hoàng diệp địa,
Nhật mộ đa tuyền phong.
Tiền chủ vi tương tướng,
Đắc tội thoán Ba Dung.
Hậu chủ vi công khanh,
Tẩm tật một kỳ trung.
Liên diên tứ ngũ chủ,
Ương hoạ kế tương chung.
Tự tòng thập niên lai,
Bất lợi chủ nhân ông.
Phong vũ hoại thiềm khích,
Xà thử xuyên tường dung.
Nhân nghi bất cảm mãi,
Nhật huỷ thổ mộc công.
Ta ta tục nhân tâm,
Thậm hỹ kỳ ngu mông.
Đãn khủng tai tương chí,
Bất tư hoạ sở tòng.
Ngã kim đề thử thi,
Dục ngộ mê giả hung.
Phàm vi đại quan nhân,
Niên lộc đa cao sùng.
Quyền trọng trì nan cửu,
Vị cao thế dị cùng.
Kiêu giả vật chi doanh,
Lão giả số chi chung.
Tứ giả như khấu đạo,
Nhật dạ lai tương công.
Giả sử cư cát thổ,
Thục năng bảo kỳ cung?
Nhân tiểu dĩ minh đại,
Tá gia khả dụ bang.
Chu, Tần trạch Hào, Hàm,
Kỳ trạch phi bất đồng.
Nhất hưng bát bách niên,
Nhất tử Vọng Di cung.
Ký ngữ gia dữ quốc,
Nhân hung phi trạch hung.

Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
NHÀ DỮ
Trường An nhiều nhà lớn
Từng dãy thẳng, đứng hai bên đường
Thường thường bên trong cửa son
Có nhiều phòng đối nhau mà bỏ không
Cú kêu trong cây tùng, cây quế
Cáo ẩn nơi khóm cúc, khóm lan
Mặt đất đầy rêu xanh, lá vàng rải rác
Mỗi buổi chiều tà từng cơn gió lốc thổi
Chủ trước làm quan tướng
Phải tội đày đi Ba Dung
Chủ sau là bậc khanh tướng
Ốm lâu rồi cũng chết
Liền liền đến bốn năm chủ
Tai vạ liên tiếp dập dồn
Đã từ mười năm lại đây
Ngôi nhà này không hợp chủ!
Mưa gió làm hỏng hết mái hiên, khe cửa
Chuột rắn đục khoét kẽ ngặt, chân tường
Người ta sợ, chẳng ai dám mua
Gạch, gỗ, ngày một hư hỏng
Than ôi! Bụng dạ người đời
Sao mà ngu muội quá!
Chỉ sợ tai vạ sẽ đến
Không nghĩ xem nguồn cơn từ đâu mà ra
Nay ta viết bài thơ này
Muốn thức tỉnh những người u mê trong bụng
Phàm đã làm đến quan lớn
Tuổi đã cao mà bổng nhiều lắm
Quyền đã to thì khó giữ được lâu
Ngôi đã cao thì thế dễ cùng
Kiêu căng, theo lẽ của sự vật, tất sẽ sụp đổ
Già là lúc số mệnh sắp hết
Bốn điều ấy như trộm cướp
Ngày đêm xúm lại tiến công
Ví bằng có được ở chỗ đất lành
Dễ ai đã giữ được toàn thân?
Suy việc nhỏ để rõ việc lớn
Mượn việc nhà để ví việc nước:
Nhà Chu, nhà Tần cùng đóng đô ở Hào, Hàm cả
Chỗ ở không phải không giống nhau
Vậy mà một đằng thì hưng thịnh đến tám trăm năm
Một đằng thì hết đời ở cung Vọng Di
Nhắn nhủ những ai có nhà, có nước
Chỉ có người dữ, chứ không có nhà dữ!
Đỗ Hoàng dịch thơ:
NHÀ DỮ
Trường An nhiều nhà lớn
San sát khắp tây, đông
Nhiều cửa son lở lói
Lắm hiên phòng bỏ không.
Cú kêu trong gốc quế
Cáo ẩn nơi khóm tùng.
Đất rêu xanh, lá đổ
Chiều chiều gió giật rung!
Chủ trước là khanh tướng
Phả tội đày Ba Dung
Chủ sau bậc quyền quý
Đến già cũng tử vong.
Tiếp liền năm sáu chủ
Tai họa cứ dập dồn!
Mười năm nay trở lại
Nhà dữ có ai ưng!
Cửa hiên mưa gió hỏng
Tường, ngách chuột rắn lùng
Chăng ai tìm thuê nữa
Nhà càng mục nát hơn!
Ôi! Người ơi, bụng dạ!
Ngu muội đến thế cùng.
Cứ sợ tai vạ đên
Không nghĩ kỹ nguồn cơn.
Ta làm vần thơ tỏ
Nhắc ai kẻ mê lòng!
Đã phàm là quan lớn
Tuỏi cao, bổng lộc tràn
Quyền to khó giữ được
Ngôi cao thế dễ cùng!
Kiêu căng tất sụp đổ
Già, tài mệnh long đong
Tai ương như trộm cướp
Đêm ngày đến tấn công
Ví bằng nơi đất tốt
Thân đâu dễ bảo toàn
Suy nhỏ ra viêc lớn
Chuyện riêng để nói chung
Chu, Tần đất Hàm ỏ
Đều là nơi đế vương
Người nghìn năm hưng thịnh
Kẻ một sớm không còn
Nhắc làng rồi nhắn nước
Người dữ chứ nhà không!
Dịch trước khi nhập ngũ lần một tháng 6 năm 1966. Sau hai anh em bị thải về vì ly lịch xấu (bố đi lính Pháp). Sửa chưã trên cao điểm chốt 280, biên giới Việt – Lào năm 1973
Đ - H

Hành lộ nan

 07:46 31/07/2025

行路難其一 (Lý Bạch
- 李白)
行路難其三
有耳莫洗穎川水
有口莫食首陽蕨
含光混世貴無名
何用孤高比雲月
吾觀自古賢達人
功成不返皆殞身
子胥既棄吳江上
屈原終投湘水濱
陸機雄才豈自保
李斯稅駕苦不早
華亭鶴唳詎可聞
上蔡蒼鷹何足道
君不見
吳中張翰稱達生
秋風忽憶江東行
且樂生前一杯酒
何須身後千載名
Hành lộ nan kỳ 3

Hữu nhĩ mạc tẩy Dĩnh Xuyên thuỷ
Hữu khẩu mạc thực Thú Dương quyết!
Hàm quang hỗn thế quý vô danh
Hà dụng cô cao tỷ vân nguyệt!
Ngô quan tự cổ hiền đạt nhân
Công thành bất thoái giai vẫn thân
Tử Tư ký khí Ngô giang thượng
Khuất Nguyên chung đầu Tương thuỷ tân
Lục Cơ hùng tài khởi tự bảo
Lý Tư thuế giá khổ bất tảo
Hoa Đình hạc lệ cự khả văn
Thượng Thái thương ưng hà túc đạo ?
Quân bất kiến:
Ngô Trung Trương Hàn xung đạt sinh
Thu phong hốt ức Giang Đông hành
Thả lạc sinh tiền nhất bôi tửu
Hà tu thân hậu thiên tải danh ?
Đỗ Hoàng dich nghĩa:
Đường đi khó kỳ 3
Người dịch: Đỗ Hoàng
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
Có tai đừng rửa nước sông Dĩnh
Có miệng đừng ăn rau núi Thú Dương.
Lẫn đời giấu sáng quý kẻ không tên tuổi.
Thanh cao sao sánh bằng sao trăng
Từ xưa ta thấy bậc thánh nhân
Công thành chẳng lui về đều phải chết.
Ngũ Tử tan xác trên sông Ngô Giang
Khuất Nguyên cũng bỏ mình trên sông Tương Thuỷ
Lục Cơ tài lớn thân mang hại
Lý Tư muộn nghỉ đời ngang trái
Đâu còn nghe tiếng hạc Hoa Đình
Thôi hết bàn loài ưng Thượng Thái
Bác chẳng thấy:
Trương Hàn người thông đạt ở Ngô Trung
Gió thu chợt nhớ về Giang Đông
Hiện tại nên vui nâng chén rượu
Nghìn năm chi để cái danh không!
Đỗ Hoàng dịch thơ:
ĐƯỜNG ĐỜI KHÓ ĐI!
Nước sông Dĩnh, có tai đừng rửa
Rau Thủ Dương xin nhớ đừng ăn!
Đời điên cần chi tiếng tăm.
Thnh danh giữ sánh may trăng làm gị!
Ta xem cổ nhan khi hiển đạt
Không lui về chẳng thoát chết oan
Tử Tư bỏ xác Ngô giang.
Khuất Nguyên cùng kế sông Tương trãm mình
Lục Cơ dẫu tàì tình há biêt,
Lý Tư kia hối tiếcvề sau
Hoa Đình tiếng hạc còn đâu.
Chim ưng Thái Thượng từ lâu vắng bàn

Nhin xem chỉ Trương Hàn khoáng đạt
Về Giang Dông khi chợt gió thu
Rượu nồng lúc sống đầy ly
Tiếng tăm muôn thuở cần chi sau này!
Cao điểm hôt 280, biên giới Việt – Lào tháng 6 năm 1973
Đ - H
(1) Rút trong tập thow “Tuy Thi Ca’- Thơ dịch – NXB Văn hóa- Dân tộc năm 2000

Dao đức kinh

 18:58 30/07/2025

CHƯƠNG 8
DỊ TÍNH
易 性
Hán văn:
上 善 若 水. 水 善 利 萬 物 而 不 爭, 居 眾 人 之 所 惡, 故 几 於 道. 居 善 地, 心 善 淵, 與 善 仁, 言 善 信, 政 善 治, 事 善 能, 動 善 時. 夫 唯 不 爭, 故 無 尤.
Phiên âm:
Thượng thiện nhược thủy.
Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư Đạo.
Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời.
Phù duy bất tranh, cố vô vưu.
Dịch nghĩa:
Bậc trọn lành giống như nước.
Nước khéo làm ích cho muôn loài mà không tranh giành, ở chỗ mọi người đều ghét, cho nên gần Đạo.
Ở thì lựa nơi chốn; tâm hồn thời thâm trầm sâu sắc; giao tiếp với người một mực nhân ái; nói năng thành tín; lâm chính thời trị bình; làm việc thời có khả năng; hoạt động cư xử hợp thời.
Chính vì không tranh, nên không ai chê trách oán thán.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo được chÍnh tròn đầy như nước
Làm có ích không vượt đua tranh
Ở thấp chẳng ai ham giành
Cho nên chính đạo mới thành công huân.
Ở nơi chốn thâm trầm sâu sắc
Giao tiếp người một bâc ái tôn
Tâm thành lâm chính xóm thôn
Trị bình hòa hơp hoạt không trong ngoài
Chính vì không ơn, không sai
Trên dưới trong ngoài chẳng ai oán than!

Ngục trung nhật ký (tiếp)

 18:55 30/07/2025

入靖西縣獄
獄中舊犯迎新犯,
天上晴雲逐雨雲。
晴雨浮雲飛去了,
獄中留住自由人。
Nhập Tĩnh Tây huyện ngục
Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm
Thiên thượng tình vân trục vũ vân
Tình vũ phù vân phi khứ liễu
Ngục trung lưu trú tự do nhân
Dịch nghĩa
Trong ngục tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa.
Mây tạnh, mây mưa, mấy đám mây nổi bay đi hết,
Chỉ còn lại người tự do trong ngục.
Tĩnh Tây là một huyện thuộc Quảng Tây, gần biên giới Trung - Việt. Tác giả bị bắt ở huyện Thiên Bảo cách Tĩnh Tây khá xa nhưng lại bị đưa ngược về Tĩnh Tây giam giữ.
Đỗ Hoàng dịch:
Trong lao tù cũ đón tù mới
Trên trời mây trắng rượt mây tro
Mây tro, mây trắng đều xua hết
Còn lại trong tù khách tự do!

Ngục trung nhật ký (tiêp)

 07:17 30/07/2025

初到天保獄
日行五十三公里,
濕盡衣冠破盡鞋。
徹夜又無安睡處,
廁坑上坐待朝來。

Sơ đáo Thiên Bảo ngục
Nhật hành ngũ thập tam công lý,
Thấp tận y quan phá tận hài.
Triệt dạ hựu vô an thuỵ xứ,
Xí khanh thượng toạ đãi triêu lai.
Dịch nghĩa
Ngày đi năm mươi ba cây số,
Ướt hết mũ áo, rách hết giày;
Suốt đêm lại không có chỗ ngủ yên,
Ngồi trên hố xí đợi trời sáng.
Không biết tại sao bài này lại nằm sau bài Điền Đông, có lẽ là hồi ức của tác giả về quãng đường đi từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo chăng.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Một ngày đi năm ba cây số.
Ướt hết áo quần, rách hết giày.
Đêm đến không bề yên chỗ ngủ
Xổm trên hố xi đợi ngày mai!

Đạo đưc kinh

 07:13 30/07/2025

CHƯƠNG 7
THAO QUANG
韜 光
Hán văn:
天 長 地 久. 天 地 所 以 能 長 且 久 者, 以 其 不 自 生, 故 能 長 生. 是以 聖 人 後 其 身 而 身 先, 外 其 身 而 身 存. 非 以 其 無 私 耶? 故 能 成 其 私.
Phiên âm:
1. Thiên trường, địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kỳ bất tự sinh, cố năng trường sinh.
2. Thị dĩ thánh nhân, hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn.
3. Phi dĩ kỳ vô tư da? Cố năng thành kỳ tư.
Dịch nghĩa:
Trời dài, đất lâu. Trời đất sở dĩ dài lâu chính vì không sống cho mình, vì thế nên trường sinh.
Vì vậy thánh nhân để thân ra sau mà thân ở trước; để thân ra ngoài mà thân còn.
Phải chăng vì không riêng tây, nên vẫn thành được cái riêng tây?
Đỗ Hoàng dịch thơ::
Thiên trường địa cửu không dừng
Cho thiên hạ không ngừng phát sinh.
Thánh nhân bâc thần tình
Thân ra sau mà hiển linh mãi còn.
Phải không vương bận núi non
Công thành mãi mãi vẫn tròn riêng tây!

Vô lối thi tặc Nguyễn Quang Thiều

 14:55 29/07/2025

NGUYỄN QUANG THIỀU NÊN BỎ VIẾT THƠ VÔ LỐI (THI TẶC)!
66 TUỔI TÂY, VỀ HƯU ĐI!
Đỗ Hoàng
Nguyễn Quang Thiều nên bỏ viết thơ Vô lối (Thi tặc), 66 tuổi Tây phải về hưu thôi1
Tôi nói điều thứ nhất cách đây lâu lắm rồi, từ thời tôi làm tạp chí Nhà văn gặp Thiều, Thiều cặn vặn: - “Sao anh Hoàng thù tôi đến thế!
Nói gần đây là buổi họp các nhà văn sinh hoạt ở Trung ương Hội Nhà văn Việt Nam bầu đại biểu đi dự Đâị hội Nhà văn khóa X.
Điều thứ hai nói trên mạng khi Thiều làm Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đưa in bài vở của đám Thi tặc tung tóe trên các báo Nhà nước chính thống. Có một số được Thiều cho tiền (Ngân sách) in tác phẩm “thi tặc” như Thi Hoàng, Mai Văn Phấn, Hoàng Vũ Thuật, Trần Hùng, Phạm Đương…
Nguyễn Quang Thiều là một một người dốt nát tiếng Việt, không biết làm thơ Việt, kiến thức rất lổ mổ, hóng hớt, học hành chắp vá, nhảy cóc từ thời bé nên viết như kẻ vô học, đậm chất văn nô, dâm dục bẩn thỉu, thác loạn, giờ lại cầm cương nẩy mực văn chương nước nhà (!)
Từ khi Thiều làm Chủ tịch Hội Nhà văn và Ban Thường vụ Hội Nhà văn chỉ đạo báo Văn nghệ thì Thiều cho in thơ Vô lối của Thiều của đám Thi tặc, số nào cũng có một cách bội thực!. Thiều vực dậy những đứa thi tặc chết rấp từ lâu như Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Mai Văn Phấn, Mai Quỳnh Nam, Hoàng Vũ Thuật, Phạm Đương, Đỗ Doãn Hoàng….in tác phẩm của họ tràn lan trên các mặt báo Nhà nước.
Số 36 + 37, báo Văn nghệ ngày 3-9- 2022 in Nguyễn Quang Thiều 5 bài, in Mai Văn Phán (thơ ba câu , 21 bài ) kin một trang báo Văn nghệ (ảnh kèm theo). Tờ báo Văn nghệ ấy bay vào đâu nhiễm trùng HIV chỗ ấy (!).
Xin trích một bài Thi tặc in số Tết năm 2023 của Thiều để chứng minh. Đó là bài Vô lối : NHỮNG Ô CỬA
Nguyên văn:
NHỮNG Ô CỬA
Nguyễn Quang Thiều
Mở ô cửa thứ nhất
Mùa Hạ đã vời xa
Mở ô cửa thứ hai
Thấy mùa thu vừa đến
Những con thuyền trên bến
Mơ gặp dòng sông xưa
Mở ô cửa thứ ba
Người tình từ kiếp trước
Về trong gió heo may
Hoa vàng vương lối cũ
Gọi vang miền hoang vắng
Mở thêm một ô cửa
Mẹ đã vào trăm năm
Và một ô cửa nữa
Cha đi trong mây vàng
Lòng ta ô cửa nhỏ
Mở mãi vào vu vơ
Và một ô cửa nữa
Ôi những người quanh ta
Thấy màu hoa cúc trắng
Nở như chưa bao giờ
Đỗ Hoàng : BÌNH GIẢNG
Mới đọc nghe có vẻ hay hay, đám nịnh bút có khoang vện, khoang vằn như : Văn Chinh, (xuất thân giáo viên cấp một miền núi), Nguyễn Đăng Điệp, Thiên Sơn, Hoàng Thụy Anh (Hoàng Thụy Anh thi tặc gia truyền, nịnh cũng gia truyền nốt, bài phê bình nào in trên báo Văn nghệ cũng ghi « theo lời nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, theo câu dịch tiếng Anh của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều…)…bò sát đất bẩm báo : « Thơ của Chủ tịch Hội Nhà văn là thơ thần ! Tuyệt vời cú mèo ! Tuyệt vời cú mèo ! Giải Nobel cho Việt Nam đến nơi rồi, đến nơi rồi !
Hội viên Hội Nhà văn kết nạp đến bây giờ chắc 1 500 người, tuyệt đại bộ phận xõa tóc hô to : « khâm phục, khẩu phục ! Khẩu phục , khẩu phục ! Anh chị em hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đập đầu tung hê Chủ tịch ! »
Phải một lần nữa xin lỗi độc giả : « Nó là cục cứt chó. Cả Vô lối thi tặc Nguyễn Quang Thiều là một cục cứt chó ! »
Lòng ta là ô cửa sổ, lòng ta là trăng, là trăng, lòng ta là cơ đồ đất nước….đã đượ các nhà thơ lớp trước đều ví von, so sánh như vậy.
« Cả lòng ta trăng
Là trăng
Ta nhả ra đây
Một nàng… »
(Hàn Mặc Tử)
« Lòng ta chung một cụ Hồ,
Lòng ta chung một thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam…. »
(Tố Hữu)
« Lòng ta ô cửa nhỏ »
(Nguyễn Quang Thiều)
Đã nói mãi mòn răng : « Nguyễn Quang Thiều không biết làm thơ » nên không biêt triển khai cái tứ mình tìm tòi được mà viết nói loăng quăng, lụn xui, lụn đụn như gà mắc tóc, dẫn đến nhiều sai trái trong câu chữ, lập luận !
Lòng tôi là ô cửa, thì ai mở ô cửa ? Ở đây rất nhiều lần mở :
« Mở ô cửa thứ nhất »
« Mở ô cửa thứ hai »
« Mở ô cửa thứ ba »
« Mở thêm ô cửa nữa »
« Và một ô cửa nữa »
Và một ô cửa nữa » (hai lần mở)
Thơ có thể nói những điều rất vô lý mà hợp lý :
« Hai ngày em không đến
Aanh không có hai ngày »
(Vĩnh Nguyên)
« Em đưa tiễn bước chân gìn giữ lắm
Ngọn cỏ dũng dằng dúng dắng ven đê
Thương mến ạ !
Và nhà thơ không rành mạch bao giờ ! »
(Nguyễn Duy)
Nhưng thơ ca có những câu chữ từ ngữ rất chính xác như trong toán học:
« Ôi Người Cha có đôi mắt mẹ hiền sao
Giọng của Người không phải sấm trên cao !
Thấm từng tiếng ấm vào long non nước…. »
(Tố Hữu )
Không thể viết « Ôi Người Cha một mắt mẹ hiền sao ! »
Nguyễn Quang Thiều « lòng tôi là ô cửa nhỏ » mà biết đi mở cửa sổ hàng vạn lần như thế là điều phi lý không hề có lý !
Đáng ra phải viết :
« Lòng ta là ô cửa
Ta tự mở lần nhất
Mùa Hạ đã vời xa
Ta tự mở lần hai
Thấy mùa thu vừa đến….. »
Nghe có lý hơn. Song, người đọc không thể hiểu vì sao, ở đâu mà mùa Hạ vời xa, mùa thu lại vừa đên ? Kỷ niệm riêng của anh, nỗi đau riêng của anh khi đưa lên cộng đồng thì phải được cộng đồng chấp nhận, cảm thông cái việc riêng mà cũng như là chung ấy. Đàng này anh nói gà, nói vịt, chẳng ai hiểu mùa hạ, mùa thu của anh tự đâu mất, tự đâu xuất hiện ?
Cái ô cửa của anh không còn là tấm lòng của anh mà thành cái cửa nhà mồ, mẹ , cha anh sập vào :
« Mở thêm một ô cửa
Mẹ đã thành trăm năm
Và một ô cửa nữa
Cha đi trong mây vàng ! …»
Cái ô cửa lòng anh” đã hóa thành nhà tang lễ 150 Phùng Hưng, Hà Nội, nhà tang lễ Trần Hưng Đạo, Viện Quân y 108! Trước hết nó là cái Hấm giết và chôn người , giết và chôn đầu tiên là người thân của anh!
Than ôi! Thơ với thẩn?
Hà Nội, tháng 7/2023
Đ - H
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt:
LÒNG TA Ô CỬA
Lòng ta ô cửa nhỏ
Lần đầu tự mở ra
Mùa Hạ vời vợi xa
Lần thứ hai ta mở
Thấy mùa thu vừa đến
Mơ gặp dòng sông xưa
Tự mở lần thứ ba
Người tình từ kiếp trước
Trong heo may lần bước
Lối cũ vương hoa vàng
Ai đi trong sương bạc
Miền hoang gọi vang vang
Lòng con là ô cửa
Đưa mẹ vào trăm năm
Lòng con là ô cửa
Tiễn cha lối mây vàng!
Lòng ta là ô cửa
Mở mãi thời âm vang !
Dần dần ô cửa mở
Ơi những người quanh ta
Thấy màu hoa cúc trắng
Nở như chưa bao giờ !
Hà Nội 7/2023
Đ - H
Tb : Mòi đối thoại ! Tel : 0913369652

Hoàng Vũ Thuật vinh

 14:51 29/07/2025

Đỗ Hoàng
HOÀNG VŨ THUẬT - Thi tặc - Giặc thơ - Vịnh
Hoàng Vũ Thuật loại viết vất vơ
Tra khòm mà cứ tưởng cầy tơ!
Xuất thân giáo học nghề đứng đắn,
Lộn mặt văn chương việc phấn mờ!
Mãi võ viên trà mèo chẳng đọc,
Địch trôn lổ thủng chó nào sờ!
Trên giường đánh giặc hô to khỏe
Xếp đứng tốp đầu lũ tặc thơ!
Hà Nội 7/2022

Ngục trung nhật ký - sịch tiếp.

 07:17 29/07/2025

開卷
老夫原不愛吟詩,
因為囚中無所為。
聊借吟詩消永日,
且吟且待自由時。
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Dịch nghĩa
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm.
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do.
開卷
老夫原不愛吟詩,
因為囚中無所為。
聊借吟詩消永日,
且吟且待自由時。
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Dịch nghĩa
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm.
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do.
開卷
老夫原不愛吟詩,
因為囚中無所為。
聊借吟詩消永日,
且吟且待自由時。
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Dịch nghĩa
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm.
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do.

CHƯƠNG 6
THÀNH TƯỢNG
成 象
Hán văn:
谷 神 不 死 是 謂 玄 牝. 玄 牝 之 門, 是 謂 天 地 根. 綿 綿 若 存. 用 之 不 勤.
Phiên âm:
1. Cốc thần bất tử thị vị Huyền tẫn.
2. Huyền tẫn chi môn thị vị thiên địa căn.
3. Miên miên nhược tồn. Dụng chi bất cần.
Dịch nghĩa:
1. Cốc thần bất tử, đó là Huyền tẫn.
2. Cửa Huyền tẫn chính là gốc rễ trời đất.
3. Miên man trường tồn, dùng không bao giờ hết.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Huyền Tẫn chốn vô cùng bất tử
Cửa Huyền Tẫn gốc rễ dất trời
Miên man trong cõi sinh sôi
Của kho vô tận đời đời bao dung.

CHƯƠNG 6
THÀNH TƯỢNG
成 象
Hán văn:
谷 神 不 死 是 謂 玄 牝. 玄 牝 之 門, 是 謂 天 地 根. 綿 綿 若 存. 用 之 不 勤.
Phiên âm:
1. Cốc thần bất tử thị vị Huyền tẫn.
2. Huyền tẫn chi môn thị vị thiên địa căn.
3. Miên miên nhược tồn. Dụng chi bất cần.
Dịch nghĩa:
1. Cốc thần bất tử, đó là Huyền tẫn.
2. Cửa Huyền tẫn chính là gốc rễ trời đất.
3. Miên man trường tồn, dùng không bao giờ hết.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Huyền Tẫn chốn vô cùng bất tử
Cửa Huyền Tẫn gốc rễ dất trời
Miên man trong cõi sinh sôi
Của kho vô tận đời đời bao dung.

開卷
老夫原不愛吟詩,
因為囚中無所為。
聊借吟詩消永日,
且吟且待自由時。
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Dịch nghĩa
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm.
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do.

Đạo đức king - chương 6

 07:14 29/07/2025

CHƯƠNG 6
THÀNH TƯỢNG
成 象
Hán văn:
谷 神 不 死 是 謂 玄 牝. 玄 牝 之 門, 是 謂 天 地 根. 綿 綿 若 存. 用 之 不 勤.
Phiên âm:
1. Cốc thần bất tử thị vị Huyền tẫn.
2. Huyền tẫn chi môn thị vị thiên địa căn.
3. Miên miên nhược tồn. Dụng chi bất cần.
Dịch nghĩa:
1. Cốc thần bất tử, đó là Huyền tẫn.
2. Cửa Huyền tẫn chính là gốc rễ trời đất.
3. Miên man trường tồn, dùng không bao giờ hết.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Huyền Tẫn chốn vô cùng bất tử
Cửa Huyền Tẫn gốc rễ dất trời
Miên man trong cõi sinh sôi
Của kho vô tận đời đời bao dung.

Từ bóng rm chiến khu....

 15:23 27/07/2025

aTừ bóng râm chiến khu đến quảng trường phản tỉnh lương tri
“TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH” TỪ BÓNG RÂM CHIẾN KHU
ĐẾN QUẢNG TRƯỜNG PHẢN TỈNH CỦA LƯƠNG TRI
( Viết về nhà thơ Đỗ Hoàng )
Nguyễn Hoàng Đức
Tôi gặp nhà thơ Đỗ Hoàng lần đầu tiên ở nhà tôi, anh đi cùng nhà văn Nguyễn Đình Chính đến để mời tôi giữ chân biên tập trang lý luận cho tạp chí Văn Học Nghệ Thuật (nhưng việc không thành). Cảm giác đầu tiên của tôi về các nhà thơ nói chung là cái gì nhũn nhẽo, ẻo lả, yếu ớt, tí tởn, ham vui, đồng bóng. Và nhà thơ Đỗ Hoàng trưởng ban biên tập thơ của Tạp chí Nhà văn dường như còn vượt qua cả mức đó, anh sinh ra ở Quảng Bình nơi người ta nói như hát, rồi đi lính vào Huế nơi hát còn nhiều hơn nói, rồi anh lại là nhà thơ ngâm nga lới lơ, thành thử giọng của anh cứ võng võng ngòn ngọt một thứ chè nhão cho quá nhiều đường… thành thử sau khi gặp vài lần tôi cứ mặc định, lại một ông nhà thơ hâm hấp không nên chấp.
Thời gian sau, đặc biệt khi anh gọi với tôi, tôi dừng lại một cách khiên cưỡng gượng gạo có chút kiêu kỳ. Tôi đã cầm cuốn thơ dịch “Chinh Phụ Ngâm” của anh. Mặc dù trước đó tôi đã nghe và đọc những bài thơ anh dịch lại cả tiếng Việt, tôi vẫn cho là thứ “thừa công rồi nghề”. Tôi đọc “Chinh Phụ Ngâm” của anh với ý định: hãy cố bỏ chút đỉnh thời gian xem tay này công phá thần tượng ra sao? Triết gia Nietzsche có nói: “Rồi một ngày học trò sẽ phản thầy, vì chính học trò cũng có sứ mệnh phải làm thầy”. Đọc xong, tôi ngạc nhiên vì nhà thơ Đỗ Hoàng ít nhất là đã luôn bới việc thơ ra để làm với một tình yêu tự nhiên không thể nào sống nổi nếu không hít thở thơ. Thứ hai, anh đã dám cày xới lại luống cày đã định hình của các thần tượng để làm nên vụ mùa mới của mình.
Thời gian trôi đi không lâu, tôi nhận thấy trong con người của Đỗ Hoàng không đơn giản là một tâm hồn ngê nga thơ phú kiểu chè đường, mà là một con người rất có bản lĩnh thơ. Rất cứng rắn! Rất dũng cảm! Và hôm nay tôi quyết định viết về anh sau khi đã đọc tập thơ phản chiến rất sớm của anh có tên “Tâm sự người lính”. Cây nào quả nấy, chúng ta thử xem cái cây Đỗ Hoàng là gì?
Đỗ Hoàng trước hết khá giỏi tiếng Trung, có cả kho tàng thơ cổ trong người. Tôi đã nghe anh nói tiếng Anh, bình thơ có tiếng Pháp, lại còn nhắn tin cho tôi bằng tiếng Nga. Riêng về vốn thơ, tôi gặp ba người làm tôi đáng nể và luôn cho rằng họ giầu vốn thơ nhất Việt Nam, đó là, Đỗ Hoàng, Nguyễn Hưng Quốc và Trần Mạnh Hảo.

Nhà thơ Đỗ Hoàng và tập thơ Tâm sự người lính
Đó mới là vốn thơ! Nhưng còn ý chí thơ, sức sống thơ, và bản lĩnh thơ. Đỗ Hoàng là một quan chức thơ sống giữa môi trường thơ mậu dịch, vậy mà anh dám sống và sáng tác, bình thơ như một người cô đơn. Cô đơn là một cái gì hết sức tê tái đặc biệt là trong nền văn hóa tiểu nông cực kỳ lạc hậu và bè phái của Việt Nam. Nhà thơ, nhà văn hóa Inrasara đã nói, các nhà thơ Việt rất sợ bị cô đơn và cô lập. Chúng ta biết trong nền văn hóa tiểu nông giầu tính cục bộ đố kỵ của nước nhà, người ta dễ dàng bỏ rơi tập đoàn, đánh hội đồng vào cá nhân nào muốn có cá tính hay định chơi chòi. Người ta có thể đồng loạt yêu, đồng loạt ghét, đồng loạt bao vây, nhất quán trong cả hành động cô lập hiếu – hỉ, đăng bài hay rút bài… tóm lại rất tiểu nhân. Vậy mà Đỗ Hoàng dám phê phán nhiều nhà thơ, nền thơ bằng cách không ngại chỉ tận tay day tận trán, như: “…cái Văn chương Mậu Dịch dở hơi ngự trị văn đàn hơn 5 thập kỷ. Ai cũng biết nhưng không ai dám nói. Nguyễn Hoàng Đức đập Thanh Thảo là để đập vào nghìn thế hệ nói leo ăn theo, khen bừa, khen ẩu, nói láo. Tệ hại nhất là những tiến sỹ bò, học giả, học thật như Đỗ Lai Thúy, Hồ Thế Hà, Phạm Quang Trung, Văn Giá, Chu Văn Sơn và ông thấp học Phạm Xuân Nguyên không làm được cái tiến sỹ Vịt…”

Trước khi nói về thơ Đỗ Hoàng, tôi muốn bàn qua về bút pháp kẻo lại rơi vào tùy tiện khen – chê không chuẩn đích:
1- Tầm vóc của nhà thơ (cả nhà văn, và các loại nhà) được xác định đầu tiên bằng tính đề tài. Đề tài chim, hoa, cá, lá, gái thì không thể lớn bằng đề tài của thế giới, con người, chiến tranh hay hòa bình. Đề tài sinh họat vi mô ăn ngủ hút hít gái gú thì không thể bằng các đề tài đầu tiên đó là Sinh – Tử của con người.
2- Thơ hay không phải cứ viết bằng bút pháp phóng đại bột nở vống lên. Thơ hay luôn phải được dùng cái hư cấu kết hợp với tính chân thực. Chẳng hạn hai câu thơ vào loại hay nhất của Tây và Đông:
“Anh cùng tôi không một xu dính túi
Vẫn mua được hương thơm của cả trái đất này” (Whitman)
Hoặc:
“Mái chèo cắt vòm trời trên sóng biếc
Thuyền lướt lên trăng theo dòng nước nổi” (Giả Đảo)

Đỗ Hoàng là một người lính, nhưng thơ anh không chỉ đơn giản hành quân ra chiến trường để nhằm bắn và đếm xác cả quân thù lẫn quân ta. Nhà văn Bảo Ninh đã từng được báo chí phương Tây đánh giá rất cao khi gọi là “cuộc phản tỉnh đầu tiên của chiến tranh” ( The first reflexion of the war). Họ đánh giá cao vì cho đó là một ngoại lệ khác hẳn các nhà văn ăn tem phiếu chỉ viết theo định hướng ta đỏ địch đen, ta tốt địch xấu, ta chính nghĩa địch phi nghĩa, ta khôn ngoan địch nham hiểm, ta to địch bé, ta trước địch sau, ta chiến thắng vinh quang địch thất bại ê chề. Vậy thì có lẽ Đỗ Hoàng là một trong những nhà thơ hàng đầu đồ sộ viết về phản chiến.
Triết gia Kant có lẽ là người đầu tiên nêu ra khái niệm “Công dân nhân loại”. Công dân đó là người đã vượt khỏi lằn ranh biên giới, con người ai cũng là người, khi ngã xuống thì đều là một nhân mạng thiệt vong, người lính nông dân ở phía Bắc bắn chết người lính nông dân ở phía Nam, rõ ràng cả hai người chỉ làm theo mệnh lệnh của cấp trên, họ đều là giai cấp nông dân, không có chuyện họ là kẻ thù giai cấp của nhau.
Trong tâm hồn nhà thơ Đỗ Hoàng, mối ưu tư về nhân loại bao giờ cũng lên cao nhất, nó không chỉ là đỉnh cao mà là hệ thống, là con đường dằng dặc chạy lên đỉnh, chứ không phải mấy thoáng chốc bồng bột vu vơ. Đỗ Hoàng ưu tư và bộc bạch, sợ rằng con người sẽ quên đi bài học mất mát của chiến tranh:
Khi chiến tranh đi xa,
Cuộc đời hồi sinh lại.
Đã ai hiểu cho mà,
Có một thời dữ dội!
Thơ tôi rồi sẽ chết,
Như cuộc đời của tôi.
Qua tháng năm trận mạc,
Thời gian quên con người!
( THỜI GIAN QUÊN 11 – 1973)
Mối ưu tư của Đỗ Hoàng thường gắn với những gì kỳ vĩ, những nhãn quan vũ trụ, những suy nghĩ gắn liền với nguyên lý sống còn:
NGỦ QUÊN

Không có mặt trời,
Trái đất ngủ quên.
Trong triệu năm băng giá!
Không có con thuyền,
Dòng sông ngủ quên.
Và tự xoá mình khi về biển cả!
Không có người­ đi,
Con đ­ường ngủ quên .
Rồi cũng tan vào cây cỏ!
Không có tình yêu,
Trái tim
ngủ quên.
Huế 1983
Anh ra trận với một cây súng dường như cũng không có được giấc ngủ thiếp lịm của sắt thép vô tri mà nó luôn ưu tư vì sự điểm hỏa của mình. Ưu tư về một chiến trường nằm giữa hố thẳm yêu bạo lực của cả một thế giới còn hiếu sát. Vì suy tư trên tầm rộng lớn nên lời thơ của anh rất hào sảng mạnh mẽ:
Tôi đã hành quân dã chiến dưới đáy cuộc đời lớp lớp chiến binh.
Mới nhìn rõ trái tim đen ngòm hơn họng súng.
Mới biết chẳng có gì tốt đẹp như những triết lý rơm nghìn đời mộng tưởng.
Mỗi một ngày trái tim thêm nỗi đau thương!
Nghĩ về cuộc đời hôm nay
Người lính không thể dửng dưng.
Không thể hướng nòng súng mình theo những lời giả dối.
Không thể dại khờ hành quân đi tới
Tử địa chiến trường bờ vực của chiến tranh!
( NGHĨ VỀ CUỘC ĐỜI HÔM NAY)

Tình yêu và thương xót trong chiến tranh mới chỉ là cảm xúc thuần túy giành cho những gì đã mất ở cấp độ tình cảm, nhưng để có phản tỉnh người ta đã phải leo lên rất cao ở tầng lý trí. Chính Đỗ Hoàng đã bày tỏ cuộc sống suy tư trong sáng tạo của mình:
Tôi đã đi đến cái thực chất bên trong của cuộc chến đời này
Cái thực chất mà sử sách, thơ văn đương kim người ta chưa hề nói đến.
Mặc dù báo chí, loa đài ra rả suốt ngày đêm.
Cuộc đời ơi! Chẳng có gì quý mến
Nếu con người chẳng có nghĩ suy riêng!
( THỰC CHẤT CUỘC CHIÊN)

Cái nhìn đầu tiên của Đỗ Hoàng dường như luôn có tầm nhìn bao quát ở trên cao, trước khi nhìn thấy đồng đội của mình anh luôn thấy số phận của nhân loại đang lầm than mất mát trong chiến tranh. Một người lính ngã xuống dù ở bên nào liệu khi biết tin mẹ anh ta có đau xót không ? Và chính lô gic đó Đỗ Hoàng luôn nhìn xa trông rộng về một thế giới phủ bóng tang thương qua nhiều biên giới chiến tranh :

Đêm nay ai không ngủ?
Nghĩ số phận loài người.
Hận thù đang còn ngự,
Mấy triệu đời chưa thôi!

Trái đất đen một nửa,
Bom đạn găm đầy mình.
Những đường gươm ly loạn,
Đang chém nát hành tinh!
( SỐ PHẬN LOÀI NGƯỜI)
Đỗ Hoàng đã đặt ra cho mình cũng như loài người những câu hỏi rất lớn, những câu hỏi mang tầm vĩ mô, hỏi về con người với bản tính đầu tiên, xem có phải đó là thứ tâm hồn hiếu sát chỉ đòi ăn thịt đồng loại:
bao nhiêu triệu năm ta mới có được chữ Người
- dẫn ta tới những tình yêu kỳ lạ
- dẫn Ta tới cái căm hờn nghiệt ngã
trên hành tinh này nửa trắng, nửa đen.
( LOÀI NGƯỜI)
Sau câu hỏi về thế giới tồn tại trong không gian là câu hỏi về thời gian, về thời đại mà tác giả đang sống và hành quân, về những trận chiến làm đổ máu những người lính cả quân ta lẫn công dân nhân loại. Bên này hay bên kia chiến tuyến ư, họ chẳng là những con người sao ?
thế kỷ hai mươi
con người ở đâu cũng tàn ác như nhau!
đâu phân biệt bên kia bờ chiến tuyến!
đất bằng này
sẵn súng, sẵn dao
sẵn những lời đổi đen ra trắng!
cái chết ở đây
nào có khác gì.
phát súng bên này, phát súng bên kia.
( THẾ KỶ HAI MƯƠI )
Đỗ Hoàng giành cho những đồng đội của mình cái nhìn thật yêu thương và trìu mến. thậm chí một nỗi đau còn đến trước nỗi đau:

Lính lại vào đầy bến.
Chỗ chuyển quân bầm tím cả chân trời
Mùa đông đi ra trận,
Có ánh mắt nào vui!
Và:
Ngày mai không biết nơi nào đánh?
Nhất định có người phải chết oan!
Một cái nhìn không chỉ lo lắng việc sinh tử mà còn là thứ tình cảm tàn phai trống vắng hoang vu phía tình yêu. Một cái gì thật xót xa:
Anh hành quân qua những lề đời chật hẹp.
Nắng phai màu quân phục trái tim anh.
Và em ạ ! Em đừng thương tưởng tiếc.
Một con người trong đời lính chiến chinh!
Đỗ Hoàng suy tư rốt ráo về kết cục của cuộc chiến, kẻ thì chết, người trở về thì khánh kiệt sức lực và mất mát. Một mất mát không nằm trong chi thể mà còn bị vắt kiệt trong cả mơ ước. Một làng quê không còn ánh lửa thắp lên nghĩa là dường như khống có cả ánh sáng cho tư duy, còn người lính rệu rã quay về liệu có còn sinh lực cho những ước mơ ?
mẹ hiền đón anh,
một người trọng bệnh.
qua vạn năm chưa ai chữa cho lành!
bây giờ anh không muốn tìm về người thân,
bởi sức lực trong anh đã kiệt.
tuổi yêu đương ngày xưa đánh mất,
trái tim vết chém u bầm!
phía quê nhà không một ánh lửa thắp lên.
bom đạn xáo trộn cày sông bến.
người lính tần ngần như kẻ chưa hồi sinh sự sống,
nhìn tầng mây ngơ ngác giữa trời quê.
chiến tranh,
chiến tranh
là thế kia!
lứa tuổi yêu đương không còn mơ ước.

( TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH )
Lãnh tụ Stalin có nói: chiến tranh, chết chóc nhiều khi chỉ là những con số thống kê. Nhưng nhà thơ Đỗ Hoàng không nghĩ vậy, cái nhìn của anh là một nhà thơ phải mang tính nhân văn, thơ anh dường như bao sân đến tất cả những người lính, những khía cạnh vất vả, gian lao, hy sinh, và anh không quên giành cái nhìn thật thương xót cho những cô gái chân yếu tay mềm, cành vàng lá ngọc phải lấm láp cát bụi khói lửa và hy sinh tàn khốc của chiến trường. Trong bài “Lính Gái” anh viết:
Đoàn lính gái áo quần còn mới
Lứa lính này đưa tới miền trong.
Họ không hề bị đeo gông,
Mà sao ánh mắt mênh mông nỗi buồn!
Xương trắng phơi nẻo ra tiền tuyến
Mồ gái tơ diều liệng, chồn giay!.
Lớp này rồi lớp khác thay,
Màu cờ lau trắng rợn lay sa trường!
Và cái chết sẽ chờ mọi lối,
Trên con đường dẫn tới miền trong.
Chiến tranh dai dẳng chưa xong.
Còn bao nhiêu chuyện đau lòng xảy ra!

Rồi Đỗ Hoàng khóc than cho một người đẹp ngã xuống bằng một khúc bi ca thật trữ tình tráng lệ. Một tiếng khóc khiến người ta thấy chiến tranh đã tàn hủy và tiêu diệt cả cái đẹp đau xót hoài phí đến nhường nào:
CÁI CHẾT NGƯỜI ĐẸP

Em chết rồi.
Người đẹp!
Viên đạn của thế kỷ nào bắn em?
Anh sững sờ giữa trái đất máu đổ.
Xác em nằm trong huyền ảo xa xôi.

Anh đi trên trái đất cô đơn.
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.

Anh không thể nào viết nỗi lời thơ.
Khóc em để loài người nguyền rủa!
Trong vô biên
Mạng em thua hạt cỏ.
Khóc em
Anh phản lại Trường Tồn!
Chiến trường Quảng Trị tháng 1 – 1974
Người Việt có câu: có cứng mới đứng đầu gió, với vốn liếng văn hóa dạn dầy, dài rộng, sâu lắng, và thi ca kim cổ đông tây đồ sộ, lại mang một tầm nhìn lớn cho thơ, một tầm vóc hoành tráng cho chữ nghĩa, làm gì Đỗ Hoàng chẳng tự tin và dám tả xung hữu đột đối mặt với lực lượng làm thơ mậu dịch đông rinh ríc. Có một phát hiện mới của loài người rằng: sáng tạo là việc của cá nhân chứ không phải làm việc là sản phẩm của đám đông. Hàng nghìn, hàng vạn người làm việc cũng không thể được gọi là sáng tác mà đó chỉ là sản xuất. Chính thế văn thơ bao cấp nhiều khi chỉ là chỗ không người. tôi vừa chia sẻ sự cô lập của Đỗ Hoàng vừa buộc phải thán phục anh. Nếu không có tâm hồn chịu sóng gió cô lập trước đám đông vần vèo nhũn nhẽo thì làm sao có được một Đỗ Hoàng thơ ca hoành tráng như vậy, dám làm một cây bút hàng đầu phản tỉnh lại cuộc chiến “nồi da sáo thịt”?! Bái phục! Bái phục!
NHĐ 30/94/2013

Tâm sự người lính (tiếp)

 08:21 27/07/2025

q TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH

Tòng quân lữ thứ tằng kinh chiến,
Thuyết đáo nam chinh các tự sầu
(Lính già từng trải mùi chinh chiến,
Nghe đánh về Nam hết cả hồn!)
Nguyễn Trung Ngạn - Đỗ Hoàng dịch


khi trái tim con người đã biét yêu thương,
đã biết phân biệt đâu là lẽ phải,
thì lúc đớ người ta phải chịu những gì tưởng như không chịu nổi,
của những thế kỷ chiến tranh bạo tàn trên mặt đất sinh ra!

tuổi thành niên năm tháng trôi đi,
bộ quân phục bạc phai màu nắng cháy,
mọi khổ đau đều bắt nguồn từ nơi ấy,
buổi chiều nhàu trên những dải rừng hoang…

ngày dài lãng quên theo nẻo, lối hành quân,
đêm co quắp với đội hình đánh giặc.
lính truyền cho nhau những tin kín mật,
chung lưng khi gặp quân thù!

đã vào lính rrồi,
người ta ít nói đến ước mơ,
kỷ niệm cũng phai dần theo khói lửa,
cái riêng kia nhiều khi không biết nữa,
mải mê công việc quên người!

thiên nhiên đổi mùa, mưa ngàn nắng nôi,
da dẻ thay màu,
người thay suy nghĩ!
đời lính tập làm quen với đói khổ,
làm quen với cái chết thường ngày.

thời gian trôi đi cũng chẳng ai hay?
Không có khái niệm thì giờ nơi chiến trường hoang dã.
khoảng thời gian vụt trôi qua đó,
nhẩm tính ra cũng mấy vạn năm rồi!

khi trái tim con người đã biết yêu thương,
là khi trái tim con người từng biết khổ đau,
vì những niềm vui,
vì những ký ức ban đầu trổi dậy,
vì những gì quý mến nhất trên đời tàn lụi!

trong cuộc trường chinh khò gặp lại một lần!
Tâm sự người lính

người lính sống nhiều với nỗi gian truân,
với bao nghĩ suy,
với bao dằn vặt!
nỗi đắng cay điên cuồng,
nỗi thâm gan uất ức.
mà cuộc đời không để để cho yên!

không thể đi tìm một sự thật lãng quên,
không thể sống tách mình ra ngoài quân ngũ.
kỷ luật nhà binh vẫn làm khốn khổ,
- lòng tự do khao khát của con người!

người lính đi nhiều và qua trăm nơi.
họ biết được nỗi đau của đời họ đang sống.
họ biết lắm kẻ gào lên
rồi im lặng,
triền miên trong suy nghĩ lao lung.

ai là người tri kỷ của nỗi lòng họ,
có không?
hay chỉ kẻ đứng bên ngoài tán thưởng.
họ muốn tìm ra thực chất cuộc sống,
mà máu tim hồng của họ đang rơi!

bao cái chết của một thời xa xôi,
nay lại trở về trên giường bệnh,
cái chết bình thường cũng làm nên con tính,
để loài người phải suy nghĩ hôm nay!

sống sót qua cuộc chiến tranh này còn lại là ai?
bụi chiến trường trên ngã đường chưa lắng đọng.
người lính ngã mũ ra,
trời cao đất rộng.
tưởng niệm hồn người quá cố năm xưa!
chiến tranh khốc tàn,
kẻ chết,
người lưa!
qua khói lửa bây giờ dừng lại.
nơi bờ tre có bàn tay run rẫy
của mẹ già khóc đón con về!

chiến tranh đã đi qua
chiến tranh là thế kia!
cái chết cũng bình thường như mạng kiến.
nhiều chứng nan y làm cho con người trống rỗng.

phần yêu thương nay đã mất đi rồi!
phút giây trở về
đổi lấy đời trai,
họ mệt mỏi ê chề như năm tháng.
mẹ hiền đón anh,
một người trọng bệnh.
qua vạn năm chưa ai chữa cho lành!

bây giờ anh không muốn tìm về người thân,
bỡi sức lực trong anh đã kiệt.
tuổi yêu đương ngày xưa đánh mất,
trái tim vết chém u bầm!

phía quê nhà không một ánh lửa thắp lên.
bom đạn xáo trộn cày sông bến.
người lính tần ngần như kẻ chưa hồi sinh sự sống,
nhìn tầng mây ngơ ngác giữa trời quê.

chiến tranh,
chiến tranh
là thế kia!

lứa tuổi yêu đương không còn mơ ước.

khi biết kẻ làm ra điều ác,
là khi anh đã ma dại, thân tàn!

nghìn năm qua nhân loại đã căm hờn.
bao cảnh chiến tranh vô nghĩa lý,
nghìn năm nay loài người xâu xé,
nghìn năm sau nhân loại vẫn lên án cuộc những chiến tranh này!

chiến tranh chẳng đem lại cho con người lợi ích nào đâu.
chỉ cái chết đè lên đầu, lên cổ.
bao đói rét dồn về người cùng khổ,
bao bất công phải ôm hận nghìn năm!

chỉ một nhúm người làm giàu trong chiến tranh,
chỉ một nhùm người nuôi sống đời mình
bằng máu đồng loại chảy.
chỉ một nhúm người ấy
xui cả tỷ người chém giết lẫn nhau!

được sống sót trở về trong khoảng vắng cô đơn.
đồng đội chết còn ai bât giờ nữa?
ĐỖ HOÀNG


lạ lùng lắm dù đứng nơi xứ sở,
có mẹ già run rẩy đón con xa!

người lính thân tàn như một vật vô tri,
người ta nhìn vào anh lạ lắm
- đấy giá trị của người trai chinh chiến!
đổi lấy gì khi anh trở về đây?

người lính u buồn úp mặt vào hai bàn tay,
vết thương trong lòng máu túa.
giá anh như đồng đội anh không còn nữa,
sẽ yên hơn khi phải sống với thế gian này!

cuộc đời vẫn chưa hết đâu!
vạn người như anh hồn bay lưởng vưởng…
rồi sau này còn ai nhắc đến?
nỗi đau sâu kín của con người.
mà thế kỷ chiến tranh này đã tàn phái!


Điểm chốt 176
Biên giới Việt – Lào
Tháng 9 năm 1973

TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH




LOÀI NGƯỜI
I
bao nhiêu triệu năm Tạo Hóa mới sinh ra được chữ Người.
bao nhiêu triệu năm Tạo Hóa mới cho Ta niềm kiêu hãnh của loài vật thông minh bậc nhất.
bao nhiêu triệu năm niềm kiêu hãnh không một loài nào cướp mất
xuyên qua ngàn thế kỷ xa xôi.
Bao nhiêu triệu năm ta mới có được chữ Người
- dẫn ta tới những tình yêu kỳ lạ
- dẫn Ta tới cái căm hờn nghiệt ngã
trên hành tinh này nửa trắng, nửa đen.


Ôi!
Ta đã tự hào với những niềm tin.
với những đam mê điên cuồng cỗ vũ.
Tâm sự người lính

với những tình thương rộn ràng ghê sợ
khi Ta đứng trên đỉnh núi muôn loài!

con Người
con Người
lúc đang bé thơ
đã biết bắt kẻ khác loài về thần phục
đã biết gieo vào triệu năm sự chết
trong hang ngàn niên đại xa xưa.
con Người
con Người
với tiếng cười điển hình trên lớp thú
với tiếng cười biết làm nên tất cả
cuộc sống khác thường trên khắp hành tinh!

II

Ôi!
Ta đã mất lòng tin
Ta biết bắt đầu từ trong loài ta ở
Ta biết bắt đầu từ khi
Ta đứng trong loài Ta,
Ta nhìn rất rõ
sự thật đắng cay


sự thật đảo điên
sự thật ác tàn
ngự trị thế gian
loài vật người, loài vật thú!

sự thật thông minh
sự thật ngu sy man rợ
thế gian đầy những nỗi thương đau!

III

điển hình cho sự điên cuồng cấu xé lẫn nhau
điển hình cho sự thù hằn khủng khiếp

là sự thật
hàng tỷ Người bị giết
nguyên do loài vật Người gây ra
mấy ngàn đời
vạn thế kỷ trôi đi
loài Người cô đơn sống trong loạn lạc

loài Người cô đơn ở trong chết chóc
loài Người cô đơn không có đường ra!
loài Người thông minh
loài Người ngu sy!
để bạo chúa nghìn đời ngự trị
để những cuộc sát tàn vô nghĩa lý
như chứng nan y hoành hành mãi trên đời!

IV

trong cái chết thất kinh cũng có tiếng cười
trong cái chết thất kinh cũng có kẻ lấy làm hàng mua bán
trong cái chết thất kinh cũng có kẻ lấy làm mục đích sự sống
nhuộm đồng tiền bằng máu Người rơi!

loài Người ngu si
và lũ chù hôi
hàng niên đại đè lên mạng Người cùng khổ
hàng niên đại vạn kẻ lánh đi vì sợ
để ngợi ca cái ác điên cuồng!


bao nhà thơ mất hết lương tâm,
bao bọn báo bồi, văn bồi làm gián điệp
bao tác phẩm nghệ thuật biến thành biệt kích
cuộc đời này đánh đĩ với văn chương!

V

bọn thống trị lấy ác tàn để làm "trí nhân",
bọn xu thời lấy cúi luồn làm nơi thăng tiến
mục đích đời là gì?
khi ác tàn cần đến,
chúng sẵn sàng bán hết lương tâm!

chỉ lấy một mẩu đời thôi,
có bao nỗi bất công

bao nỗi oán thù khủng khiếp
bao tai họa chùm lên đầu Người
bao oan nghiệt
hành tinh đói nghèo ly loạn đến nghìn sau!

chỉ lấy một mẩu đời thôi
có ai tính hết đâu
một phần triệu triệu lần cái ác


con Người
con Người
gớm ghiếc

bao triết gia coi khinh sự chết
bao nhà thơ ca ngợi cái điên cuồng
bao nhà văn bán đứng văn chương
bao chính khách phỉnh phờ
ngồi một nơi xui gào cổ vũ...

VI

chưa một nhà thống kê nào tính chính xác
cái ác tàn hôm nay, mai sau và quá khứ.
chưa một nhà nhân đạo nào nói hết
sự thật trắng đen
chưa có kẻ cầm quyền nào tự nhận
mình là lũ ác tàn
chưa có kẻ nào dám ngoảnh lại nhìn
đời mình trong lốt thú!

loài Người vỹ đại làm ra những điều
diệu kỳ trên trái đất

con Người cũng là kẻ bạo tàn bậc nhất
đau thương nghìn đời xưa
đau thương nghìn đời nay
và sau những thế kỷ xa xôi...


VII

không gian, thời gian vĩnh viễn kéo dài
bao tai họa loài Người còn phải chịu

bao đau thương còn đẵng đeo mãi mãi
bao kẻ ác tàn đang sống phởn phơ
bao con Người lương thiện chết bơ vơ
bao nhiêu...
mà chữ Người lại chia đều cho mọi đứa?

biết bao giờ Ta được tin
được cầu mong hơn chút nữa?
loài Người xóa đi cái căm ghét thù hằn
loài Người xóa đi cái dai đẵng chiến tranh!
để cho con Người được nhìn trời cao, đất rộng
đem điều thiện trở về cuộc sống

mọi thù hằn, tàn ác sẽ tan đi!
cho trái đất không còn bị cắt chia
cho cuộc đời khồng còn ngu si, ác tàn bịp bợm
để chỉ có
con Người

TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH


con Người duy nhất


trên hành tinh này
tan hết màu đêm

ta mong một ngày
ta có lại niềm tin
ta có lại niềm tin

trong loài Ta ở
thì chữ Người
mới trở về với loài Ta đó!

Cao điểm chốt 280
Biên giới Việt - Lào
Ngày 4 - 6 - 1973
Đõ Hoàng

CÁI CHẾT NGƯỜI ĐẸP


Em chết rồi.
Người đẹp!
Viên đạn của thế kỷ nào bắn em?
Anh sững sờ giữa trái đất máu đổ.
Xác em nằm trong huyền ảo xa xôi.

Không gian đen,
Không gian trắng
Không nói ra lời
Nỗi đau trái đất kéo tang màu mây xám.
Thế là vô tình
Sự sống
Bắt tay cái chết chia lìa!

Quân phục em mang
Máu thâm sì.
Nghìn năm sau em chẳng về được nữa.
Dù vật chất biến hoá bảo toàn,





Dù sự sống chỉ là điều phi lý.
Không gian,
Thời gian
Mệt mỏi trường tồn!

Anh đi trên trái đất cô đơn.
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.


Anh không thể nào viết nỗi lời thơ.
Khóc em để loài người nguyền rủa!
Trong vô biên
Mạng em thua hạt cỏ.

Khóc em
Anh phản lại Trường Tồn!

7 – 1974

Dịch thơ Lý Bạch

 07:40 26/07/2025

春日醉起言志 (Lý Bạch) (1)
Nhà thơ Đỗ hoàng có biệt tài dịch Đường thi. Ông đã đưa các thiên tài thơ thành thêm thiên tài nữa như:: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu…
Xin giới thiệu một bài dịch của ông
“Ngày xuân tỉnh dậy nói chí mình”
春日醉起言志
處世若大夢,
胡為勞其生?
所以終日醉,
頹然臥前楹。
覺來眄庭前,acs thiên tài
一鳥花間鳴。
借問此何時?
春風語流鶯。
感之欲歎息,
對酒還自傾,
浩歌待明月,
曲盡已忘情。
Xuân nhật tuý khởi ngôn chí
Xử thế nhược đại mộng,
Hồ vi lao kỳ sinh!
Sở dĩ chung nhật tuý,
Đồi nhiên ngoạ tiền doanh.
Giác lai miện đình tiền,
Nhất điểu hoa gian minh.
Tá vấn thử hà thời,
Xuân phong ngữ lưu oanh.
Cảm chi dục thán tức,
Đối tửu hoàn tự khuynh.
Hạo ca đãi minh nguyệt,
Khúc tận dĩ vong tình.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
Ở cõi đời như trong một giấc mộng lớn
Tại làm sao mà lại phải làm mệt nhọc cho cuộc sống
Bởi vậy suốt ngày cứ say sưa
Nằm uể oải nhoài trước hiên
Lúc tỉnh dậy nhìn ra trước sân
Một con chim đang hót trong đám hoa
Xin hỏi hôm nay là ngày nào
Mà chim oanh trò chuyện trong gió xuân
Cảm xúc trước cảnh ấy, muốn thở than
Hướng về đó, thôi thì lại tự rót rượu
Hát vang chờ đợi trăng sáng
Hát xong thì đã quên hết tình
Lý Bạch tả cái tư tưởng chán đời, muốn trốn việc đời bằng rượu. Ý nói ở đời chẳng qua như giấc mộng lớn, làm gì mà phải vất vả thân mình, bởi mình hiều cái lẽ ấy, cho nên cả ngày say sưa không tỉnh. Trong khi say quá, lăn ra ngủ trước cột nhà, quên cả ngày tháng. Đến lúc thình lình tỉnh dậy, ngó ra trước sân thì một con chim đương véo von kêu ở trong hoa. Vì đã không nhớ ngày tháng, nên phải hỏi ngày nay là ngày gì. Thì ra, bấy giờ đã đương mùa xuân, gió xuâns mộng lớn
đã giục con oanh tập hót. Cảm vì thấy ngày tháng mau chóng, những muốn than thở ngậm ngùi. Và đối trước cái cảnh hoa nở, chim kêu, lại nghiêng bình rượu tự chuốc cho mình. Rồi cứ hát xướng nghêu ngao đề chờ trăng lên. Nhưng, hát vừa hết bài thì đã quên cả tình ý ở trong câu hát.
Đõ Hoàng dịch thơ:
NGÀY XUÂN TỈNH DẬY NÓI CHÍ MÌNH.
Đời như giâc mộng lớn.
Làm chi nhọc tám thân
Nên suốt ngày say khướt
Bên cột nhà nằm khênh.
Tỉnh dây nhìn ra cửa
Chim chi hot trên cành?
Ướm hỏi ngày gì thế?
Oanh líu lo gió xuân
Rồi ngậm ngùi than thở
Lại nghiêng bầu một mình!
Hát tràn chờ trăng sáng
Lời dứt đã quên tình!
(1) Rút trong tập “Túy thì ca” thơ dịch – NXB Văn hóa - Dân tôc năm 2 000

Ngục trung nhật ký(tiếp)

 20:38 25/07/2025


倦鳥歸林尋宿樹,
孤雲慢慢度天空。
山村少女磨包粟,
包粟磨完爐已烘。

Mộ
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Dịch nghĩa
Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,
Chòm mây đơn lẻ trôi tầng không;
Xóm rừng thiếu nữ xay ngô tối,
Ngô xay vừa xong, lò than đã đỏ
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Chim mỏi về rừng tìm chỗ ngủ
Đám mây chàm chậm giữa tầng không
Gái tơ xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng!

Xuất tái

 20:34 25/07/2025

出塞其一 • Ra cửa ải - Vương Xương lLnh
出塞其一
秦時明月漢時關,
萬里長征人未還。
但使龍城飛將在,
不教胡馬渡陰山。
Xuất tái kỳ 1
Tần thời minh nguyệt Hán thời quan,
Vạn lý trường chinh nhân vị hoàn.
Đãn sử Long Thành[1] phi tướng[2] tại,
Bất giao Hồ mã độ Âm san[3].
Dỗ Hoàng dịch nghĩa
Vầng trăng sáng của đời Tần và cửa ải của đời Hán,
Muôn nghìn người chinh chiến nơi nghìn dặm vẫn chưa trở về.
Nếu như có vị tướng bay ở tại Long Thành,
Thì sẽ không cho ngựa Hồ vượt qua núi Âm sơn
Đỗ Hoàng dịch thơ
Trăng Tần, ải Hán vẫn còn kia
Muôn lính trường chinh chưa trở về.
Nếu có tướng tài như Lý Quảng.
Âm Sơn không có ngựa Hồ rê!

Ngucj trung nhạt ký (tiếp)

 18:44 24/07/2025

半路搭船赴邕
乘舟順水往邕寧,
脛吊船欄似絞刑。
兩岸鄉村稠密甚,
江心漁父釣船輕。

Bán lộ đáp thuyền phó Ung
Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh
Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình
Lưỡng ngạn hương thôn trù mật thậm
Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.
Dịch nghĩa
Đáp thuyền xuôi dòng đi Ung Ninh,
Chân bị treo lên giàn thuyền như tội hình treo cổ;
Làng xóm hai bên sông thật là đông đúc,
Giữa lòng sông, thuyền câu của ông chài lướt nhẹ
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đáp thuyền xuôi dòng tới Ung Ninh.
Chân cẳng treo lên tựa tội hình.
Làng xóm hai bờ sông đông đúc.
Giữa dòng, ông chàì lướt nhẹ tênh.

Ngục trung nhật ký (tiếp)

 13:53 23/07/2025

野景
我來之時禾尚青,
現在秋收半已成。
處處農民顏帶笑,
田間充滿唱歌聲。

Dã cảnh
Ngã lai chi thì hoà thượng thanh,
Hiện tại thu thu bán dĩ thành.
Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu,
Điền gian sung mãn xướng ca thanh.
Dịch nghĩa
Lúc ta đến lúa còn xanh,
Nay vụ gặt đã xong một nửa;
Nơi nơi nông dân mặt mày hớn hở,
Ruộng đồng tràn đầy tiếng ca hát
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ta về đây lúc lúa còn xanh
Vụ gặt hôm nay hơn nửa phần
Nơi chốn nông dân cười hớn hở
Ruộng đồng tràn ngập tiếng ca thanh!

Ngục trung nhật ky (tiếp )

 13:48 23/07/2025

CHƯƠNG 4
VÔ NGUYÊN
無 源
Hán văn:
道 沖 而 用 之 或 不 盈. 淵 兮 似 萬 物 之 宗. 挫 其 銳, 解 其 紛, 和 其 光, 同 其 塵. 湛 兮 似 或 存. 吾 不 知 誰 之 子. 象 帝 之 先.
Phiên âm:
1. Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh.
2. Uyên hề tự vạn vật chi tông.
3. Tỏa kỳ nhuệ,giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần.
4. Trạm hề tự hoặc tồn.
5. Ngô bất tri thùy chi tử. Tượng đế chi tiên.
Dịch nghĩa:
1. Đạo rỗng không mà dùng không hết.
2. Đạo sâu xa man mác tựa hồ như là tổ tông vạn vật.
3. Làm nhụt bén nhọn, tháo gỡ rối rắm, pha trộn ánh sáng, hòa mình cùng bụi rậm.
4. Trong trẻo thay, tựa hồ trường tồn.
5. Ta không biết Đạo con ai; hình như có trước Thiên đế.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo rỗng không, vững bên muôn kiếp
Đạo sâu xa nối tiêp nguồn xưa
Gỡ rối rắm, chuốt tà lưa.
Chan hòa ánh sáng buổi vừa mơi sinh.
Trong trẻo thay, tựa trường sinh
Đạo là con của thiên đình, đế thiên!

Ngục trung nhất ký - thơ dịch

 14:10 22/07/2025


脛臂長龍環繞著,
宛如外國武勳官。
勳官的是金絲線,
我的麻繩一大端。

Bang
Hĩnh tí trường long hoàn nhiễu trước,
Uyển như ngoại quốc vũ huân quan.
Huân quan đích thị kim ty tuyến,
Ngã đích ma thằng nhất đại đoan.

Rồng dài quấn quanh cẳng chân và cánh tay,
Giống hệt dây tua quan võ nước ngoài.
Dây tua quan võ là tơ kim tuyến,
Còn của ta là một sợi thừng gai lớn.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Rồng dài quấn quanh chân liền tay.
Giống hệt tua quan võ nước ngoài
Tua võ quan bằng tơ kim tuyến
Tua ta là một sợi thừng gai!
Công ty chủ quản
Chuyển giao diện: Tự động Máy Tính