Thơ không vần thê giới tiếp (5)

 02:09 18/06/2025

THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM (tiếp theo) 5
Đỗ Hoàng
Thuật ngữ : Thư không vần – Viết bỏ vần điệu
Thơ vô lối: Viết bỏ vần điệu, không ý tưởng.
Tho vô lôi thi tặc: viết bỏ vần điệu, không ý tương, bệnh hoạn, dâm dật, bẩn thỉu, phá vỡ truyền thông tổ tiên và nân loại.
27 tên vô lối – thi tặc Việt Nam: 1, Thanh Tâm Tuyền, 2, Lê Văn Ngăn, 3, Nguyễn Quang Thiều,4, Nguyễn Bình Phương, 5, Nguển Khoa Diềm,6, Phan Hoàng,7, Trần Hùng,8, Phú Trạm Inra sa ra, 9, Hoàng Vũ Thuật, 10, Mai Văn Phấn, 11, Thi Hoàng, 12, Mai Quỳnh Nam , 13, Trúc Thông, 14, Nguyễn Phan Quế Ma, 15, Phan Huyền Thư,16, PhanThị Vàng Anh, 17, Tuyết Nga, 18, Dư Thị Hoàn,19, Hoàng Hưng, 20, Thanh Tùng, 21, Từ Quôc Hoài, 22, Văn Cầm Hải, 23, Giáng Vân, 24, Đỗ Doàn Phương, 25,Phạm Đương. 26, Vi Thùy Linh, 27, Mã Giang Lân.
Cuối thế kỷ XX, nhất là thời điểm năm 1993, khi Hội Nhà văn Việt Nam trao tặng giải thưởng “Sự mất ngủ của lửa” cho Nguyễn Quang Thiêu – một anh Công an chuyên nghiệp thi “thơ vô lối” mới bùng phát như nâm độc sau mưa! Các báo chi Trung ương đến địa phương đâu cũng in loại viết này. Người ta có hàng vạn nhà thơ, hàng vạn nhà phê bình, tiến sĩ bò cũng lắm, tiến sĩ thật cũng nhiều chả ma nào lên tiếng khen chê!! Người ta vin vào Tây, Tàu: “họ làm được thì mình cũng làm được”.
Tôi là người đọc nên thấy thơ hay thì đoc, thơ dở thì thôi! Nên không bao giờ đọc “vô lối” viết bỏ vần, bỏ điệu, tư tương thua chổi cùn!. Nhưng rôi “vô lối” được đưa vào giảng dạy, bắt cả ấu trò học! Thế thì chết cả nút! Cha ông minh phân ra các loại hình để phân biệt như: chiếu, biểu, hịch, sớ, phú, sắc,thơ, phú…Kiểu viết không ra hàng, ra lối; tư tưởng tù mù, rối rắm vô nghĩa, khiên cưỡng, tối nghĩa, lắm lời, dâm dât, băng hoại đạo đức, hoa hòe, hoa sói, lai căng, Tây không ra Tây, Tàu không ra Tàu, ngụy ngôn, giả dối, giả tạo ngu đần, phá nát thuần phong , mỹ tục rất phản cảm…trên toàn cõi Việt! Tôi đặt loại viết rác rưởi này cái tên mới “ thơ vô lối”. Từ đó “ vô lối” xuất hiện thành một thuật ngữ Văn Học nước nhà! “Vô lối” ngập tràn đất nước!
Đám ‘vô lối” nói chung thấp học, ngu dốt. Cái nguy hại nhất là chúng không có trái tim! Cả “thế hệ trơ đi như thỏi sắt”! Chúng ngu dốt vì không học cha ông. Tổ tiên ta đã viết “thơ không vần” đã thành Thánh thi mà các nhà thơ Tây gốc chính hãng như Milton, Cowper , Guillaume Apollinaire, William Shakespeare, Henry Howard , Walt Whitman …phải chấp tay vái:
Nguyễn Trãi
Bình Ngô đại cáo:
Bình Ngô đại cáo 平吳大告 • Cáo bình Ngô
…神武不殺,予亦體上帝孝生之心。
參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;
總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。
彼既畏死貪生,而修好有誠;
予以全軍為上,而欲民之得息。
非惟謀計之極其深遠,
蓋亦古今之所未見聞。
社稷以之奠安,
山川以之改觀。
乾坤既否而復泰,
日月既晦而復明。
于以開萬世太平之基,
于以雪天地無窮之恥。
是由天地祖宗之靈有,
以默相陰佑而致然也!
於戲!
一戎大定,迄成無競之功;
四海永清,誕布維新之誥…
…Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,
Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.
Ô hô!
Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Đỗ Hoàng dịch thơ ….
Ta chẳng giết hại, thể lòng trời, ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn xiêu, phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, đem cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy bảo toàn là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Non sông từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại sáng
Trời trăng tối rồi lại hừng
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;…
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay!
Trần Quốc Tuấn - Hịch (trích)
- Trần Quốc Tuấn (1231? - 1300), tước Hưng Đạo Vương.
- Ông là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc thời Trần.
- Năm 1285 và năm 1287, quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang.
- Vào đời vua Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) rồi mất ở đấy.
- Nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đến thờ ở nhiều trên đất nước.
Dụ chư tỳ tướng hịch văn (諭諸裨將檄文), thường được gọi là Hịch Tướng Sĩ, là bài hịch của thống súy Trần Quốc Tuấn.
Nguyên bản Việt cổ (chữ Nho)
Phiên âm tiếng Việt
Dụ chư tỳ tướng hịch văn (諭諸裨將檄文), thường được gọi là Hịch Tướng Sĩ, là bài hịch của thống súy Trần Quốc Tuấn.
Nguyên bản Việt cổ (chữ Nho)
Phiên âm tiếng Việt
余常聞之
Dư thường văn chi:
紀信以身代死而脫高帝
Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế;
由于以背受戈而蔽昭王
Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương.
豫讓吞炭而復主讎
Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù;
申蒯断臂而赴國難
Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn.
敬德一小生也 身翼太宗而得免世充之圍
Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi;
杲卿一遠臣也 口罵禄山而不從逆賊之計
Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế.
自古忠臣義士 以身死國 何代無之
Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi?
設使數子區區為兒女子之態
Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thá
徒死牖下 烏能名垂竹白
Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch,
與天地相為不朽哉
Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai!
汝等世為將種 不曉文義
Nhữ đẳng thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa,
其聞其說 疑信相半
Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán.
古先之事姑置勿論
Cổ tiên chi sự cô trí vật luận.
今余以宋韃之事言之
Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi:
王公堅何人也
Vương Công Kiên hà nhân dã?
其裨將阮文立又何人也
Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã?
以釣魚瑣瑣斗大之城
Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đẩu đại chi thành,
當蒙哥堂堂百萬之鋒
Đương Mông Kha đường đường bách vạn chi phong,
使宋之生靈至今受賜
Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ!
骨䚟兀郎何人也
Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã?
其裨將赤脩思又何人也
Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã?
冒瘴厲於萬里之途
Mạo chướng lệ ư vạn lý chi đồ,
獗南詔於數旬之頃
Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh,
使韃之君長至今留名
Sử Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh!
況余與汝等生於擾攘之秋
Huống dư dữ nhữ đẳng, Sinh ư nhiễu nhương chi thu;
長於艱難之勢
Trưởng ư gian nan chi tế.
竊見偽使往來 道途旁午
Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ.
掉鴞烏之寸舌而凌辱朝廷
Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình;
委犬羊之尺軀而倨傲宰祔
Ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ.
托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅求
Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu;
假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥庫
Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng hố.
譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉
Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai?
余常臨餐忘食 中夜撫枕
Dư thường lâm xan vong thực, Trung dạ phủ chẩm,
涕泗交痍 心腹如搗
Thế tứ giao di, Tâm phúc như đảo
常以未能食肉寢皮 絮肝飲血為恨也
Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã.
雖余之百身高於草野
Tuy dư chi bách thân, cao ư thảo dã;
余之千屍裹於馬革
Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách,
亦願為之
Diệc nguyện vi chi.
汝等久居門下 掌握兵權
Nhữ đẳng cửu cư môn hạ, Chưởng ác binh quyền.
無衣者則衣之以衣
Vô y giả tắc ý chi dĩ y;
無食者則食之以食
Vô thực giả tắc tự chi dĩ thực.
官卑者則遷其爵
Quan ti giả tắc thiên kỳ tước;
祿薄者則給其俸
Lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng.
水行給舟 陸行給馬
Thủy hành cấp chu; Lục hành cấp mã.
委之以兵則生死同其所為
Ủy chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi;
進之在寢則笑語同其所樂
Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc.
其是公堅之為偏裨 兀郎之為副貳亦未下爾
Kỳ thị Công Kiên chi vi thiên tì, Ngột Lang chi vi phó nhị, Diệc vị hạ nhĩ.
汝等坐視主辱曾不為憂
Nhữ đẳng tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu;
身當國恥曾不為愧
Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý.
為邦國之將侍立夷宿而無忿心
Vi bang quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm;
聽太常之樂宴饗偽使而無怒色
Thính thái thường chi nhạc, yến hưởng ngụy sứ nhi vô nộ sắc.
或鬥雞以為樂或賭博以為娛
Hoặc đấu kê dĩ vi lạc; Hoặc đổ bác dĩ vi ngu.
或事田園以養其家
Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia;
或戀妻子以私於己
Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ.
修生產之業而忘軍國之務
Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ;
恣田獵之遊而怠攻守之習
Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập.
或甘美酒或嗜淫聲
Hoặc cam mỹ tửu; Hoặc thị dâm thanh.
脱有蒙韃之寇來
Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai,
雄雞之距不足以穿虜甲
Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp;
賭博之術不足以施軍謀
Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu.
田園之富不足以贖千金之軀
Điền viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu;
妻孥之累不足以充軍國之用
Thê noa chi lụy, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng.
生產之多不足以購虜首
Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ;
獵犬之力不足以驅賊眾
Liệp khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng.
美酒不足以沈虜軍
Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ quân;
淫聲不足以聾虜耳
Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ.
當此之時 我家臣主就縛 甚可痛哉
Đương thử chi thời, Ngã gia thần chủ tựu phọc, Thậm khả thống tai!
不唯余之采邑被削
Bất duy dư chi thái ấp bị tước,
而汝等之俸祿亦為他人之所有
Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở hữu;
不唯余之家小被驅
Bất duy dư chi gia tiểu bị khu,
而汝等之妻孥亦為他人之所虜
Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ;
不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵
Bất duy dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn xâm,
而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘
Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật;
不唯余之今生受辱 雖百世之下 臭名難洗 惡謚長存
Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường tồn,
而汝等之家清 亦不免名為敗將矣
Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi bại tướng hĩ!
當此之時汝等雖欲肆其娛樂得乎
Đương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu lạc, đắc hồ?
今余明告汝等
Kim dư minh cáo nhữ đẳng,
當以措火積薪為危
Đương dĩ thố hỏa tích tân vi nguy;
當以懲羹吹虀為戒
Đương dĩ trừng canh xuy tê vi giới.
訓練士卒習爾弓矢
Huấn luyện sĩ tốt; Tập nhĩ cung thỉ.
使
Sử
人人逄蒙家家后羿
Nhân nhân Bàng Mông; Gia gia Hậu Nghệ.
購必烈之頭於闕下
Cưu Tất Liệt chi đầu ư khuyết hạ;
朽雲南之肉於杲街
Hủ Vân Nam chi nhục ư cảo nhai.
不唯余之采邑永為青氈
Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên,
而汝等之俸祿亦終身之受賜
Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ tứ;
不唯余之家小安床褥
Bất duy dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục,
而汝等之妻孥亦百年之佳老
Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão;
不唯余之宗廟萬世享祀
Bất duy dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự,
而汝等之祖父亦春秋之血食
Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết thực;
不唯余之今生得志
Bất duy dư chi kim sinh đắc chí,
而汝等百世之下芳名不朽
Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ;
不唯余之美謚永垂
Bất duy dư chi mỹ thụy vĩnh thùy,
而汝等之姓名亦遺芳於青史矣
Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh sử hĩ.
當此之時汝等雖欲不為娛樂得乎
Đương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu lạc, đắc hồ!
今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略
Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư, danh viết Binh thư yếu lược.
汝等或能專習是書 受余教誨 是夙世之臣主也
Nhữ đẳng hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã;
或暴棄是書 違余教誨 是夙世之仇讎也
Hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã.
何則
Hà tắc?
蒙韃乃不共戴天之讎
Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù,
汝等記恬然不以雪恥為念 不以除凶為心
Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm,
而又不教士卒 是倒戈迎降 空拳受敵
Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch;
使平虜之後 萬世遺羞
Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu,
上有何面目立於天地覆載之間耶
Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da?
故欲汝等明知余心 因筆以檄云
Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm, Nhân bút dĩ hịch vân.
Hịch tướng sĩ (Ngô Tất Tố (dịch – trích)
“Ta thường nghe: Kỷ Tín lấy thân chết thay, cứu thoát được vua Cao-đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo che chở được vua Chiêu-vương; Dự Nhượng nuốt than để trả thù cho thầy; Thân Khoái chặt tay để gánh nạn cho nước; Uất Trì Cung một viên tướng nhỏ, còn biết che đỡ Đường-chủ, ra khỏi vòng vây của Thế Sung; Nhan Cảo-Khanh là bầy tôi xa, còn biết mắng chửi Lộc Sơn, không nghe lời dụ của nghịch-tặc. Từ xưa, những bậc trung-thần nghĩa-sĩ, lấy thân theo nước, đời nào là không có đâu? Nếu mấy người kia, chăm chăm học thói dút-dát của con gái trẻ con, chẳng qua cũng đến chết dũ ở dưới cửa sổ, đâu được ghi tên vào trong thẻ tre lụa trắng, danh tiếng cùng trời đất cùng lâu bền?
Các người đời đời là con nhà võ, không biết chữ nghĩa, nghe những chuyện ấy, thảy đều nửa tin nửa ngờ. Thôi thì những việc cổ xưa, hãy để đó không nói đến nữa. Nay ta hãy đem chuyện nước Tống, giống Thát(là chuyện gần đây) kể cho các người cùng nghe: Vương công Kiên là người gì? Nguyễn văn Lập tỳ-tướng của y lại là người gì, chỉ có vòng thành Điếu-ngư nhỏ bằng cái đấu hai người ấy chống nổi toán quân trăm vạn của Mông-kha, khiến cho con dân nước Tống, đến nay hãy còn nhớ ơn. Đường ngột Ngại là người gì? Xích tu Tư tỳ-tướng của y lại là người gì? xông pha lam-chướng trên đuờng muôn dặm, hai người ấy đánh được quân Nam-chiếu trong vài tuần, khiến cho vua chúa giòng Thát nay còn để tiếng!
Huống chi ta với các ngươi, sinh ở buổi rối ren, lớn lên nhằm khi khó nhọc, chính mắt ngó thấy sứ ngụy đi lại, đường xá nghẽn-ngang, chúng múa cái lưỡi cú quạ làm nhục chốn triều-đình, chúng giơ cái thân chó dê, kiêu ngạo với quan tể-phụ; chúng nhờ mệnh lệnh của chúa Mông-Cổ, mà đòi nào ngọc nào lụa, sự vòi vĩnh thật vô cùng; chúng mượn danh hiệu của vua Vân-nam mà hạch nào bạc nào vàng; của kho đụn đã hồ hết Cung-đốn cho chúng giống như đem thịt mà liệng cho cọp đói, sao cho khỏi lo về sau?
Ta thường thì tới bữa quên ăn, giữa đêm vỗ gối, nước mắt tràn xuống đầy mép, tấm lòng đau như bị đâm, vẫn lấy cái sự chưa thể ăn thịt nằm da, nuốt gan uống máu của chúng làm tức. Dẫu cho một trăm cái thân của ta phải đem đốt ở đồng cỏ, một nghìn cái thân của ta phải đem bọc vào da ngựa, ta cũng vui lòng. Các ngươi lâu nay ở dưới cửa ta cầm giữ binh-quyền, thiếu áo thì mặc áo cho, thiếu ăn thì sẻ cơm đỡ, quan nhỏ thì cho lên chức, bổng ít cho thêm lương, đi thủy cấp thuyền, đi bộ cấp ngựa, những khi trận mạc, sự sống thác thầy chung với trò, những lúc mừng khao, tiếng vui cười ai cũng như nấy. So với Công Kiên làm chức thiên-lý, Ngột Ngại ở ngôi phó nhị, có khác gì đâu.
Thế mà các ngươi thấy chủ bị nhục chẳng lấy làm lo, gặp nước bị dơ chẳng lấy làm thẹn, làm tướng nhà nước phải hầu mấy đứa chum mường, mà không có lòng căm hờn, nghe khúc nhạc thờ đem thết một tên ngụy sứ, mà không có vẻ tức giận; kẻ thì chọi gà cho thích, kẻ thì đánh bạc mua vui, có người chỉ chăm vườn ruộng, cốt nuôi được nhà; có người chỉ mến vợ con, lấy mình làm trọng; cũng có kẻ chỉ lo làm giàu làm có, việc quân quốc chẳng thèm đoái hoài, cũng có người chỉ ham về săn-bắn mà quên việc binh, hoặc là đam mùi rượu ngọt, hoặc là mê tiếng hát hay.
Một khi giặc Mông đến nơi, thì cựa con gà nòi không thể đâm thủng áo-giáp của giặc; thuật ở bàn bạc không thể đem làm mưu mẹo ở trong quân; vườn ruộng tuy giàu, tấm thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vợ con tuy sẳn, trong đám ba quân khó dùng, của cải tuy nhiều, không thể mua được đầu giặc; chó săn tuy khỏe, không thể đuổi được quân thù, rượu ngon không đủ để cho giặc phải mê; hát hay không đủ làm cho giặc phải điếc; lúc đó thầy trò ta sẽ cùng bị trói, đáng đau đớn biết chừng nào! Nếu thế, chẳng những là thái-ấp của ta không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng bị kẻ khác chiếm mất; chẳng những là gia- quyến của ta phải đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc của tổ tông ta sẽ bị dày xéo, mà đến mồ mả của cha mẹ ngươi cũng sẽ bị kẻ khác đào lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, và trăm kiếp khác tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu vẫn còn, mà gia thanh của các ngươi cũng chẵng khỏi mang tiếng là nhà bại tướng. Đã đến khi đó các ngươi muốn chơi bời cho thỏa, được chăng?
Nay ta bảo rõ các ngươi: cái chuyện dấm lửa đống củi phải lo, mà câu sợ canh thổi rau nên nhớ. Các ngươi hãy nên huấn luyện quân sĩ, rèn tập cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, bêu đầu Hốt TấtLiệt dưới cửa khuyết, ướp thịt Thoát Hoan trong trại rơm. Như thế chẳng những là thái ấp của ta mãi mãi là của gia truyền, mà bổng lộc các ngươi cũng được suốt đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta được yên giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng được sum họp đến già; chẳng những là tông miếu ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các người dưới trăm đời nữa tiếng thơm vẫn lưu truyền; chẳng những tên tuổi ta không bị mai một, mà đến tên họ các người cũng để tiêng thơm trong sử xanh. Khi ấy các ngươi không muốn vui chơi, được chăng?
Nay ta lựa chọn binh pháp các nhà, làm một quyển sách, đặt tên là sách "Binh thư yếu lược". Nếu các ngươi biết chuyên tập sách ấy, nghe lời dạy-bảo của ta, ấy là duyên thầy trò kiếp xưa; Nếu các ngươi bỏ bê sách ấy, trái lời dạy-bảo của ta, ấy là mối cựu thù kiếp xưa, Sao vậy? Bởi vì như vậy tức là kẻ thù không đội chung trời, thế mà các ngươi không nghĩ tới, điềm nhiên không lo đến sự rửa thẹn, không tinh; đến việc trừ hung, không nhớ đến chuyện dạy-tập quân-sĩ. Thế là giở giáo hàng giặc, nắm tay chống giặc. Rồi đây, sau khi dẹp yên quân giặc, các ngươi sẽ phải thẹn muôn đời, còn mặt-mũi nào đứng giữa khoảng trời đất che chở? Ta muốn các ngươi biết rõ bụng ta, nhân viết mấy lời đó làm hịch.”
(còn nữa)

Thi tăc số 21 - Hoàng Hưng

 02:02 18/06/2025

THI TAC số 21 - "Bạn giờ giao hợp nơi đâu/hay về gacs cũ sắc mù đung đưa!
"Con gà quay
Con gà quay
Cởi quần chửi thề"
Hoàng Hưng
DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT
Nguyên bản: GIẤC MƠ ANH NGẬP BIỂN
Tặng Mười
Rồi một ngày anh gặp em
Vàng rực bờ biển nắng
Em mới hiểu rằng em là biển
Bao nhiêu năm sóng thầm réo trong mình
Anh mới hiểu chính em là biển
Bao nhiêu năm anh tìm
Những bắp thịt săn của sóng
Đánh vào ta nồng nàn,
Muối mặn ngấm vào rực máu
Trái tim bắt đầu hoang mang
Rồi giấc mơ anh ngập biển
Vụt kinh hoàng bóng em tan biến,
Và giấc mơ em ngập biển
Ngượng ngùng để anh nắm tay.
Nắm tay nhau nhảy tung ngọn sóng,
Nắm tay nhau ngụp lặn thủy triều,
Em sặc nước rồi anh sặc nước.
Tỉnh dậy một mình đầm nước mắt
Thôi chúng mình đã yêu!
Đỗ Hoàng
Dịch ra THƠ VIỆT –VÔ LỐI HOÀNG HƯNG
GIẤC MƠ BIỂN
Rồi một ngày anh được gặp em
Trời rực vàng rực trên bờ biển thắm
Anh mới hiểu em là biển nắng
Bao nhiêu năm reo sóng trong mình
Anh thêm hiểu chính em biển thắm
Bao nhiêu năm anh đã đi tìm!
Những bắp thịt săn chắc của sóng
Đánh vào ta mãnh liệt vô vàn,
Biết muối mặn ngấm vào người rực máu
Trái tim trẻ trai hồi hộp hoang mang
Rồi giấc mơ anh tràn ngập biển
Bóng em tan vụt biến bàng hoàng!,
Và giấc mơ em đầy ngập biển
Tay trong tay thương yêu nồng nàn!
Ngượng ngùng biển để anh tay nắm.
Tay trong tay tấy tung ngọn sóng,
Tay trong tay ngụp cơn triều cường,
Em và anh tất thảy đều sặc nước.
Tỉnh dậy một mình anh nước mắt đầy tràn
Thôi chúng mình đã thật yêu nồng nàn!
Hà Nội ngày 18 – 11 -2022
Đ - H
Không có thông tin chi tiết để hiển thị
Tác giả
Do Hoang

Thi tặc sô 8 - Phú Trạm Ỉnasara

 15:50 17/06/2025

nStrosopdei0
2

07gu
0
2
7

2
,
t518
6
3
6ca
g
86
á
l708l2
t
105
1
86m
h
3
2

n
uf1i
·
Đã chia sẻ với Công khai
THI TẶC 8 - VÔ LỐI PHÚ TRẠM IN RA SA RA VIẾT CHO AI ĐỌC -Hời còn 1000 người, 1tiểu đoàn linh về làng Hời ngủ 1đêm tiêu mà dân Hời - Chủ tịch Hội đồng Thơ - Hội Thi tặc khoá X do trùm cu lít Thiều chọn!(đã từ chức)
Thứ tư - 10/11/2021 14:12
Trong các chuyên luận trước tôi đã viết có nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số, họ là những nhà thơ song ngữ tài danh như Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn…thế hệ kế tiếp Lương Định, Dương Thuấn, Mai Liễu…đã góp phần làm rạng rỡ văn học nước nhà. Trong cộng đồng 54 dân tộc của Việt Nam lấy tiếng nói, chữ viết, chữ ,,quốc ngữ,, của người Việt, tộc người đa số làm chính. Các nước trên thế giới, như Trung Quốc, Nga, Anh, Mĩ…cũng vậy. Trung Quốc quốc ngữ là tiếng Hán, Nga thì tiếng Nga, Anh thì tiếng Anh…Các nhà thơ dân tộc thiểu số như Lão Xá ,Trung Quốc, Raxun Gamzatop ,Nga, đều thông thạo quốc ngữ của mình và họ có nhiều tác phẩm rất nổi tiếng.
VÔ LỐI PHÚ TRẠM IN RA SA RA VIẾT CHO AI ĐỌC
VÔ LỐI PHÚ TRẠM IN RA SA RA VIẾT CHO AI ĐỌC
Đỗ Hoàng
Trong các chuyên luận trước tôi đã viết có nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số, họ là những nhà thơ song ngữ tài danh như Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn…thế hệ kế tiếp Lương Định, Dương Thuấn, Mai Liễu…đã góp phần làm rạng rỡ văn học nước nhà. Trong cộng đồng 54 dân tộc của Việt Nam lấy tiếng nói, chữ viết, chữ ,,quốc ngữ,, của người Việt, tộc người đa số làm chính. Các nước trên thế giới, như Trung Quốc, Nga, Anh, Mĩ…cũng vậy. Trung Quốc quốc ngữ là tiếng Hán, Nga thì tiếng Nga, Anh thì tiếng Anh…Các nhà thơ dân tộc thiểu số như Lão Xá ,Trung Quốc, Raxun Gamzatop ,Nga, đều thông thạo quốc ngữ của mình và họ có nhiều tác phẩm rất nổi tiếng.
Phú Trạm Inrasara dân tộc thiểu số Chăm. Người Chăm thuộc nhóm chủng tộc Austronesia (người Nam Đảo) có nguồn gốc Đông Nam Á.
Người Chăm hay người Champa (Chăm Pa) (tiếng Chăm: Urang Campa), còn gọi là người Chàm, người Chiêm, người Chiêm Thành, người Hời... hiện cư ngụ chủ yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Đến thời vua Minh Mạng, vương quốc Chăm pa đã bị xóa sổ; thời Pháp thuộc còn lưu lại Bảo tàng Chăm ở Đà Nẵng. Dân số người Chăm tại Việt Nam theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là 178.948 người, tương đương dân số một phường trung bình ở thành phố.
Hàng nghìn, hàng trăm năm qua, cộng đồng dân tộc thiểu sống trong cõi Việt họ nắm vững tiếng phổ thông ,, tiếng Việt,, như tiếng mẹ đẻ. Riêng Phú Trạm Inrasara tiếng Việt làm thơ rất kém. Tôi có lần khảo sát tiếng Việt của Inrasara thì thấy ông ta trình độ chỉ lớp 1, lớp 2 trường làng. Ông ta làm thơ tiếng Việt rất nhăng cuội, lộn xà lộn xộn, rồi đưa lẫn tiếng Hán, tiếng Anh, các dấu toán học vào trong bài thơ như một mớ bòng bong. Phú Trạm Inrasara là loại đại biểu số I thơ vô lối.
Báo Văn nghệ bộ mới do những người thơ vô lối cầm chịch nên số 19 Phú Trạm Inrasara được in một chùm 2 bài. Bài thứ nhất là ,,Tam khúc Orchid Island Taiwan,, ; bài thứ 2 ,, 3 Đoản thi trái đất,,.
Phú Trạm Inrasara đã dốt chữ Việt lại sính dùng mấy chữ tiếng Hán và mấy chữ tiếng Anh học thời phổ thông pha trộn vào trong bài thơ vô lối để ,,khoe ,, mình có văn hóa cao. Bài thơ nào cũng thế, tập thơ nào cũng thế.
CON ĐƯỜNG VỠ
Người cư ngụ dưới căn nhà tồi tàn
trước ngọn đèn tồi tàn, người suy tưởng
về sự thống khổ bần hàn trong thế gới bần cùng
giàu sang là nẻo đường rừng người đi buổi sớm
Con đường khép lại và mở ra dưới sức nặng bàn chân
Xát mòn vẹt đau để vui mở ngọn
cưu mang gót giày nhục nhằn cho mầm nắng trồi lên
Con đường rừng nhạt và chìm vào ẩn mật
kiên nhẫn chờ đợi bước chân thế hệ chưa hình thành
bất chợt chiều nay tôi thấy con đường vỡ
đang nhìn tôi trong tiếng nói không lời
In trong tạp chí Thơ số 1&2 – 2012)
Một bài ngắn 11 dòng, In ra sa ra đã dùng đến 20 chữ Hán chưa Việt hóa ! Rất kém.
居 cư ở, cư trú; 寓 ngụ 1. nhờ cậy 2. nói bóng gió; 摧殘 tồi tàn : tồi tàn, hư hỏng, đổ nát; 推想 suy tưởng , như suy tư 推思. 推思 suy tư : nghĩ ngợi. 推奬 suy tưởng :đề cao mà khen thưởng;丩cưu : bò lan, quấn quýt ( nói về loại dây leo ). 忙 mang : bận rộn, bề bộn; 辱 nhục :1. nhục, xấu hổ 2. làm nhục 3. chịu khuất; 隱密 ẩn mật 1. Dấu kín.Che dấu kín đáo. 堅忍 kiên nhẫn - Vững lòng nhẫn nại, Bền vững chiu đựng; 世繫 thế hệ 1. Liên hệ dòng dõi của một gia tộc trải qua các đời. 2. Liên hệ dòng dõi giữa các tông phái kế thừa nhau.
形成 hình thành hình thành, lập nên, tạo thành
Chùm thơ của Phú Trạm Inrasara in tên báo Văn nghệ bộ mới cũng dở dơi, dở chuột. Một tí chữ Hán, một tí chữ Anh, một nhóm chữ Việt không ra làm sao, có ý khoe mẽ. Bài đầu là
Tam khúc Orchid Island Taiwan, Tam khúc là chữ Hán =三 曲=
Nghĩa là ba đoạn.
Con cháu nhắc lời cụ Hồ vạn lần là ,, chữ ta có thì dùng chữ ta, khi nào chữ ta không có, ta mới mượn chữ chữ nước ngoài,,. Ta có chữ ,, ba đoạn thơ,, đàng hoàng nhưng Phú Trạm Insarara không dùng mà dùng ,,tam khúc,, cho ra vẻ ta đây cũng chú ,,khách,, Tàu Ô.
,,3 Đoản thi trái đất,,. Đoản thi là chữ Hán = 短詩 =
Chữ Việt nghĩa là ba đoạn thơ ngắn. Sao lại không dùng tiếng Việt. Phú Trạm Inrasara đang làm thơ tiếng Việt mà.
Tiếp đến ông ta dùng chữ Anh lởm cởm. Làm thơ tiếng Việt mà dùng tiếng Anh để viết thì ông nội Phú Trạm Insarara cũng đếch biết mô tê răng rứa nói chi đến người đọc bình thường. Chắc đám vô lối cho in bài này đọc được. Đây cũng là sự lòe bạn đọc một cÁch ngu dốt, quê kệch. Tiếng Việt có sao không viết thẳng ra ,, Ba đọan thơ về đảo hoa lan Đài Loan,, mà viết chuột không ra chuột, dơi không ra dơi thế này ,,Tam khúc Orchid Island Taiwan,,.
Khúc một là một thông báo lịch sử, địa lý sơ sài không có một tỉ ti nào gọi là có chất thơ, dù là chất thơ vô lối, mà nói đến quốc gia nào cũng được
[1] Sông núi dời đổi
triều đại chuyển đổi
quốc gia biến đổi
lòng người bấp bênh thay đổi không lường ,
duy rác hạt nhân là vĩnh cửu
Khúc này nói cho nước Lào, Căm pu chia, Cu ba, Nga, Mĩ, Anh, Pháp …được tất.. Một khổ vô lối như thông báo sử, địa mà tác giả lạm dùng đến 11 chữ Hán.
朝代 triều đại = Đời vua — Khoảng thời gian của một dòng vua trị vì ; chuyển = quay vòng, chuyển, đổi ; 国家 quốc gia= nhà nước, quốc gia, đất nước ; 变 biến 1. thay đổi, biến đổi 2. trờ thành, biến thành 3. bán lấy tiền
4. biến cố, rối loạn ; 量lường 1. đong, đo 2. bao dung 3. khả năng, dung lượng ; 唯 duy chỉ có ; 害 hạt = hại, hại vô cùng ; 因 nhân 1. nguyên nhân 2. nhân tiện 3. tuỳ theo 4. phép toán nhân ; 永久 vĩnh cửu = vĩnh cửu, vĩnh viễn, lâu dài, mãi mãi
[2] Và họ hiện đại hóa chúng tôi
và họ tạo thêm nhiều, nhiều hơn nữa
nhu cầu mới lạ cho ngày thường của chúng tôi
[nhu cầu chưa bao giờ cần]
và họ mang cố gái của chúng tôi đi mất
và họ chở thứ rác lạ về
cùng với rác lạ
bệnh lạ về
nỗi lo lắng lạ về
và ở lại…
Khổ này như thông báo tổ chở rác của chị em công nhân môi trường làm vệ sinh đường phố mỗi ngày, Nó không dính dáng gì đến hòn quốc đảo hoa lan Đài Loan cả.
[3]
Và chúng tôi trôi giạt về hoang đảo xa hơn
và chúng tôi chạy lên dốc núi cao, cao hơn nữa
và tôi thấy một mình giữa đường phố xa lạ
và tôi thấy đời tổ tiên tôi đang ở góc bảo tàng
và tôi thầy
đời tôi
sắp bảo tàng…,,
Ngắm nhìn hòn đảo hoa lan Đài Loan, anh liên tưởng đến thân phận dân tộc Chăm của anh, bản thân anh, hẩm hiu mạt hạng, nhưng kể lể lạnh lùng một cách vô cảm, không một chút rung động, không để lại một dòng đồng cảm xót thương những tộc người man di mọi rợ bị xóa sổ trong lịch sử, bị nhồi trấu nằm trong nhà bảo tàng như chuồng bò.
Bài thứ hai trong chùm thơ của Phú Trạm Inrasara là ,,3 Đoản thi trái đất,, viết về tai nạn Tchernobyl ,,Checnoo bin,, bên Ucraian ; tỉnh bị đại hồng thủy Fukushima Nhật bản và đảo Haiti. Như ,,Ba khúc về đảo hoa lan Đài Loan,,, ,,3 Đoản thi trái đất,, viết cho ba địa danh nào trên trái đất cũng đươc.
Ngôi nà trống trong thành phố trống
thành phố vừa bị bỏ lại
cái bàn trống trog ngôi nhà trống
tờ giấy và cây bút bỏ trước chiếc ghế trống
ký ức một gia đình bị đánh mất, chắc thế
cũng có thể là những câu thơ
bỏ quên
[1] Tchernobyl
Những câu tổ dân phố thông báo hàng ngày ở các nơi bị dịch covis 19 . Câu thông báo của người ta còn đầy chất thông tin, thiết thực, giúp cho công an, phường đội, tự vệ biết giải quyết kịp thời sự cố xảy ra ở địa phương hơn các câu gọi là thơ của Phú Trạm Inrasara.
Những chiếc ô tô
những ngôi nhà và những biệt thự
một khu cư xá đầy nhóc người ;; rồi
một thị trấn.
trôi
như đồ chơi của bọn trẻ con
trong bàn tay bà mẹ thiên nhiên giận dữ,,
[2] Fukushima
Đây không phải là những câu thơ mà những câu nói bộ khi xem ti vi chiều cảnh đại lụt ở tỉnh Fukushima, Nhật bản.
Số phận một dân tộc
số phận một nền văn minh
số phận một vùng đất
sắp bị trôi vào cuộc chơi
ngu ngốc,,
[3] Haiti
Haiti (phát âm /ˈheɪtiː/; tiếng Pháp Haïti, phát âm: [a.iti]; tiếng Haiti: Ayiti), tên chính thức Cộng hòa Haiti (Tiếng Pháp: République d'Haïti)); (Tiếng Haiti: Repiblik Ayiti) (Tiếng Việt: Cộng hòa Ha-i-ti[6]), là một quốc gia ở vùng biển Ca-ri-bê nói tiếng Creole Haiti- và tiếng Pháp. Cùng với Cộng hòa Dominicana, quốc gia này nằm ở đảo Hispaniola, trong quần đảo Đại Antilles. Ayiti (vùng đất núi cao) đã là tên Taíno hay Amerindian bản địa của phía tây núi non của hòn đảo. Điểm cao nhất quốc gia này là Pic la Selle, với độ cao 2.680 mét (8.793 ft). Tổng diện tích là 27.750 km² và thủ đô là Port-au-Prince.
Vị trí dân tộc, ngôn ngữ và lịch sử của Haiti độc đáo vì nhiều lý do. Đây là quốc gia độc lập đầu tiên ở Mỹ Latin, quốc gia do người da đen độc lập phi thực dân hóa đầu tiên trên thế giới, là quốc gia duy nhất mà sự độc lập một phần là nhờ cuộc nổi loạn nô lệ. Dù có mối liên hệ văn hóa với các láng giềng Hispano-Caribbe, Haiti là quốc gia độc lập chủ yếu sử dụng Pháp ngữ ở châu Mỹ, và là một trong hai quốc gia (cùng với Canada) với tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức.
Quốc gia Haiti (Pháp: État d'Haïti, Haiti: Leta an Ayiti) là tên gọi của quốc gia ở miền bắc Haiti. Quốc gia này được tạo ra vào ngày 17 tháng 10 năm 1806 sau khi lật đổ Đế quốc Haiti từ sau vụ ám sát Hoàng đế Jacques I. Quốc gia Haiti miền bắc nằm dưới sự cai trị của Henri Christophe lúc đầu là Trưởng quan Chính phủ Lâm thời Haiti từ ngày 17 tháng 10 năm 1806 cho đến ngày 17 tháng 2 năm 1807 khi ông trở thành Tổng thống Quốc gia Haiti. Hiến pháp năm 1807 dành cho Quốc gia Haiti đã biến chức vụ tổng thống thành vị trí suốt đời với quyền được bổ nhiệm người kế nhiệm mình. Ngày 28 tháng 3 năm 1811, Tổng thống Henri đã tự xưng là Vua Henry I, do đó giải thể Quốc gia Haiti và lập nên Vương quốc Haiti.,,
Quốc gia Haiti như thế mà tác giả viết quá sơ sài thua một cái tin trênbáo và đặt cho một vùng đất nào cũng được.
Phú Trạm Inraara tỏ ra ngông nghênh, chơi trội, ta phải viết cho ngang tầm trái đất, nhưng gã như con châu chấu lên cầm xà ich lái xe ngựa. Chưa đi bước nào xe ngựa đã chổng bánh lên trời. Rốt cuộc ,, Tam khúc Orchid Island Taiwan,, ; 3 Đoản thi trái đất,, hiện nguyên hình con ngáo ộp vô lối chết tươm xác thối như cứt chó.
Đã ngu độn, dốt nát tiếng Việt không khiêm tốn làm ra vẻ ta đây viết như thằng hề bôi son phấn đầy mặt quỷ.
Bài 1 thì ghi Tam khúc, bài 2 thì đề số 3 Đoản thi, câu thì xuống dòng tùy tiện,
đặt dấu ngoặc ,, ;;,, ngớ ngẩn.
,, một khu cư xá đầy nhóc người ;; rồi
một thị trấn.
trôi,,…
o
Không chỉ Phú Trạm Inrasara mà cả đám vô lối Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phú Trạm Inrasara,Nguyễn Khoa Điềm, Mai Văn Phấn, Phan Hoàng, Phạm Đương, Trần Hùng, Dư Thị Hoàn, Mã Giang Lân, Mai Quỳnh Nam, Từ Quốc Hoài, Hoàng Vũ Thuật, Hoàng Hưng, Đỗ Doãn Phương, Đinh Thị Như Thúy,Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Trúc Thông, Thi Hoàng, Thanh Tùng…rất ngu độn tiếng Việt, ba que xỏ lá, ném lựu đạn, trí trá, gian manh…đã tàn phá thơ dân tộc một cách nguy hại trầm trọng.
Chùm gọi là thơ của Phú Trạm Inrasara chỉ có bọn vô lối thưởng ngoạn với nhau, dân tộc Việt không ai chấp nhận loại này.
Hà Nội , ngày 1O/11/221
Đ H

Thi tăj 21 - Hoàng Hưngc

 15:47 17/06/2025

THI TAC số 21 -
Hoàng Hưng
DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT
Nguyên bản: GIẤC MƠ ANH NGẬP BIỂN
Tặng Mười
Rồi một ngày anh gặp em
Vàng rực bờ biển nắng
Em mới hiểu rằng em là biển
Bao nhiêu năm sóng thầm réo trong mình
Anh mới hiểu chính em là biển
Bao nhiêu năm anh tìm
Những bắp thịt săn của sóng
Đánh vào ta nồng nàn,
Muối mặn ngấm vào rực máu
Trái tim bắt đầu hoang mang
Rồi giấc mơ anh ngập biển
Vụt kinh hoàng bóng em tan biến,
Và giấc mơ em ngập biển
Ngượng ngùng để anh nắm tay.
Nắm tay nhau nhảy tung ngọn sóng,
Nắm tay nhau ngụp lặn thủy triều,
Em sặc nước rồi anh sặc nước.
Tỉnh dậy một mình đầm nước mắt
Thôi chúng mình đã yêu!
Đỗ Hoàng
Dịch ra THƠ VIỆT –VÔ LỐI HOÀNG HƯNG
GIẤC MƠ BIỂN
Rồi một ngày anh được gặp em
Trời rực vàng rực trên bờ biển thắm
Anh mới hiểu em là biển nắng
Bao nhiêu năm reo sóng trong mình
Anh thêm hiểu chính em biển thắm
Bao nhiêu năm anh đã đi tìm!
Những bắp thịt săn chắc của sóng
Đánh vào ta mãnh liệt vô vàn,
Biết muối mặn ngấm vào người rực máu
Trái tim trẻ trai hồi hộp hoang mang
Rồi giấc mơ anh tràn ngập biển
Bóng em tan vụt biến bàng hoàng!,
Và giấc mơ em đầy ngập biển
Tay trong tay thương yêu nồng nàn!
Ngượng ngùng biển để anh tay nắm.
Tay trong tay tấy tung ngọn sóng,
Tay trong tay ngụp cơn triều cường,
Em và anh tất thảy đều sặc nước.
Tỉnh dậy một mình anh nước mắt đầy tràn
Thôi chúng mình đã thật yêu nồng nàn!
Hà Nội ngày 18 – 11 -2022
Đ - H
Không có thông tin chi tiết để hiển thị

Tác giả
Do Hoang
Ok Trinh Oanh Lan chia sẻ!

Dich thơ Việt ra thơ Việt

 11:22 17/06/2025

NHÀ THƠ ĐỖ HOÀNG - NGƯỜI DỊCH THƠ VIỆT RA... THƠ VIỆT!
Trần Quang Đạo
Wednesday, 02:52 Day 02/10/2019
Lâu nay chúng ta thường đọc những tác phẩm văn học nước ngoài hay những sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm của người xưa được dịch ra chữ Quốc ngữ. Nhưng một năm trở lại đây, có một người dịch thơ Việt ra thơ Việt, gây sự chú ý, ngỡ ngàng trong làng văn chương nước nhà. Người làm cái việc “động trời” đó là nhà thơ Đỗ Hoàng. Đỗ Hoàng không phải dịch thơ Việt ra thơ Việt để giải trí, mà anh có một chủ đích hẳn hoi. Hồi trước, khi chưa có Blog cá nhân, Đỗ Hoàng đem phô - tô mang phân phát cho bạn bè cùng đọc. Khi có Blog, anh tải lên đó tất cả những bài thơ đã dịch của mình. Thật lạ, từ khi những bài thơ đó được tải lên Blog, số người truy cập tăng nhanh, số người comment nhiều, và tạo thành hai luồng ý kiến trái ngược nhau: đồng tình và phản đối. Thậm chí có nhiều ý kiến mang tính chất “khủng bố”, làm cho nhà thơ Đỗ Hoàng phải rút lui khỏi Blog một thời gian.
Tôi và Đỗ Hoàng cùng quê. Anh lớn hơn tôi chừng chục tuổi. Tôi quen Đỗ Hoàng từ hồi anh ra học Trường viết văn Nguyễn Du, năm 1982. Anh viết văn, làm thơ và dịch cả thơ chữ Hán. Tập thơ Tuý thì ca xuất bản năm 2001, anh dịch thơ Đường có những câu rất hay, ví dụ: “Rửa gươm trong sóng bể dâu/ Ngựa ăn cỏ máu tận đầu Thiên Sơn” (Nguyên văn: Tẩy binh điều chi thượng hải ba/ Phóng mã Thiên Sơn tuyết trung thảo - Bài Chiến thành Nam của Lý Bạch). Vào một buổi chiều cách đây hơn năm, tôi với Đỗ Hoàng ngồi nhâm nhi mấy cốc bia bên gốc sấu cổ, khi đã ngà ngà, anh liền đọc thơ. Lúc đầu tôi tưởng anh đọc thơ của anh sáng tác, nhưng không phải, mà đó là thơ người khác được anh dịch ra lục bát. Tôi cứ tưởng anh làm cho vui. Bẵng đi một thời gian, khi làng Bloger xôn xao chuyện Đỗ Hoàng dịch thơ Việt ra thơ Việt tôi mới tìm đọc, thì đã bị anh xóa hết. Tôi liền “truy lùng” tóm gọn anh và lấy về được một tập bản thảo thơ dịch hơn 20 bài. Đỗ Hoàng nói nhỏ: “Đọc xong nhớ gửi trả mình nhé, đừng phát tán nguy hiểm lắm”. Tôi nghĩ, chắc Đỗ Hoàng còn sợ những tin nhắn trên Blog, nên lo xa như vậy. Tôi hứa chỉ dùng một vài dẫn chứng để viết bài, sau đó trả anh ngay, anh mới yên tâm bắt tay tôi phóng xe máy đi nhà in.
Đọc cả tập thơ dịch Đỗ Hoàng đưa, tôi thấy những nhà thơ được anh dịch nhiều nhất là Hoàng Vũ Thuật, Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải, Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tùng… Một lần, hỏi chuyện Đỗ Hoàng, tôi được biết anh dịch thơ Việt ra thơ Việt bởi sự “phản ứng” với một số cây bút sáng tác thơ cách tân, làm thơ bí hiểm, người đọc không hiểu nổi. Anh và nhà thơ Vương Trọng - hai nhà thơ xuất thân từ thầy dạy Toán là hai đại biểu bảo vệ cách làm thơ truyền thống, bởi “thơ trọng ở tình cảm, đổi mới nội dung mới đáng quý, còn hình thức thơ như chúng ta từng có đã đủ để sáng tác được nhiều bài thơ hay”. Không những thế, Đỗ Hoàng còn viện dẫn cả Lục Du bên Tàu: “Công phu thâm xứ phi bình dị”. Thơ ca làm khó hiểu, rắc rối là hạ thấp thơ, anh không thể nào chịu nổi. Cơn “dị ứng” nổi lên, anh lôi ngay bài thơ Mãi viên trà của người bạn thân thiết nhất là Hoàng Vũ Thuật ra dịch. Sáng tạo lại trong cơn xúc động bởi sự ức chế, nên Đỗ Hoàng dịch rất nhanh. Dịch xong, đọc lại thấy hay, bài thơ như được “nâng cấp”, Đỗ Hoàng liền mang sang nhà nhà thơ Lê Đình Cánh - môt người thơ sành lục bát - đọc cho ông nghe. Lê Đình Cánh “tiếp sức” cho Đỗ Hoàng bởi những lời khen ngất trời. Đặc biệt ông thích hai câu cuối: “Kết vào nhau tựa thêu thùa/ Linh hồn tôi với ngải bùa cỏ cây” (nguyên bản: kết dính vào nhau/ linh hồn tôi/ dính vào cành lá). Không những thế, ông còn khuyến khích Đỗ Hoàng dịch tiếp và gửi in báo.
Được đà, trong một tháng, anh dịch được hơn chục bài. Dịch được bài nào anh xuất bản mồm cho các bạn thơ, bạn rượu của mình nghe. Nhiều người khen ngợi. Thế là anh tung lên mạng. Nhà thơ Tùng Bách ở tận Vũng Tàu khen trực tiếp trên Blog bằng mấy câu lục bát: “Hoan hô bác Đỗ thật cừ/ Dịch Văn Cầm Hải cứ như uống trà/ Nguyên bản em đọc không ra/ Xem qua bản dịch thế mà lại hay”.
Tôi đã đọc hết những bài thơ của Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tùng, Trịnh Thanh Sơn… do Đỗ Hoàng dịch. Phải công nhận anh dịch lục bát rất khá. Không có một câu thơ nào lỗi vần. Ý tứ lại chuẩn. Bài thơ Giấc mơ đi qua của Vi Thùy Linh được anh dịch thành lục bát, nói như nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo là “hay một cách bất ngờ”. Tôi xin trích một khổ thứ hai trong bài thơ đó, nguyên bản: Đêm qua rơi dải khăn mâyGió đợi chờ nhau thơ thácNày đọt yêu thươngLớn trên tay những mầm khao khát Bản dịch:Mây đêm buông xuống bất ngờThơ reo tiếng nhạc, gió chờ đợi nhauTình yêu có phép nhiệm màuDồn khao khát nhớ lên đầu ngón tay.
Không giống như dịch thơ chữ Hán ra thơ Việt, Đỗ Hoàng dịch rất sát nghĩa, song dịch thơ Việt ra thơ Việt, có những chỗ anh “phải thêm lời, ý tứ vào bài thơ mới rõ nghĩa, vì bản chính tắc tị”. Vì vậy anh bảo nhiều khi phải “nghĩ nát óc” để đọc thơ, luận nghĩa. Đọc để hiểu được thơ của các nhà thơ “đổi mới” đã khó, dịch nó lại càng khó hơn. Khó bởi phải dịch làm sao thật sát, thật hay để người có bài thơ được dịch phải chịu, người đọc, người nghe phải khen. Thành công cũng có, song thất bại cũng không ít. Nguyên nhân thất bại là do không hiểu nổi bài thơ của tác giả đó nói gì, hoặc phải thêm ý của mình vào quá liều lượng. Đỗ Hoàng đơn cử một ví dụ nhỏ về tiêu đề một bài thơ của Hoàng Vũ Thuật, có tên Mãi viên trà. Khi mới đọc, Đỗ Hoàng không thể hiểu nổi. Sau này, có dịp vào Đồng Hới, Quảng Bình, anh mới thấy có cái quán tên Mãi Viên Trà mới vỡ lẽ. Thế mà khi dịch, chữ “Mãi Viên Trà” anh không thể nào dịch được, đành để nguyên.
Một lần gặp nhà thơ Hoàng Vũ Thuật ở Đồng Hới, tôi cho anh xem bài thơ Mãi Viên Trà do Đỗ Hoàng dịch. Hoàng Vũ Thuật đọc rất chăm chú. Đọc xong, ngẩng lên anh bảo: “Hoàng dịch rất chuẩn, lục bát có thần”. Nhưng sau đó mặt anh lặng buồn, nhìn ra cửa biển nói tiếp: “Đỗ Hoàng cũ lắm rồi. Bài thơ nào cũng dịch ra lục bát theo âm điệu của thế kỷ 18 thì còn gọi gì là thơ đời nay nữa…”. Tôi kể lại chuyện Hoàng Vũ Thuật đã nói cho Đỗ Hoàng nghe. Đỗ Hoàng “xù lông” nói cái câu đã từng nói rất nhiều lần, ở rất nhiều nơi về thơ lục bát: “Thơ lục bát là quốc hồn, quốc tuý. Truyện Kiều hay và mới đến muôn đời. Hoàng Vũ Thuật ngông cuồng!”.
Tôi không dám bình luận gì thêm bởi Đỗ Hoàng đang trong cơn “cuồng nộ”. Chuyện người dịch thơ Việt ra thơ Việt đến nay chưa có hồi kết. Bởi càng ngày càng có nhiều người làm thơ theo lối mới, nghĩa là “không làm thơ theo lối tranh cảnh” như Phạm Quỳnh đã nói, mà thơ của họ đa chiều, lấy sự ám ảnh và nhịp tâm hồn làm trọng. Do đó, người dịch thơ còn phải “lao động” dài dài, và cần phải lao động có năng suất mới đạt được hiệu quả mong muốn. Rất may, hiện nay Đỗ Hoàng đang làm biên tập ở Tạp chí Nhà Văn, nên có điều kiện thuận lợi hơn. Và tôi nghĩ, không chừng, theo gót anh, có nhiều nhà thơ khác cũng đi dịch thơ Việt ra thơ Việt trong tương lai. Chuyện này dễ gây nên một “cú sốc” trong làng thơ Việt. Biết đâu, từ đó nảy sinh ra một cuộc tranh luận mang độ nóng cao, tạo đà cho cuộc cách mạng thơ trong giai đoạn mới? Khi đó, tên tuổi Đỗ Hoàng sẽ đi vào lịch sử văn học!
Tôi không muốn bình luận gì về chuyện dịch thơ này, vì người dịch là bạn tôi và người được/ bị dịch cũng là bạn/ đồng nghiệp của tôi. Tôi rất muốn đứng về một phía. Song Mùa Xuân đã đến, nhớ câu nói xưa “dĩ hoà vi quý”, nên chỉ xin phép được chép ra một bài thơ mà Đỗ Hoàng đã dịch để bạn đọc cùng xem xét, suy ngẫm.
KINH NGHIỆM XANH
Tôi nằm dưới bóng râm thời trang
Kinh nghiệm xanh rì rào thành phố
Đất nước tôi
Những vòng môi mặn đỏ phù sa
Ngọn tầm vông chuyển giao đất trời
Tư duy tâm Đổi mới
Giấc chiêm bao lịch sử nóng ran
Công trường
Và chiếc nôi đầy đặn ngữ pháp khóc cười
Văn hiến
Đi tìm chồng cho mẹ Âu Cơ
Mà mất biết bao chùm điện tử
Không hoá giải
Hình quê hương trong khói hát mồ hôi…
Văn Cầm Hải
Bản dịch:
KINH NGHIỆM XANH
Tôi nằm dưới bóng thời trang
Ôi, kinh nghiệm xanh râm ran phố phường
Đất nước tôi mấy đoạn trường
Phù sa mặn đỏ thêm hường vòng môi!
Ngọn tầm vông chuyển đất trời
Tư duy đổi mới hồn người tâm can!
Chiêm bao lịch sử nóng ran
Công trường sôi động mở mang xứ nghèo
Nôi đầy cười khóc, lời yêu
Nền văn hiến để dệt thêu bóng cờ
Tìm chồng cho mẹ Âu Cơ
Bao chùm điện tử bất ngờ mất đi!
Muốn hoá giải, phỏng được gì
Mồ hôi khói hát cũng vì hình quê!
Đỗ Hoàng
Trần Quang Đạo
Nguồn: Sinh viên Việt Nam xuân Mậu Tý

Trần Đăng Khoa nói:...

 11:19 17/06/2025

Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói :
“Vô Lối Nguyễn Quang Thiều nốc ao!”
Mấy năm trước công tác ơ tạp chí Nhà văn, tôi có nhiệm vụ làm tiêu binh cho các cuộc quy tiên của các nhà văn là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Hôm ấy có đám tang của nhà văn Kim Lân ở nhà tang lễ Trần Thánh Tông, Hà Nội.
Tôi vừa gửi xe đi bách bộ vào chỗ tang lễ thì gặp nhà thơ Trần Đăng Khoa. Trần Đăng Khoa nổi tiếng từ bé, nên tôi hay gọi Thần Đồng để xưng hô, vì tôi lớn hơn Khoa 10 tuổi mà chẳng danh giá gì!
Trần Đăng Khoa là người kỳ tài trong việc thẩm thơ.
Hồi tôi đang làm biên tập ở tờ Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, một lần đến nhà riêng anh xin bài thơ “Lính trẻ” để in trên Tạp chí.
Nhà Thần Đồng lúc ấy đang là căn hộ tập thể được quân đội phân cho trên đường Lý Nam Đế.
Vào nhà thấy tập thơ “ Sóng Reo” hay “Suối Reo:” gì đó của Nguyễn Đình Thi tặng Trần Đăng Khoa.
Tôi chưa nói gì thì Khoa đã mỉa:
- Bác thấy đó, tập này dở hết chỗ nói.
Tôi trăm phần trăm khâm phục:
- Thần Đồng thật là có con mắt xanh hơn người!
Tôi càng phục Khoa từ đó.
Nhưng Khoa không bao giờ làm mất lòng ai. Chắc Khoa đã học cách ứng xử của các nhà thơ tài danh lớp trước như Xuân Diệu, Huy Cận. Không thích thì cười cho qua.
Rồi Khoa làm được mấy cai chức còi nên Khoa càng im lặng. Kiểu mặc mẹ chùng mày, ông phải lo cơm ăn áo mặc, việc gì chen vào bình phẩm ba cái Vô lối của chúng mày!
Đi lên gần Khoa, tôi nói: - Thần Đổng cũng đi đưa tang nhà văn Kim Lân à?
Khoa cũng cười nhưng không vào chủ đề mà lại nói:
- Bác đả Nguyễn Quang Thiều hay đấy!
- Thần Đồng cũng đọc mạng sao? – Tôi hơi ngạc nhiên.
Khoa cười: - Bác tưởng bọn chúng tôi không đọc mạng đấy chắc? Tôi là một cư dân mạng!
Hóa ra vừa rồi, nhân Nguyễn Quang Thiều đưa lên cái bài “Tấm Thảm Thổ Nhĩ Kỳ” bị la ó, tôi đọc nó tôi thấy đúng là một thứ bà dằn vô tích sự, thơ không ra thơ, văn không ra văn, một loại quái thai của văn chương mà lại được đám ba đầu sáu tay tung hô hết cỡ, tôi liền chuyển nó ra thể thơ song thất lục bát và lục bát để cho mọi người còn biết nó là cái gì. Tôi không ngờ Khoa lại đọc nó.
Tôi nói: - Tôi định viết một bài phê phán hoàn chình nhưng chưa làm xong!
Khoa nói ngay: - Bác đả thế là Nguyễn Quang Thiều nốc ao rồi, không cần nhiều lời nữa!
Hà Nội ngày 15 - 5 -2012
Đỗ Hoàng
Trích bài tham khảo
Dịch vô lôi - Nguyễn Quang Thiều
CÓ THẬT " THƠ KHÔNG ĐỂ HIỂU..." ?
Trần Mạnh Hảo
Báo Văn Nghệ tết Canh Dần ( số 6+7+8 -2010) trang 54 có in bài "Thơ không để hiểu..." của tác giả Nguyễn Chí Hoan, ghi chú dưới "tít" bài : "Đọc "cây ánh sáng", tập thơ của Nguyễn Quang Thiều, NXB Hội Nhà Văn 2008". Cũng cần phải nói thêm, cuối "tít" bài thấy xuất hiện ba chấm chấm (...) dụng ý tác giả muốn đưa ra một khái niệm đầy đủ nối với ba chấm chấm đầu bài viết ...rằng : " THƠ KHÔNG ĐỂ HIỂU MÀ ĐỂ TƯỞNG TƯỢNG". Khái niệm quá mới mẻ của Nguyễn Chí Hoan : " Thơ không để hiểu mà để tưởng tượng" dùng làm công cụ giải mã tập thơ "Cây ánh sáng" của Nguyễn Quang Thiều; người đọc, tất nhiên phải hiểu đấy là một sự khái quát bàn về thơ nói chung. Nếu tác giả muốn dùng thước đo quá riêng biệt của mình là : "Thơ không để hiểu mà để tưởng tượng" để lý giải riêng trường hợp thơ Nguyễn Quang Thiều, thì cái "tít" phải là : " Thơ Nguyễn Quang Thiều sinh ra không để hiểu mà để tưởng tượng"...
Trong bài viết này, chúng tôi không bàn về tập thơ "Cây ánh sáng" của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều mà chỉ xin phép bàn về quan niệm thơ rất khác thường của Nguyễn Chí Hoan : " Thơ không để hiểu..." và vế thứ hai của mệnh đề : "...Mà để tưởng tượng" của ông mà thôi.
Văn học nói chung và thơ nói riêng vốn là nghệ thuật ngôn từ, sinh ra để truyền cảm, làm xúc động trái tim con người, đi từ TÌNH CẢM tới NHẬN THỨC. Hay nói một cách khác : văn học được nhận thức bằng tình cảm. Một tác phẩm văn học không hướng tới chân thiện mỹ, không có tính thẩm mỹ, dù tư tưởng của nó cao siêu đến đâu cũng quyết không phải là một tác phẩm nghệ thuật. Khác với toán học, vật lý học, hóa học...dùng công cụ duy nhất là hiểu biết để khám phá quy luật khách quan của thế giới vật chất, một tác phẩm thi ca đề cao sự sáng tạo chủ quan của người nghệ sĩ không đặt vấn đề cốt lõi "hiểu" hay "không hiểu" ra làm tiêu chí tối hậu, mà đặt ra lý do tồn tại của nó rằng thẩm mỹ hay không thẩm mỹ ? Một tác phẩm văn học nói chung, một tác phẩm thi ca nói riêng nếu đã đặt được cái "mỹ" ( Cái Đẹp), tức nhiên nó đã bao hàm cả cái "chân" ( hiện thực) và cái "thiện" ( cái tốt).
Dùng thước đo "hiểu" hay "không hiểu" để tìm bản chất của nghệ thuật thi ca, chúng tôi ngờ tác giả Nguyễn Chí Hoan đã đi lạc vào lĩnh vực khoa học tự nhiên, hay chí ít cũng lạc vào khu rừng triết học nơi các đệ tử của Socrate dùng sự hiểu biết để khám phá ra quy luật của các quy luật sinh tồn...chăng ?
Tiêu chí HAY hay dở, truyền cảm hay không truyền cảm mới là thước đo định giá trị của thi ca chứ không phải "không hiểu" hay "dễ hiểu" là phương pháp tiếp cận thơ lầm lạc của Nguyễn Chí Hoan. Do sự hiểu sai bản chất của thi ca như thế, nên khi Nguyễn Chí Hoan áp dụng vào trường hợp cụ thể là bài "thơ" dưới đây, dùng làm dẫn chứng của bài viết, rằng thơ Nguyễn Quang Thiều sinh ra để chống lại sự hiểu, chống lại nhận thức, cốt chỉ để tưởng tượng mà thôi, xin trích lại sự trích dẫn của tác giả bài viết :
"...Một thí dụ tiêu biểu về câu chuyện trong thơ ở tập này là bài thơ "Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ", toàn văn như sau :
Bài " thơ " Nguyễn Quang Thiều
Lịch sử Tấm thảm Thổ Nhỹ Kỳ
" Người hướng dẫn : Được dệt thủ công bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
"Người mua : Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm"
21 năm tấm thảm không thay đổi chỗ treo
Người đàn ông 50 tuổi thường trở về và đứng
Trong ngôi nhà nửa bóng tối
Tràn ngập tấm thảm tiếng hô hoán
Và phía sau tấm thảm
Một lưỡi dao lạnh lùng đợi
Và một cái chảo sùng sục sôi
Người hướng dẫn : Những ngón tay người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt
Người mua : ông già da đen Cuba đã tự vẫn
Chủ nhân : Tôi chỉ nhớ gương mặt con trai tôi khi nó mở bức thảm ra
Có một người lúc nào cũng rét
Đứng nhìn tấm thảm
Hai bàn chân bị đông cứng trong vũng máu
Ở chân tường
Người hướng dẫn : ( đã bỏ nghề)
Người mua : hình như không phải tấm thảm tôi đã mua
Chủ nhân : Tôi nhìn thấy những người thân đã chết cháy nấp sau những gốc cây trong tấm thảm
Bây giờ là năm thứ hai
Hết bài thơ Nguyễn Quang Thiều
Sau đó là gần một nửa bài nhà Nguyễn Quang Thiều học Nguyễn Chí Hoan dùng "lí luận" để giải thích bài thơ trên, mong giúp độc giả HIỂU ĐƯỢC sự KHÔNG HIỂU kia ! Thật là một trò trốn tìm thú vị. Bài thơ trên của Nguyễn Quang Thiều sinh ra, theo lí luận của Nguyễn Chí Hoan là cốt để "không hiểu", cốt để "tưởng tượng " mà thôi ! Sau đó thì nhà lí luận thi ca theo trường phái " kỳ đà là cha cắc ké, cắc ké là mẹ kỳ nhông, kỳ nhông là ông kỳ đà" kia giúp độc giả phiên dịch cái sự "KHÔNG HIỂU" kia thành sự HIỂU ...Vậy thì các ông đặt vấn đề KHÔNG HIỂU là mục đích của thơ ca ra làm gì ? Để rồi các ông lại phải dùng SỰ HIỂU giải mã bài thơ "không thể hiểu" trên? Nguyễn Chí Hoan càng giải mã bài thơ trên của Nguyễn Quang Thiều chúng tôi càng tắc tị, tuyệt nhiên không hiểu gì, hiểu được chết liền !
Cái gọi là bài thơ :"Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ" trích trên của Nguyễn Quang Thiều sinh ra trong sự mất trí của thi ca ( thơ không để hiểu) nên nó chỉ phục vụ cho mục đích hũ nút mà thôi ;nên nó tuyệt nhiên không có chút truyền cảm nào. Mà không có dấu vết của sự truyền cảm, của rung động thì theo chúng tôi, có dùng lí luận "con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đấy, con cóc nhảy đi" theo kiểu phương pháp tiếp cận thi ca lầm lẫn của Nguyễn Chí Hoan cũng không thể biến con con gà bới bếp thành con công thi ca được...
Không có sự truyền cảm, sự rung động, không có cái hay cái đẹp đi kèm theo những con chữ thì không thể gọi chúng là thi ca. Dù mỗi bài thơ theo kiểu "tấm thảm" của ông già Khốt ta bít trên bao giờ cũng có nhà giải mã Nguyễn Chí Hoan kè kè bên cạnh dẫn giải, cũng không thể làm rung động lòng người. Vì cái rung động lòng người do thi ca mang lại thường là trực giác, tức thì, không cần lời giải thích vòng vo tam quốc. Ví như Truyễn Kiều của Nguyễn Du đã làm hàng vạn người dù không biết chữ rung động, đâu có cần các nhà hàn lâm dông dài dẫn giải ? Trước một cô gái đẹp, trước một vầng trăng đẹp, trước một câu thơ hay, một bài thơ hay con người bị truyền cảm một cách tức thời, một cách trực giác...
Đưa thi ca vào cõi mất trí, cõi không hiểu, để rồi đi vòng vo lí giải giúp người ta hiểu được cái sự không hiểu của nhà thơ chính là phương pháp giết thơ nhanh nhất do nhà lí luận "phản nhận thức" Nguyễn Chí Hoan vừa khám phá ra, để làm món quà tặng ngày thơ Việt Nam trên báo Văn Nghệ số tết Canh Dần. Không có sự hiểu biết, không có chính đời sống con người, chứ chưa nói đến những sản phẩm của con người như tôn giáo, khoa học, nghệ thuật...
Lầm lẫn phương pháp tiếp nhận thi ca bằng cách đuổi sự hiểu, đuổi lí trí, đuổi nhận thức ra khỏi thi ca, Nguyễn Chí Hoan còn không hiểu nổi ngữ nghĩa của từ "hiểu" và từ "tưởng tượng". Xin ông Nguyễn Chí Hoan hãy xem lại từ điển Tiếng Việt để thấy rằng, khi ông tách tưởng tượng ra khỏi sự hiểu ( thơ không để hiểu mà để tưởng tượng) chính là ông đang tách cá ra khỏi nước đấy...Không có một sự tưởng tượng nào của con người nằm ngoài sự hiểu biết, nằm ngoài lí trí, nằm ngoài nhận thức...Tưởng tượng có thể ví như hoa trái của sự hiểu biết, của lí trí, của nhận thức. Hay nói cách khác, sự hiểu biết và sự tưởng tượng là một quá trình đồng thời, không phải là bước thứ nhất rồi mới đến bước thứ hai. Tưởng tượng chính là ký ức về quá khứ hay những hình dung về một thế giới chưa có thật, không có thật xuất hiện trong sự kiểm soát của lí trí, của sự hiểu biết nơi con người...Bảo thơ sinh ra không để hiểu mà để tưởng tượng như Nguyễn Chí Hoan, vừa hết sức sai và hết sức buồn cười vậy .,.
Sài Gòn ngày 26-02-2010
T.M.H.
Đỗ Hoàng dịch Vô lối "Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ" ra thơ Việt
Người viết cứ viết ra theo sự suy nghĩ chủ quan của mình. Sau đó người ta phân và chia ra làm nhiều thể loại như: Văn, thơ, phú, tế, hịch, ca dao, tục ngữ, vè, nói lối, hát vui chơi, nói vui chơi...
Thời hiện đại các tác giả cũng có nhiều cách viết, cách nói, cách lập ngôn nhưng chưa thấy các nhà phê bình phần loại thể. Tôi đã có nhiều lần đề nghị với tư cách cá nhân khi thấy nhiều người viết ra nhiều kiểu lạ mắt lạ tai, thấy thơ cũng không phải thơ, văn cũng không phải văn, dịch cũng không phải dịch, truyền thống cũng không phải truyền thống; người trẻ cũng có, người già cũng có; tộc người đa số cũng có, tộc người thiểu số cũng có; các kiểu viết ấy nên gọi với cái tên phân thể loại là "Vô lối". Từ "Vô lối" cũng đủ giải nghĩa các kiểu viết trên. Đại biểu cho kiểu "Vô lôi" này là Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Văn Cầm Hải, Vi Thuỳ Linh, Phú Trạm Inrasara, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Mai Quỳnh Nam, Phan Hoàng, Trần Hùng, Phạm Đương, Phan Thị Vàng Anh, Phan Huyền Thư, Tuyết Nga, Đinh Thị Như Thúy, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Vũ Thuật...
Xin dịch bài "Vô lối"
Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ
Tác giả Nguyễn Quang Thiều
"Tấm thảm Thổ thăng trầm thiên biến,
Hướng dẫn viên dẫn chuyện rõ ràng:
- Thảm này dệt sợi dọc ngang,
Một bà Thổ có tay vàng làm ra.
Người mua lại một ông già,
Da đen quốc tịch Cu Ba rạch ròi.
Ở Ha va na hẳn hoi.
Vào năm tám sáu cũng thời mới đây.
Chủ nhân nói: - Tấm thảm này,
Quà con trai tặng cho thầy u thương!
Hai mốt năm treo trên tường.
Cỏ cây muông thú lạ thường hiển linh (1)
Sớm khuya vang vọng quanh mình,
Tiếng cây, tiếng suối thập thình đâu đây.
Tiếng nai gọi bạn hao gầy,
Mùa sinh sôi giục đàn bầy đến nhanh.
Chủ nhân tám bảy xuân xanh.
Sáng xơi trà nguội đã thành thói quen.
Những con nai đực khát thèm,
Nhưng nhà đóng cửa cài then chặt rồi.
Bà già năm lượt đi ngoài,
Lưng còng chân yếu kêu lời xót đau.
Thảm không dịch chuyển đi đâu,
Hai mốt năm vẫn gắn đầu chỗ treo.
Ông năm mươi tuổi dáng nghèo,
Trở về thường đứng vai đeo túi hờ.
Ngôi nhà tối sáng mập mờ,
Tràn lên tấm thảm tiếng hô hoán đầy.
Phía sau tấm thảm ai hay?
Lưỡi dao sắc lạnh đợi ngày bén xơi.
Một cái chảo sùng sục sôi,
Hướng dẫn viên: - Bà Thổ quả thiệt thòi tấm thân.
Mù loà liệt cả tay chân.
Người mua lại kể ngọn ngành xảy ra.
Ông già da đen Cu Ba,
Khốn cùng tự vẫn thế là đi tong.
Chủ nhân bày tỏ thật lòng:
- Nhớ con trai gương mặt hồng như hoa.
Chính lúc tấm thảm mở ra,
Một người lạnh cóng như là chết khô
Đứng nhìn tấm thảm trống trơ,
Hai chân đông cứng lặng tờ máu tươi.
Hướng dẫn viên bỏ nghề rồi.
Người mua quên bẵng một thời mình mua.
Chủ nhân: Tôi bạn khiếp chưa?
Người thân chết cháy chẳng lưa thứ gì,
Gốc cây trong thảm thâm sì.
Bây giờ là năm hai nhì ai ơi!
(1) Người dệt tài tình đến mức cây cỏ, muông thú trog tấm thảm trở thành sinh linh có sức sống ngoài đời chạy nhảy.
Hà Nội, ngày 7 - 3 - 2010
Đỗ Hoàng

Bạn đoc về "thơ" Thiều.

 11:35 16/06/2025

Nguyễn Quang Trung
Không biết chủ tịch Nguyễn Quang thiều nghĩ gì chứ tôi thì tôi đồng ý như nhà thơ Đỗ Hoàng. Tôi cho rằng quả đất kiểu gì cũng phải tròn và thơ cũng vậy, cũng như kiếp người Sinh lão bệnh tử; kiểu giao động hình sin thôi. Thơ hay rồi đến, Thơ dở ,Thơ điên, Thơ khùng, thơ loạn, thơ tắc tỵ, thơ bất khả tri... Và cuối cùng là thơ chết bất đắc kỳ tử. Thơ mình đọc, mình hay, mình hiểu theo kiểu "ta là một là riêng là thứ nhất".
Anh à, rồi đến một ngày người làm thơ cũng không nhớ nổi câu thơ mình viết ra như thế nào nữa, bởi vì nó nhiêu khê, dài dòng, không hơn một câu văn xuôi què quặt, vô nghĩa; nó còn tệ gấp 10 lần những câu văn xuôi giàu chất thơ hay những bài thơ văn xuôi mà đôi khi ta đọc lên vẫn có cảm xúc, bởi vì những câu thơ ấy của họ hôm nay, chính là câu văn xuôi được chặt ra thành nhiều khúc dài ngắn khác nhau mà Thành. Những câu thơ ấy cũng không cần dồn nén cảm xúc, không cần lựa chọn ngôn từ, không cần cảm hứng, gặp gì nói lấy vô tội vạ... Hình như, họ viết ra cũng không nhằm mục đích "viết để làm gì, viết như thế nào, và viết cho ai"...
Tôi làm thầy giáo đã 40 năm chưa bao giờ thấy những bài thơ đọc lên, đọc trước quên sau, không biết cách nào để phân tích cho hay và không biết chuyển cái hay ấy cho học sinh như thế nào để cho đúng. Nhiều khi mình thấy buồn cho mình dốt nát, hay là mình đã lạc hậu chăng. Đọc lại những tập thơ của các nhà thơ đi trước như Tố Hữu chế Lan viên Huy cận Xuân diệu thế lữ Lưu Trọng lư... Tôi lại buồn cho cái sân chơi thơ hiện đại.
Tôi kính anh là vì anh dám nói những điều mà người ta không dám nói hoặc cúi đầu im lặng hoặc giả bộ đồng tình, hoặc cố đấm ăn xôi. Ý thức phản biện thì ít mà im lặng thì nhiều. Hay là họ cho rằng phản biện hay không phản biện cũng chẳng có tác dụng gì để làm thay đổi được tình hình thơ ca hiện nay.
Than ôi ! Buồn cho thơ hiện đại của ta... Được ông Nguyễn Quang Thiệu dẫn dắt.
Ảnh: Tác giả Nguyễn Quang Trung.

Dich thơ Việt ra thơ Việt

 16:53 15/06/2025

NHÀ THƠ ĐỖ HOÀNG - NGƯỜI DỊCH THƠ VIỆT RA... THƠ VIỆT!
Trần Quang Đạo

Wednesday, 02:52 Day 02/10/2019
Lâu nay chúng ta thường đọc những tác phẩm văn học nước ngoài hay những sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm của người xưa được dịch ra chữ Quốc ngữ. Nhưng một năm trở lại đây, có một người dịch thơ Việt ra thơ Việt, gây sự chú ý, ngỡ ngàng trong làng văn chương nước nhà. Người làm cái việc “động trời” đó là nhà thơ Đỗ Hoàng. Đỗ Hoàng không phải dịch thơ Việt ra thơ Việt để giải trí, mà anh có một chủ đích hẳn hoi. Hồi trước, khi chưa có Blog cá nhân, Đỗ Hoàng đem phô - tô mang phân phát cho bạn bè cùng đọc. Khi có Blog, anh tải lên đó tất cả những bài thơ đã dịch của mình. Thật lạ, từ khi những bài thơ đó được tải lên Blog, số người truy cập tăng nhanh, số người comment nhiều, và tạo thành hai luồng ý kiến trái ngược nhau: đồng tình và phản đối. Thậm chí có nhiều ý kiến mang tính chất “khủng bố”, làm cho nhà thơ Đỗ Hoàng phải rút lui khỏi Blog một thời gian.

Tôi và Đỗ Hoàng cùng quê. Anh lớn hơn tôi chừng chục tuổi. Tôi quen Đỗ Hoàng từ hồi anh ra học Trường viết văn Nguyễn Du, năm 1982. Anh viết văn, làm thơ và dịch cả thơ chữ Hán. Tập thơ Tuý thì ca xuất bản năm 2001, anh dịch thơ Đường có những câu rất hay, ví dụ: “Rửa gươm trong sóng bể dâu/ Ngựa ăn cỏ máu tận đầu Thiên Sơn” (Nguyên văn: Tẩy binh điều chi thượng hải ba/ Phóng mã Thiên Sơn tuyết trung thảo - Bài Chiến thành Nam của Lý Bạch). Vào một buổi chiều cách đây hơn năm, tôi với Đỗ Hoàng ngồi nhâm nhi mấy cốc bia bên gốc sấu cổ, khi đã ngà ngà, anh liền đọc thơ. Lúc đầu tôi tưởng anh đọc thơ của anh sáng tác, nhưng không phải, mà đó là thơ người khác được anh dịch ra lục bát. Tôi cứ tưởng anh làm cho vui. Bẵng đi một thời gian, khi làng Bloger xôn xao chuyện Đỗ Hoàng dịch thơ Việt ra thơ Việt tôi mới tìm đọc, thì đã bị anh xóa hết. Tôi liền “truy lùng” tóm gọn anh và lấy về được một tập bản thảo thơ dịch hơn 20 bài. Đỗ Hoàng nói nhỏ: “Đọc xong nhớ gửi trả mình nhé, đừng phát tán nguy hiểm lắm”. Tôi nghĩ, chắc Đỗ Hoàng còn sợ những tin nhắn trên Blog, nên lo xa như vậy. Tôi hứa chỉ dùng một vài dẫn chứng để viết bài, sau đó trả anh ngay, anh mới yên tâm bắt tay tôi phóng xe máy đi nhà in.

Đọc cả tập thơ dịch Đỗ Hoàng đưa, tôi thấy những nhà thơ được anh dịch nhiều nhất là Hoàng Vũ Thuật, Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải, Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tùng… Một lần, hỏi chuyện Đỗ Hoàng, tôi được biết anh dịch thơ Việt ra thơ Việt bởi sự “phản ứng” với một số cây bút sáng tác thơ cách tân, làm thơ bí hiểm, người đọc không hiểu nổi. Anh và nhà thơ Vương Trọng - hai nhà thơ xuất thân từ thầy dạy Toán là hai đại biểu bảo vệ cách làm thơ truyền thống, bởi “thơ trọng ở tình cảm, đổi mới nội dung mới đáng quý, còn hình thức thơ như chúng ta từng có đã đủ để sáng tác được nhiều bài thơ hay”. Không những thế, Đỗ Hoàng còn viện dẫn cả Lục Du bên Tàu: “Công phu thâm xứ phi bình dị”. Thơ ca làm khó hiểu, rắc rối là hạ thấp thơ, anh không thể nào chịu nổi. Cơn “dị ứng” nổi lên, anh lôi ngay bài thơ Mãi viên trà của người bạn thân thiết nhất là Hoàng Vũ Thuật ra dịch. Sáng tạo lại trong cơn xúc động bởi sự ức chế, nên Đỗ Hoàng dịch rất nhanh. Dịch xong, đọc lại thấy hay, bài thơ như được “nâng cấp”, Đỗ Hoàng liền mang sang nhà nhà thơ Lê Đình Cánh - môt người thơ sành lục bát - đọc cho ông nghe. Lê Đình Cánh “tiếp sức” cho Đỗ Hoàng bởi những lời khen ngất trời. Đặc biệt ông thích hai câu cuối: “Kết vào nhau tựa thêu thùa/ Linh hồn tôi với ngải bùa cỏ cây” (nguyên bản: kết dính vào nhau/ linh hồn tôi/ dính vào cành lá). Không những thế, ông còn khuyến khích Đỗ Hoàng dịch tiếp và gửi in báo.

Được đà, trong một tháng, anh dịch được hơn chục bài. Dịch được bài nào anh xuất bản mồm cho các bạn thơ, bạn rượu của mình nghe. Nhiều người khen ngợi. Thế là anh tung lên mạng. Nhà thơ Tùng Bách ở tận Vũng Tàu khen trực tiếp trên Blog bằng mấy câu lục bát: “Hoan hô bác Đỗ thật cừ/ Dịch Văn Cầm Hải cứ như uống trà/ Nguyên bản em đọc không ra/ Xem qua bản dịch thế mà lại hay”.

Tôi đã đọc hết những bài thơ của Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tùng, Trịnh Thanh Sơn… do Đỗ Hoàng dịch. Phải công nhận anh dịch lục bát rất khá. Không có một câu thơ nào lỗi vần. Ý tứ lại chuẩn. Bài thơ Giấc mơ đi qua của Vi Thùy Linh được anh dịch thành lục bát, nói như nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo là “hay một cách bất ngờ”. Tôi xin trích một khổ thứ hai trong bài thơ đó, nguyên bản: Đêm qua rơi dải khăn mâyGió đợi chờ nhau thơ thácNày đọt yêu thươngLớn trên tay những mầm khao khát Bản dịch:Mây đêm buông xuống bất ngờThơ reo tiếng nhạc, gió chờ đợi nhauTình yêu có phép nhiệm màuDồn khao khát nhớ lên đầu ngón tay.

Không giống như dịch thơ chữ Hán ra thơ Việt, Đỗ Hoàng dịch rất sát nghĩa, song dịch thơ Việt ra thơ Việt, có những chỗ anh “phải thêm lời, ý tứ vào bài thơ mới rõ nghĩa, vì bản chính tắc tị”. Vì vậy anh bảo nhiều khi phải “nghĩ nát óc” để đọc thơ, luận nghĩa. Đọc để hiểu được thơ của các nhà thơ “đổi mới” đã khó, dịch nó lại càng khó hơn. Khó bởi phải dịch làm sao thật sát, thật hay để người có bài thơ được dịch phải chịu, người đọc, người nghe phải khen. Thành công cũng có, song thất bại cũng không ít. Nguyên nhân thất bại là do không hiểu nổi bài thơ của tác giả đó nói gì, hoặc phải thêm ý của mình vào quá liều lượng. Đỗ Hoàng đơn cử một ví dụ nhỏ về tiêu đề một bài thơ của Hoàng Vũ Thuật, có tên Mãi viên trà. Khi mới đọc, Đỗ Hoàng không thể hiểu nổi. Sau này, có dịp vào Đồng Hới, Quảng Bình, anh mới thấy có cái quán tên Mãi Viên Trà mới vỡ lẽ. Thế mà khi dịch, chữ “Mãi Viên Trà” anh không thể nào dịch được, đành để nguyên.

Một lần gặp nhà thơ Hoàng Vũ Thuật ở Đồng Hới, tôi cho anh xem bài thơ Mãi Viên Trà do Đỗ Hoàng dịch. Hoàng Vũ Thuật đọc rất chăm chú. Đọc xong, ngẩng lên anh bảo: “Hoàng dịch rất chuẩn, lục bát có thần”. Nhưng sau đó mặt anh lặng buồn, nhìn ra cửa biển nói tiếp: “Đỗ Hoàng cũ lắm rồi. Bài thơ nào cũng dịch ra lục bát theo âm điệu của thế kỷ 18 thì còn gọi gì là thơ đời nay nữa…”. Tôi kể lại chuyện Hoàng Vũ Thuật đã nói cho Đỗ Hoàng nghe. Đỗ Hoàng “xù lông” nói cái câu đã từng nói rất nhiều lần, ở rất nhiều nơi về thơ lục bát: “Thơ lục bát là quốc hồn, quốc tuý. Truyện Kiều hay và mới đến muôn đời. Hoàng Vũ Thuật ngông cuồng!”.

Tôi không dám bình luận gì thêm bởi Đỗ Hoàng đang trong cơn “cuồng nộ”. Chuyện người dịch thơ Việt ra thơ Việt đến nay chưa có hồi kết. Bởi càng ngày càng có nhiều người làm thơ theo lối mới, nghĩa là “không làm thơ theo lối tranh cảnh” như Phạm Quỳnh đã nói, mà thơ của họ đa chiều, lấy sự ám ảnh và nhịp tâm hồn làm trọng. Do đó, người dịch thơ còn phải “lao động” dài dài, và cần phải lao động có năng suất mới đạt được hiệu quả mong muốn. Rất may, hiện nay Đỗ Hoàng đang làm biên tập ở Tạp chí Nhà Văn, nên có điều kiện thuận lợi hơn. Và tôi nghĩ, không chừng, theo gót anh, có nhiều nhà thơ khác cũng đi dịch thơ Việt ra thơ Việt trong tương lai. Chuyện này dễ gây nên một “cú sốc” trong làng thơ Việt. Biết đâu, từ đó nảy sinh ra một cuộc tranh luận mang độ nóng cao, tạo đà cho cuộc cách mạng thơ trong giai đoạn mới? Khi đó, tên tuổi Đỗ Hoàng sẽ đi vào lịch sử văn học!

Tôi không muốn bình luận gì về chuyện dịch thơ này, vì người dịch là bạn tôi và người được/ bị dịch cũng là bạn/ đồng nghiệp của tôi. Tôi rất muốn đứng về một phía. Song Mùa Xuân đã đến, nhớ câu nói xưa “dĩ hoà vi quý”, nên chỉ xin phép được chép ra một bài thơ mà Đỗ Hoàng đã dịch để bạn đọc cùng xem xét, suy ngẫm.

KINH NGHIỆM XANH

Tôi nằm dưới bóng râm thời trang

Kinh nghiệm xanh rì rào thành phố

Đất nước tôi

Những vòng môi mặn đỏ phù sa

Ngọn tầm vông chuyển giao đất trời

Tư duy tâm Đổi mới

Giấc chiêm bao lịch sử nóng ran

Công trường

Và chiếc nôi đầy đặn ngữ pháp khóc cười

Văn hiến

Đi tìm chồng cho mẹ Âu Cơ

Mà mất biết bao chùm điện tử

Không hoá giải

Hình quê hương trong khói hát mồ hôi…

Văn Cầm Hải

Bản dịch:

KINH NGHIỆM XANH

Tôi nằm dưới bóng thời trang

Ôi, kinh nghiệm xanh râm ran phố phường

Đất nước tôi mấy đoạn trường

Phù sa mặn đỏ thêm hường vòng môi!

Ngọn tầm vông chuyển đất trời

Tư duy đổi mới hồn người tâm can!

Chiêm bao lịch sử nóng ran

Công trường sôi động mở mang xứ nghèo

Nôi đầy cười khóc, lời yêu

Nền văn hiến để dệt thêu bóng cờ

Tìm chồng cho mẹ Âu Cơ

Bao chùm điện tử bất ngờ mất đi!

Muốn hoá giải, phỏng được gì

Mồ hôi khói hát cũng vì hình quê!

Đỗ Hoàng



Trần Quang Đạo

Nguồn: Sinh viên Việt Nam xuân Mậu Tý

ngày 28 tháng 1 năm 2008 lúc 5:14 pm (GMT+7)

Thơ không vần thế giới...

 16:31 15/06/2025

quyển sách, đặt tên là sách "Binh thư yếu lược". Nếu các ngươi biết chuyên tập sách ấy, nghe lời dạy-bảo của ta, ấy là duyên thầy trò kiếp xưa; Nếu các ngươi bỏ bê sách ấy, trái lời dạy-bảo của ta, ấy là mối cựu thù kiếp xưa, Sao vậy? Bởi vì như vậy tức là kẻ thù không đội chung trời, thế mà các ngươi không nghĩ tới, điềm nhiên không lo đến sự rửa thẹn, không tinh; đến việc trừ hung, không nhớ đến chuyện dạy-tập quân-sĩ. Thế là giở giáo hàng giặc, nắm tay chống giặc. Rồi đây, sau khi dẹp yên quân giặc, các ngươi sẽ phải thẹn muôn đời, còn mặt-mũi nào đứng giữa khoảng trời đất che chở? Ta muốn các ngươi biết rõ bụng ta, nhân viết mấy lời đó làm hịch.”
(còn nữa)

Viết bẩn thỉu

 14:14 15/06/2025

Đã chia sẻ với Công khai
MỘT BÀI THƠ ,,VÔ LỐI,, TÀ DÂM, BỆNH HOẠN - GIẢI THƯỞNG HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM NĂM 1993
CẤU HỎI CUỐI NGÀY
Dịch Vô lối - Thi tặc Nguyễn Quang Thiều (tiếp)
Thứ bảy - 16/01/2021 06:25
Khi tập “ Sự mất ngủ của lửa” được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng, ngay năm1993, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết “ Nguyễn Quang Thiều tự dịch thơ mình ra tiếng Việt” và phong cho ông nhà “ Khóc Học” . Tôi nghĩ rất đúng mà chưa hết. Nguyễn Quang Thiều có du học học ngành Công an chuyên nghiệp, nhưng Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt. Tập “Sự mất ngủ của lửa” đầy hàng chục chữ khóc, riêng bài này đã hơn bốn chữ gần khóc: tôi nấc lên, tôi sặc khói, tôi sẽ ngủ, tôi nhói lên…
Dịch Vô lối Nguyễn Quang Thiều (tiếp)
CÂU HỎI CUỐI NGÀY
Nguyễn Quang Thiều
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày
Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên
Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào
Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.
Quán Sứ - Hà Đông, 1991
BÌNH GIẢNG
Câu mở đầu không có gì gọi là câu thơ. Một câu nói đơn sơ như các ông, các bà quét rác ở các công ty Vệ sinh môi trường, sau ngày làm mệt nhọc vẫn thường nói. Mà nói hay hơn, thơ hơn:
“Ngày dài mưa nắng trên đường
Mong về có đọi cơm thương ở nhà”.
Tiếp theo 5 câu sau có tới 31 từ mà lại là 5 câu rất vô nghĩa, vô bổ không nói lên được điều gì:
“Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên”
Trong khi tiền nhân chỉ 20 từ đã làm nên thi phẩm bất hủ muôn đời!
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Lưu Vũ Tích
飲酒看牡丹
劉禹錫)
飲酒看牡丹
今日花前飲,
甘心醉數杯。
但愁花有語,
不為老人開。
Lưu Vũ Tích
Ẩm tửu khán mẫu đơn
Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm tuý sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ:
Bất vị lão nhân khai.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Trước hoa giờ được uống
Mấy chén ngất ngư say
Sợ rằng hoa sẽ nói:
Không nở cho già này!
Cao điểm chốt 176 –
Biên giới Việt Lào 1972
Tiếp đến 6 câu sau là những câu có ý nghĩ dục tình rất bậy bạ, ý nghĩ khiên cưỡng mang tính hiếp dâm cao:
“Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào”
Những người con gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua có sao đâu. Họ làm đẹp cho phố phường đường làng có cuộc đời khởi sắc mà ông bà váy cồng lộn ngược, mò cua bắt ốc không có đôi dép mo cau mà đi thì sao? Tại sao lại nói “Như dao sắc phất vào tôi tứa máu”? Một câu khẩu phàm, hàm hồ, hàm chứa, căm giận cái đẹp còn hơn phát xít Hitle bắn đại bác vào Viện Bảo tàng nghệ thuật Paris (Pháp) những năm 1940 – 1942. Người ta cưỡi xe máy, một nét đẹp của con gái Việt Nam thời đổi mới nghìn đời mới có, sao mình lại có cái nhìn thù hận như vậy?
Bên châu Âu như bà Angela Dorothea Merkel, thủ tướng Đức mặc váy cởi xe máy phóng qua anh cũng tứa máu như dao sắc phất vào người chăng?
Đúng là điên rồ!
Cha ông nói:
“Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc áo hở lườn mới xinh!”
Bây giờ người đẹp mới mặc váy cưỡi xe máy phóng qua mà mình đã hồng hộc sôi máu lên như đỉa phải vôi? Anh lại còn “ nấc “ lên như bị nghẹn. Việc chi mà anh ghen tức lồng lộn với cái đẹp như thế? Cái đẹp vĩnh cửu của thời đổi mới nước ta có phương hại gì đến thẫm mỹ, đến thuần phong mỹ tục gì đâu?
Người đẹp mặc thế là quá kín đáo, bây giờ chúng nó còn mặc quần đùi lên tận bẹn cởi xe máy nữa đấy. Chỉ những đám vua quan dâm dục vô độ “ Nhất dạ lục giao hoan, sinh ngũ tử” nhưng lại căm thù cái đẹp:
“Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng”
(Ca dao)
Chưa hết, anh còn đặt ra ảo tưởng rất bậy bạ, của đám cái bang, homeless people, vô lương tri:
“Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào “
Rằng anh làm sao lấy họ được. Anh Vua chúa sao mà lấy họ dễ dàng như thế. Anh không phải Đặng Mậu Lân em gái Đặng Thị Huệ khênh giường đi giữa Thăng Long thấy gái đẹp là kéo lên làm tình, cũng không phải Beria (Nga) có xe đặc chúng đóng giường chiếu riêng để đi trên phố hễ thấy nữ sinh viên là kéo lên giao hợp… Đến như vua Napoleon cũng phải lấy mạ giòng (đàn bà có con riêng), thứ gì anh thấy người đẹp mặc váy cưỡi xe máy đi trên phố thoáng qua mà đã đòi làm tình! Anh có nứng cặc thì anh chạy vào gốc cây thủ dâm cho nó hạ hỏa, chứ làm sao tiếp cận với người ta!
Anh còn chưa biết, biết đâu trong đám đàn bà, cả đẹp cả xấu đó là tình báo viên, đặc tình, đặc vụ của Công an cài cắm, mà ngành anh theo học. Anh bờm xơm họ sẽ cho một lưỡi dao găm thì anh đi đời, không họ sẽ điện đàm trực tuyến đến bộ phận tham mưu cho anh vào Hỏa Lò! Anh có dám không?
Tiếp đến là đoạn kể như học sinh lớp 2 Hà Nội thời miền Bắc hòa bình mới lặp lại tả cảnh các bà, các cô buôn vịt, buôn cá khô, buôn nước mắm đi trên tàu điện:
“Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia”
Rồi anh lại lần nữa nổi máu Sở Khanh không phải lối:
“Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.”
Thật là một ý nghĩ tà dâm rất bậy bạ!
Đến như Nguyễn Du chỉ mới nói, dù tên Mã Giám Sinh vô cùng mất dạy, bất lương, không còn luân thường đạo lý:
“Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến duyên”
Đó là đã có ba trăm lạng vàng nhé. Còn anh bô xu dính tíu sao anh có ý nghĩ hoang dâm vô độ ấy được?
Khi tập “ Sự mất ngủ của lửa” được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng, ngay năm1993, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết “ Nguyễn Quang Thiều tự dịch thơ mình ra tiếng Việt” và phong cho ông nhà “ Khóc Học” . Tôi nghĩ rất đúng mà chưa hết. Nguyễn Quang Thiều có du học học ngành Công an chuyên nghiệp, nhưng Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt. Tập “Sự mất ngủ của lửa” đầy hàng chục chữ khóc, riêng bài này đã hơn bốn chữ gần khóc: tôi nấc lên, tôi sặc khói, tôi sẽ ngủ, tôi nhói lên…
Người ta chẳng thấy nấc, sặc, nhói, ngủ… như thế nào!
Nói chung Nguyễn Quang Thiều Thiều không biết làm thơ tiếng Việt, viết rất kém, dẫu sau này anh có sáng tác lục bát “ Dâng trà”, “Con đường”…
Hội Nhà Văn Việt Việt Nam thời ấy (1993) tặng giải thướng cho Nguyễn Quang Thiều là có tội với nhân dân, với lịch sử!
Hà Nội 14 – 12 – 2017
Đ - H
ĐỖ HOÀNG
DỊCH RA THƠ VIỆT:
CẢM MẾN CUỐI NGÀY!
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi những chuyến xe sắp sửa tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi rệu nhất
Và buồn nhất trong khoảng lặng về đêm!
Cũng phía bên kia con đường tôi đợi
Những chiếc lá mà tôi không biết tên
Những chiếc lá rụng rơi đầy bụi
Cơn mưa vàng chiều thắm dâng lên!
Trong cơn mơ huyền buồn và đói
Bao người xinh sành điệu tay ga
Như ánh chớp như là câu hỏi
Như ánh sao, ngà ngọc chói lòa!
Và chuyến xe tan tầm đã đến
Cả cuộc đời sống động ào vô
Bao thân phận lủi lầm sương nắng
Cho lòng tôi cảm mến vô bờ!
Hà Nội 14 – 12 – 2017
Đ - H
(*) Trich trong “Sự mất ngủ của lửa” – NXB Lao động 1992

Nhờ bạn, mọi người giúp đỡ!

 14:11 15/06/2025

NHỜ BẠN, MOI NGƯỜI GIUP ĐỠ
Đỗ Hoàng
Tôi năm 1992 có in tiểu thuyết CUỘC CHIÊN VỪA TÀN ở NXB Quân đội. Nay đến tìm Nhà xuất bản, không có; Thư viên Quân đội, không có. Thư viện Quôc gia không có. Bạn bè và mọi người ai có cho tôi xin photo lại với giá cao hoặc bán lại với gía cao!
Kính
Đỗ Hoàng
Tel: 0913369652
Địa chỉ: Nhà số 77, tổ 3, Bằng A, phường Hoàng Liệt, quận Hòang Mai, Hà Nội.

Hai mặt Trịnh Công Sơn

 09:36 14/06/2025

TRỊNH CÔNG SƠN và CHIẾC MẶT NẠ CỦA KẺ TẬT NGUYỀN
https://youtu.be/vC-7W4LSj6M
Không đứng thẳng mà nghiêng ngả theo thời cuộc, trở thành nạn nhân của chính mình
Matthew Chương
7 tháng 4, 2022
1
Ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản! Đi hai hàng kết cục chẳng tốt đẹp gì!
Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ đầu tiên của Miền Nam được người Bắc tiếp xúc sớm nhất, với những bản tình ca lạ lẫm từ nhạc tới lời, khác hoàn toàn với những ca khúc cách mạng ngự trị hàng mấy thập niên, những bản tình ca ngọt ngào vẫn cứ phải thấm đẫm chủ nghĩa anh hùng cách mạng và ý chí chiến đấu, vì thế, “nhạc Trịnh” trở thành lựa chọn hàng đầu với sở thích nghe nhạc của dân Bắc cực đoan trong cả yêu và ghét khi văn hóa miền Nam giải phóng tâm hồn miền Bắc.
Trong khi đó ở miền Nam,
vốn có một nền âm nhạc nói riêng và nền văn nghệ nói chung vô cùng phóng khoáng, hiện đại, trữ tình,
vừa nối tiếp mạch tân nhạc tiền chiến với những tài hoa di cư từ Bắc vào Nam sau 1954,
vừa nở rộ tài năng từ mảnh đất châu thổ Cửu Long Giang, từ phố núi Đà Lạt…
– với những tên tuổi rực rỡ như
Phạm Duy, Anh Bằng, Trầm Tử Thiêng, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trần Thiện Thanh,
Trúc Phương, Lam Phương, Lê Uyên Phương, Vũ Thành An, Nguyễn Văn Đông, Tuấn Khanh, Duy Khánh,
Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Trường Sa… khiến cho người dân miền Nam có nhiều lựa chọn.
Và Trịnh Công Sơn được yêu, ghét qua từng giai đoạn lịch sử;
gắn liền những nhạc phẩm của ông theo từng khúc đoạn thời gian và theo cả cảm quan chính trị được cho là mơ hồ (trước 1975),
xu thời (sau 1975).
(…) Cuối đời, Trịnh Công Sơn có một nhạc phẩm mà không ca sĩ nào hát thấm hơn chính ông:
“Tiến thoái lưỡng nan”.
Đó có thể coi là bản tổng kết bằng âm nhạc cho cuộc đời của nhạc sĩ tài năng này.
Đâu phải chỉ có lúc bấy giờ,
Trịnh Công Sơn mới tiến thoái lưỡng nan.
Dường như, cả cuộc đời ông là sự lưng chừng, lỡ cỡ, hai chân đặt ở hai con thuyền, không tiến không lui, không tà không chính,
lập trường chính trị không rõ ràng, ngay cả âm nhạc cũng là sự bội phản, phủ định lẫn nhau.
2
Trong đời, ông mâu thuẫn trong các mối quan hệ bạn bè, xã hội.
Trước 1975, ông thân thiết với Đại tá Lưu Kim Cương, một sĩ quan Không quân tài hoa có tâm hồn nghệ sĩ. Cũng chính vì đam mê âm nhạc,
Lưu Kim Cương mới mời Trịnh Công Sơn- Khánh Ly vào hát ở câu lạc bộ sĩ quan Không quân, còn gọi là câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc, và Trịnh Công Sơn đã kết thân với Đại tá Lưu Kim Cương từ dạo đó.
Khi Đại tá tử trận, Trịnh Công Sơn đã có bài hát nổi tiếng
“Hát cho một người nằm xuống”
để bày tỏ nỗi tiếc thương.
Mặt khác, ông lại thân thiết với Ngô Kha, một sinh viên theo Cách mạng và sau 1975 là Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân,
những người khá có “uy thế” với văn nghệ miền Nam nói chung và xứ Huế nói riêng sau ngày thống nhất.
•Trong âm nhạc, Trịnh Công Sơn mâu thuẫn với chính ông.
Ở đề tài nhạc phản chiến,
Trịnh Công Sơn thể hiện rất rõ sự mâu thuẫn này.
Ông không theo Cộng Hòa,
dù sống trong chính thể Cộng Hòa. Ông sợ cảnh đại bác đêm đêm dội về thành phố, ông thương những kiếp người lầm than điêu linh trong bom đạn nhưng không đặt ra câu hỏi:
“Ai đêm đêm nã đại bác vào thành phố?”
Đại bác hồi đó thường dội vào những khu gia binh, bởi lính VNCH hay mang theo gia đình, có vợ và con nhỏ, dội đại bác vào đó để gây bấn loạn tinh thần của binh sĩ.
… Ông viết những ca khúc phản chiến, và tự đặt mình đứng ra ngoài, đứng lên trên, cao hơn cuộc chiến, cho dù ông đau nỗi đau của thân phận người dân trong một đất nước đầy bom đạn.
Phản chiến, nhưng không nhận thức một cách rõ ràng vì sao có chiến tranh và cần làm gì để kết thúc nó.
Nhiều người gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam.
Tôi cho rằng, so sánh như vậy là khập khiễng.
Bob Dylan không chỉ phản đối chiến tranh, ông còn viết những ca khúc đòi nhân quyền, chống kỳ thị chủng tộc, và hơn thế, tâm thế mà người Mỹ tham chiến trên chiến trường Việt Nam,
Triều Tiên khi đó hoàn toàn khác cuộc chiến trong lòng đất nước Việt Nam.

Có câu chuyện thế này.
Thầy Bửu Ý trước khi vào Sài Gòn dự đám tang Trịnh Công Sơn có hỏi anh Đ.N.P.H., một guitarist có tiếng,
dạy Học viện Âm nhạc Huế:
“Thầy vào dự đám tang, em có gửi gì không?”
thì anh Đ.N.P.H. đã trả lời,
“Âm nhạc của anh ta đã giết chết một thế hệ thanh niên mới lớn như tụi em. Những ca khúc trong tuyển tập Da Vàng đã sinh ra một thế hệ thanh niên yếu đuối và hèn nhát”.
Có thể, đó chỉ là suy nghĩ của một cá nhân, trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, nhưng không phải là không có lý.
3
Trịnh Công Sơn, cũng như hàng triệu người Việt lúc bấy giờ ước mơ,
hi vọng về một đất nước thống nhất hòa bình;
từ tâm lý đó, có thể hiểu được tại sao ông đọc lời kêu gọi Văn nghệ sĩ trên đài phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975
(có người đã viết rằng: “vào 11g30 ngày 30/4: có một nhạc sĩ thiên tài qua đời và một nhạc sĩ ba phải ra đời”).
Rồi, hơn ai hết, Trịnh Công Sơn âm thầm đau xót trong nỗi cô đơn,
thất vọng không dễ gì bày tỏ của một người luôn chọn tránh đạn bằng cách cúi mình giữa hai làn đạn,
và cả hai phía đều nhìn ông bằng con mắt hoặc thù địch, hoặc nghi ngờ. Dường như Trịnh Công Sơn chưa bao giờ chọn cho mình một tâm thế đứng thẳng, rạch ròi, mà thường nghiêng ngả theo thời cuộc, theo những nhân vật của thời cuộc và trở thành nạn nhân của chính mình.
•Có những câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng:
Tại sao một người từng viết
“Ca dao Mẹ”, “Gia tài của Mẹ”,
“Bà mẹ Ô Lý”…
lại có thể viết “Huyền thoại Mẹ”?
Hồi Tết Mậu Thân 1968,
Trịnh Công Sơn phải trốn chui trốn nhủi, suýt chết dưới tay những người tấn công thành phố Huế,
mà sau 1975, ông lại viết rất ngọt, mượt về một bà mẹ đứng dưới mưa “ngăn từng bước chân thù”.
Thù nào?
Lẽ nào lại là những người bạn từng che chở, cưu mang khi ông trốn chui trốn nhủi?
Lẽ nào ông không nhìn thấy những người mẹ, người vợ mỏi mòn chờ con chờ chồng đi cải tạo mãi mãi không về?
Lẽ nào ông không nhớ những lời mình từng viết
“Xác người nằm trôi sông, trôi trên ruộng đồng. Trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh co.
Xác người nằm bơ vơ dưới mái hiên chùa. Trong giáo đường thành phố, trên thềm nhà hoang vu…”?
Xác người từ đâu ra,
chắc Trịnh Công Sơn hiểu hơn ai hết.
Tại sao nhạc Trịnh viết về thân phận con người thấm thía như thế,
nhưng khi đồng bào miền Nam trên các vùng kinh tế mới, thiếu ăn thiếu mặc, chết đói chết rét, phải chấp nhận đánh cược tính mạng làm mồi cho cá để vượt biên…
thì ông lại không viết được một bài nào về những phận người mong manh đó?
Ông vẫn thong dong hát:
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, chọn những bông hoa và những nụ cười”.
Tệ hơn, ông còn hồn nhiên hát:
“Em ra đi nơi này vẫn thế”.
4
Sau rất nhiều hứng khởi của
“Hoa xuân ca”,
“Em ở nông trường em ra biên giới”, “Khăn quàng thắp sáng bình minh”, “Huyền thoại mẹ”, “20 mùa nắng lạ”…,
có lẽ ông bắt đầu thấm mệt với trò chơi đu bám thời cuộc.
Hoặc giả, khi đó xã hội bắt đầu có sự cởi mở hơn với những đề tài sáng tác, thì Trịnh Công Sơn bộc lộ sự chán chường không thể che đậy.
Hàng loạt ca khúc sau này chính là nỗi lòng ông.
Có lẽ, đó là những bản nhạc thật lòng nhất.
Hãy nghe “Tôi ơi đừng tuyệt vọng”. Đâu phải chỉ tuyệt vọng vì người con gái ông yêu bỏ đi lấy chồng.
Nó còn là sự an ủi chính mình khi tuyệt vọng về một con đường ước mơ, một xã hội đẹp đẽ trong trí tưởng nay đã thành tuyệt lộ.
Hãy nghe
“Mẹ bỏ con đi, đường xa vạn dặm”, đâu chỉ là người mẹ thương yêu ông hết lòng, đó còn là Mẹ Việt Nam đã bỏ đi, bỏ những đứa con lai căng và bội tình.
“Tiến thoái lưỡng nan” có thể nói là bài hát cuối cùng mà Trịnh Công Sơn trút tất cả nỗi niềm.
Một sự bơ vơ, bế tắc, biết sai lầm nhưng không thể còn thời gian để kịp sửa chữa.
Dù đi về cuối ngõ nơi quê nhà hay đi về nơi cuối trời vĩnh hằng,
thì sống hay chết, cũng không thể lựa chọn lại.
Nên mới bơ vơ, hoang mang,
không đi đâu nữa,
chỉ ngồi để tôi tìm lại tôi.
Có thể nào tìm lại?
Có tìm được không?

Dân ngu lâu

 09:34 14/06/2025

DÂN MÌNH VẪN NGU LÂU
Đỗ Hoàng
Năm 1945, nước ta có 25 triệu người, 95% dân mù chữ quốc ngữ! Nhưng tinh hoa văn hóa của dân tộc vẫn gìn giữ được truyền từ đời này qua đời khác! Đến nay 100% dân ta biiết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.thế nhưng vẫn “mù chữ” do áp lực nhiều phía! Nhất là số tham gia chức sắc Nhà nước;công sở, lính tráng…Trước một sư viêc nả vỗ tay;gười ta nói hay, tất cả vỗ tay; người ta báo dở, tất cả a dua (bọn xu thời).
Như tôi, trươc hIện tượng phá nát văn chương Việt của các cây viết tôi lên tiếng phê phán chúng trùm cho là anh “Chí”(Chí Phèo) – Chửi! Ai cũng cho tôi anh Chí nên chẳng thèm để ý!
Thật ra để tìm, loc trong hàng trăm triệu người viêt chỉ 27 tên trùm Sõ thi tặc là công trình khoa học hẳn hoi đúng như các công trình chông thất thu thuế xã, phường, huyện…
Ví dụ như Nguyễn Quang Thiều! (Đương kim Chủ tịch hội Nhà văn Việt Nam ). Thiều làm công an bình thường cũng là Trung tướng – ăn trên ngồi trốc.Chức Chủ tịhỉ kiếm mây gái già miễn phí trong cơ quan!
Từ khi Thiều đang long tong viên ở Vietnam. Net ,tôi đã nói Thiều không biêt làm văn chương! Tôi đã viêt nhiều chuyên luận, dịch.thơ tiếng Việt của Thiều ra thơ Viết. Bấy giờ thì nó quá trầm kha!
“Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào
Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với hòn sacọ như thế nào.
Quán Sứ - Hà Đông, 1991
(trích)
Thơ của thằng hoạn lợn cũng sạch sẽ hơn Nguyễn Quang
2, Nguyễn Bình Phương (Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam)
“Tôi anh linh phong tình
Nhìn sương núi vòng quang thân súng
Lòng cồn cào vũ điệu giao long”
(trich – Tự bạch thời binh)
Viêt viết dâm loạn, bẩn thỉu hơn cả Sỏ Khanh.
“Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh
Vãn là một đứa phong tình đã quen…” (Nguyễn Du)
3, Phan Hoàng – Ủy vien Ban chấp hành Hội Nhà vưn Việt Nam , phụ trách Wetsitr Vanviet.net
PHAN HOÀNG CHO THEO ĐÍT TRÂU
Đỗ Hoàng
Ltg: Gần thế kỷ qua, bọn thơ Vô lối hoành hành tác oai, tác quái trên cõi Việt. Chúng là loại thi tặc – giặc thơ – phá hoại thi ca tổ tiên. Từ thằng thủy tổ Thanh Tâm Tuyền , phó thủy tổ Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Hoàng, Trần Hùng, In ra sa ra, Mai Quỳnh Nam, Mã Giang Lân, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Vũ Thuật, Mai Văn Phấn, Tuyết Nga, Văn Cầm Hải, Trúc Thông, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Phan Thị Vàng Anh, Từ Quốc Hoài, Đinh Thị Như Thúy, Đỗ Doãn Phương, Thi Hoàng, Hoàng Hưng… đến đám hậu sinh, đám chíp hôi … tác phẩm của chúng cả nội dung và hình thức không đem đến điều gì mới mẻ cho văn chương mà lại phá hoại văn chương Việt! Phan Hoàng là một tên như thế: giả dối, sáo, sến, viết về mẹ mà cũng đóng kịch, nhạt nhẽo, gượng gạo…đầy chất Tàu ô!
Nguyên bản:
Phan Hoàng
TIẾNG THỞ MẸ NHỌC NHẰN
(Văn nghệ số28 /9/7/2022)
Thẫn thờ đêm tiếng thở mẹ nhọc nhằn
tiếng cánh cò rã rời trăm năm âm thầm mưa nắng
tiếng kết tủa buồn vui đời sông chạm biển về nguồn
Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh
gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức
như con bò đi hoang trở về hít thở mùi chuồng quen thuộc
cúi đầu tạ lỗi nghĩa trọng tình thâm
đêm đêm canh giữ tiếng thở mẹ nhọc nhằn
lòng nặng trĩu ngọn núi tuyết đông suy tư nhức nhói
Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca
đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất
gió rón rén ép mình hơi ấm se thắt sinh thành
nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm
rơi theo tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo
Ước gì ngọn gió ta như mầm non mới cựa mình trong lòng đất
và cơ thể mẹ là ngôi vườn thanh xuân ấm áp tiếng hoang sơ.
BÌNH GIẢNG:
Tôi đã nhiều lần nói: - Đọc đám thơ Vô lối – thi tặc – giặc thơ như đi hội nghị sang trọng mà dẫm phải cứt người! Khó chịu, tởm lợm! Thật ra không nên đọc nhưng vì văn chương, vì thơ nước nhà phải đọc, phải bình bởi bọn thi tặc cầm chịch văn nghệ mậu dịch tác oai, tác quái trên thi đàn nên tôi lại động bút.
Bọn thi tặc chuyên làm “vô lối – ( thơ không vần). Bọn chúng không biết là thơ không vần nhân loại và cha ông ta làm từ thuở khai thiên lập địa. Ngay khi ngồi trên ghế nhà trường các thầy đã nói làm thơ không vần như đi xiếc trên dây, rất dễ thất bại. Trí tuệ lớn, trái tim lớn mới có bài đứng lại, còn bọn “chấu cẩu” (chó) làm sao thành công!
Phan Hoàng là tay trong đám Vô lối – thi tặc – giặc thơ ấy viết loăng quăng, uốn éo, làm bộ, làm tịch, dùng đầy Hán tự… thế mà chúng lăng xê hết lượt này đến lượt khác trên các báo mậu dịch chính thống. Tay này có đi bệnh viện lắp phải trái tim chó hay không sao mà viết như robot?
…“Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh
gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức
như con bò đi hoang trở về hít thở mùi chuồng quen thuộc
cúi đầu tạ lỗi nghĩa trọng tình thâm
đêm đêm canh giữ tiếng thở mẹ nhọc nhằn
lòng nặng trĩu ngọn núi tuyết đông suy tư nhức nhói”…
Đọc khổ này thấy lợm mửa của một thằng kịch hề giả dối!
…“Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh…”
Câu cũ như trái đất, vô bổ, không có chút tình nào,giả vòe, giả vịt…
Câu tiếp lại còn cũ hơn, lại làm bộ làm tịch hơn:
“gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức”
Câu cú nặng nề, lặp đi lặp lại!
Khổ tiếp cũng viết ỏn ẻn, sáo rồng:
…”Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca
đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất
gió rón rén ép mình hơi ấm se thắt sinh thành
nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm
rơi theo tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo…”
Toàn giọng điệu giả dối, không trái tim người!
Đây là bài vô lối làm xiếc chữ về Mẹ, chứ có tình mẫu tử gì đâu!
Thơ viết mề mẹ in chật trái đất, toàn bài hay, chứ có như bài này của Phan Hoàng.
Nông phu thì có:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn”
Hay:
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng mem cơm tấm lưỡi lừa cá xương
Người có chữ:
Du tử ngâm -遊子吟 - Mạnh Giao - 孟郊
遊子吟
慈母手中線, 遊子身上衣;
臨行密密縫, 意恐遲遲歸。
誰言寸草心, 報得三春輝?
Du tử ngâm
Từ mẫu thủ trung tuyến
Du tử thân thượng y
Lâm hành mật mật phùng
Ý khủng trì trì quy
Thùy ngôn thốn thảo tâm
Báo đắc tam xuân huy.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa
Sợi chỉ trong tay mẹ hiền,
Nay đang ở trên áo người đi xa.
Lúc mới lên đường, mẹ khâu kỹ càng,
Có ý sợ con chậm trễ trở về.
Ai dám nói rằng tấm lòng của một tấc cỏ,
Lại có thể báo đáp được ánh nắng của ba xuân?
Đỗ Hoàng dịch thơ:
KHÚC NGÂM CỦA CON ĐI XA
Mẹ hiền khâu sợi chỉ
Trên áo con đi xa
Lên đường mẹ khâu kỹ
Sợ con chậm về nhà
Ai dám một tấc cỏ
Báo đáp ba xuân qua!
Phan Hoàng cũng như bọn giặc thơ đềuTàu hóa, dùng tràn lan âm Hán Việt chưa được Việt hóa! Nhiều bài trước Phan Hoàng đã dùng hàng chục âm Hán Việt, bài này dùng trên 30 chữ (36 chữ). Một thứ Tàu ô!
1, kết tủa -結瑣
2,bôn ba - 奔波
3,phiêu bạt -漂犮
4,hư danh - 虛名
5,độc thoại-獨話
6,ký ức, ký ức记忆
7, thân thuộc 親屬
8,tạ lỗi 謝誄
9, nghĩa trọng 義重
10, tình thâm 情深
11, côn trùng 昆蟲
12, mê mãi 迷買
13,sinh thành 生成
14, dự báo 預報
15,thế gian 世間
16, thanh xuân 青春
17, hoang sơ 荒初
18, đông 冬
19, xuân 春
Bài phê bình trước,tôi đã nói Phan Hoàng nên rèo bò (theo đít trâu) Bài này nhắc lại – chữ nghĩa kiều Phan Hoàng và bọn “thi tặc – giặc thơ” nên cho theo đít trâu suốt đời. Chúng không được bén mảng đến Văn chươngoàng (dân ba xạo) !
Hà Nội tháng 7/2022
Đ - H
Ảnh Phan Hoàng (dân ba xạo)

Thơ không vần thế giới 4

 17:55 12/06/2025

THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIÊT NAM (tiếp theo) 4
Đỗ Hoàng
Thuật ngữ : Thư không vần – Viết bỏ vần điệu
Thơ vô lối: Viết bỏ vần điệu, không ý tưởng.
Tho vô lôi thi tặc: viết bỏ vần điệu, không ý tương, bệnh hoạn, dâm dật, bẩn thỉu, phá vỡ truyền thông tổ tiên và nân loại.
27 tên vô lối – thi tặc Việt Nam: 1, Thanh Tâm Tuyền, 2, Lê Văn Ngăn, 3, Nguyễn Quang Thiều,4, Nguyễn Bình Phương, 5, Nguển Khoa Diềm,6, Phan Hoàng,7, Trần Hùng,8, Phú Trạm Inra sa ra, 9, Hoàng Vũ Thuật, 10, Mai Văn Phấn, 11, Thi Hoàng, 12, Mai Quỳnh Nam , 13, Trúc Thông, 14, Nguyễn Phan Quế Mai, 15, Phan Huyền Thư,16, PhanThị Vàng Anh, 17, Tuyết Nga, 18, Dư Thị Hoàn,19, Hoàng Hưng, 20, Thanh Tùng, 21, Từ Quôc Hoài, 22, Văn Cầm Hải, 23, Giáng Vân, 24, Đỗ Doàn Phương, 25, Vi Thùy Linh, 26, Đinh Thị như Thúy, 27, Phạm Đương.

Chiếu, biếu , sắc phong, cáo, tụng, hịch…của cha ông nhiều nhiều lắm! Không kể hết! Thời cận đại và hiện nay vẫn có nhiều nhà thơ viết thơ không vần thành công . Như thời khàng chiến chống Pháp: Trần Mai Ninh, Hữu Loan, Hồng Nguyên…Thời nay: Lò Ngân Sủn (dân tộc Giáy)…
Nhà thơ Trần Mai Ninh
Trần Mai Ninh tên thật là Nguyễn Thường Khanh. Vốn xuất thân trong một gia đình công chức thời Pháp thuộc, ngay từ nhỏ Trần Mai Ninh đã chịu ảnh hưởng của Nho học và văn hóa Pháp. Bởi thế mà ông sớm có những luồng tư tưởng tiến bộ.
Nhắc đến Trần Mai Ninh nhiều người nhớ ông với tư cách một nhà thơ thời kỳ kháng chiến chống Pháp với những bài thơ: Tình sông núi, Nhớ máu, Thắc mắc, Nhịp muôn đời, Nắng tù, Cơm mới... thể hiện sự “căm thù tột cùng mà yêu thương hết mức”.
Cố nhà thơ Mai Ngọc Thanh trong cuốn sách “Nhà văn Việt Nam hiện đại Thanh Hóa” có kể lại câu chuyện khi ông được gặp nhạc sĩ Văn Cao, nhạc sĩ có nói: Này! Thanh Hóa cậu có Trần Mai Ninh là đáng phải tự hào lắm đấy. Chỉ với hai bài Tình sông núi và Nhớ máu thôi, Trần Mai Ninh đã là ngôi sao sáng chói trên thi đàn cách mạng Việt Nam. Một loạt các nhà thơ lứa mình được ảnh hưởng của thơ Trần Mai Ninh dẫn dắt đấy. Phải cúi đầu mà học ông đi”... Những vần thơ ông để lại cũng là những trải nghiệm của đời sống cách mạng, những ngày làm báo, viết báo.
Theo nhiều tài liệu ghi lại, ngay từ khi còn học ở Thanh Hóa, Trần Mai Ninh đã tham gia viết bài và tự vẽ tranh biếm họa trang trí cho “tờ báo tay” với nội dung đả kích thói hủ lậu của một số thầy giáo và học sinh.
Năm 1935, sau khi thi đỗ thành chung, ông ra Hà Nội học tiếp lên tú tài. Tại nơi đây, ông thực sự giác ngộ cách mạng, được Đảng dìu dắt. Ông tham gia nhóm “nghiên cứu Mác xít”, tích cực hoạt động trong phong trào Thanh niên Dân chủ Đông Dương và sớm trở thành một chiến sĩ cách mạng. Ông hoạt động nhiều trên mặt trận báo chí và văn học nghệ thuật với các bút danh: Trần Mai Ninh, Hồng Diện, Mạc Đỗ, Tố Chi, TK...
Đến năm 1937, Trần Mai Ninh tham gia công tác báo chí của Đảng xuất bản ở Hà Nội. Ông viết bài, làm thơ và làm họa sĩ chủ yếu của nhiều tờ báo Đảng như tờ Tin tức, Bạn dân, Thế giới, Thời mới...
Tuy vậy, kể từ năm 1939, chiến tranh thế giới II bùng nổ, thực dân Pháp đàn áp cách mạng Việt Nam, chúng thủ tiêu các quyền tự do dân chủ mà Nhân dân ta đã giành được trong thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939). Các tờ báo tiến bộ lần lượt bị đóng cửa, một số tòa soạn báo bị đe dọa, Trần Mai Ninh bị mật thám theo dõi, ông phải lui về hoạt động cách mạng ở thị xã Thanh Hóa (nay là TP Thanh Hóa). Ông viết bài cho báo Bạn đường, và làm biên tập chủ chốt của báo Tự do, cơ quan tuyên truyền và đấu tranh bí mật của Mặt trận phản đế cứu quốc Thanh Hóa. Đây là thời gian ông có nhiều cống hiến cho cách mạng trên lĩnh vực văn hóa và tư tưởng khi dùng thơ ca, báo chí để ca ngợi tình yêu thương, tự do và tuyên ngôn cách mạng.
Tháng 9/1941, Trần Mai Ninh gia nhập Chiến khu Ngọc Trạo, làm đội trưởng Đội xung kích. Trong khoảng thời gian chiến đấu ấy, ông vẫn miệt mài với công việc cổ vũ tinh thần đồng bào, đồng chí thêm tin yêu vào lý tưởng của Đảng bằng nhiều áng thơ và cuốn tự truyện Khi Chiến khu Ngọc Trạo bị vỡ, Trần Mai Ninh bị giặc bắt và bị giam cầm trong nhà lao Thanh Hóa. Đầu năm 1944, thực dân Pháp đày ông đi Buôn Ma Thuột. Lợi dụng lúc Nhật đảo chính Pháp, ông đã vượt ngục, về hoạt động ở Khu V, rồi tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Ngãi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tháng 5/1946 ông tham gia quân đội và là Trưởng ban tuyên truyền Đại đoàn 27 (sau đổi là Quân khu 6). Cuối năm 1947, theo yêu cầu của công tác vùng sau lưng địch, ông được cử vào cực Nam Trung Bộ hoạt động. Trong thời gian này, Trần Mai Ninh tiếp tục làm báo ở tờ Tiến hóa - cơ quan Văn nghệ cứu quốc tỉnh Quảng Ngãi.
Đang ở thời kỳ chín nhất của sự nghiệp cầm bút, Trần Mai Ninh bị sa vào tay giặc trong một chuyến công tác. Chúng đưa ông về giam ở nhà tù Nha Trang, tra tấn dã man và giết ông một cách hèn hạ. Về cái chết của Trần Mai Ninh đến nay vẫn còn là bí ẩn, người thì cho rằng, ông bị địch chọc mù mắt vì vẽ tranh cách mạng, người khác lại nói bị địch cắt lưỡi vì luôn chửi rủa chúng. Thậm chí, sau đó ông còn bị địch dùng xe kéo lê xác trên đường phố... tựu chung cũng chỉ khẳng định lòng yêu nước, quên thân của ông.
Không chỉ là một nhà thơ, một nhà báo, Trần Mai Ninh còn là một họa sĩ. Những bức tranh của ông phóng khoáng, dễ hiểu mang tính tuyên truyền cao. Hiện nay ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam còn lưu trữ được hơn 30 bức tranh biếm họa, áp phích của ông rải rác trên các tờ báo: Bạn dân, Thế giới, Thời nay, Bạn đường... Ông còn là một người viết văn xuôi, viết kịch. Đặc biệt, ông chính là người đầu tiên dịch tiểu thuyết “Người mẹ” (M.Gorki) ở Việt Nam. Ông còn dịch, giới thiệu văn học Xô-viết trên báo Tiến hóa; viết về nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua trên tạp chí Tiên phong - cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam...
Nhà báo Trần Mai Ninh: Sống và viếtTrần Mai Ninh và những trang viết sống mãi với bạn đọc.
Trần Mai Ninh trên hết vẫn là một nhà cách mạng. Ngay từ đầu những năm 40 trước Cách mạng Tháng Tám ông đã có quan niệm, trước hết là phải sống, phải hoạt động và phản ánh thân phận con người. “Một nhà văn, muốn sáng tạo cho thực có giá trị trong suốt cả cuộc đời, điều quan trọng nhất, điều quan hệ nhất là suốt cả cuộc đời, nhà văn ấy phải học ngay bằng máu thịt của mình tung ra giữa trời hoạt động, trong sự sống ngang tàng, chăm chỉ không ngừng một phút” (Trần Mai Ninh, Sống đã... rồi viết văn, Thanh Nghị số 42 ngày 1/8/1943). Và thực tế, ông đã sống, đã viết với tất cả tâm hồn và trái tim của mình. Trái tim ấy chưa bao giờ ngừng thổn thức, ngừng reo; một ý chí không biết sợ, không chịu khuất phục như những câu thơ hừng hực khí thế trong bài Nhớ máu:
"Sống... trong đáy âm thầm
Mà nắm chắc tối cao vinh dự
Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai
Vững tin tưởng nơi oai hùng
Và chiến thắng
Câu Việt Nam: dân tộc!".
Nhớ máu
Nhà thơTrần Mai Ninh
Ơ cái gió Tuy Hoà…
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng.
Gió đi ngang, đi dọc,
Gió trẻ lại – lưng chừng
Gió nghỉ
Gió cười,
Gió reo lên lồng lộng.
Tôi đã thấy lòng tôi dậy
Rồi đây
Còn mấy bước tới Nha Trang
– A, gần lắm!
Ta gần máu,
Ta gần người,
Ta gần quyết liệt.
Ơi hỡi Nha Trang!
Cái đô thành vĩ đại
Biết bao người niệm đọc tên mi.
Và Khánh Hoà vĩ đại!
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người,
Cả hồn ta sát tới
Nhìn mi!
Ta có nhớ
Những con người
Đã bước vào bất tử!
Ơ, những người!
Đen như mực, đặc thành keo
Tròn một củ
Hay những người gầy sát lại
Mặt rẹt một đường gươm
Lạnh gáy,
Lòng bàn tay
Khắc ấn chuôi dao găm.
Chân bọc sắt,
Mắt khoét thủng đêm dày
Túi chứa cả Nha Trang… họ bước
Vương Gia Ngại… Cung Giữ Nguyên
Chút chít Hoàng Bá San… còn nữa!
Cả một đàn chó ghẻ
Sủa lau nhau
Và lần lượt theo nhau
Chết không ngáp!
Dao găm để gáy,
Súng màng tang
Ồng ộc xối đầy đường máu chó.
Chúng nó rú.
Cả trại giặc kinh hoàng.
Quy-lát khua lắc cắc
Giày đinh xôn xao
Còi và kèn…
Cả trại giặc bạt hồn, bạt vía…
Chạy lung tung
-Sớm mai xét và bắt
Thiết giáp cam nhông
Rầm rập nối đuôi nhau
Và đêm khuya: lại chết
Chồn Pháp, chó Việt gian
Ằng ặc máu
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người
Cả hồn ta sát tới
Biết bao người
Sống lẩn lút nhưng ngang tàng
Bên lưng giặc!
Vẫn tổ chức, vẫn tuyên truyền
Hoặc giao thông hay liên lạc
Rải giấy
Treo cờ
Hay gồng vai tiếp tế
Từ bình minh cho tới trăng tàn
Đúc bê tông bên mặt trận
Và thì thào cùng du kích đi lên…
Cả ngàn chiến sĩ
Cả ngàn con bạc, con vàng
Của Tổ quốc!
Sống…trong đáy âm thầm
Mà nắm chắc tối cao vinh dự
Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai
Vững tin tưởng nơi oai hùng
Và chiến thắng
Câu Việt Nam: dân tộc!...”

Nhà thơ Hữu Loan:
Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan; Bút danh: Hữu Loan ; sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916 (theo lý lịch, còn có thông tin ông sinh năm 1914) tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh (nay là xã Nga Phượng), huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi dạy học và tham gia Mặt trận Bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê và khi cuộc Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn học, xuất bản tại Hà Nội . Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia quân đội Nhân dân Việt nam, phục vụ trong Đại đoàn 304.
Sau năm 1954, ông làm việc tại Báo Văn nghệ trong một thời gian. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Sau khi phong trào này bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải đi học tập chính trị, tiếp đó ông về quê sinh sống. Ông sống bằng nhiều nghề như đẩy xe cút kít, khai thác đá, làm bún[4]. Cuối đời ông về sống tại quê nhà ở tỉnh Thanh Hóa
Ông nổi tiếng với bài thơ Màu tím hoa sim do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến. Ông từ trần vào lúc 19h00 ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi.

MÀU TÍM HOA SIM
Khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh

Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...

Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh

Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...

Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí

Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
1949
Nhà thơ Hồng Nguyên
Xuất hiện vào thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, gần như cùng lúc với Đèo cả của Hữu Loan, Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Nhớ của Hồng Nguyên đã làm nên bộ “ngũ tư bất tử” của thơ chống Pháp nói riêng và trong lịch sử thi đàn Việt Nam nói chung.
Ngay từ khi mới xuất hiện, Nhớ của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện, được lan truyền rộng rãi và bám vào trí nhớ của nhiều người, nhiều lớp người dọc theo năm tháng.
NHỚ
I
Lũ chúng tôi,
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến,
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm đao kiếm.
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Ba năm rồi gửi lại quê hương,
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô,
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng.
Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng,
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ Độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp,
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.
II
Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động,
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng.
Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng,
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau.
Có tiếng gà gáy sớm,
Có “khai hội, yêu cầu, chất vấn”
Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa.
Trăng lên tập hợp hát om nhà
Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa,
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui,
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ,
Đồng chí mô nhớ nữa,
Kể chuyện Bình Trị Thiên,
Cho bày tôi nghe ví,
Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí
- Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ,
Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.

Đêm đó chúng tôi đi,
Nòng súng nghiêng nghiêng,
Đường mòn thấp thoáng...
Trong điếm nhỏ,
Mươi người trai tráng,
Sờ chuôi lựu đạn,
Ngồi thổi nùn rơm
Thức vừa rạng sáng.
Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi.
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni,
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc!
1948
Lò Ngân Sủn
Lò Ngân Sủn là một nhà thơ dân tộc Giáy. Ông sinh ngày 26 tháng 04 năm 1945 tại Bản Vền, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lao Cai. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991. Ông mất ngày 15 tháng 12 năm 2013.
Người đẹp
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
(Dân ca Dáy)

Người đẹp trông như tuyết
chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết - nhìn người đẹp lại không muốn chết nữa

Ơ! Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!
(còn nữa)
Đ – H

Nguyễn Bình Phương vịnh

 15:11 12/06/2025

Đỗ Hoàng
Ltg: Tay này học hành dốt nát, chữ nghĩa như chó moi, gà bưới, được cái xỏ lá ba que….
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG – GIẶC THƠ – Vịnh
Ngu đần, xỏ lá Nguyễn Bình Phương.
Lươn lẹo, lọc lừa buổi nhiễu nhương.
Tay lính phong tình mần chết gái, (*)
Tên cai đội nghệ dẫm tan nường!
Học hành thuộc loại bò che nón,
Thơ phú cũng bầy chó hóc xương!
Cõi Việt nẩy nòi loài tệ thế
Đầu têu trong bảng phá văn chương!
Hà Nội 6/ 2022
Đ – H
(*) Ý Nguyễn Bình Phương

Gánh nước sông...

 15:07 12/06/2025

NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ GÁNH NƯƠC SÔNG THƠ CỨT ĐÁI
Thứ bảy - 12/06/2021 07:41
Cũng như bài “Bài hát về cố hương”, Nguyễn Quang Thiều nói vế làng Chùa của ông, nhưng cái làng của ông đơn điệu sơ sài, không có gì đặc sắc, tiêu biểu. Ông viết kiểu Vô lối nên không một người Việt nào đọc nổi và ngửi được! Bài trước muốn làm con chó cnh giữ quê hương, bài này mấy gã đàn ông mang mơ biển giậ dữ ra khỏi nhà. Chất giang hồ hảo hớn mu mơ đâu từ trong các trang viết Thi Nại Am tả trong Thủy Hử hiện ra một cách thô thiển! Ngay đặt tựa đề đã dài dòng rất Tây đen lai mà lại phản cảm: “Những người đàn bà gánh nước sông”
NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ GÁNH NƯƠC SÔNG THƠ CỨT ĐÁI
NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ GÁNH NƯƠC SÔNG THƠ không phải thơ
Đỗ Hoàng
Nguyễn Quang Thiều
Nguyên bản:
Những người đàn bà gánh nước sông
Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những đàn ông mang cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết nổi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi
Đã năm năm, mười năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông và lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.
Đỗ Hoàng
BÌNH GIẢNG
Đây là bài đặc trưng cho kiểu viết Vô lối của Nguyễn Quang Thiều: sơ sài, chung chung, mòn vẹt, củ kỷ, lê thê , dài dòng, nhạt nhẽo, ý tứ tù mù, lặp đi lặp lại, sử dụng tiếng Việt trong thơ rất kém!
Cũng như bài “Bài hát về cố hương”, Nguyễn Quang Thiều nói vế làng Chùa của ông, nhưng cái làng của ông đơn điệu sơ sài, không có gì đặc sắc, tiêu biểu. Ông viết kiểu Vô lối nên không một người Việt nào đọc nổi và ngửi được! Bài trước muốn làm con chó cnh giữ quê hương, bài này mấy gã đàn ông mang mơ biển giậ dữ ra khỏi nhà. Chất giang hồ hảo hớn mu mơ đâu từ trong các trang viết Thi Nại Am tả trong Thủy Hử hiện ra một cách thô thiển! Ngay đặt tựa đề đã dài dòng rất Tây đen lai mà lại phản cảm: “Những người đàn bà gánh nước sông”. Họ là cô bà, mẹ, cháu, em, cháu gái của tác giả. Họ đàn bà, giống cái là đúng thôi. Nhưng người Việt cả nước cũng ít khi gọi cô, bà, mẹ, cháu, em gái của mình… là “những đàn bà”! Miền Trung, Quảng Bình quê tôi “đàn bà” gọi là “lền bà”. Lền bà chỉ giống cái như đàn bà, nhưng đã gọi lền bà là có ý bình thường, thậm chí coi thường!
“ Những đàn bà gánh nước sông”, Nguyễn Quang Thiều rất coi thường bà, mẹ, cô, bác ,cháu chắt …của mình hoặc ngu độn không biết sử dụng tiếng Việt trong từng ngữ cảnh!
“Những người đàn bà gánh nước sông
Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông”
Đã thế lại lôi cái xấu của người ta ra cho thiên hạ mè nheo: “Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái”. Dân gian ta thì “xấu che, tốt khoe”. Sao lại đưa “những ngòn chân xương xẩu, mong dài và đen tõe như móng chân gà mái” để bôi nhọ nhưng phụ nữ nghèo khổ, khốn cùng của quê mình! Những kẻ vô học cũng không làm điều này huống hồ mình là một trí thức thuộc lực lượng đặc biệt bảo vệ Nhà nước mang tiếng là Nhà thơ!
“Ôi ra gì vô lối mần thơ
Thua xa dân cù bất, cù bơ”!
Đoạn vô lối tiếp theo có phải quê Nguyễn Quang Thiều bị bần cùng hóa sinh ra một lũ du thủ, du thực không còn tình quê hương gắn bó bó:
“Những đàn ông mang cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết nổi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi”
:
“Đã năm năm, mười năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông và lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến”
Cả bài Vô lối chỉ được đoạn này, nhưng đoạn này viết theo thể thơ dân tộc có phải rung cảm hơn, hay hơn không?
“Và đã đủ nửa đời tôi thấy
Bầy trẻ thơ níu váy u già
Lớn lên giữ chốn bùn sa
Gái thay mẹ gánh nghèo qua bến thuyền”
Đấy là nói về nội dung, còn thi pháp – phép làm thơ thi Nguyễn Quang Thiều vô cùng yếu kém! Trước hết bài này viết theo “vô lối” tức là không vần, không điệu, lộn xà, lộn xộn, lung tung lang tang lại kém học kiến thức cơ bản! Anh viết: “Đã năm năm, mười năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy” thì anh chỉ viết: “Đã nửa đời tôi thấy” là đủ rồi. Anh kể “năm năm, mười năm “ thì anh phải kể “ một năm, ba năm”, anh kể “một năm, ba năm” thì anh phải kể” nửa năm , ba tháng”…Nói chung anh rất dốt toán, và suy luận có lý trong đời thường!
Từ cu lít, công an, anh nhập vô làng thơ anh phải biết luật chơi thơ. Trong thơ có nhiều luật lắm, nhưng luật nào cũng trí tuệ hiền lành không phải luật của nghề anh đều máu chảy, đầu rơi!
Thứ nhất anh phải luyện chữ: “Gọt xong một trăm chữ, mòn tâm huyết đời người”
Thứ hai “推敲” thôi xao - Đẩy và gõ.
Trong câu thơ “Tăng xao nguyệt hạ môn” 僧敲月下門 Sư gõ cửa dưới trăng, trước “Giả Đảo” 賈島 định dùng chữ “thôi” 推, đến khi hỏi “Hàn Dũ” 韓愈 bảo nên dùng chữ “xao” 敲 hay hơn. Nay ta nói làm việc gì phải suy nghĩ châm chước cho kĩ là “thôi xao” 推敲 là vì cớ ấy.
Tôi (Đỗ Hoàng) đọc vô lối của anh ( Nguyễn Quang Thiều) tôi biết anh không hiểu gì phép tắc thơ phú cả!
Thơ hai ku Nhật Bản anh nên tham khảo thêm:
“Thể thơ haiku ra đời vào thế kỷ 17 và phát triển mạnh vào thời kỳ Edo (1603 - 1867). Lúc sơ khởi haiku mang sắc thái trào phúng nhưng dần chuyển sang mang âm hưởng lắng tịnh của Thiền tông. Thiền sư thi sĩ lỗi lạc Matsuo Bashō được coi là người khai sinh ra haiku và Yosa Buson cùng Masaoka Shiki đã phát triển thể thơ này thêm hoàn thiện, cho nó thể thức như ta thấy ngày nay.
Haiku có lẽ là thể thơ ngắn nhất thế giới bởi mỗi bài haiku, mặc dù đôi khi có bài biến thể, nhưng đại để chỉ vỏn vẹn 17 âm tiết trong 3 câu, ngắt thành 5 + 7 + 5. Tuy gọi là ba câu nhưng theo truyền thống thì người Nhật viết cả bài haiku theo hàng dọc thẳng một cột chứ không chia thành ba. 17 âm tiết tiếng Nhật có khi chỉ vài ba từ ít ỏi. Bài thơ "Con ếch" nổi tiếng của Matsuo Bashō trong tập Xuân nhật (Haru no hi, 1686) là một bài tiêu biểu có cú pháp 5 + 7 + 5 âm tiết:
古池や (fu-ru-i-ke ya)
蛙飛込む (ka-wa-zu to-bi-ko-mu)
水の音 (mi-zu no o-to)
Bài thơ trên có thể viết theo ba dạng:
古池や蛙飛込む水の音 (kanji)
ふるいけやかわずとびこむみずのおと (hiragana)
furuike ya kawazu tobikomu mizu no oto (rōmaji)
Dịch nghĩa:
Ao xưa;
ếch nhảy vào
tiếng nước .
Đỗ hoàng phải dịch lại thơ hai ku!
Bài “ Những người đàn bà gánh nước sông” và tất tần tật thơ vô lối Nguyễn Quang Thiều và đám “Vô lối” nước Nam ta theo Thi Thánh Đỗ Hoàng đều là loại cứt đái Tôi nói sai tôi chịu tội với Dân tộc!
Bài “ Những người đàn bà gánh nước sông” được đưa vào 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX năm 2017 thì cõi Việt này là cõi mông muội sao?
Hà Nội ngày 12 tháng 6 năm 2021
Đ - H

Thơ không vần thế giới...

 07:39 12/06/2025

HƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM
(tiếp theo) 3
Đô Hoàng
Thuật ngữ : Thơ không vần – Viết bỏ vần điệu
Thơ vô lối: Viết bỏ vần điệu, không ý tưởng.
Tho vô lôi thi tặc: viết bỏ vần điệu, không ý tương, bệnh hoạn, dâm dật, bẩn thỉu, phá vỡ truyền thông tổ tiên và nân loại.
27 tên vô lối – thi tặc Việt Nam: 1, Thanh Tâm Tuyền, 2, Lê Văn Ngăn, 3, Nguyễn Quang Thiều,4, Nguyễn Bình Phương, 5, Nguển Khoa Diềm,6, Phan Hoàng,7, Trần Hùng,8, Phú Trạm Inra sa ra, 9, Hoàng Vũ Thuật, 10, Mai Văn Phấn, 11, Thi Hoàng, 12, Mai Quỳnh Nam , 13, Trúc Thông, 14, Nguyễn Phan Quế Mai, 15, Phan Huyền Thư,16, PhanThị Vàng Anh, 17, Tuyết Nga, 18, Dư Thị Hoàn,19, Hoàng Hưng, 20, Thanh Tùng, 21, Từ Quôc Hoài, 22, Văn Cầm Hải, 23, Giáng Vân, 24, Đỗ Doàn Phương, 25,Vi Thùy Linh, 26, Đinh Thị Như Thúy, 27,Phạm Đương.
SO SANH TIÊNG NGƯỜI “XỈ ÂM” VÀ NGƯỜI “HẦU ÂM”.
Đỗ Hoàng
Tôi đã có nhiều chuyên luận viết về tiếng nói người người “xỉ âm”(phát âm qua kẻ răng) và người “hầu âm”(phát âm qua thực quản (cổ họng âm)..Giờ chỉ dẫn chứng so sánh:
Tiếng Anh
America – Ơ re mi cần –Mỹ
Television – Televísần -Tivi
have breakfast- Het bơretphat – Ăn sáng
daily conversation – đàm thoại hàng ngày
Tiếng Việt: Mỳ, Vô tuyên , Ăn sáng, Nói hàng ngày!
Tiếng Trung : Mỹ, Vô tuyến, Tảo thực, Đàm thoại nhật
Tiếng Pháp:
la maison – cái nhà
la cochon – lợn
boutique – cửa hàng
numéro un – số một
Tiếng Việt : nhà, lợn, cửa hàng, số một
Tiếng Anh và tiêng Pháp những từ rời rac trên khi đọc, xêp lại như một bài thó tứ tuyệt của phương Đông,, còn tiếng Việt và tiêng Trung nó không có ngữ nghĩa gì!
Vây vần điệu trong thó người phát « xỉ âm » rất quan trọng !
THƠ KHÔNG VẦN NƯỚC TA TỪ CỔ ĐẾN NAY
Vì lý do « xỉ âm » nên từ cổ cha ông ta gọi làm thơ không vần là :chiếu, biểu, cáo, thư, tụng, biểu, tế, đói, sấm, hich, tô tụng, trát, phú, lệnh…Điển hình nhát là ‘BÌNH NGÔ DẠI CAO » - Bái cáo bình Ngô) của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo 平吳大告 • Đại cáo bình Ngô
蓋聞:
仁義之舉,要在安民,
弔伐之師,莫先去暴。
惟,我大越之國,
實為文獻之邦。
山川之封域既殊,
南北之風俗亦異。
自趙丁李陳之肇造我國,
與漢唐宋元而各帝一方。
雖強弱時有不同
而豪傑世未常乏。
故劉龔貪功以取敗,
而趙禼好大以促亡。
唆都既擒於鹹子關,
烏馬又殪於白藤海。
嵇諸往古,
厥有明徵。
頃因胡政之煩苛。
至使人心之怨叛。
狂明伺隙,因以毒我民;
惡黨懷奸,竟以賣我國。
Đỗ Hoàng trích dịch
Thế trời làm việc, Vua truyền rằng.
Đã nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà bán nước cầu vinh… »
Phú
Tú Xương
Phú hỏng khoa Canh Tý
Đau quá đòn hằn
Rát hơn lửa bỏng.
Hổ bút hổ nghiên;
Tủi lều tủi chõng.
Nghĩ đến chữ “lương nhân đắc ý” thêm nỗi thẹn thùng;
Ngắm đến câu “quyển thổ trùng lai” nói ra ngập ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng;
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.
Có một thầy:
Dốt chẳng dốt nào;
Chữ hay, chữ lỏng.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu;
Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng.
Quanh năm phong vận, áo hàng tầu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh;
Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng.
Tú rốt bảng giữa năm Giáp Ngọ, nổi tiếng tài hoa;
Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng.
Năm vua Thành Thái mười hai;
Lại mở khoa thi Mĩ Trọng.
Kỳ đệ tam văn đã viết rồi;
Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem giò;
Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng.
Sáng đi lễ Phật, còn kỳ này kỳ nữa là xong;
Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.
Nào ngờ:
Bảng nhỏ có tên,
Ngoại hàm còn trống.
Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang;
Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.
Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?
Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với bóng!
Giá cứ chăm nghề đèn sách thì mười lăm mười sáu đỗ tự bao giờ;
Những là mải việc đùa chơi nên một tuổi một già, hoá ra lóng đóng.
Thôi thì thôi:
Sách vở mập mờ;
Văn chương lóng ngóng.
Khoa trước đã chầy;
Khoa sau hẳn chóng.
Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;
Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!
Canh Tý tức năm 1900.
Chiếu
Thiên đô chiếu (chữ Hán: 遷都詔) tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư[1], bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La.
Theo ý kiến của sử gia Trần Quốc Vượng, Chiếu dời đô đã khẳng định được vai trò của kinh đô Thăng Long,[3] là tác phẩm văn học khai sáng của nhà Lý. Tuy nhiên, Chiếu dời đô chưa nêu bật được chủ nghĩa dân tộc và khát vọng độc lập, hơn nữa ngôn ngữ sử dụng trong văn bản này mang đượm màu sắc dị đoan, phong thủy.
昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億萬世子孫之計。上謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。筭數短促。百姓耗損。萬物失宜。朕甚痛之。不得不徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。萬物極繁阜之豐。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要會。爲萬世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。
Bản dịch tiếng Việt:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà 2 nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)
Sắc
Những người làm quan từ tứ phẩm trở lên, xưa được nhà vua ban sắc phong tặng cho cha mẹ, ông bà cụ kỵ tùy theo phẩm tước của mình. Nhất phẩm được triều đình truy phong đến cao tổ, nhị phẩm được truy phong đến ông bà, tam tứ phẩm được truy phong đến cha mẹ.
Trong sắc phong có kể lại công trạng chức tước của người làm quan, rồi suy âm truy phong đến cha mẹ, ông bà hay các cụ. Sắc phong được báo về dân làng, dân làng phải tổ chức đi rước sắc về nhà chủ. Nếu những người được phong còn sống, sẽ có lễ khao dân làng, cùng với cáo yết gia tiên và lễ thần linh tại đình.
(Theo Từ điển Lễ tục Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, 1996)
Sắc chí vua Tự Đức
“Thí sai Suất đội Lê Non thuộc đội 5 đội thủy vệ Bình Thuận đã kinh qua chức Thí sai do viên Cai tỉnh đề cử. Nay Bộ binh đồng ý chuẩn y bổ thụ giữ chức Chánh đội trưởng Suất đội Suất nội đội binh thủy đồng thời cai quản việc điều động người thi hành công vụ. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 29 tháng 5 năm Tự Đức thứ 17 (1863).
“Hiệp quản Lê Non thuộc Tinh binh Suất đội thủy vệ Bình Thuận đã được ân chuẩn thăng một trật, nay Cai tỉnh y theo đó chuẩn thăng làm Cai đội tinh binh đồng thời cai quản đội biện binh. Phàm mọi việc cứ y theo lệ mà thừa hành. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 8 tháng 5 năm Tự Đức thứ 23 (năm 1869).
(còn nữa)
Đ - H

Phú Trạm Ỉnasara

 20:18 11/06/2025

Đỗ Hoàng
INRASARA – GIẶC THƠ – Vịnh
Chiêm thành, Phú Trạm Insara
Dân số ước chừng dưới vạn ba.
Xuống bản vận quần may thủng đáy,
Lên phường khoác bộ vét cà sa!
Phổ thông chẳng được bao lăm chữ,
Sức học thì đâu mới lớp ba!
Đại Việt chưa bao giờ nhục thế
Dân Hời chủ tịch thơ nhà ta!
Vài năm trước 2020
Đ – H
Ảnh: Cháu Ínarara

MỘT BÀI THƠ ,,VÔ LỐI,, TÀ DÂM, BỆNH HOẠN

 20:14 11/06/2025

Đã chia sẻ với Công khai
MỘT BÀI THƠ ,,VÔ LỐI,, TÀ DÂM, BỆNH HOẠN - GIẢI THƯỞNG HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM NĂM 1993
CẤU HỎI CUỐI NGÀY
Dịch Vô lối - Thi tặc Nguyễn Quang Thiều (tiếp)
Thứ bảy - 16/01/2021 06:25
Khi tập “ Sự mất ngủ của lửa” được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng, ngay năm1993, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết “ Nguyễn Quang Thiều tự dịch thơ mình ra tiếng Việt” và phong cho ông nhà “ Khóc Học” . Tôi nghĩ rất đúng mà chưa hết. Nguyễn Quang Thiều có du học học ngành Công an chuyên nghiệp, nhưng Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt. Tập “Sự mất ngủ của lửa” đầy hàng chục chữ khóc, riêng bài này đã hơn bốn chữ gần khóc: tôi nấc lên, tôi sặc khói, tôi sẽ ngủ, tôi nhói lên…
Dịch Vô lối Nguyễn Quang Thiều (tiếp)
CÂU HỎI CUỐI NGÀY
Nguyễn Quang Thiều
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày
Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên
Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào
Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.
Quán Sứ - Hà Đông, 1991
BÌNH GIẢNG
Câu mở đầu không có gì gọi là câu thơ. Một câu nói đơn sơ như các ông, các bà quét rác ở các công ty Vệ sinh môi trường, sau ngày làm mệt nhọc vẫn thường nói. Mà nói hay hơn, thơ hơn:
“Ngày dài mưa nắng trên đường
Mong về có đọi cơm thương ở nhà”.
Tiếp theo 5 câu sau có tới 31 từ mà lại là 5 câu rất vô nghĩa, vô bổ không nói lên được điều gì:
“Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên”
Trong khi tiền nhân chỉ 20 từ đã làm nên thi phẩm bất hủ muôn đời!
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Lưu Vũ Tích
飲酒看牡丹
劉禹錫)
飲酒看牡丹
今日花前飲,
甘心醉數杯。
但愁花有語,
不為老人開。
Lưu Vũ Tích
Ẩm tửu khán mẫu đơn
Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm tuý sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ:
Bất vị lão nhân khai.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Trước hoa giờ được uống
Mấy chén ngất ngư say
Sợ rằng hoa sẽ nói:
Không nở cho già này!
Cao điểm chốt 176 –
Biên giới Việt Lào 1972
Tiếp đến 6 câu sau là những câu có ý nghĩ dục tình rất bậy bạ, ý nghĩ khiên cưỡng mang tính hiếp dâm cao:
“Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào”
Những người con gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua có sao đâu. Họ làm đẹp cho phố phường đường làng có cuộc đời khởi sắc mà ông bà váy cồng lộn ngược, mò cua bắt ốc không có đôi dép mo cau mà đi thì sao? Tại sao lại nói “Như dao sắc phất vào tôi tứa máu”? Một câu khẩu phàm, hàm hồ, hàm chứa, căm giận cái đẹp còn hơn phát xít Hitle bắn đại bác vào Viện Bảo tàng nghệ thuật Paris (Pháp) những năm 1940 – 1942. Người ta cưỡi xe máy, một nét đẹp của con gái Việt Nam thời đổi mới nghìn đời mới có, sao mình lại có cái nhìn thù hận như vậy?
Bên châu Âu như bà Angela Dorothea Merkel, thủ tướng Đức mặc váy cởi xe máy phóng qua anh cũng tứa máu như dao sắc phất vào người chăng?
Đúng là điên rồ!
Cha ông nói:
“Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc áo hở lườn mới xinh!”
Bây giờ người đẹp mới mặc váy cưỡi xe máy phóng qua mà mình đã hồng hộc sôi máu lên như đỉa phải vôi? Anh lại còn “ nấc “ lên như bị nghẹn. Việc chi mà anh ghen tức lồng lộn với cái đẹp như thế? Cái đẹp vĩnh cửu của thời đổi mới nước ta có phương hại gì đến thẫm mỹ, đến thuần phong mỹ tục gì đâu?
Người đẹp mặc thế là quá kín đáo, bây giờ chúng nó còn mặc quần đùi lên tận bẹn cởi xe máy nữa đấy. Chỉ những đám vua quan dâm dục vô độ “ Nhất dạ lục giao hoan, sinh ngũ tử” nhưng lại căm thù cái đẹp:
“Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng”
(Ca dao)
Chưa hết, anh còn đặt ra ảo tưởng rất bậy bạ, của đám cái bang, homeless people, vô lương tri:
“Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào “
Rằng anh làm sao lấy họ được. Anh Vua chúa sao mà lấy họ dễ dàng như thế. Anh không phải Đặng Mậu Lân em gái Đặng Thị Huệ khênh giường đi giữa Thăng Long thấy gái đẹp là kéo lên làm tình, cũng không phải Beria (Nga) có xe đặc chúng đóng giường chiếu riêng để đi trên phố hễ thấy nữ sinh viên là kéo lên giao hợp… Đến như vua Napoleon cũng phải lấy mạ giòng (đàn bà có con riêng), thứ gì anh thấy người đẹp mặc váy cưỡi xe máy đi trên phố thoáng qua mà đã đòi làm tình! Anh có nứng cặc thì anh chạy vào gốc cây thủ dâm cho nó hạ hỏa, chứ làm sao tiếp cận với người ta!
Anh còn chưa biết, biết đâu trong đám đàn bà, cả đẹp cả xấu đó là tình báo viên, đặc tình, đặc vụ của Công an cài cắm, mà ngành anh theo học. Anh bờm xơm họ sẽ cho một lưỡi dao găm thì anh đi đời, không họ sẽ điện đàm trực tuyến đến bộ phận tham mưu cho anh vào Hỏa Lò! Anh có dám không?
Tiếp đến là đoạn kể như học sinh lớp 2 Hà Nội thời miền Bắc hòa bình mới lặp lại tả cảnh các bà, các cô buôn vịt, buôn cá khô, buôn nước mắm đi trên tàu điện:
“Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia”
Rồi anh lại lần nữa nổi máu Sở Khanh không phải lối:
“Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.”
Thật là một ý nghĩ tà dâm rất bậy bạ!
Đến như Nguyễn Du chỉ mới nói, dù tên Mã Giám Sinh vô cùng mất dạy, bất lương, không còn luân thường đạo lý:
“Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến duyên”
Đó là đã có ba trăm lạng vàng nhé. Còn anh bô xu dính tíu sao anh có ý nghĩ hoang dâm vô độ ấy được?
Khi tập “ Sự mất ngủ của lửa” được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng, ngay năm1993, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết “ Nguyễn Quang Thiều tự dịch thơ mình ra tiếng Việt” và phong cho ông nhà “ Khóc Học” . Tôi nghĩ rất đúng mà chưa hết. Nguyễn Quang Thiều có du học học ngành Công an chuyên nghiệp, nhưng Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt. Tập “Sự mất ngủ của lửa” đầy hàng chục chữ khóc, riêng bài này đã hơn bốn chữ gần khóc: tôi nấc lên, tôi sặc khói, tôi sẽ ngủ, tôi nhói lên…
Người ta chẳng thấy nấc, sặc, nhói, ngủ… như thế nào!
Nói chung Nguyễn Quang Thiều Thiều không biết làm thơ tiếng Việt, viết rất kém, dẫu sau này anh có sáng tác lục bát “ Dâng trà”, “Con đường”…
Hội Nhà Văn Việt Việt Nam thời ấy (1993) tặng giải thướng cho Nguyễn Quang Thiều là có tội với nhân dân, với lịch sử!
Hà Nội 14 – 12 – 2017
Đ - H
ĐỖ HOÀNG
DỊCH RA THƠ VIỆT:
CẢM MẾN CUỐI NGÀY!
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi những chuyến xe sắp sửa tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi rệu nhất
Và buồn nhất trong khoảng lặng về đêm!
Cũng phía bên kia con đường tôi đợi
Những chiếc lá mà tôi không biết tên
Những chiếc lá rụng rơi đầy bụi
Cơn mưa vàng chiều thắm dâng lên!
Trong cơn mơ huyền buồn và đói
Bao người xinh sành điệu tay ga
Như ánh chớp như là câu hỏi
Như ánh sao, ngà ngọc chói lòa!
Và chuyến xe tan tầm đã đến
Cả cuộc đời sống động ào vô
Bao thân phận lủi lầm sương nắng
Cho lòng tôi cảm mến vô bờ!
Hà Nội 14 – 12 – 2017
Đ - H
(*) Trich trong “Sự mất ngủ của lửa” – NXB Lao động 1992

Phan Hoàng tên ba xaoj!

 20:07 08/06/2025

Strnesoopdi6
a
:
ct
ú
q
1
l

gf
u
7at1h1
H
f7l
5
a
ô
c

5i8a7a86h

i
m
c
0
1
4l508
6
·
Đã chia sẻ với Công khai
PHAN HOÀNG CHO THEO ĐÍT TRÂU
Đỗ Hoàng
Ltg: Gần thế kỷ qua, bọn thơ Vô lối hoành hành tác oai, tác quái trên cõi Việt. Chúng là loại thi tặc – giặc thơ – phá hoại thi ca tổ tiên. Từ thằng thủy tổ Thanh Tâm Tuyền , phó thủy tổ Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Hoàng, Trần Hùng, In ra sa ra, Mai Quỳnh Nam, Mã Giang Lân, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Vũ Thuật, Mai Văn Phấn, Tuyết Nga, Văn Cầm Hải, Trúc Thông, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Phan Thị Vàng Anh, Từ Quốc Hoài, Đinh Thị Như Thúy, Đỗ Doãn Phương, Thi Hoàng, Hoàng Hưng… đến đám hậu sinh, đám chíp hôi … tác phẩm của chúng cả nội dung và hình thức không đem đến điều gì mới mẻ cho văn chương mà lại phá hoại văn chương Việt! Phan Hoàng là một tên như thế: giả dối, sáo, sến, viết về mẹ mà cũng đóng kịch, nhạt nhẽo, gượng gạo…đầy chất Tàu ô!
Nguyên bản:
Phan Hoàng
TIẾNG THỞ MẸ NHỌC NHẰN
(Văn nghệ số28 /9/7/2022)
Thẫn thờ đêm tiếng thở mẹ nhọc nhằn
tiếng cánh cò rã rời trăm năm âm thầm mưa nắng
tiếng kết tủa buồn vui đời sông chạm biển về nguồn
Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh
gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức
như con bò đi hoang trở về hít thở mùi chuồng quen thuộc
cúi đầu tạ lỗi nghĩa trọng tình thâm
đêm đêm canh giữ tiếng thở mẹ nhọc nhằn
lòng nặng trĩu ngọn núi tuyết đông suy tư nhức nhói
Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca
đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất
gió rón rén ép mình hơi ấm se thắt sinh thành
nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm
rơi theo tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo
Ước gì ngọn gió ta như mầm non mới cựa mình trong lòng đất
và cơ thể mẹ là ngôi vườn thanh xuân ấm áp tiếng hoang sơ.
BÌNH GIẢNG:
Tôi đã nhiều lần nói: - Đọc đám thơ Vô lối – thi tặc – giặc thơ như đi hội nghị sang trọng mà dẫm phải cứt người! Khó chịu, tởm lợm! Thật ra không nên đọc nhưng vì văn chương, vì thơ nước nhà phải đọc, phải bình bởi bọn thi tặc cầm chịch văn nghệ mậu dịch tác oai, tác quái trên thi đàn nên tôi lại động bút.
Bọn thi tặc chuyên làm “vô lối – ( thơ không vần). Bọn chúng không biết là thơ không vần nhân loại và cha ông ta làm từ thuở khai thiên lập địa. Ngay khi ngồi trên ghế nhà trường các thầy đã nói làm thơ không vần như đi xiếc trên dây, rất dễ thất bại. Trí tuệ lớn, trái tim lớn mới có bài đứng lại, còn bọn “chấu cẩu” (chó) làm sao thành công!
Phan Hoàng là tay trong đám Vô lối – thi tặc – giặc thơ ấy viết loăng quăng, uốn éo, làm bộ, làm tịch, dùng đầy Hán tự… thế mà chúng lăng xê hết lượt này đến lượt khác trên các báo mậu dịch chính thống. Tay này có đi bệnh viện lắp phải trái tim chó hay không sao mà viết như robot?
…“Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh
gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức
như con bò đi hoang trở về hít thở mùi chuồng quen thuộc
cúi đầu tạ lỗi nghĩa trọng tình thâm
đêm đêm canh giữ tiếng thở mẹ nhọc nhằn
lòng nặng trĩu ngọn núi tuyết đông suy tư nhức nhói”…
Đọc khổ này thấy lợm mửa của một thằng kịch hề giả dối!
…“Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh…”
Câu cũ như trái đất, vô bổ, không có chút tình nào,giả vòe, giả vịt…
Câu tiếp lại còn cũ hơn, lại làm bộ làm tịch hơn:
“gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức”
Câu cú nặng nề, lặp đi lặp lại!
Khổ tiếp cũng viết ỏn ẻn, sáo rồng:
…”Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca
đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất
gió rón rén ép mình hơi ấm se thắt sinh thành
nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm
rơi theo tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo…”
Toàn giọng điệu giả dối, không trái tim người!
Đây là bài vô lối làm xiếc chữ về Mẹ, chứ có tình mẫu tử gì đâu!
Thơ viết mề mẹ in chật trái đất, toàn bài hay, chứ có như bài này của Phan Hoàng.
Nông phu thì có:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn”
Hay:
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng mem cơm tấm lưỡi lừa cá xương
Người có chữ:
Du tử ngâm -遊子吟 - Mạnh Giao - 孟郊
遊子吟
慈母手中線, 遊子身上衣;
臨行密密縫, 意恐遲遲歸。
誰言寸草心, 報得三春輝?
Du tử ngâm
Từ mẫu thủ trung tuyến
Du tử thân thượng y
Lâm hành mật mật phùng
Ý khủng trì trì quy
Thùy ngôn thốn thảo tâm
Báo đắc tam xuân huy.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa
Sợi chỉ trong tay mẹ hiền,
Nay đang ở trên áo người đi xa.
Lúc mới lên đường, mẹ khâu kỹ càng,
Có ý sợ con chậm trễ trở về.
Ai dám nói rằng tấm lòng của một tấc cỏ,
Lại có thể báo đáp được ánh nắng của ba xuân?
Đỗ Hoàng dịch thơ:
KHÚC NGÂM CỦA CON ĐI XA
Mẹ hiền khâu sợi chỉ
Trên áo con đi xa
Lên đường mẹ khâu kỹ
Sợ con chậm về nhà
Ai dám một tấc cỏ
Báo đáp ba xuân qua!
Phan Hoàng cũng như bọn giặc thơ đềuTàu hóa, dùng tràn lan âm Hán Việt chưa được Việt hóa! Nhiều bài trước Phan Hoàng đã dùng hàng chục âm Hán Việt, bài này dùng trên 30 chữ (36 chữ). Một thứ Tàu ô!
1, kết tủa -結瑣
2,bôn ba - 奔波
3,phiêu bạt -漂犮
4,hư danh - 虛名
5,độc thoại-獨話
6,ký ức, ký ức记忆
7, thân thuộc 親屬
8,tạ lỗi 謝誄
9, nghĩa trọng 義重
10, tình thâm 情深
11, côn trùng 昆蟲
12, mê mãi 迷買
13,sinh thành 生成
14, dự báo 預報
15,thế gian 世間
16, thanh xuân 青春
17, hoang sơ 荒初
18, đông 冬
19, xuân 春
Bài phê bình trước,tôi đã nói Phan Hoàng nên rèo bò (theo đít trâu) Bài này nhắc lại – chữ nghĩa kiều Phan Hoàng và bọn “thi tặc – giặc thơ” nên cho theo đít trâu suốt đời. Chúng không được bén mảng đến Văn chươngoàng (dân ba xạo) !
Hà Nội tháng 7/2022
Đ - H
Ảnh Phan Hoàng (dân ba xạo)

VănNhà thơ Triệu Lam Châu gửi nhà thơ Đỗ Hoàng (*)

Hơn một năm trước, tôi có đọc dịch thơ Việt ra thơ Việt của anh.đăng trên tạp chí Nầ văn thòi anh Nguyễn Trác làm Tổng biên tập

Thăm dò ý kiến

Bạn biết gì về NukeViet 4?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập9
  • Hôm nay1,004
  • Tháng hiện tại24,762
  • Tổng lượt truy cập78,773
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi