Vô lối - Thi tặc Trần Hùng

 14:22 07/06/2025

Thơ Vô lối Trần Hùng
Ltg: Khi nghe tin Hội Nhà văn Việt Namthay hết thành viên Hội đồng Thơ khóa VIII, tôi viết “ Hội Nhà văn Việt Nam thay máu Hội đồng Thơ khóa VIII, với mong mỏi nhiều văn sỹ và bạn đọc hy vọng hội đồng thơ khóa IX sẽ có những quyết định tốt khi trao giải cho tác phảm và tác giả hơn những nhiệm kỳ cá Hội đồng thơ từ ba bốn chục năm nay. Nhưng than ôi! “sóng trước bổ sao, sóng sau bổ vậy”, “trâu mẹ ỉa sao trâu con ỉa vậy. Trong cơ chế xin cho, ngay ở lĩnh vực văn chương phải là người tài năng mới vào được, thế mà những kẻ kém năng lực, chỉ láu cá vặt, đi đêm, ném lựu đạn… như Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo Nguyễn Bình Phương …cũng ngồi xổm trên thơ ca thì thôi rồi lượm ơi! Không muốn nói nữa!
Trần Hùng
VƯỜN KHUYA (*)
(Giải thưởng Thơ - Hội Nhà văn Việt Nam năm 2016)
Thứ ba - 01/12/2015 16:33
Có thể ban mai trong tôi sắp tắt
Có thể dòng hồng cầu mảnh mai trong tôi sắp ngừng
Đừng thấy tóc tôi còn xanh mắt tôi còn vui mà hoài nghi
Tôi cảm thấy điều gì đang đến rất gần rất gần
Vậy mà lòng tôi lại hướng về các con tôi, hướng về một người
Người ơi hãy về với chồng với con với sợi kim đan nhỏ bé
Mùa đông rồi sẽ qua
Đừng ánh trăng cửa sổ
Đừng thầm thì nắng non
Tôi muốn ôm em thật lâu rồi thả ánh nhìn vào trong đêm...
(*) Văn nghệ quân đội (điện tử) , thứ bảy 2 – 7 -2016 in
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt:
VƯỜN KHUYA
Ban mai trong tôi sắp tàn
Giọt hồng tơ mảnh muộn màng sẽ ngưng.
Ngờ chi mắt tôi vui mừng
Điểu gì đang tới cũng chừng ấy thôi.
Hướng về con, hướng về người
Về thôi kim chỉ một thời dệt thêu.
Mùa đông rồi sẽ qua chiều
Đừng trăng ánh chiểu thêm nhều ngoài song
Đừng thì thầm chút nắng non
Ôm em ta thả tâm hồn vào đêm…
Hà Nội 2 -7 -2016
Đ - H

Cái chết người đẹp

 09:31 06/06/2025

Cái chết người đẹp - Tâm sự người lính
Đỗ Hoàng
CÁI CHẾT NGƯỜI ĐẸP
Em chết rồi.
Người đẹp!
Viên đạn của thế kỉ nào bắn em?
Anh sững sờ giữa trái đất máu đổ.
Xác em nằm trong huyền ảo xa xôi.
Không gian đen,
Không gian trắng
Không nói ra lời
Nỗi đau trái đất kéo tang màu mây xám.
Thế là vô tình
Sự sống
Bắt tay cái chết chia lìa!
Quân phục em mang
Máu thâm sì.
Nghìn năm sau em chẳng về được nữa.
Dù vật chất biến hoá bảo toàn,
Dù sự sống chỉ là điều phi lý.
Không gian,
Thời gian
Mệt mỏi trường tồn!
Anh đi trên trái đất cô đơn.
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.
Anh không thể nào viết nỗi lời thơ.
Khóc em để loài người nguyền rủa!
Trong vô biên
Mạng em thua hạt cỏ.
Khóc em
Anh phản lại Trường Tồn!
Chiến trường Quảng Trị đẫm máu 2 – 1974

Chân dung 810 Việt....

 09:28 06/06/2025

“CHÂN DUNG 810 VĂN SI VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI - KHÔNG CHON GẦN 700 NGƯƠI – HỌI VIÊN HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM (mốc 2010)
Đỗ Hoàng
1, Khuất Bình Nguyên thơ à uôn
Chạy giải thưởng hơn con buôn chạy tù
2, Mai Quỳnh Nam thúi mắm lu
Giả cầy học giả hai cu Nhật Hoàng.
3, Thơ tình dở nhất thế gian
Là ông giáo Mai Văn Hoan dưới vè.
4, Nhìn mông hoa hậu vôi ve
Dương Kỳ Anh bị mông đè chết tươi !
5, Trần Gia Thái viết dở hơi
Đãi đằng nhuc bút hót lời líu la
6, Lanh chanh Nguyễn Thị Ngọc Hà
Thơ vè đậm đặc ta bà gian thương .
7, Thôi dừng nhắc gã Trần Trương
Kẻo mà xấu hổ văn chương nước mình.
8, Nguyễn Bình Phương đứa phong tình
Vô lối ngu độn hắc tinh thi đàn
9,Buồn cho anh Vũ Từ Trang
Buôn gỗ sung sương lại quàng qua thơ
10, Đặng Huy Giang viết ất ơ
Con lai vô lối vật vờ kiếm ăn.
11, Nguyễn Thanh Kim thật nhăn răng
Bụng to, thơ lép kết bằng số không
12, Vi Thùy Linh lúc lên dồng
Ở lổ chăn lạnh thèm chông, thèm anh
(còn nữa)

Chân đung 810 văn sĩ Việt đương đại - không chọn ...

 07:16 05/06/2025

“CHÂN DUNG 810 SI VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI - KHÔNG CHON GẦN 700 NGƯƠI – HỌI VIÊN HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM (mốc 2010)
Đỗ Hoàng
1, Khuất Bình Nguyên thơ à uôn
Chạy giải thưởng như con buôn chạy tù
2, Mai Quynhf Nam thúi mắm lu
Giả cay, học giả hai cu Nhật Hoàng.
3, Thơ tình dở nhats thế gian
Là ông giáo Mai Văn Hoan dưới vè.
4, Nhìn mônị mông g hoa hậu vôi ve
Dương Kỳ Anh bị đè chết tươi !
5, Tràn Gia Thái viết dở hơi
Đãi đằng nhuc bút hót lời líu la
6, Lanh chanh Nguyễn Thị Ngọc Hà
Thơ vè đậm đặc ta bà văn chương.
7, Thôi dừng nhắc gã Trần Trương
Kẻo mà xấu hổ văn chương nước mình.
8, Nguyễn Bình Phương đứa phong tình
Vô lối ngu độn hắc tinh thi đàn
9,Buồn cho anh Vũ Từ Trang
Buôn gỗ sung sương lại quàng qua thơ
10, Đặng Huy Giang viết ất ơ
Con lai vô lối vật vờ kiếm ăn.
11, Nguyễn Thanh Kim thật nhăn răng
Bụng to, thơ lép kết bằng số không
12, Vi Thùy Linh lúc lên dồng
Ở lổ chăn lạnh thèm chông, thèm anh
(còn nữa)

Vịnh Trinh Công Sơn

 19:29 04/06/2025

HÈN - Quỵ lụy Cộng sản
Trịnh Công Sơn vịnh
Tài ba âm nhạc Trịnh Công Sơn
Dâng mãi dân gian một giọng đờn!
Sung sướng một thời trong nhóm bại,
Vinh vang muôn thuở giữa phe hơn!
Xướng cho tình Bắc lòng không nản,
Hát để hồn Nam dạ chẳng sờn!
Mấy mắn có trời dân chủ thở
Lời ca năm tháng cứ xanh rờn!
Mười lăm năm trước
Đỗ Hoàng
Vịnh thằng cha lập lững hai mang không khoái lắm!

Cái chết người đẹp

 19:26 04/06/2025

Cái chết người đẹp - Tâm sự người lính
Đỗ Hoàng
CÁI CHẾT NGƯỜI ĐẸP
Em chết rồi.
Người đẹp!
Viên đạn của thế kỉ nào bắn em?
Anh sững sờ giữa trái đất máu đổ.
Xác em nằm trong huyền ảo xa xôi.
Không gian đen,
Không gian trắng
Không nói ra lời
Nỗi đau trái đất kéo tang màu mây xám.
Thế là vô tình
Sự sống
Bắt tay cái chết chia lìa!
Quân phục em mang
Máu thâm sì.
Nghìn năm sau em chẳng về được nữa.
Dù vật chất biến hoá bảo toàn,
Dù sự sống chỉ là điều phi lý.
Không gian,
Thời gian
Mệt mỏi trường tồn!
Anh đi trên trái đất cô đơn.
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.
Anh không thể nào viết nỗi lời thơ.
Khóc em để loài người nguyền rủa!
Trong vô biên
Mạng em thua hạt cỏ.
Khóc em
Anh phản lại Trường Tồn!
Chiến trường Quảng Trị đẫm máu 2 – 1974
do hoang vào lúc 04:02

Đau chữ không thể thành Thi sĩ!

 16:16 04/06/2025

ĐAU CHỮ KHÔNG THỂ THÀNH THI SỸ
“Ở GÓC PHỐ TRÀNG THI” CỦA TRÚC THÔNG KHÔNG PHẢI THƠ
Đỗ Hoàng
Ở Đài Tiếng nói Việt Nam trước đây có hai nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi và Trúc Thông. Anh em thường nói đùa, một người đau chữ, một người đau đời. Nguyễn Bùi Vợi đau đáu quê nhà viết theo thể truyền thống mang đậm chất Xứ Nghệ, khu Bốn; Trúc Thông trước cũng viết theo thể truyền thống nhưng sau đó ông đoạn tuyệt lối thơ cũ tìm cách đổi mới cố đẽo gọt chữ nghĩa muốn mong làm một cuộc cách tân lớn thơ Việt. Nhưng than ôi! Ông biến thơ từ một người có da có thịt trở ra một khung xương méo mó, chỗ có xương, chỗ toàn đất sét nên không ra hình thù gì cả:
“Điêu trác tự thị văn chương bệnh
Kỳ hiểm vưu thương khí cốt đa”
(Cổ nhân)
(Đẽo gọt là bệnh của văn chương/Kỳ quái, tắc tỵ, bí hiểm thì hại đến hồn thơ)
Bài “Ở góc phố Tràng Thi” là một sự điển hình cho lối thơ tìm tòi đến nỗi phi thơ ca của Trúc Thông.
Bài này từ cách đặt tựa đề đến lập tứ chọn từ, chọn ngữ, cách thể hiện đều không có tý gì gọi là thơ (!)
Tựa đề Ở góc phố Tràng Thi là quá rộng, nó không sát với nội dung bài viết. Vì ở góc phố Trang Thi có bao nhiêu là công sở, tư sở và cả dân du thử du thực lãng vàng ngày đêm nữa. Mà Thư viện Quốc gia tác giả đang nói đến thật sự là nằm trung tâm phố Tràng Thi rất đường bệ, rất khang trang. Trong văn chương đặt tựa đề hay đúng là bài văn đã đạt giá trị trên 50%. Đặt tựa đề như trên là hỏng 100%.
Tiếp đến hai câu vào bài là hai câu không thơ và kém từ cách chọn chữ, lập ý. “Học làm sao hết chữ cũ trên đời”. Đúng là học là sao hết chữ trên đời. Nhưng ai lại gọi chữ cũ. Chữ làm sao cũ được? Trúc Thông muốn tìm một cách nói cho khác người cho lạ tai, hóa ra lại không khác người mà lại cũ hơn người. Trúc Thông cố làm mới nhưng nó không mới. Cũng như người con gái cố làm đẹp mà mình không đẹp thì làm sao làm đẹp được. Bản thân mình phải đẹp đã chứ!
“Người xấu duyên lặn vào trong
Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài”
(Ca dao)
Tiếp câu “Sách chồng nên núi”. Câu này lại quá cũ kỷ, thừa ra. Đương nhiên sách của nhân loại thì chồng cao như núi rồi. Điều đó là điều hiển nhiên không cần nhà thơ Trúc Thông phát hiện. Trúc Thông đã không có phát hiện gì ở đây mà lại nói thừa ra. Người ta so với núi là những cái đau thương, cái giàu sang, cái vui, cái bi thảm không bao giờ như núi nhưng gần như núi mới tạo ra ấn tượng mạnh, có sức liên tưởng lan xa:
- Xương chất cao như núi
- Xương chất thành núi
- Máu chảy thành sông!
- Vàng chất cao như núi
“Xanh như ngọc thời gian ta đã uống” là một câu nói của nhưng eng, những ả 8x, 9x đong đưa làm duyên làm dáng không phải lối. Câu viết cho có ảo huyền cho có siêu thực nhưng nó là một câu viết rất vô duyên!
Tiếp sau là các câu viết vô duyên trơn tuột nối theo như thế:
“đuổi theo những mốt
tuột bao bậc thầy
muốn nắm tay ta...”
Tác giả lại dùng từ nửa Anh, nửa Việt: “hotel mười mấy lầu xanh đỏ”. Sao lại viết nguyên từ tiếng Anh” hầu theo” như vậy? Chữ Việt có kia mà: Lều nghỉ, nhà nghỉ, từ Hán việt hóa như: Khách sạn có phải dễ đọc, dễ nhớ hơn không? Ngay cả từ Ô - ten tiếng Pháp thì cũng có nhiều người Việt biết hơn là từ hotet.
Câu kết là câu rất phản cảm, nghe nó thô lậu thế nào nhất là nói lái người miền Trung đu nặng: “đu vào bác mấy đời con cháu”. Tìm tòi gì mà quái gỡ như thế này? Câu nói bộ này trong khẩu ngữ nghe đã chối tai đừng nói đưa nó vào thơ mà lại làm câu kết.
Nhà thơ Trúc Thông rất cố gắng tìm tòi, tự bứt phá mình nhưng:
“Thiên nhai vô bờ
Hồi đầu ngưỡng ngạn”
(Chân trời mênh mông
Ngoảnh lại đã gặp bờ)
Và cuối cùng thì:
“Hòn đá bên đường thành bại
Mỉm cười tay trắng đời trai”
Người ta chỉ nhớ bài thơ lục bát “Bờ sông vẫn gió” của Trúc Thông và chỉ có nhớ một câu:
“ Bờ sông vẫn gió người không thấy về”.
Thế cũng đã an ủi lắm rồi!
Hà Nội, ngày 2 – 7 -2014
Đ – H (1)
Bài in trên báo Văn nghệ tháng 6 năm 2014
(2) Các nhà đau chữ giả vờ
- Dương Tường, Lê Đạt, Thanh Tùng, Thi Hoàng…

Nguyeenxx Quang Thiều nên làm Công an!

 16:12 04/06/2025

VÔ LỐI - THI TẶC NGUYỄN QUANG THIỀU
(Bài do tác giả gửi CBTT)
Đỗ Hoàng
Vô lối là một loại viết có từ thập kỷ 60 thế kỷ trước và bùng phát nhiều nhất từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến hôm nay. Nó càng bùng phát hơn nữa khi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 trào giải cho tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều và vừa rồi (năm 2011 - 2012), Hội Nhà văn Việt Nam lại tiếp tục trao giải cho cả 4 tập của các tác giả Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Định Thị Như Thúy, kiểu viết như Nguyễn Quang Thiều nối dài.
Điển hình của Vô lối là triệt tiêu một trăm phần vần điệu, xóa bỏ cách nghĩ, cách cảm của ông cha và thơ ca truyền thống dân tộc và thế giới, tắc tỵ, rắc rối, tù mù, dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống, nhạt nhẽo, đánh đố mình, đánh đố người đọc, dung tục, tình dục bệnh hoạn, sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, tuỳ hứng…
Vô lối có một đặc điểm nữa là không thể đọc nổi vài ba dòng.
Nguyễn Quang Thiều cũng là một trong những đại biểu của Vô lối ấy vừa được các báo chí chính thống, các vụ viện chính thống, các học giả, nhà phê bình, giáo sư đại học, cánh hẩu viết bài lắng xê, ca ngợi hết lời. Họ coi đó là sự là “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân”, Thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn từ mẫu gốc” (Tạp chí Nhà văn số 6 - 2012); “Hộp đen” Nguyễn Quang Thiều – Báo Văn nghệ số 17 + 18 tháng 4 – 2012...
Cách tân tức là làm mới không chỉ ở thơ ca mà trong cuộc sống muôn loài cũng phải luôn luôn đổi mới để phát triển tồn tại. Thế hệ sau tiến bộ hơn thế hệ trước thì muôn loài, muôn vật, xã hội mới phát triển, không thì chỉ dừng lại và đi đến triệt tiêu!
Nhưng làm mới như thế nào? Tôi đã nhiều lần nói về việc làm mới. Làm mới – cách tân chứ không phải cách mạng. Đến như cách mạng lật đổ hoàn toàn quá khứ mà người vẫn còn giữ gìn và tiếp thu những ưu tú của đời trước để lại, huống hồ cách tân - làm mới, phải có kế thừa và phát huy cái hay, cái đẹp của dân tộc, của nhân loại. Nhà bác học Lê Quý Đôn nói: “Người tài giỏi hơn hết một thời, cũng không được phá bỏ đời trước”
Những người tìm tòi đổi mới thơ ca là đáng trân trọng. Nhưng lấy cớ tìm tòi đối mới để phá bỏ, đạp đổ những chuẩn mực, những tinh hoa của cha ông từ muôn đời để lại là một ý nghĩ, hành động điên rồ.
Hàn Mặc Tử có nói: “Vẫn biết thơ ca phải tân kỳ (mới và lạ), song thơ ta là thơ quốc âm, người phương Đông chuộng nỗi đau thâm trầm, nỗi buồn kín đáo. Ta phải thể hiện cái tinh thần phương Đông ấy.”
Nhưng những người viết hôm nay và nhất Nguyễn Quang Thiều không theo tiêu chí ấy mà đi tìm một cách viết rất chi là Vô lối.
Nguyễn Quang Thiều cố tìm một cách nói, cách lập ngôn như việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” – (Hỏa đích bất thụy sự), đã thể hiện cách ấy. Đọc thấy lạ tai, không theo cách nói cách viết thuần Việt, nó như là cách viết của Tây, nhưng Tây người ta không viết thế. Câu thơ, câu văn của Tây dài nhưng phải chính xác, không thừa chữ, không thừa ý và phải thuần chủng ngôn ngữ. Đằng này Nguyễn Quang Thiều cố tạo ra cách viết lạ nhưng lại vừa dùng chữ nước ngoài, vừa không theo cách cảm cách nghĩ của dân tộc. Cách này cũng đã có người trước Nguyễn Quang Thiều viết như “Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai” (Liên khúc những bài thơ tình thời cách xa – Thanh Tâm Tuyền)
Chữ sự nguyên là chữ Hán đã tương đối Việt hóa. Nó có ba nghĩa : 1- việc, 2 - làm việc, 3 - thờ. Không hiểu sự mất ngủ của lửa ở đây là việc, làm việc hay là thờ? Suy đoán trong bài hiểu theo nghĩa Hán “Hỏa đích bất thụy sự” thì có thể là việc. Dịch ra là “Việc mất ngủ của lửa” chắc là đúng ý tác giả!
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Hồ Chí Minh)
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Xuân Thủy dịch)
Thời Nguyễn Đình Chiểu, cũng là thời Hán học đang thịnh hành, cụ Đồ Chiểu còn đi thi tú tài Hán học, thế nhưng thơ Cụ, văn tế, phú của Cụ thì rất Việt hóa.
Việc cấy, việc cày việc bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cớ mắt chưa từng ngó
(Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc )
Nếu viết như Nguyễn Quang Thiều và Thanh Tâm Tuyền là phải:
Sự cấy, sự cày, sự bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cờ mắt chưa từng ngó
Lại bàn về mất ngủ. Mất ngủ chỉ một trạng thái tâm lý của con người do lao lực, do nghĩ ngợi đau khổ nhiều, thần kinh yếu, do chấn động thân kinh, do chấn thương sọ não …nên dẫn đến mất ngủ. Nói chung nó là một trạng thái bệnh lý nhiều hơn. Còn người khỏe mạnh, thần kinh vững vàng thì khó có thể mất ngủ.
Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
(Hồ Chí Minh)
Người khỏe mạnh, cứng rắn, người ta chưa ngủ hoặc người ta không ngủ để lo quốc gia đại sự, chứ họ không bị chứng bệnh mất ngủ!
Vì vậy việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” vừa không Việt hóa, vừa thừa chữ, thừa lời, vừa không ổn trong nhận thức. Có thể đặt theo cách thuần Việt “Lửa mất ngủ” hoặc “Lửa thức”…
Cách đặt tựa đề, đặt câu này Nguyễn Quang Thiều lặp đi lặp lại ở nhiều bài khác như: “Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi” (Tiếng vọng) – In trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập một, tháng 1 năm 2011.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều đa phần dài dòng văn tự. Viết ngắn viết dài tùy theo cảm xúc, suy nghĩ, tùy theo mức độ tình cảm của tác giả. Cái đáng viết dài thì viết dài, cái đáng viết ngắn thì viết ngắn. Có cái không đáng ba dòng tác giả lại kéo ra tràng giang đại hải
“Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi”
(Những người đàn bà gánh nước sông)
Hay:
“Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được giàn dụa nước mưa sông. “ (Sông Đáy)
Nên nhớ rằng “ Đoản thi tối hảo phá” (Thơ ngắn có sức mạnh vô biên). Ngay phương Tây cũng có nói phải cô níc (viết ngắn).
Bác Hồ cũng đã từng nói: “Bác ít có thi giờ xem văn nghệ, nhưng khi xem thì thấy nó dài dòng, dây cà ra dây muống, hình như người viết cố viết dài ra để lấy nhuận bút. Rồi lại sính dùng chữ nước ngoài. Chữ ta có thì nên dùng chữ ta, chữ ta không có mới mượn chữ nước ngoài – theo “Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt – Sửa đổi lề lối làm việc)
Có nhiều bài viết vừa dài, vừa lập luận thừa thải. Điển hình là bài “Những người đàn bà gánh nước sông” (đã trích dẫn ở trên). Ví dụ câu:
"Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy”. Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy, thì cần gì phải kể đến từng chặng một thời gian như vậy. Kể thế sao cho hết. Nếu kể thế thì phải viết cho đủ: Đã một năm, đã hai năm, đã ba năm… đã và đã, thì đến bao giờ mới kể xong. Viết chỉ ngắn gọn là “nửa đời tôi thấy” thì vừa đầy đủ, vừa chính xác. Còn có những người, họ chỉ sống 50 tuổi , 40 tuổi, 30 tuổi thì sao?
Mỉa mai thay bài này đã được chọn in trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX(!)
Cách nghĩ và cách viết không chính xác, viết lấy được của Nguyễn Quang Thiều còn nhiều nhiều. Như bài “Trong quán rượu rắn”. Người ngồi trong quán rượu rắn, chắc là không uống rượu nên tỉnh bơ, như uống nước chai lave “Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ/ Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng”. Người đọc tưởng tác giả đang đi dạo rừng thu bạch dương ở bên Nga!
“Những con rắn bị thủy táng trong rượu". “Thủy táng” là chôn nước. Táng - nguyên chữ Hán là chôn, vùi đã tương đối Việt hóa. Khi người chết, nhất là người thân, người ta dùng chữ táng cho nhẹ đi, đỡ đau hơn nếu dùng chữ Việt là chôn hoặc vùi. Từ cổ đến nay có nhiều cách táng: thổ táng, hỏa táng, thủy táng, mộc táng, điểu táng, thạch táng, cẩu táng, điện táng… “Những con rắn bị thủy táng trong rượu” – Tức là những con rắn chôn nước trong rượu. Thật ra rượu là nước có nồng độ men cao, cũng như nước biển có nồng độ muối cao mà thồi. Những người đi biển khi chết được đem bỏ xuống biền và nói như cách nói của Nguyễn Quang Thiều: “Những con người bị thủy táng trong biển”. Nó vô lý và buồn cười, đau xót biết bao cho cách lập câu, cách viết như thế này.
Cha ông ta đã có cách nói rất hay khi đem bỏ thảo quả và động vật quý làm thuốc vào rượu và gọi là “ngâm rượu”: táo ngâm rượu, cam ngâm rượu, lê, mận ngâm rượu, bìm bịp ngâm rượu, rắn độc ngâm rượu… Nếu nói cho có hình ảnh mượn chữ Hán thì có thể nói “những con rắn bị đem tửu táng”!
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều rất kém thi pháp (nghệ thuật thơ), lạm dụng nhiều chữ nhiều từ như : khóc, vỹ đại, lạm dụng từ Hán Việt chưa được Việt hóa…
Những con cá thiêng quay mặt khóc
………
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
(Những người đàn bà gánh nước sông – đã dẫn).
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quì xuống vốc cát ấp vào mặt
Tôi khóc.
(Sông Đáy)
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo gọi Nguyễn Quang Thiều là “nhà khóc học” thật không sai!
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
(Trong quán rượu rắn)
Cha ông ta có những phép tu từ rất diệu nghệ, người ta không hề nói đến một chữ khóc mà đời nào nghe cũng rưng rưng:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi!
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn
Hay:
Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả mẹ chín chìu ruột đau!
(Ca dao)
Bạn về chẳng có chi đưa
Có hai lọn nếp mà chưa lặt lòn!…
(Ca dao)
Rồi mùa toóc rạ rơm khô
Bạn về quê bạn biết mô mà tìm
(Ca dao)
Ở đây Nguyễn Quang Thiều và nhiều người viết khác dùng vô thiên lũng chữ “ khóc”, người ta gọi là các “nhà khóc học” mà chẳng làm một ai mủi lòng! Thật là tại hại!
Nguyễn Quang Thiều hay viết về quê hương mình, vùng làng Chùa, sông Đáy là xứ Đoài xưa nhưng không hề thầy bóng dáng “Xứa Đoài mây trắng” ở đâu, không thấy áo lụa Hà Đông ở đâu, không thấy Hà Tây quê lụa ở đâu? Một miền cội nguồn dân ca Bắc Bộ, một miền hát xoan, ghẹobiến mất trong cách viết của Nguyễn Quang Thiều!
Mà Xứ Đoài không chỉ người con của xứ sở ấy máu thịt mà cả dân tộc, thậm chí cả châu Á, châu Âu cũng có trong hồn của họ.
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuy khoắt thổi đêm trăng
(Quang Dũng)
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt nhớ
Bởi vì em mặc áo lụa Đông
( Nguyên Sa)
Bóng chiếc thoi đưa, ánh mắt long lanh, trời đất Hà Tây quê em dệt lụa
Mây trắng Ba Vì…hồn thơ Nguyễn Trãi
(Hà Tây quê lụa – Nhật Lai)
Một lần trò chuyện với nhà văn Trung Quốc Trịnh Bá Nông nguyên Tổng biên tập báo Văn Nghệ Trung Quốc tại Bắc Kinh, ông nói: “Ở việt Nam tôi yêu thích nhất là Ca dao và Quan họ Bắc Ninh”. Trong khi đó các nhà thơ, nhạc sỹ nước mình đi tìm con cáo lông đen (ý của Gam zatop) ở đâu đâu.
Viết ngắn, viết giản dị mới khó. Đông Tây, kim cố gì cha ông cũng đã dạy
Rien n’est plus dificille que d’ecrire ficille - Không có gì khó bằng viết dễ hiểu – Châm ngôn Pháp. "Công phu thâm xứ thi bình dị" - Thơ hay nhất là thơ dễ hiểu – Lục Dụ đời Tống, Trung Quốc.
Điển hình cho sự dài dòng văn tự, tắc tỵ lố bịch, quái dị của Nguyễn Quang Thiều là bài “Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ”.
(Trích)
"Người hướng dẫn : Được dệt thủ công bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
"Người mua : Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm"…
Kịch không ra kịch, đối thoại không ra đối thoại, tế không phải tế, cáo không phải cáo, điếu văn cũng không ra điều văn, kể chuyện học sinh cũng không ra kể chuyện học sinh, nhật ký cũng không phải nhật ký, hát ru bà, hát ru ông cũng không phải… Nó là một thứ ba đầu sáu tay, quái thai văn chương. Thế rồi nó lại còn dung tục: “Một bà già đi tiểu 5 lần nói: “Mẹ đau lắm!”. Trong bệnh viện khoa dưỡng lão, các bác sỹ ghi bệnh án còn sạch sẽ hơn nhiều cái gọi là thơ này!
Thơ hậu hiện đại có thể lược bỏ vần điệu, coi nhẹ vần điệu nhưng ý tứ phải sâu sắc, hình ảnh phải mới lạ, độc đáo, tình cảm phải dạt dào rung động người đọc mới chấp nhận:
Thời gian ơi, xin hãy đừng trôi nữa
Đó là lời khẩn cầu
Của những kẻ đang yêu
Tại sao các vị lại không khẩn cầu ngược lại
Tình yêu hãy ở bên các người mãi mãi
Còn thời gian thì:
Cứ kệ nó trôi đi…
(Thời gian và tình yêu – Ion Milos – Nhà thơ Thụy Điển – Thơ hậu hiện đại – Phạm Viết Đào dịch)
Hay:
Người đẹp
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
(Dân ca Dáy)
Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết- nhìn người đẹp lại không muốn chết nữa
Ơ! Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!
(Lò Ngân Sủn)
hay:
Hôm qua sáu giờ năm mươi phút
Đồng chí Lê nin từ trần
Năm này chứng kiến một lần
Điều bất hạnh trăm năm không thấy nửa
Ngày ngày muôn thuở
Sẽ là truyền thuyết đau thương
Tin kinh hoàng
Sắt thép bất tiếng kêu than
Sóng nức nở trên những người cộng sản
Sức nặng đè ghê gớm
Không lê nổi chân đi
Biết thế nào đây và làm gì nữa!
Nhà hát lớn trôi trên đường phố
Nỗi buồn như một cỗ xe tang
Nỗi vui bò như ốc như sên
Nỗi buồn chạy như điên như dại
Không ánh mặt trời
Không ánh băng sang dọi
Tất cả đã rắc một lớp tuyết đen
Sàng qua báo chí
Tin ập tới
Người công nhân trước máy
Như một chén lệ đổ xuống bàn dụng cụ
Trẻ nhỏ bỗng nghiêm trang như các cụ già
Các cụ già khóc như trẻ nhỏ!...
(Trường ca Vladimia Ilích Lê nin – Maiacop xki – Trần Dần dịch)
Hay:
Sầm phu tử
Đan Khâu sinh
Tương tiến tửu
Bôi mạc đình
Thỉnh quân ca nhất khúc
Vị ngã khuynh nhĩ thinh
Chung cổ soạn ngọc bất túc quý
Đã nguyện trường túy bất nguyện tinh
Cổ lai thánh hiền giai tỉnh mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Tương tiến tửu – Lý Bạch)
Sầm Phu tử
Đan Khâu sinh
Sắp mời rượu
Đừng có sai
Mời anh ca một khúc
Vì tôi nghe mầy bài
Rượu tiệc ngon giữa trống chiêng nào có đáng quý
Không muốn tình cứ say sưa mãi hoài
Xưa nay thánh hiền có ai tên tuổi
Chỉ kẻ uống rượu là lưu danh muôn đời
(Sắp mời rượu – Đỗ Hoàng dịch)
Nói vậy, chứ tiếng Việt lược bỏ hoàn toàn vần điệu rất dễ chuốc lấy thất bại thảm hại. Vì tiếng Việt hoặc tiểng phương Đông là xỉ âm – phát ra từ răng, phần nhiều một âm tiết, không như tiếng các Âu – Mỹ - đa âm tiết, một từ nói đã có tính nhạc trong đó ví dụ như bữa ăn sáng (phiên âm): bờ rét phát, đẹp - bui ti phul (Anh ), đẹp - kờrát xvưi (Nga)…
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và một số nhà thơ, người làm thơ khác cũng có công cố gắng tìm tòi, đấy là điều đáng trân trọng. Nhưng theo quan điểm và cách thưởng thức, thẩm định của tôi thi những gì họ viết ra không phải thi ca, văn chương. Họ hoàn toàn thật bại một trăm phần trăm.
Người viết ra loại Vô lối thật đáng trách, người tung hô, in ấn lăng xê càng đáng trách hơn, tố chức nào đó trao tặng giải thưởng, khuyến khích cổ vũ thì đáng trách vô cùng. Những người này nếu được đề bạt quản lý cầm cương nảy mực nền văn nghệ nước nhà thì văn chương Việt đi đến đâu? Nhãn tiền ấy mọi người đã rõ!
Hà nội ngày 1 – 6 -2012
Đ.H.
Ảnh : Nguyễn Quang Thiều

BỎ BÀI “TIẾNG VỌNG” RA KHỎI SÁCH GIÁO KHOA

 09:18 03/06/2025

BỎ BÀI “TIẾNG VỌNG” RA KHỎI SÁCH GIÁO KHOA
(Tiếng Việt - Lớp 5 tập một)
Những tác phẩm được tuyển chọn vào sách giáo khoa là những tác phẩm tinh hoa kinh điển có giá trị cao về nội dung tư tưởng, nghệ thuật được thử thách qua thời gian và phù hợp tâm lý lứa tuổi học sinh. Chúng ta ai cũng có tuổi thơ cắp sách đến trường và những bài văn, bài thơ từ thuở ấu trò được ăn sâu trong trí nhớ và đi theo suốt cuộc đời của chúng ta, nó là mẫu mực trong sáng về tình yêu quê hương, đất nước, về tình cảm yêu thương không thể xóa nhòa:
"Bờ cỏ còn hơi sương
Nắng vàng trải trên đường
Cành cao chim chào đón
Chúng em đi tới trường
Một hồi kẻng khua vang
Từng đội đứng xếp hàng
Mắt nghiêm nhìn cờ đỏ
Phấp phới ánh sao vàng
Em hứa thầm cùng Bác
Năm nay cháu học ngoan!"
(Tập đọc cấp một những năm học thập kỷ 60 thế kỷ trước)
Lứa tuổi năm sáu mươi hôm nay không ai là không nhớ bài thơ tới trường này!
Thế hệ sau này, các em cũng được học những bài thơ rất hay, những vần thơ chan chứa tình cảm, hàm súc, âm vang và ngân xa:
"Hôm qua em tới trường
Mẹ dắt tay từng bước
Hôm nay mẹ lên nương
Một mình em tới lớp
Hương rừng đưa thơm ngát
Nước suối trong thì thầm
Cọ xòe ô che nắng
Râm mát đường em đi!..."
Hay:
"Rừng cọ ơi rừng cọ
Lá đẹp xanh ngời ngời
Khi yêu thường vẫn gọi
Mặt trời xanh của tôi!"
Thế mà sang thế kỷ XXI, trong sách giáo khoa lại có tuyển chọn những bài thơ không ra thơ, văn không ra văn, có những bài đang ở dạng thể nghiệm chưa được công chúng thẩm định, thế mà lại được đưa vào sách giáo khoa ở tuổi ấu trò giảng dạy. Điển hình là bài "Tiếng vọng' của Nguyễn Quang Thiều - sách giáo khoa Tiếng Việt - lớp 5 tập một - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tái bản lần thứ 5 - tháng 1 năm 2011).
Nguyên bản:
Nguyễn Quang Thiều
TIẾNG VỌNG
Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Đêm ấy tôi nằm trong chăn nghe tiếng chim đập cửa
Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi
Và tôi ngủ ngon lành đến lúc bão vơi.
Chiếc tổ cũ trong ống tre đầu nhà chiều gió hú
Không còn nghe tiếng cánh chim sẻ về
Và tiếng hót mỗi sớm mai trong vắt
Nó chết trước cửa nhà tôi lạnh ngắt
Một con mèo hàng xóm lại tha đi
Nó để lại trong ổ những quả trứng
Những con chim non mãi mãi chẳng ra đời
Đêm đêm tôi vừa chợp mắt
Cánh cửa lại rung lên tiếng đập cánh
Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ
Tiếng lăn như đá lở trên ngàn ./.
ĐỖ HOÀNG DỊCH RA THƠ VIỆT
TIẾNG VỌNG
Chim sẻ mẹ mất rồi
Đêm bão về gần sáng
Tôi nằm trong chăn ấm
Ngon lành đến bão vơi!
Thế mà ở ngoài trời
Tổ chim đầy gió hú
Con mèo như thú dữ
Cắp sẻ mẹ chạy dài!
Từ nay không còn nữa
Cánh chim vờn ban mai!
Và vầng trăng của trứng
Mãi mãi chẳng ra đời!
Đêm đêm tôi chợp mắt
Cánh cửa nhà rung vang
Trứng lăn vào giấc ngủ
Như đá lở trên ngàn !
Hà Nội ngày 9 tháng 6 năm 2012
Đ - H
Bình giảng
Tiếng vọng là một bài viết trục trặc, lủng ca, lủng củng, thừa ý, thiếu lời, thừa lời thiếu ý, tư duy rối rắm, lộn xộn, không nhất quán, lại rắc rối, tù mù, tối nghĩa... Như nói ở trên nó không ra văn vần, không ra văn xuôi, thơ cũng không phải thơ, vè cũng không phải vè, văn tế cũng không ra văn tế, phú cũng không ra phú, hát ru em cũng không ru hát ru em, hát vui chơi cũng không ra hát vui chơi, triết học cũng không ra triết học.... Nó chính là loại Vô lối đặc trưng cách viết của Nguyễn Quang Thiều và nhiều người viết hôm nay thể hiện; rồi nhiều người, nhiều tổ chức lăng xê lên mây xanh, ngay cả Hội Nhà văn Việt Nam cũng trao tặng giải thưởng thơ năm 1993 cho tập "Sự mất ngủ của lửa" của Nguyễn Quang Thiều.
Tôi đọc bài này nhiều lần, nhiều năm. Lúc nào tôi cũng băn khoăn: - Vì sao các nhà làm sách lại chọn bài này vào sách giáo khoa dạy cho các em lớp 5 đầu học kỳ một tuổi mới lên 9, lên 10?
Nội dung của bài Tiếng vọng nói sự vô tình của một em bé về cái chết của con chim sẻ mẹ để cho bao thế hệ chim non không ra đời!
Con chim sẻ nhỏ vì cơn bão về gần sáng chết, tác giả xưng tôi vì ngủ quên trong sự ấm áp nên không biết nó chết, mèo hàng xóm lại tha chim đi, để những quả trứng không có chim mẹ ấp mãi mãi không nở thành chim con!
Chỉ từng ấy thôi nhưng Nguyễn Quang Thiều lại làm rắc rối đến nỗi nhiều thầy cô dạy bài không hiểu ra, chứ nói gì đến trẻ con!
Bài viết đầy những cái vô lý và thừa thải.
Nói chim là nói người, chim ở đây được nhân cách hóa, không ai nói con chim sẻ nhỏ chết rồi. Nghĩa tử là nghĩa tận, chim chết cũng như người chết, không ai táng tận lòng mình nói từ con và từ chết. Con dùng cho sự khinh miệt: con rận, con sâu, con đĩ, con phò, con ca ve...Chết dùng cho sự khinh miệt: con chó chết, con chuột chết, con sâu chết. Còn không ai nói con và chết cho người và vật, những gì mình yêu mến.
"Bác Dương thôi đã, thôi rồi
Nước non man mác ngậm ngùi lòng ta!"
( Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê)
Đọc bài Tiếng vọng thấy viết câu thứ nhất là "Con chim sẻ nhỏ chết rồi" và sau đó câu thứ mười một là "Nó để lại trong tổ những quả trứng" thì người đọc băn khoăn : "Con chim sẻ nhỏ mới toe toe mà biết đẻ"(!) Mà đẻ rất nhiều, đẻ ra cả ổ trứng (!). Đấy là sự vô lý.
Câu kể này rất bình thường, nó thua cả câu văn xuôi!
Chim sẻ ai chả biết là nó nhỏ. Tục ngữ nói " tấm cho sẻ ăn", tức là chỉ sự nhỏ bé của chim sẻ. Sẻ đã nhỏ thì con chim sẻ nhỏ, nhỏ biết chừng nào, chắc là nó mới ra ràng, sao lại gán cho nó một ổ trứng.
Có nhiều cách viết hợp lý hơn nhiều:
" Chim sẻ mẹ qua lúc bão về gần sáng"...
Những người chết trẻ, chết oan, bất đắc kỳ tức, người Việt hay dùng chữqua, như chị qua, anh qua, em qua...
Không ai nhẫn tâm nói:
"Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Nó chết trong đêm bão về gần sáng"
Nhiều câu trong bài Tiếng vọng vô nghĩa, thừa thải, và lộn xộn:
"Chiếc tổ cũ trong ống tre đầu nhà chiều gió hú".
Chiếc tổ cũ trong ống tre đầu nhà là đủ rồi, mặc chi đưa chiều gió hú vào đây? Chiều gió hú có thể một câu thơ được nhưng nó ở văn cảnh khác không thể đắp râu ông nọ chắp cằm bà kia!
Nếu sắp xếp câu kéo và hợp với lô gic thì câu thứ 9 trong bài phải đặt lên câu thứ ba mới đúng và hợp tình hợp lý, hợp văn cảnh'
" Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Nó chết trước cửa nhà tôi lạnh ngắt".
Ở đây thêm điều vô lý nữa. Chim sẻ mẹ đang ấp làm gì có chim trống đến hót như tác giả tưởng tượng ra:
"Và tiếng hót mỗi sớm mai trong vắt" (!)
"Và tiếng hót mỗi sớm mai trong vắt" Tiếng chim hót trong vắt hay "Ban mai trong vắt?
Tác giả khen tiếng chim trong vắt hay khen ban mai trong vắt? Học sinh 9, 10 tuổi mới lên lớp 5 làm sao biết được.
Rồi những kiểu nói cho lạ tai không thuần Việt:
"Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi" Tây thật cũng chẳng nói kiểu này! Dịch ra nghĩa Việt là " Việc ấm áp của gối chăn đã giữ chặt tôi" . Có thể có cách nói: chăn ấm, gối êm làm tôi ngủ yên!
Tiếng vọng dùng từ lặp lại đọc nghe câu thơ nặng nề:
"Một con mèo hàng xóm lại tha đi
Nó để lại trong tổ những quả trứng
.....
Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ..."
Tôi có hỏi nhiều nhà giáo dục, nhiều nhà sư phạm về bài Tiếng vọng của Nguyễn Quang Thiều được chọn in trong sách giáo khoa - Tiếng Việt - Lớp 5 tập một.
Thạc sỹ giáo dục, nhà thơ, dịch giả, Trưởng ban biên tập, phụ trách Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục Trần Hậu, ông cho biết: " Đây là bài đang dạng thể nghiệm nên không thể đưa vào sách giáo khoa nhất là sách Tiếng Việt lớp 5, tập một. Bài Tiếng vọng nhiều người lớn không hiểu, làm sao trẻ hiểu nổi. Sách giáo khoa bây giờ còn nhiều bài như thế này cần nên loại bỏ!"
Thầy Trần Đức Trung, tổ trưởng chuyên môn khối 5, cô giáo Nguyễn Thị Kim Yến, giáo viên dạy giỏi thành phố Huế dạy lớp 5, cô Thu Dung giáo viên dạy lớp 5 ở trường Tiểu học Thuận Lộc, thành phố Huế đều nói :
- "Tiếng vọng" là một bài ý tứ lủng cũng, ngôn từ lộn xộn, khó hiểu đổi với các em học sinh mới lên lớp 5. Bài viết không vần điệu, không đi sâu vào lòng người nhất là học sinh tiểu học! Các thầy cô giáo còn chưa hiểu được làm sao học sinh hiểu được!
Cũng rất may mắn là năm học vừa rồi (năm 2011 - 2012) ở Thừa Thiên - Huế tuân theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong kế hoạch giảm thiểu chương trình nặng nề đã loại bài Tiếng vọng không dạy cho học sinh.
Năm học tới sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 nên loại bỏ bài Tiếng vọng ra khỏi sách giáo khoa và nhiều bài phi văn chương khác!
Nhà thơ Đỗ Hoảng

Nguyễn Binh Phương khoontg nên làm văn chương!

 16:21 28/05/2025

NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG KHÔNG NÊN LÀM VĂN CHƯƠNG
Vô lối ngu độn, tà dâm, khệnh khạng, kiêu ngạo

Nguyễn Bình Phương học hành dốt nát, chữ như chó moi, gà cào viết văn làm thơ ngu si, tà dâm, khệnh khạng, kiêu ngạo. Tôi có nhiều chuyên luận viết về Nguyễn Bình Phương nên không mất thì giờ nhắc lại, chỉ đi sâu mấy bài in trên Văn nghệ (bộ mới) thưa cùng bạn đọc :
Nguyên văn :
THỢ MỘC
Ông thợ mộc đi đâu thế kia
hay làm giá trưng bày cơn mê
bộ sưu tập người chưa tỉnh giấc

Ông thợ mộc đi đóng tủ nhan sắc
cho bà mẹ đơn thân
đóng chiếc bàn hội nghị ba bên
kỳ đình chiến ngày mai và quá khứ
cùng cây bút thực hư
ghi nhốn nhốn nháo phiếu tem thời bao cấp

Ông thợ mộc đi đóng thuê kệ sách
sách kinh điển chữ như đàn ong mật
đóng quan tài cho cầu vồng mới tắt
vì sảy chân ngã xuống một sắc tình

Ông ơi, này ông ơi
có nhận bào cá tính
nhận đóng khung kẻ nghiện chân trời
véc ni lại những chiến trường già cỗi
làm giường như bà Âu Cơ từng nằm

Ông thợ mộc bước chậm qua tháng năm
bên đường ai đó hỏi tần ngần
- Nghe nói gỗ sưa giờ bán bằng cân
ngày xưa họ sẽ bán bằng gì?

Trước khi bình bài này xin nhắc lại chùm vô lối Nguyễn Bình Phương in trên Văn nghệ số 3 (bộ mới)
Số tác giả còn lại trong trang thơ đa phần viết vô lối, không ngửi được, khắm lắm !
Tệ hại nhất là Nguyễn Bình Phương (Xem vô lối ngu độn Nguyễn Bình Phương – vannghecuocsong.com).
Nguyễn Bình Phương được in 3 bài : “Vân múa “, “Vĩnh cửu”, “Nhà thơ “. Đều ba bài Vô lối ngu độn, uôn éo, làm duyên, làm dáng, tỏ ra tư duy, lắng đọng kiểu cách !
Ba bài có 30 dòng (có dòng chỉ 1 chữ) có đến : 47 từ Hán Việt chưa Việt hóa. Vân,vân có 18 chữ vân 妘 vân (họ Vân), vân 雲 (mây), 溈川
-(Duy Xuyên), dẫn (引), thánh địa (聖地), nỗi niềm (馁鯰), trắc ẩn (惻隱), tháp (墖), nâu (檽), trầm (沈), ngưng(凝), tê tái( 懠再), mê (迷), xán lạn (燦爛), uy quyền (威權), vũ trụ (宇宙)
thanh tân(清新),uyển chuyển(婉轉), đông(東), sinh thành (生成), ẩn nhẫn(隱忍), gian(時間), vĩnh cửu(永久),tượng đài(像台),tạc(鑿),cố định(固定), bình yên(坪安), ý tưởng (意想),phố(铺), sương(霜).
Thế thì làm thơ tiếng Việt đếch gì. Qua bên Tàu ở với Hán gian làm cho Hán tộc. Bài “Vân múa” không biết nói cô Vân làm nghề múa hay cô họ Vân làm nghề múa hay cô Vân tượng đá trong vùng thánh địa Duy Xuyên vũ nữ Chăm pa thuở xưa?
Bài viêt rất dớ dẩn. Chẳng biết nói cô Vân mú hiện đại hay cô Vân múa thuở xưa? Tác giả dùng chữ quá cũ: “Vẻ say mê trong xán lạn uy quyền/ Kìa vũ trụ thanh tân uyển chuyển”…
Sáo rỗng: “Kìa thời gian vụt nở òa như sóng”. Rồi xuống dòng
“Tắt”
Ngắt câu rất vớ vẩn, điên rồ!
Bài “Vĩnh cửu” vừa Tàu Ô, Tàu lai, vừa tự cao, tự đại:
“Tôi cùng em ngắm tượng
Tượng nhìn lại hai ta
Cả ba là vĩnh cửu”
Cụ Hồ vĩ đại như thế, 500 năm mới có một người mà cụ tự nhận « ngâm thơ ta vốn không ham, không cầnsự “vĩnh cửu ấy”» :
開卷
老夫原不愛吟詩,
因為囚中無所為。
聊借吟詩消永日,
且吟且待自由時。
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.

Đỗ Hoàng dịch thơ:
Già này thực sự chẳng ham thơ
Nhưng ở trong tù quá ất ơ
Mượn chữ ngâm nga ngày rộng hết
Tự do chờ đến chớp thời cơ!
Nguyễn Bình Phương là anh lính kiểng hạng bét, làm “vô lối” phọt phẹt. Ăn lương lính hàm đại tá mà không có một bài thơ nào viết về anh bộ đội cụ Hồ. Không một câu nào đời nhớ. Còn cô bồ nhặt đâu ngoài quán ba vào đền đài tự cho mình là vĩnh cửu,bất tử. Thật ngu độn, kiêu ngạo!
Bài thứ ba là bài « Nhà thơ ». Một tay làm “vô lối” chuyên nghiệp mà cũng xưng là nhà thơ viết bài “Nhà thơ” thì khôi hài hết chỗ nói. Khôi hài đến cỡ Becnaso được mời thăm nước Mỹ, đến Mỹ ông thấy tượng thần tự do to đúng bên bờ biển. Ông bỏ về ngay.
Đã thế viết rất hợ hĩnh, tự cao, tự đại:
“Ta lặng im
Chim hót
Họ thì vỗ cánh bay

Ta viết
Chim bay đi
Họ thẫn thờ đậu xuống

Ta nhìn ta mai mái một làn sương »
Cái đám vô lối tàn phá thơ ca nước Việt nghìn năm thiêng liêng : Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Phú Trạm – In ra sa ra, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn, Mã Giang Lân, Trần Hùng, Phan Hoàng, Đinh Thị Như Thúy, Hoàng Vũ Thuật, Hoàng Hưng, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh….tiêu đi, tan đi, lặng khói đi….đúng là chim mới về hót.
Cha ông, tiên tổ đọc sách làm thơ chim chóc về hót, hoa nghiêng về xem… :

看書山鳥棲窗扦,
批札春花照硯池。
(贈裴公 -胡志明)
Tặng Bùi công
Khán thư sơn điểu thê song hãn,
Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì….
Hồ Chí Minh
Dịch thơ (Khuyết danh)
« Xem sách chim rừng vào cửa đậu
Phê văn hoa núi ghé nghiên soi… »
Còn bọn « Vô lối »
Ta viết
Chim bay đi
(Nguyễn Bình Phương)
Quá đúng, chính xác cái gọi là sáng tác của đám này. Chim chóc phải bỏ đi, không ai ngửi được cái mùi nhà cầu thơ phú của bọn chúng.
Cái anh Nguyễn Việt Chiến làm thơ hô hào tuyên truyền cấp xóm, chứ không làm « vô lối » nhưng anh ta phải theo sự chỉ đạo của Hội Nhà văn khóa mới (khóa X) đứng đầu là Vô lối Nguyễn Quang Thiều, đứng thứ hai Vô lối ngu độn Nguyễn Bình Phương thì ma nào nó đọc
Quay lại bài “Thợ mộc”. Một bài giả lươn,giả rắn, giả cầy, giả mèo, giả chuột, giả kăng ku ru, giả thỏ, giả cáo, giả gà, giả vịt, giả ngan, giả ngỗng, giả hoàng hôn, giả Âu Cơ, giả giường, giả chiếu…
“Ông thợ mộc đi đâu thế kia
hay làm giá trưng bày cơn mê
bộ sưu tập người chưa tỉnh giấc”
Chả biết ông thợ mộc thật hay ông thợ bị tâm thần!
Đem cái thật ghép với cái ảo người ta viết quá nhiều, viết một lần còn được, lặp đi lặp lại chẳng hay ho gì. Vì “giá trưng bày cơn mê
bộ sưu tập người chưa tỉnh giấc”
vì đó là cách nói của kẻ u mê, chưa tỉnh giấc!
Tiếp theo cả một khổ viết như thế:
“Ông thợ mộc đi đóng tủ nhan sắc
cho bà mẹ đơn thân
đóng chiếc bàn hội nghị ba bên
kỳ đình chiến ngày mai và quá khứ
cùng cây bút thực hư
ghi nhốn nhốn nháo phiếu tem thời bao cấp…”
Lộn xà, lộn xộn, cái quàng sang cái kia, từ tủ nhan sắc cho bà mẹ đơn thân đền hội nghị ba bên, rồi đến kỳ đình chiến ngày mai và quá khứ!”. Chả biết nói đên việc gì. Tù mù , rối rắm!
Đúng là kiểu viết của kẻ ngu độn, tối tăm!
Rồi đến khổ tiếp cũng vậy. Tù mù, tà mà, nhăng nhăng cuội cuội:
“Ông thợ mộc đi đóng thuê kệ sách
sách kinh điển chữ như đàn ong mật
đóng quan tài cho cầu vồng mới tắt
vì sảy chân ngã xuống một sắc tình…”
Khổ tiếp cũng vậy. Cũng làm xiếc chữ vô duyên, lại liên tưởng đến chuyện giường chiếu rất dung tục!
“Ông ơi, này ông ơi
có nhận bào cá tính
nhận đóng khung kẻ nghiện chân trời
véc ni lại những chiến trường già cỗi
làm giường như bà Âu Cơ từng nằm …”
Làm sao biết bà Âu Cơ nằm giường? Thời ăn lông, ở lổ chắc chi Lạc Long Quân và bà Âu Cơ nằm giường. Thời đó đã có giường chưa? Nếu nằm đất thì sao? Nằm đất mới đạt cực khoái, mới rụng 100 trứng. đẻ ra trăm người con, thành ra giống Việt oai hùng hôm nay! Nằm giường may mắn đẻ ra vài ba đứa méo mó sinh ra bọn vô lối hôm nay!
Bài vô lối “Thợ mộc” viết rất nhăng nhít, uốn éo làm duyên, cách tân gái già: “giá trưng bày cơm mê”, “tủ nhan sắc”,”ngã xuống một sắc tình”, “nghện chân trời”,”bộ sưu tập những người chưa tỉnh giấc”…
Bài này Nguyễn Bình Phương cũng như đám vô lối đều Tàu Ô hóa. Dùng đến: 36 chữ Hán. 價 (giá), 征 (trưng), 迷 (mê), 部 (bộ), 搜集(sưu tập), 惺(tỉnh), 顏色(nhan sắc), 单(đơn), 身(thân), 會議 (hội nghị), 記 (kí), 停戰 (đình chiến), 過去 (quá khứ), 实 (thực), 虚 (hư), 時 (thời), 包給 (bao cấp), 經典 (kinh điển), 棺材 (quan tài), 個性 (cá tính), 色情 (sắc tình), 戰場 (chiến trường), 频垠 (tần ngần), 球 (cầu)…Nguyễn Bình Phương là người Hán!
Nói thật ra cả đám vô lối: Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, In ra sa ra, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Trần Hùng, Mai Quỳnh Nam,Mai Văn Phấn… in trên Văn nghệ (bộ mới ) số 4+5+6 ngày 22-1-2022 tết Nhâm Dần phá nát thơ Việt! Không đem đến một tín hiệu mới gì cho thơ Việt!
Hà Nội 1/2022
Đ - H

Gần 400 văn sĩ Việt ở Việt Nam Cộng hòa

 17:06 26/05/2025

GẦN 400 vị VĂN SĨ VIỆT NAM CỘNG HÒA
1- Bùi Giáng lục bát như kiều
Mưa nguồn thấm dịu những chiếu đảo điên
2- Du Tử Lê, phận mỏng manh
Lưu vong khi chết, biển xanh làm mồ!
3 - Cung Trầm Tưởng một cung đàn
Paris thu lạnh, thế gian hồng trần.
4 - Lừng danh kiêu hãnh Nhã Ca
Khăn sô cho Huế xót xa vạn đời!
5 - Cao Tần đồng loại đánh văng
Nhưng thó người ấy còn ngàn năm sau!
(còn nữa) - Trích trong Chân dung 810 vị Văn sĩ Việt - Đỗ Hoàng - NXB Hội Nhà văn năm 2018

Thầy chuầ vinh

 17:03 26/05/2025

Đỗ Hoàng ,
THẦY CHÙA vịnh
Thầy chùa lắm bác béo thù lù (1)
Mỡ chảy từ trốc đến dưới khu (2)
Chân cẳng to như vòm cối vại
Bụng bầu phình tựa cái trình lu!
Đoạn kinh cửa khổng luôn ghi nhớ,
Nghĩa sách dân gian tối mịt mù!
Chức sắc thì to trong xóm phật
Quan trường thua cách vét từng xu!
Chú thích:
(1) Thù lù. - Béo phì nộn- Tiếng quê
(2) Khu - Đít - Tiếng quê
;3) Trốc - Đầu - Tiếng quê

TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH – TIẾNG NỔ BOM NGUYÊN TỬ

 16:57 26/05/2025

ÔNG ĂN XIN
TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH – TIẾNG NỔ BOM NGUYÊN TỬ XUỐNG THI ĐÀN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Lts: Văn đàn công khai chính thống từ khi tập thơ Tâm sự người lính của Nhà thơ Đỗ Hoàng xuất bản năm 1996 đến nay không một tờ báo mậu dịch nào lên tiếng, nó đã bị quên lãng! Nhưng độc giả vẫn nhớ. Đó là tập thơ nói về nỗi đau của nhân loại, cụ thể là nỗi đau và khát vọng hòa bình của người lính trong chiến tranh.Tầm vóc tập thơ rất vỹ đại. Nhân kỷ niệm 55 năm tập thơ ra đời, 26 năm tập thơ được xuất bản (Nhà xuất bản Văn học năm 1996), 4 năm tập thơ được tái bản (Nhà xuất Hội Nhà văn năm 2018), tạp chí Văn nghệ & cuộc sống xin giới thiệu vài mẩu chuyện Nhà thơ Đỗ Hoàng nhớ lại!
vannghecuocsong.com
CHÙM TAM XIN
Đỗ Hoàng
ÔNG ĂN XIN (*)
Trên tàu điện Bờ Hồ đi Hà Đông
Ông ăn xin
Trên tàu điện Bờ Hồ đi Thụy Khê
Ông ăn xin
Trên tàu điện Bờ Hồ đi Cao Xà Lá…
Ông ăn xin.
Ông ăn xin có cái trán cao như trán Lê nin
Sao ra sự thể này?
*
Quảng Bình quê tôi
Sống không lô, không lạng
Bom đạn nhiều như nước
Không thấy ăn xin!
*
Ông vừa đi, vừa vái:
Các cô, các bà, các chị…
Cho xin hào bạc
*
Thấy tôi bộ đội
Ông lướt qua!
*
Tôi với tay
Đưa cho ông hai xu!
*
Trên chuyến tàu hỏa đi vào chiến trường
Tôi cứ ám ảnh mãi
Ông ăn xin
Ông ăn xin
Có cái trán cao như trán Lê nin!
Sao ra cơ sự này?
Hà Nội, 12 – 1973
Đ - H
(*) Ghi lặt vặt trong chuyến ra Bắc cuối năm 1973 – Rút trong tập thơ “Tâm sự người lính” – NX Văn học năm 1996 – NXB Hội Nhà văn năm 2018
ĐỖ HOÀNG
ANH ĂN XIN
Anh thẩn thờ trước gió,
Trên trời mấy lạnh trôi.
Cả tiểu đoàn đứng ngó,
Hiểu anh sao bằng tôi!
Ruột thừng ai thắt lại?
Nỗi chua chay đói nghèo.
Nghe máu sôi rờn rợn,
Như nợ chồng kiếp theo!
Có lẽ rồi ngày mai,
Khi rửa tàn cuộc chiến.
Đời tôi cũng thế thôi.
Như đời anh đang đứng!
Tiểu đoàn 3 tháng 11 – 1973
Đ - H
Đỗ Hoàng
MẸ ĂN XIN
Gạo nhà Mẹ hết lâu rồi,
Mẹ ăn xác sắn ngùi ngùi cho con.(1)
Mẹ ơi nhận lấy vài lon,
Ngày mai đơn vị con còn đi xa.
Mẹ nhìn lòng nghẹn mắt nhoà.
Rét run tay gậy thân già hụt hơi
Xiêu xiêu bóng Mẹ xa rồi
Thóp thoi chiếc lá vàng rơi giữa chiều!
3 -1972
(1) Bã sắn – Tiếng miền Trung.
Đ – H
(2) Bài “Ông ưn xin” bị loạ

Tư Hải chông chiền tranh

 19:35 21/05/2025

TỪ HẢI CHỐNG CHIÊN TRANH MẠNH MẼ
Lts: Trong nguyên bản Kim Vân Kiều truyện, Từ Hải – Minh Sơn chết đứng, cấm khẩu sau cú lừa ngoạn mục của Hồ Tôn Hiến. Cái chết ấy là cái chết của đẳng cấp cấp Tù trưởng – tiểu đội trưởng, đại đội tưởng bây giờ. Còn bậc quân vương, cổ kim đều bị bắt sống. Đó là điều biện chứng. Trong Kiều Thơ của Đỗ Hoàng, Từ Hải – Minh Sơn thể hiện đúng là bậc minh quân. Từ Hải là đấng “Naĩ tri binh giả thị hung khí/ Thánh nhân bất đắc dĩ nhi dụng chi” (Binh đao là việc ác độc/ Thánh nhân cực chẳng đã mới dùng nó)
Nguyên bản:
Đỗ Hoàng (chuyển ngữ)
KIM VÂN KIỀU TRUYỆN
Thanh Tâm Tài Tử
Hồi 19 (trích)
Mắc mẹo lừa ,Từ vương chết đứng,
Nợ đoạn trường, Kiều Thúy trả xong
…Minh Sơn người đầy cung tên cắm vào, không gượng được nữa, kêu: Phu nhân làm hỏng việc của ta. Rồi hắt hơi mà chết. Chết không nói được một lời nào nữa Chết đứng sừng sững…
Quan quân trong mà cả sợ không ai dám đến. Lính tráng áp giải Thúy Kiều đi qua nhìn thấy Minh Sơn chết đứng, nàng nức nở khóc: Từ là bậc anh hùng, bởi nghe lời thiếp nên bất đắc kỳ tử. Đại vương ơi, thiếp tôi đã làm lỡ việc lớn.Thiếp đâu dám có mặt trên cõi đời này để phụ ơn Đại vương. Khấn xong , Kiều khóc lạ thay, Minh Sơn mở choàng đôi mắt, lệ tuôn như mưa, tự nhiên thi thể đổ xuống.
Thuy Kiều nghe thấy hai chữ “Trào Tín", nhở lại chuyện ngày xưa, hỏi răng
: Đây có phải song Tiền Đường không?
Khách đáp: Phải. Thúy Kiều nghĩ: Đời ta kết thúc ở đây.Đạm Tiên đã báo mộng từ 15 năm trước rồi. Nhân tiện làm bài thơ Lục Tuyệt (6 câu)
“Thập ngũ niên tiền hữu ước
Kim triêu phương đáo Tiền Đường
Bách thé quang âm hỏa thước
Nhân sinh thân sự hoàng lương
Trào Tín thôi nhân khứ dã
Đẵng nhàn liễu khước đoạn trường!”
(- “Ước nguyền mười lăm năm qua, (757)
Tiền Đường ác mộng hoá ra hậu đường.
Trăm năm một thoáng âm dương.
Trọn đời giấc mộng hoàn lương nhạt nhoà.
Sóng triều giục bước người xa.
Đoạn trường thanh sạch trả ta nợ đời!”)
Đề xong bài thơ, Thúy Kiều kêu to: Từ Minh Sơn hậu đãi ta, vì việc nước mà ngộ sát. Mặt mũi nào đứng trong cõi đời. Ta đem cái chết để tạ Minh vậy!
Bắc Kinh 2006
Đ – H
KIỀU THƠ (trích)
4990- Mở mắt ra rõ sự tình.
Tấm thân mười thước cực hình gióng gông.
Binh tan như ngọn cỏ bồng.
Thây phơi đầy bến, đầy sông, đầy đò.
Động trời vang tiếng reo hò.
4995- Nhữ Trinh lừa trận thắng to vang lừng. (745)
Hồ công mở tiệc ăn mừng
Đem Từ làm vật tương trưng tế thần.
Lệnh ban tháo củi, phóng thân,
Đưa vào đến tận trung quân mời ngồi.
5000- Rằng: “Nghe dũng trí hơn người,
Lại rành chữ nghĩa một thời bút nghiên.
Đã từng đọc sách thánh hiền.
Mà làm thảo khấu cuồng điên thế này?
Những bầy giặc cỏ xưa nay.
5005- Thiên triều nhất quyết ra tay diệt trừ.
Tội đồ truyền kiếp họ Từ.
Hành hung bạo ngược ác ngư, sói hùm.
Bây giờ thân đã đóng cùm.
Hỏi ra dũng khí, anh hùng ở đâu?
5010- Sẽ làm cho biết mặt nhau.
Ai cái thế, ai bêu đầu coi chơi!” (746)
Từ rằng: “Việc ấy có trời.
Tiểu nhân đắc chí ngàn đời khác chi. (747)
Thiên triều nay đã mất uy.
5015- Dân tình đói rét còn gì mà mong.
Ăn xin, ăn cướp đầy đồng.
Chết đường, chết chợ, chết sông, chết đò.
Mệnh quan càng lớn càng to.
Lâu đài càng rộng, vàng kho càng nhiều.
5020- Thê thê, thiếp thiếp, yêu yêu.
Đờn ca xướng hát hết chiều, đến đêm.
Trong triều ngoài quận đảo điên.
Ta đây dấy nghĩa hạ thiên thay trời.
Hợp tình hợp ý muôn người.
5025- Làm vì nghĩa lớn đời đời dân tin.”
Hồ rằng: “Bao đám yêu tinh.
Cũng xưng vì nghĩa, vì tình với dân.
Nhưng rồi cướp phá giành tranh
Đôi bên giặc cỏ, thập thành thanh lâu.
5030- Có gì đạo đức cao sâu.
Một bầy mọi rợ từ đầu đến đuôi.
Còn làm ra vẻ dạy đời.
Thân phanh, trôốc mất đến nơi còn gừ!”
Từ rằng: “Chính sự nát nhừ,
5035- Quan thành lang đạo vua như bù nhìn.
Trong thành ngoài nội điêu linh,
Núi sông chết đứng, dân tình xác xơ.
Già nua không chỗ cậy nhờ,
Tang thương đến nỗi trẻ thơ bạc đầu!
5040- Lân bang chẳng cậy nhờ nhau.
Sách không ghi hết nỗi đau dân lành.
Máu người uống chẳng biết tanh
Gây ra bao cuộc chiến tranh bạo tàn.
Oan khốc từ phố đến làng.
5045- Thượng bất chính hạ làm càn ác tâm.
Lạ gì cái lũ quan dâm,
Miệng hô thiên tử, dao đâm tim người.
Thuyền rồng dỡn sóng, xe chơi.
Một phường ăn máu muôn đời dân đen!
5050- Lập công nấp váy kẻ hèn.
Cổ kim sử sách ai khen bao giờ!
Ta đây thác bụi chôn bờ.
Muôn năm dân nghĩa vẫn thờ khói hương!”
Đỗ Hoàng

Nhà thơ Vũ Hiển

 11:32 19/05/2025

Chuyên mục: Nhà văn & Tác phẩm

VŨ HIỂN (VŨ ANH VŨ) SAY & TỈNH
Đỗ Hoàng
Tôi xin đi học khóa I trường Viết văn Nguyễn Du, nhưng mãi đến khóa III mới dứt được công việc cơ quan lều chõng ra Kinh kỳ thi đỗ và vào học khóa III, nhưng chưa tốt nghiệp. Đến khóa IV, tôi lại lều chõng ra Kinh thi lần nữa, được đỗ và học tiếp mớí thi tốt nghiệp.
Khóa này tôi gặp nhà thơ Vũ Anh Vũ tên thật là Vũ Hiển. Tôi không gọi bút danh mà thích gọi tên thật Vũ Hiển. Tôi thấy tên Vũ Hiển gây ấn tượng hơn. Vũ Hiển quê Hải Phòng, ăn sóng nói gió lại trải qua đời quân ngũ khá dài nên chất "hảo hán" trong anh rất đậm. Vũ Hiển dáng cân đối, cao vừa phải và rất cao đàm khoát luận! Tuy có thành tích trong chống Mỹ, anh có bằng chứng nhận" Dũng sĩ diệt Mỹ" nhưng khi đi học thì không có chế độ gì cả, phải tự lực cánh sinh. Nhờ bố làm thuốc Bắc nuôi ăn học. Anh bị thương sọ não nên bố anh phải chu cấp cho anh suốt đời! (Nghe nói bị thương sọ não nhưng chẳng có giấy tờ thương binh nào cả).Anh em bạn học giễu anh:" Bố 70 nuôi con 40, bố 80 nuôi con 50, bố 90 nuôi con 60...".Vũ Hiển đi học tự túc nên rất "bô nhếc". Anh nhảy tường qua Đại học Mỹ thuật và nhà hàng phố vặt là me, bầu bí về nấu canh ăn là chuyện thường. Anh thích rượu, nên việc cắm quán như cơm bữa. Ông bà Duẫn bán quán ngoài cổng trường thay nhau chân cao, chân thấp vào tận phòng ở của Vũ Hiển đòi nợ tửu! Mười lần xuống đòi nợ thì hết mười một lần về không. Bị vết thương sọ não đã hâm hấp rồi:lại mê rượu nên có khi anh"thẳng ruột ngựa"chẳng kiêng dè ai cả.
Một lần có nhà thơ đến nói chuyện rồi khoe đã in 5 tập thơ. Tất cả học viên mừng xã giao cho nhà thơ thì Vũ Hiển vỗ bụng bèm bẹp:
- Cung cấp giấy chùi đít làm gì, chỉ cần một bài thơ, một câu thơ là đủ!
Không ai bịt miệng được Vũ Hiển. May là Nhà thơ cười bỏ qua, không thì lớp bẻ mặt.
Sau khi anh hạ hỏa, không say tôi mớí trao đổi - Ai cũng muốn đời nhớ thơ mình, dù một câu hoặc một chữ cũng quý hóa lắm rồi. Khương Hữu Dụng "một tiếng chim kêu sáng cả rừng", người ta chỉ nhớ đúng có chứ "Sáng"! Nhưng muốn có một chữ, một câu đời nhớ, nhà thơ phải lao lực một đời viết ra hàng vạn bài may ra có còn lại một đôi chữ!
Vũ Hiển nghe xuôi tai im lặng.
Hôm cimine một bạn trong lớp, Vũ Hiển đứng lên phát biểu: "Bài thơ "Khóc Nguyên Hồng" này thay tên " Khóc Nguyên Ngọc" hay "Khóc Nguyễn Tuân" gì mà chả được. Thính giả cười ồ, Nguyên Ngọc ngồi dưới dự nghe mặt đỏ như gấc chín!
"Lợi danh ai chẳng hám
Riêng ta trời là vung
Ếch quen ngồi đáy giếng
Ngôn luận bàn lung tung"
(Chân dung tự họa - Giọt rơi đáy giếng)
Anh em trong trường Văn thông cảm không thể chấp! Nhưng có một lần mọi người không chịu được, cả lớp họp bàn đuổi học Vũ Hiển. Họ làm căng lắm, tôi phải đứng lên bênh vực bạn. Tôi nói: "Tôi thân anh Vũ Hiển, tôi biết anh vô cùng trung thực với bạn bè, với đất nước! Không nên đuổi một người mười năm ở chiến trường đánh giặc, có danh hiệu "dũng sĩ diệt Mỹ", bị thương sọ não ra khỏi trường Đại học Viết Văn Nguyễn Du! Mọi người im lặng, sau đó cũng êm chuyện! Vũ Hiển một lần hú hồn!
Khi tỉnh, anh hào hiệp như dân Nam bộ, hay mời bạn bè nhậu. Tôi và anh là đôi bạn nhậu rất "ăn rơ".
"Ta mới nhấp một chén
Người đã ba chén tàng
Nốc vào say ngất ngưởng
Tiên còn kém cô hàng.

Ta với người vui đó
Ơi! Người thơ dềnh dàng
Hết tiền ra cắm quán
Cạn ly, đừng từ nan."...
((Rượu cùng bạn - Giọt rơi đáy giếng)

Nhậu có gì đâu, vài bìa đậu, khô mực (loại cá biển rẻ tiền rất tanh), cút rượu ba xu, chuột uống phải, chuột "chết". Rượu vào thì lời ra, ai cũng nhất quả đất.Vũ Hiển nhất quả đất, Đỗ Hoàng nhất quả đất. Trên đời chỉ có một thằng nhất. Nên phải so găng! Tôi chẳng dũng sĩ, dũng siếc gì hết, dân trinh sát đặc công có cách hạ đối thủ "gia truyền", lấy " đoàn binh chế trường trận". Lúc ấy tôi mặc bộ pirama, áo rộng dễ múa,quần rộng dễ đá, tôi chơi chiêu "quyền cước liên hoàn" đá Vũ Hiển đang ngồi xếp bằng trên bàn phòng học văng ra ngoài cứa sổ!
Cư dân trong trường Văn mè nheo:" Trường Viết Văn Nguyễn Du học
võ chứ đâu phải học Văn" (!).
Từ đó ngôi thứ đã định đoạt, Vũ Hiển chuyên tâm học văn, không võ vai gì nữa!
Ở Hà Nội Vũ Hiển có nhiều bà con và người quen, tôi dân biên trấn ra học chẳng ai bà con, quen thân. Tuy tôi là cán bộ đi học có lương cao nhưng những lúc hết gạo, hết tiền cũng chớí với lại bám cậy nhờ "Gã Khờ" Vũ Hiển. Vũ Hiển dẫn đi ăn chực (ăn ké) khắp Hà Nội. Khi thì ăn ớ bà chị họ đường Trần Quý Cáp gần ga Hà Nội, khi thì bãi Phúc Xá, Phúc Tân...
Bà chị họ của Vũ Hiển buôn bán vặt ở ga Hà Nội, có nhà trong khu tập thể đường Sắt tiếp hai học viên Văn rất tận tình chu đáo.Bữa ăn có đủ món ăn nổi tiếng Hải Phòng: bùn cá cay, bún đa nem nâu, nem rán, thịt lợn luộc, rượu, bia...Món nào bọn tôi cũng thích.
Bà chị Vũ Hiển tâm tình:
-Họ em làm kỹ sư, bác sĩ đã có, bộ đội úy, tá đã có; bên chính trị nhiều người làm cán bộ cấp thành phố, nhưng chưa có ai nhà thơ. Cậu Hiển đi học Nhà thơ cả họ mừng. Nhiều người nói đi học nghề ăn mày, song tôi bảo chú tôi, cho cậu Hiển đi học,lên Hà Nội cháu nuôi ăn học!
Tôi vô cùng cảm kích lời tâm tình của bà chị họ Vũ Hiển.
Tôi nhớ buồn thương nhất lần Vũ Hiển dẫn tôi đi xin tiền một người thân ở phố Lò Đúc. Tôi nghĩ người này chắc lại đại gia "Tàu Viễn dương", "Địa ốc" hoặc "Chủ Sáu Kho" nổi tiếng của Hải Phòng...Ai ngờ leo lên đến tầng 5 vào phòng trọ của một sinh viên Nhạc viện Hà Nội. Anh sinh viên cao mà rất gầy, da trắng nhợt gần như bạch tạng suốt ngày ngồi bên cái máy đan len kiếm thêm tiền để học.. Thấy tôi và Vũ Hiển vào nhà, anh rời máy đứng lên pha nước tiếp khách, rồi ba anh em đàm đạo văn chương, âm nhạc. Anh hiểu âm nhạc đã đành, anh còn hiểu sâu văn chương. Anh thích văn chương bình dị, không kiểu cách. Anh rất yêu thơ Vũ Hiển. Anh thuộc nhiều bài và đọc cho chúng tôi nghe bài 'Thơ và em"
Thơ hay là đau khổ
Mà cuộc đời ngả nghiêng
Em hay là bão tố
Mà biển trời đảo điên

Mà thơ là đau khổ
Nên càng yêu cuộc đời
Và em là chân trời
Nên càng say bão tố

Hay đừng làm thơ nữa?
Để trong ta bình yên
Hay đừng yêu em nữa?
Cho biển trời dịu êm.

Thơ ơi! Dù đau khổ
Càng si mê không rời
Em ơi! Dù bão tố
Càng đắm say chân trời.

Thật là tri âm, trị kỷ!
Sau đó anh đưa tiền cho Vũ Hiển về tiêu pha. Tiễn hai anh em ra cửa, anh nhỏ lời: "Tôi khi chưa mua được máy đan len cũng vất lắm. Có nó tôi đỡ bấn, có thể bám học tốt nghiệp Nhạc viện. Anh Hiển và anh đừng ngại, khi nào túng thiếu đến tôi, tôi có thể giúp chút ít!
Vũ Hiển lúng túng cám ơn rối rít. Tôi ái ngai và xấu hổ quá. Hai thằng thân dài, vai rộng sức như trâu có thể quật voi chết mà đi xin tiền một sinh viên gầy yếu, xanh nhớt đan len kiếm sống nhiều hơn học nhạc!
Tôi bảo Vũ Hiển:
- Tưởng ông xin tiền đại gia, ai lại bóp nặn cánh sinh viên nghèo khổ như mình!
- Quân tử cố cùng bất câu liêm sỉ - Tao không còn chỗ nào xin nữa mày ạ! - Vũ Hiển chắc chẳng sướng sung gì nói.
Vũ Hiển thường bị chê hâm hâm, dở dở, "viêm túi mãn tính" (không có tiền) , chính anh cúng tự nhận "Hâm hấp rồi dở dở/ Dại dại, lại điên điên (Chân dung tự họa - Giọt rơi đáy giếng), nhưng khóa IV viết văn , Nguyễn Du, Vũ Hiển có nhiêu ấn tượng tốt để lại. Vũ Hiển được in thơ dự thi báo Văn nghệ năm 1989-1990 hai bài. Bài Tương Lê Chân và một bài thơ tình. Tôi đến thăm anh Bế Kiến Quốc, tổ trưởng tổ thơ báoVăn nghệ, nhà ở căn hộ khu Trung Tự ,nghe anh báo tin tuần tới báo ra có thơ Dự thi của Vũ Hiển. Anh khen thơ Hiển hay .Tôi về trường báo tin cho Hiển. Vũ Hiển sung sướng đến mức nhảy múa hát mấy vòng ở sân trường. Sau đó kéo tôi ra cắm quán Bà Duẩn hơn lít rượu " xếc" đắng như thuốc sâu:
"Ta mớí nhấp một chén
Người đã ba chén tàng
Mặt người vừa đo đỏ
Da ta chớm vàng vàng
...
Say rồi lăn ra ngủ
Hai đầu hai quả dừa
Ta biết đời quá ngắn
Dẫu chết, rượu không chừa..."
(Rượu cùng bạn - Giọt rơi đáy giếng)
Đến việc Vũ Hiển yêu người đẹp Thúy M, đứng thứ 6 vùng chung kết thi hoa hậu năm 1989 - 1990. Thúy M học năm cuối khoa Văn hóa quần chúng, Đại học Văn hóa Hà Nội. Tôi và Vũ Hiển có nhiều lần đến ký túc xá của Thúy M chơi. Yêu được hay không được, không quan trọng, nhưng Vũ Hiển có nhiều thơ tình hay về người đẹp là quý rồi.
"...Một mình giữa bến cô liêu
Lục tìm thương nhớ những điều vu vơ
Bên tai vẳng một vần thơ
Còn mong ai nữa đứng chờ ngoài hiên
Mắt buồn dõi ánh sao đêm
Một mình tâm sự sương mềm bờ vai

Bần thần đếm khắc canh dài
Bóng mình, cứ ngỡ bóng ai đợi mình!
(Cô đơn - Giọt rơi đáy giếng)

Ấn tượng nhất là ngày thi trắc nghiệm tốt nghiệp, học viên trả lời trực tiếp các câu hỏi do giáo sư, nhà văn hỏi. Vũ Hiển đối đáp rất lưu loát rồi đọc ngay thơ mình minh họa. Các giám khảo phải phì cười cho điểm cao:
"...Trẻ chi mà già chi
Rượu say rồi nói khoác
Tiền là Bạc lắm khi
Nợ đời không cần nhắc

Thàng ngày lam lũ đấy
Rảnh rỗi nhắp vài chung
Dở hay lời phải trái
Ngôn luận bàn lung tung

Lợi danh ai chẳng hám
Riêng ta trời là vung
Ếch quen ngồi đáy giếng
Vùng vẫy lắm coi chừng

Văn cũng không bằng vẽ
Tài cũng chẳng bằng tiền
Hâm hấp rồi dở dở
Dại dại , lại điên điên

Câu thần chen câu vụng
Thơ thẫn lẫn dại khờ
Áo cơm đời rẻ rúng
Tình riêng vẫn ơ hờ

Cần tìm mau con vợ
Sửa túi cùng nâng khăn
Cho dù là cái nợ
Mặc xác, ta cóc cần.
(Chân dung tự họa - Giọt rơi đáy giếng)
Từ đó đến nay anh cứ "tình riêng vẫn ơ hờ"
"Em ơi! Chiều rồi
Đêm đã`về, nắng sót
Em ơi! Muộn rồi
Cánh hoa sầu không nhặt

Đêm qua trong mơ
Thấy em về nhắc nhở
Em ơi! Chiều rồi
Ngủ
Tìm vĩnh cửu hư vô
Chẳng bao giờ đi tới
Chiều rồi!
Muộn rồi
(Chiều rồi - Giọt rơi đáygiếng)

*
Tốt nghiệp ra trường, anh em trong lớp đều có việc làm, riêng Vũ Hiển thì vẫn ông 90 nuôi ông 70. Mỗi lần công tác xuống Hải Phòng tôi đếu ghé thăm nhà Vũ Hiển. Bố Vũ Hiển bốc thuốc Bắc. Nhà cửa ở phố đàng hoàng. Bố Vũ Hiển đã cao tuổi. Lúc đó ngoại bát tuần. Nhưng trông cụ quắc thước, cao ráo, có chữ nghĩa. Hai cô con gái, một chị, một em gì đó của Vũ Hiển đang dạy cấp 3 gần nhà.
Đi làm có tiền, tôi mời bia Vũ Hiển. Hai đứa từng đã uồng khuynh thiên, đảo địa nên cuối tuần rỗi rải tha hồ lai rai!
- Drink beer, or drink alcohol?- (Uống bia chứ?, hay uống rươu?,)
- Drink beer (Uống bia!).
Uống mỗi đứa đã 6 vại, tôi hỏi vũ Hiển:
- Uống nữa không?
- "Thất tràm sớ chứ" ( Nghĩa là phải 7 vại)
- Ok! (Tốt thôi)
Nhưng phải đến ten, eleven, twelve, thirteen...(mười, mười một, mười hai, mười ba...) mới rời quán.
Sau khi tỉnh, một việc"quan trọng" khi về Hải Phòng là ra Đồ Sơn tìm người đẹp. Một địa nổi được nới lỏng cho du khách xả hơi.
Vũ Hiển nói: - Tớ có chỗ quen, khỏi phải ngủ độn (phải đeo capot).
Hồi trẻ khoản này, tôi năm bờ oăn (I am number one), số một - 180 phút không kể thời gian chép đề.
Tôi xong việc,Vũ Hiển chờ bạc tóc. Vừa bước ra cửa, Vũ Hiển hô to:
- Xây dựng Xã hội Chủ nghĩa ba mươi năm mà để thằng Huế ra khai hóa văn minh! Đúng là năm bờ oăn (số 1)
- Number one! Số 1!

*
Tôi viết chân 810 vị Văn sĩ Việt. Hải Phòng chọn nhiều nhiều người trong đó có nhà thơ Vũ Anh Vũ (Vũ Hiển). Trên mặt bằng văn chương được đăng tải, Vũ Anh Vũ không bằng một số người khác. Tên anh rất ít xuất hiện trên báo chí chính thống. Không chỉ anh, nhiều nhà thơ khác cũng chịu cảnh rủi ro trong cơn kinh tế thị trường. May cho anh, tôi người làm sách tôi biết anh, bạn học của anh, tôi đọc thơ anh nhiều nên tôi quyết định chọn anh. Nhiều vị thời thượng được công luận công kênh nhưng tôi cho là thùng sắt tây rỗng, tôi không chọn. Tôi làm cuốn sách này tránh được hai điều, nếu nhà nước làm thì họ đưa cán bộ tuyên huấn, cán bộ chính trị chay vào đứng trong danh sách nhà văn; nêu tư nhân làm vì không có tiền nên các đại gia, doanh nghiệp gia đứng trong hàng các nhà văn (!).
Không hiểu sao Vũ Anh Vũ biết tôi làm sách kẹt tiền, Vũ gửi lên Hà Nội hai lần độ trên 5 triệu đồng. Tôi vô cùng càm kích tấm lòng tốt của bạn, không biết bạn đào đâu ra tiền?
"Vũ Hiển ngơ ngơ ngẩn ngẩn
Hâm hâm dở dở, tàng tàng
Chén rượu trắng tay xin bạn..."


*
Chắt lọc một đời thơ, anh xuất bán tập thơ "Giọt rơi đáy giếng" - Nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2017. Tập thơ có nhiều bài hay: Tượng Lê Chân, Thu phải sang, Chân dung tự họa, Nhìn, Tìm xuân, Uống rượu một mình, Thơ và em, Chiều rồi, Rượu cùng bạn...Điều đó thật đáng mừng cho Nhà thơ Vũ Anh Vũ (Vũ Hiển). Đời không phụ lòng tốt của anh. Anh không bị lãng quên:
"Vũ Hiển không thể nào quên
Lê Chân nữ tướng dựng nên Hải thành"
Hà Nội 2020
Đ - H

Đạo đức kinh - Lão Tử -(tiêp 2)

 19:17 17/05/2025

LÃO TỬ - ĐẠO ĐỨC KINH
CHƯƠNG 68
PHỐI THIÊN
配 天
Hán văn:
善 為 士 者 不 武. 善 戰 者 不 怒. 善 勝 敵 者 不 與. 善 用 人 者 為 之 下. 是 謂 不 爭 之 德. 是 謂 用 人 之 力. 是 謂 配 天, 古 之 極.
Phiên âm:
1. Thiện vi sĩ giả bất vũ. Thiện chiến giả bất nộ. Thiện thắng địch giả bất dữ.
2. Thiện dụng nhân giả vi chi hạ. Thị vị bất tranh chi đức. Thị vị dụng nhân chi lực. Thị vị phối Thiên, cổ chi cực.
Dịch nghĩa:
1. Tướng giỏi không dùng vũ lực. Người chiến đấu giỏi không giận dữ. Người khéo thắng không giao tranh với địch.
2. Khéo dùng người là hạ mình ở dưới người. Thế gọi là cái đức của không tranh. Thế là dùng sức người. Thế là kết hợp với Trời, cực điểm của người xưa.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Tướng giỏi, vũ lực không dùng.
Tướng chiến giỏi không khùng giận dữ
Người thắng không tranh cứ quân thù
Khéo dùng người mới mẹo quân cơ
Không tranh cái đức muôn thời hanh thông.
Dùng sức người được đồng lòng
Kêt cùng trời đất tam công xưa bày!
CHƯƠNG 69
HUYỀN DỤNG
玄 用
Hán văn:
用 兵 有 言, 吾 不 敢 為 主, 而 為 客. 不 敢 進 寸 而 退 尺. 是 謂 行 無 行, 攘 無 臂, 扔 無敵, 執 無 兵. 禍 莫 大 於 輕 敵, 輕 敵 幾 喪 吾 寶. 故 抗 兵 相 加. 哀 者 勝 矣.
Phiên âm:
1. Dụng binh hữu ngôn, ngô bất cảm vi chủ, nhi vi khách. Bất cảm tiến thốn nhi thoái xích.
2. Thị vị hành vô hành, nhương vô tí, nhưng vô địch, chấp vô binh.
3. Họa mạc đại ư khinh địch, khinh địch cơ táng ngô bảo. Cố kháng binh tương gia. Ai giả thắng hĩ.
Dịch nghĩa:
1. Dụng binh có câu: Thà làm khách hơn làm chủ. Chẳng dám tiến một tấc, mà lui một thước.
2. Cho nên thánh nhân chẳng đi mà vẫn đi, đuổi mà không dùng tay, bắt mà không đối địch, cầm giữ mà không binh khí.
3. Không họa nào lớn bằng khinh địch, khinh địch là mất của báu, cho nên khi giao binh, người nào thận trọng từ nhân sẽ thắng.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Dụng binh có câu này nên nhớ
Thà làm khách nên chớ làm vương
Đừng tiến một tấc lui dặm dài
Chẳng có đi mà ai thấy bước
Chẳng đuổi mà băt được địch gian
Khinh địch họa lớn nên bàn
Giao binh thận trọng từ nhân thắng người.
CHƯƠNG 70
TRI NAN
知 難
Hán văn:
吾 言 甚 易 知, 甚 易 行. 天 下 莫inh có câu nay nên biêt 能 知, 莫 能 行. 言 有 宗, 事 有 君. 夫 唯 無 知, 是 以 我不 知. 知 我 者 希, 則 我 者 貴. 是 以 聖 人 被 褐 而 懷 玉.
Phiên âm:
1. Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành.
2. Ngôn hữu tông, sự hữu quân.
3. Phù duy vô tri, thị dĩ ngã bất tri. Tri ngã giả Hi, tắc ngã giả quý. Thị dĩ thánh nhân, bị hạt hoài ngọc.
Dịch nghĩa:
1. Lời ta rất dễ biết, rất dễ làm. Thiên hạ chẳng biết chẳng làm.
2. Lời ta có duyên do, việc ta có mấu chốt.
3. Thiên hạ không biết thế, nên không hiểu ta. Ít người hiểu ta, nên ta mới quý. [2] Cho nên thánh nhân mặc áo vải mà chứa ngọc
Đỗ Hoàng dịch thơ :
Ta nói lời, dễ làm dễ biết
Thiên hạ sao, chẳng thiết, chẳng ham
Lời ta mấu chốt duyên ban
Thiên hạ không hiểu tâm can duyên này
Vì không hiểu, ta nay mới quý
Thánh nhân mang ngọc tỷ áo thô.
Nhưng mà thóc lúa đầy bồ.
CHƯƠNG 71
TRI BỆNH
知 病
Hán văn:
知 不 知 上, 不 知 知 病. 夫 唯 病 病, 是 以 不 病. 聖 人不 病, 以 其 病 病, 是 以 不 病.
Phiên âm:
1. Tri bất tri thượng, bất tri tri bệnh.
2. Phù duy bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh.
3. Thánh nhân bất bệnh, dĩ kỳ bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh.
Dịch nghĩa:
1. Biết điều không biết là cao. Không biết điều đáng biết là bệnh.
2. Biết sợ bệnh, thì không bệnh.
3. Thánh nhân không bệnh, vì biết sợ bệnh, thế nên không bệnh
Đỗ Hoàng dịch thơ :
Biết điều không biết cho to lớn
Biết điều không biết bệnh rợn cả người
Bệnh sợ bệnh là bệnh thôi.
Thánh nhân không bệnh là người phòng thân.
CHƯƠNG 72
ÁI KỶ
愛 己
Hán văn:
民 不 畏 威, 則 大 威 至. 無 狎 其 所 居, 無 厭 其 所 生. 夫 唯 不 厭, 是 以 不 厭. 是 以聖 人 自 知 不 自 見, 自 愛 不 自 貴. 故 去 彼 取 此.
Phiên âm:
1. Dân bất úy uy, tắc đại uy chí.
2. Vô hiệp kỳ sở cư, vô yếm kỳ sở sinh. Phù duy bất yếm, thị dĩ bất yếm.
3. Thị dĩ thánh nhân, tự tri bất tự kiến, tự ái bất tự quý. Cố khứ bỉ, thủ thử.
Dịch nghĩa:
1. Dân mà không sợ cái đáng sợ, tất cái sợ lớn sẽ đến.
2. Đừng khinh chỗ mình ở, đừng chán đời sống mình. Vì không chê nên không chán.
3. Cho nên thánh nhân biết mình, và không cầu người biết, yêu mình mà không cần người trọng. Cho nên bỏ cái kia giữ cái này.
Đõ Hoàng dịch thơ :
Cái đáng sợ không sợ là dân
Thì cái đáng sợ lớn dần đến ngay
Đừng khinh mình chỗ ở này
Đừng chán nơi sống xưa nay của mình.
Vì không chê, lặng thinh không chán
Nên thánh nhân không nẩn cầu người
Yêu, quí trọng chỉ mình thôi
Vì bỏ cái này thời giữ cái kia!
:
CHƯƠNG 73
NHIỆM VI
任 為
Hán văn:
勇 於 敢 則 殺. 勇 於 不 敢 則 活. 此 兩 者 或 利 或 害. 天 之 所 惡, 孰 知 其 故. 是 以 聖 人 猶 難 之. 天 之 道 不 爭 而 善 勝, 不 言 而 善 應, 不 召 而 自 來, 坦 然 而 善 謀. 天 網 恢 恢, 疏 而 不 失.
Phiên âm:
1. Dũng ư cảm tắc sát. Dũng ư bất cảm tắc hoạt. Thử lưỡng giả hoặc lợi hoặc hại.
2. Thiên chi sở ố, thục tri kỳ cố. Thị dĩ thánh nhân do nan chi.
3. Thiên chi đạo bất tranh nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện ứng, bất triệu nhi tự lai, thản nhiên nhi thiện mưu.
4. Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất.
Dịch nghĩa:
1. Mạnh bạo dám làm là chết, mạnh bạo chẳng dám làm là sống. Hai cái đó, hoặc lợi hoặc hại.
2. Cái mà Trời ghét, ai mà biết được căn do, thánh nhân còn lấy làm khó nữa là.
3. Đạo Trời không tranh mà thành, không nói, mà người hưởng ứng, không mời mà người tự tới, nhẹ nhàng mà công việc vẫn xong xuôi.
4. Lưới Trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Mạnh dám làm, là chia là chết
Mạnh không làm là biêt sống thôi.
Trời ghét ai đoán được thời
Thánh nhân không biêt hỏi người biết sao.
Đạo Trời không tranh, thanh cao thành đạt
Không mời, không noi người dạt tơi nhiều.
Xong xuôi công việc bao điều ước mong
Lưới trời lồng lộng mênh mông
Thưa mà chẳng lọt cầu vồng thanh thiên.
CHƯƠNG 74
CHẾ HOẶC
制 惑
Hán văn:
民 不 畏 死, 奈 何 以 死 懼 之? 若 使 民 常 畏 死, 而 為 奇 者, 吾 得 執 而 殺 之, 孰 敢. 常 有司 殺 者 殺. 夫 代 司 殺 者 殺. 是 謂 代 大 匠斲. 夫 代 大 匠 斲 者, 希 有 不 傷 其 手 矣.
Phiên âm:
1. Dân bất úy tử, nại hà dĩ tử cụ chi? Nhược sử dân thường úy tử, nhi vi kỳ giả, ngô đắc chấp nhi sát chi, thục cảm.
2. Thường hữu tư sát giả sát.
3. Phù đại tư sát giả sát. Thị vị đại đại tượng trác. Phù đại đại tượng trác giả, hi hữu bất thương kỳ thủ hĩ.
Dịch nghĩa:
1. Khi dân không sợ chết, làm sao lấy cái chết làm cho họ sợ được.
2. Nếu khiến được dân sợ chết, mà bắt kẻ phạm pháp giết đi, thì còn ai dám phạm pháp nữa.
3. Thường có đấng Tư sát, có quyền giết người.
4. Nay ta lại thay Ngài mà giết, thì có khác nào muốn đẽo gỗ thay thợ mộc đâu? Muốn thay thợ mà đẽo gỗ, khó mà thoát bị thương tật.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Dân không sợ chết, đừng hòng mà dọa
Lấy sự chết để họ nổi đóa lên
Khiến dân sợ chết yếu hèn
Tị tội kẻ phạm tội dân bèn rút lui.
Đấng Tư sát quyền giêt người
Ta làm há chẳng thay trời đẽo săng.
Thay thợ đẽo hóa thằng thương tật
CHƯƠNG 75
THAM TỔN
貪 損
Hán văn:
民 之 飢, 以 其 上 食 稅 之 多, 是 以 飢. 民 之 難 治, 以 其 上之 有 為, 是 以 難 治. 民 之 輕 死, 以 其 求 生 之 厚, 是 以 輕 死. 夫 唯 無 以 生 為 者 是 賢 於 貴 生.
Phiên âm:
1. Dân chi cơ, dĩ kỳ thượng thực thuế chi đa, thị dĩ cơ.
2. Dân chi nan trị, dĩ kỳ thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị.
3. Dân chi khinh tử, dĩ kỳ cầu sinh chi hậu, thị dĩ khinh tử.
4. Phù duy vô dĩ sinh vi giả thị hiền ư quí sinh.
Dịch nghĩa:
1. Dân đói, là vì người trên thu thuế nhiều, nên dân mới đói.
2. Dân khó trị, là vì người trên dở dói lôi thôi, vì thế nên khó trị.
3. Dân coi thường cái chết, chính là vì muốn sống cho rồi rào hậu hĩ, nên mới khinh chết.
4. Người sống đơn sơ hay hơn người sống cầu kỳ.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Dân đói to, thuê đặt quá nhiều
Dân khó trị bỡi quan quan liêu
Dân coi cái chêt như liều đời dân
Nên sống đơn sơ hơn cần cầu vọng !
CHƯƠNG 76
GIỚI CƯỜNG
戒 強
Hán văn:
人 之 生 也 柔 弱, 其 死 也 堅 強. 萬 物 草 木 之 生 也 柔 脆, 其 死 也 枯 槁. 故 堅 強 者 死 之 徒, 柔 弱 者 生 之 徒. 是 以 兵 強 則 不 勝, 木 強 則 折. 故 堅 強 處 下, 柔 弱 處 上.
Phiên âm:
1. Nhân chi sinh dã nhu nhược, kỳ tử dã kiên cường.
2. Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thúy kỳ tử dã khô cảo.
3. Cố kiên cường giả tử chi đồ, nhu nhược giả sinh chi đồ.
4. Thị dĩ binh cường tắc bất thắng, mộc cường tắc chiết.
5. Cố kiên cường xử hạ, nhu nhược xử thượng.
Dịch nghĩa:
1. Con người khi mới sinh thì mềm mại, mà khi chết thời cứng cỏi.
2. Vạn vật cỏ cây, khi mới sinh thì mềm mại, đến khi chết thì khô héo.
3. Cho nên cứng cỏi thời chết, mềm mại thời sống.
4. Cho nên binh mạnh sẽ không thắng, cây mạnh sẽ bị chặt.
5. Cho nên cứng cỏi thời kém, mềm mại thời hơn
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Con người sinh thì thường mềm mại
Mà khi chết cứng cỏi không cùng.
Cây sông mềm mại bao dung
Đên khi chêt mơi tận cùng khô héo.
Cho nên cứng khi chêt mềm khéo khi sinh
Binh mạnh không thắng cây mạnh hình bị phơi
Cứng cỏi cũng chỉ nhất thời
Mềm mại mới muôn thời là hơn!
CHƯƠNG 77
THIÊN ĐẠO
天 道
Hán văn:
天 之 道, 其 猶 張 弓 與? 高 者 抑 之, 下 者 舉 之, 有 餘 者 損 之, 不 足 者 補 之. 天 之 道, 損 有 餘 而 補 不 足. 人 之 道 則 不 然, 損 不 足 以 奉 有 餘. 孰 能 有 餘 以 奉 天 下? 唯 有 道 者. 是 以 聖 人 為 而 不 恃. 功 成 而 不 處, 其 不 欲 見 賢.
Phiên âm:
1. Thiên chi Đạo, kỳ do trương cung dư? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi, hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi Đạo, tổn hữu dư nhi bổ bất túc.
2. Nhân chi đạo tắc bất nhiên, tổn bất túc nhi phụng hữu dư. Thục năng hữu dư dĩ phụng thiên hạ? Duy hữu đạo giả.
3. Thị dĩ thánh nhân, vi nhi bất thị. Công thành nhi bất xử, kỳ bất dục kiến hiền.
Dịch nghĩa:
1. Đạo Trời như dương cung. Cao thì ép xuống, thấp thì nâng lên. Thừa thì bớt đi, không đủ thì bù vào. Đạo Trời bớt dư bù thiếu.
2. Đạo người chẳng vậy, bớt thiếu bù dư. Ai đem chỗ dư bù đắp cho thiên hạ? Phải chăng chỉ có người có Đạo?
3. Cho nên thánh nhân làm mà không cậy công. Công thành không ở lại; không muốn ai thấy tài mình.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo Trời như thể giương cung
Cao thì hạ xuống, thấp cùng dương lên.
Thừa thì phải bớt đi liền
Không đủ thì biết rút thêm bù vào.
Đạo Trời biết chõ hao thêm thiếu
Dư thừa ai nhũng nhiễu thiên bàn
Phải chăng có đạo Trời ban?
Thánh nhân việc ây mông.mới làm không công.
Làm không công mà không ai biết.
Sức tài thứ thiệt của mình!
CHƯƠNG 78
NHIỆM TÍN
任 信
Hán văn:
天 下 莫 柔 弱 於 水, 而 功 堅 強 者 莫 之 能 勝, 以 其 無 以 易 之. 柔 勝 剛, 弱 勝 強. 天 下 莫 不 知, 莫 能 行. 是 以 聖 人 云: 受 國 之 垢, 能 為 社 稷 主. 受 國 不 祥, 能 為 天 下 王. 正 言 若 反.
Phiên âm:
1. Thiên hạ nhu nhược mạc quá ư thủy, nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắng, kỳ vô dĩ dịch chi.
2. Nhu thắng cương, nhược thắng cường. Thiên hạ mạc bất tri, mạc năng hành.’
3. Thị dĩ thánh nhân vân: Thụ quốc chi cấu, năng vi xã tắc chủ. Thụ quốc bất tường, năng vi thiên hạ vương. Chính ngôn nhược phản.
Dịch nghĩa:
1. Trong thiên hạ không gì mềm yếu hơn nước; thế mà nó lại công phá được tất cả những gì cứng rắn. Chẳng chi hơn nó, chẳng chi thay thế được nó.
2. Mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh, thiên hạ ai cũng biết thế, mà chẳng ai làm được.
3. Cho nên thánh nhân nói: «Dám nhận lấy nhơ nhuốc của quốc gia, mới có thể làm chủ xã tắc, ai dám gánh chịu tai họa của quốc gia, mới có thể làm vua thiên hạ.» Lời ngay nghe trái tai.
Đõ Hoàng dịch thơ:
Trong thiên hạ mềm hình của nươc .
Thế mà công phá được muôn loài
Chẳng vạt nào dám đơn sai
Thiên bàn không có một ai sánh bằng.
Mềm thắng cứng, yêu thăng mạnh thẳng băng
Ai cũng biêt có ai làm được đâu.
Thánh nhân nói ngay buổi đầu
Nhận yếu của nước mới hàu giang sơn.
Ai nhận sự kém hờn xã tắc
Mơi có cơ làm bậc đế vương
Đạo xưa thông tuệ lạ thường
CHƯƠNG 79
NHIỆM KHẾ
任 契
Hán văn:
和 大 怨, 必 有 餘 怨. 安 可 以 為 善. 是 以 聖 人 執 左 契 而 不 責 於 人. 有 德 司 契, 無 德 司 徹. 天 道 無 親, 常 與 善 人.
Phiên âm:
1. Hòa đại oán, tất hữu dư oán. An khả dĩ vi thiện.
2. Thị dĩ thánh nhân, chấp tả khế nhi bất trách ư nhân.
3. Hữu đức tư khế, vô đức tư triệt.
4. Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân.
Dịch nghĩa:
1. Hòa được oán lớn, vẫn còn oán thừa, như thế sao gọi là phải được.
2. Cho nên thánh nhân cầm tờ khế ước bên trái, mà không trách người.
3. Kẻ có đức thì thích cho người. Kẻ vô đức thì thích đòi người.
4. Thiên đạo không thân ai, mà thường gia ân cho người lành.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Hòa được oán vẫn còn vương oán
Vẫn phải còn ca thán trong dân
Cho nên nhứng bậc nhân Thánh nhân
Tay cầm khế ươc không phân trách dời
Kẻ có đức thích cho người
Kẻ vô đức truy tận nơi bần cùn
Thiên đạo giữ khiêm cung
Thường gia ân kẻ cô cùng đáng thương!
CHƯƠNG 80
ĐỘC LẬP
獨 立
Hán văn:
小 國 寡 民. 使 有 十 伯 之 器 而 不 用. 使 民 重 死 而 不 遠 徙. 雖 有 舟 輿 無 所 乘 之. 雖 有 甲 兵 無 所 陳 之. 使 民 復 結 繩 而 用 之. 甘 其 食, 美 其 服, 安 其 居, 樂 其 俗. 鄰 國 相 望. 雞 犬 之 聲 相 聞. 民 至 老 死, 不 相 往 來.
Phiên âm:
1. Tiểu quốc quả dân, sử hữu thập bá chi khí nhi bất dụng.
2. Sử dân trọng tử nhi bất viễn tỉ. Tuy hữu chu dư vô sở thừa chi.
3. Tuy hữu giáp binh, vô sở trần chi.
4. Sử dân phục kết thằng nhi dụng chi.
5. Cam kỳ thực, mỹ kỳ phục, an kỳ cư, lạc kỳ tục.
6. Lân quốc tương vọng. Kê khuyển chi thanh tương văn. Dân chí lão tử, bất tương vãn
Dịch nghĩa:
1. Nước nhỏ, dân ít, dù có ít nhiều tôi giỏi, nhưng chưa cần dùng đến.
2. Dạy dân sợ chết, đừng đi xa. Tuy có xe thuyền, mà chẳng khi dùng.
3. Tuy có giáp binh, mà chẳng phô trương.
4. Khiến dân trở lại thắt nút mà dùng.
5. Ăn cho là ngon, mặc cho là đẹp, ở cho là yên, cho là sướng.
6. Nước gần, thấy nhau, gà kêu chó cắn đều nghe, dân đến già chết chẳng lui tới nhau.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Nước nhỏ, dân it dù lắm phường tôi giỏi
Dân sợ chêt đừng gắng gỏi đi xa.
Tuy xe thuyền sẵ.n đầy nhà
Giáp binh đầy đủ khéo mà phô trương
Khiên dân trở lại đời thường
Ăn ngon, mặc đẹp đủ đường sướng sung.
Nước gần nhau chớ vội mừng
Gà kêu, chó suẩ chưa từng thăm nhau!
CHƯƠNG 81
HIỂN CHẤT
顯 質
Hán văn:
信 言 不 美. 美 言 不 信. 善 者 不 辯. 辯 者 不 善. 知 者 不 博. 博 者 不 知. 聖 人 不 積. 既 以 為 人, 己 愈 有, 既 以 與 人, 己 愈 多. 天 之 道, 利 而 不 害. 聖 人 之 道 為 而 不 爭.
Phiên âm:
1. Tín ngôn bất mỹ. Mỹ ngôn bất tín. Thiện giả bất biện. Biện giả bất thiện. Tri giả bất bác, bác giả bất tri.
2. Thánh nhân bất tích. Ký dĩ vi nhân, kỷ dũ hữu. Ký dĩ dữ nhân, kỷ dũ đa. Thiên chi đạo, lợi nhi bất hại. Thánh nhân chi đạo vi nhi bất tranh.
Dịch nghĩa:
1. Lời chân thành không hoa mỹ. Lời hoa mỹ không chân thành. Người tốt không tranh biện, người tranh biện không tốt. Người biết không học rộng, người học rộng không biết.
2. Thánh nhân không tích trữ. Càng vì người, mình càng có. Càng cho người mình càng thêm nhiều. Đạo trời lợi mà không hại. Đạo thánh nhân làm mà không tranh.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Lời chân thành không màù hoa mỹ
Lời hoa mỹ chẳng ti chân thành
Người tốt không biện tranh
Người biện tranh không lành, không không tốt.
Kẻ biết ráo riết thì dốt học thường
Kẻ học nhiều thi nhưòng lặng yên
Thành nhân không tich trữ tiền
Càng vì người lại càng quên chính mình.
Đạo trời lợi lộc cao minh
Đạo thánh nhân thật chân tình công tâm!
Dịch xong Đại học Tổng hơp Huê năm 1981 – 1984
Đỗ Hoàng

Đạo đức kinh - LaoxTwr (1)

 19:12 17/05/2025

ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
ĐẠO KINH
上 經 ● 道 經
CHƯƠNG I
THỂ ĐẠO
體 道
Hán văn:
道 可 道 非 常 道. 名 可 名 非 常 名. 無 名 天 地 之 始; 有 名 萬 物 之 母. 故 常 無 欲 以 觀 其 妙; 常 有 欲, 以 觀 其 徼. 此 兩 者 同 出 而 異 名. 同 謂 之 玄. 玄 之 又 玄. 眾 妙 之 門.
Phiên âm:
1. Đạo khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh.
2. Vô danh thiên địa chi thủy; Hữu danh vạn vật chi mẫu.
3. Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu; Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu.
4. Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền. Chúng diệu chi môn.
Dịch nghĩa:
1. Đạo (mà) có thể gọi được, không phải là Đạo thường (hằng cửu). Tên mà có thể gọi được, không (còn) phải là tên thường (hằng cửu).
2. Không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật.
3. Cho nên thường không có dục để nhìn thấy chỗ vi diệu của mình. Thường có dục, để nhìn thấy chỗ giới hạn (công dụng) của mình. Chính là muôn phải,
4. Hai cái đó cùng một nguồn gốc, nhưng tên khác nhau, đều gọi là Huyền nhiệm. (Cái) tối ư huyền nhiệm ấy chính là cửa phát sinh ra mọi điều huyền diệu.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo gọi đươc! Đạo trời muôn phái.
Tên gọi ra không phải tên thường.
Không tên gốccủa ngọn nguồn
Có tên mẹ của muôn phương đất trời!
Lòng ước muồn nhìn nơi vi diệu
Nâng cao lên tầm hiểu cuả mình
Mong về giới hạn vô minh .
Cùng từ nguồn cội hiển linh mà thành
Tên gọi khác nên danh huyền nhiệm
Cái tôi ư, bất biến vô vàn
Cõi đời vạn vật trần gian
Nhiệm huyền là cửa phát ban diệu huyền !
CHƯƠNG 2
DƯỠNG THÂN
養 身
Hán văn:
天 下 皆 知 美 之 為 美, 斯 惡 已; 皆 知 善 之 為 善, 斯 不 善 已. 故 有 無 相 生, 難 易 相 成, 長 短 相 形, 高 下 相 傾, 音 聲 相 和, 前 後 相 隨. 是 以 聖 人 處 無 為 之 事, 行 不 言 之 教. 萬 物 作 焉 而 不 辭, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 功 成 而 弗 居. 夫 唯 弗 居, 是 以 不 去.
Phiên âm:
1. Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy.
2. Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo.
3. Vạn vật tác yên nhi bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị,công thành nhi phất cư.
4. Phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ.
Dịch nghĩa:
1. Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, thế là xấu vậy; đều biết tốt là tốt thế là không tốt vậy, bởi vì có không sinh ra nhau dễ khó thành tựu lẫn nhau, ngắn dài tạo thành lẫn nhau, trên dưới lộn lạo ra nhau, thanh âm hòa hợp với nhau, sau trước theo nhau.
2. Cho nên thánh nhân dùng Vô vi mà xử sự, dùng «vô ngôn» mà dạy dỗ.
3. Vạn vật hoạt động mà vẫn im lìm; sống động mà không (đòi quyền) sở hữu; lao tác mà không cậy công; công thành mà không lưu luyến.
4. Không lưu luyến nên mới không mất.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ở đời khen tuyệt vời cái đẹp
Cái xấu kia đã biết chen vào
Đời khen cái tốt thanh cao
Cái xấu len đến đã đến đào huyệt sâu
Không sinh, không diệt vì nhau
Cái trên,cái dưới, trước sau hòa đồng.
Thánh nhân vẫn cầu mong hòa hợp
Dúng vô vi cảm được vô ngôn
Công thành tất thảy vẹn tròn
Lặng im công sức vẫn còn mốt mai!
CHƯƠNG 3
AN DÂN
安 民
Hán văn:
不 尚 賢, 使 民 不 爭. 不 貴 難 得 之 貨, 使 民 不 為 盜. 不 見 可 欲, 使 民 心 不 亂. 是以 聖 人 之 治, 虛 其 心, 實 其 腹, 弱 其 志, 強 其 骨. 常 使 民 無 知 無 欲. 使 夫 知 不 敢 為 也. 為 無 為, 則 無 不 治.
Phiên âm:
1. Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quí nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn.
2. Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri vô dục. Sở phù trí giả bất cảm vi dã.
3. Vi vô vi, tắc vô bất trị.
Dịch nghĩa:
1. Không sùng thượng hiền tài, khiến cho dân không tranh. Không quí của khó được, khiến cho dân không trộm cướp. Không phô trương những gì kích thích lòng ham muốn, khiến cho lòng dân không loạn.
2. Vì vậy phép trị nước của thánh nhân là làm cho dân: Trống lòng; No dạ; Yếu chí; Mạnh xương. Thường khiến cho dân không biết, không ham. Khiến cho kẻ trí không dám làm gì cả.
3. Làm theo phép Vô vi, thời không gì là không trị.
Đỗ Hoàng dịch thơ
:Chớ sủng ái hiền tài quá đáng
Khiên cho dân sao lãng đua tranh
Đừng tìm của quí xa gần
Trộm cướp đạo tăc cũng dần tiêu tan
Đưng kích thích lòng ham muốn ước
Khiến cho dân không được bình yên
Trong lòng, no dạ, ấm êm
Kẻ trí cũng chẳng làm nên điều gì.
Đay là theo phép vô vi
Trị mà không trị việc gì cũng nên !
CHƯƠNG 4
VÔ NGUYÊN
無 源
Hán văn:
道 沖 而 用 之 或 不 盈. 淵 兮 似 萬 物 之 宗. 挫 其 銳, 解 其 紛, 和 其 光, 同 其 塵. 湛 兮 似 或 存. 吾 不 知 誰 之 子. 象 帝 之 先.
Phiên âm:
1. Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh.
2. Uyên hề tự vạn vật chi tông.
3. Tỏa kỳ nhuệ,giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần.
4. Trạm hề tự hoặc tồn.
5. Ngô bất tri thùy chi tử. Tượng đế chi tiên.
Dịch nghĩa:
1. Đạo rỗng không mà dùng không hết.
2. Đạo sâu xa man mác tựa hồ như là tổ tông vạn vật.
3. Làm nhụt bén nhọn, tháo gỡ rối rắm, pha trộn ánh sáng, hòa mình cùng bụi rậm.
4. Trong trẻo thay, tựa hồ trường tồn.
5. Ta không biết Đạo con ai; hình như có trước Thiên đế.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo rỗng không, vững bên muôn kiếp
Đạo sâu xa nối tiêp nguồn xưa
Gỡ rối rắm, chuốt tà lưa.
Chan hòa ánh sáng buổi vừa mơi sinh.
Trong trẻo thay, tựa trường sinh
Đạo là con của thiên đình, đế thiên!
CHƯƠNG 5
HƯ DỤNG
虛 用
Hán văn:
天 地 不 仁, 以 萬 物 為 芻 狗. 聖 人 不 仁, 以 百 姓 為 芻 狗. 天 地 之 間, 其 猶 橐 籥 乎. 虛而 不 屈, 動 而 愈 出. 多 聞 數 窮, 不 如 守 中.
Phiên âm:
1. Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. [1]
2. Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.
3. Thiên địa chi gian,[2] kỳ do thác thược [3] hồ.
4. Hư nhi bất khuất,[4] động chi dũ xuất.
5. Đa ngôn số cùng, bất như thủ trung. [5]
Dịch nghĩa:
1. Trời đất không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm.
2. Thánh nhân không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm.
3. Khoảng trời đất giống như ống bễ. Trống không mà không hao kiệt, càng động, hơi càng ra.
4. Nói nhiều cũng chẳng hết, thà giữ lấy Trung.
Đõ Hoàng dịch thơ:
Trời đất lòng dạ bất yên
Coi thiên hạ một miền chó hoang
Khoảng trời đât rỗng toang ống bể
Không anh hùng, xưng đế nhiễu nhương.
Càng lay động, càng lụy vương
Cuối cùng giữ lấy thường thường lòng trung.
CHƯƠNG 6
THÀNH TƯỢNG
成 象
Hán văn:
谷 神 不 死 是 謂 玄 牝. 玄 牝 之 門, 是 謂 天 地 根. 綿 綿 若 存. 用 之 不 勤.
Phiên âm:
1. Cốc thần bất tử thị vị Huyền tẫn.
2. Huyền tẫn chi môn thị vị thiên địa căn.
3. Miên miên nhược tồn. Dụng chi bất cần.
Dịch nghĩa:
1. Cốc thần bất tử, đó là Huyền tẫn.
2. Cửa Huyền tẫn chính là gốc rễ trời đất.
3. Miên man trường tồn, dùng không bao giờ hết.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Huyền Tẫn chốn vô cùng bất tử
Cửa Huyền Tẫn gốc rễ dất trời
Miên man trong cõi sinh sôi
Của kho vô tận đời đời bao dung.
CHƯƠNG 7
THAO QUANG
韜 光
Hán văn:
天 長 地 久. 天 地 所 以 能 長 且 久 者, 以 其 不 自 生, 故 能 長 生. 是以 聖 人 後 其 身 而 身 先, 外 其 身 而 身 存. 非 以 其 無 私 耶? 故 能 成 其 私.
Phiên âm:
1. Thiên trường, địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kỳ bất tự sinh, cố năng trường sinh.
2. Thị dĩ thánh nhân, hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn.
3. Phi dĩ kỳ vô tư da? Cố năng thành kỳ tư.
Dịch nghĩa:
Trời dài, đất lâu. Trời đất sở dĩ dài lâu chính vì không sống cho mình, vì thế nên trường sinh.
Vì vậy thánh nhân để thân ra sau mà thân ở trước; để thân ra ngoài mà thân còn.
Phải chăng vì không riêng tây, nên vẫn thành được cái riêng tây?
Đỗ Hoàng dịch thơ::
Thiên trường địa cửu không dừng
Cho thiên hạ không ngừng phát sinh.
Thánh nhân bâc thần tình
Thân ra sau mà hiển linh mãi còn.
Phải không vương bận núi non
Công thành mãi mãi vẫn tròn riêng tây!
CHƯƠNG 8
DỊ TÍNH
易 性
Hán văn:
上 善 若 水. 水 善 利 萬 物 而 不 爭, 居 眾 人 之 所 惡, 故 几 於 道. 居 善 地, 心 善 淵, 與 善 仁, 言 善 信, 政 善 治, 事 善 能, 動 善 時. 夫 唯 不 爭, 故 無 尤.
Phiên âm:
Thượng thiện nhược thủy.
Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư Đạo.
Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời.
Phù duy bất tranh, cố vô vưu.
Dịch nghĩa:
Bậc trọn lành giống như nước.
Nước khéo làm ích cho muôn loài mà không tranh giành, ở chỗ mọi người đều ghét, cho nên gần Đạo.
Ở thì lựa nơi chốn; tâm hồn thời thâm trầm sâu sắc; giao tiếp với người một mực nhân ái; nói năng thành tín; lâm chính thời trị bình; làm việc thời có khả năng; hoạt động cư xử hợp thời.
Chính vì không tranh, nên không ai chê trách oán thán.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo được chÍnh tròn đầy như nước
Làm có ích không vượt đua tranh
Ở thấp chẳng ai ham giành
Cho nên chính đạo mới thành công huân.
Ở nơi chốn thâm trầm sâu sắc
Giao tiếp người một bâc ái tôn
Tâm thành lâm chính xóm thôn
Trị bình hòa hơp hoạt không trong ngoài
Chính vì không on, không sai
Trên dưới trong ngoài chẳng ai oán than!
CHƯƠNG 9
VẬN DI
運 夷
Hán văn:
持 而 盈 之, 不 如 其 已. 揣 而 銳 之, 不 可 長 保. 金 玉 滿 堂, 莫 之 能 守. 富 貴 而 驕, 自 遺 其 咎. 功 成 名 遂, 身 退, 天 之 道.
Phiên âm:
1. Trì nhi doanh chi bất như kỳ dĩ.
2. Sủy nhi nhuệ chi bất khả trường bảo.
3. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ.
4. Phú quí nhi kiêu, tự di kỳ cữu.
5. Công thành, danh toại, thân thiên chi đạo.
Dịch nghĩa:
1. Giữ mà làm cho đầy mãi, không bằng dừng lại.
2. Mài cho nhọn, cho sắc không giữ được lâu.
3. Vàng ngọc đầy nhà, chẳng thể giữ được.
4. Giàu sang mà kiêu căng, sẽ tự vời tai họa.
5. Thành công, thành danh rồi thời nên lui thân, ấy là đạo Trời.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Làm đầy mãi , không bằng dừng lai
Nhọn săc sao giữ mãi đươc lâu
Cũng như vàng ngọc, nhà lầu
Kiêu căng tất sụp bùn sâu ai ngờ
Thành công rồi nên nên ngơ với ngác
Thành công rồi ông an lạc đạo Trời!
Thành danh nên biết nghỉ ngơi
Dễ thành bâc thánh trên đời không ngoa.
CHƯƠNG 10
NĂNG VI
能 為
Hán văn:
載 營 魄 抱 一 能 無 離 乎? 專 氣 致 柔, 能 如 嬰 兒 乎? 滌 除 玄 覽, 能 無 疵 乎? 愛 民 治 國, 能 無 為 乎? 天 門 開 闔, 能 無 雌 乎? 明 白 四 達, 能 無 知 乎? 生 而 畜 之, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 長 而 不 宰, 是 謂 玄 德.
Phiên âm:
1. Tải doanh phách bão nhất năng vô ly hồ?
2. Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ?
3. Dịch trừ huyền lãm, năng vô tì hồ?
4. Ái dân trị quốc năng vô vi hồ?
5. Thiên môn khai hạp, năng vô thư hồ?
6. Minh bạch tứ đạt năng vô tri hồ?
7. Sinh nhi súc chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng chi bất tể, thị vị huyền đức.
Dịch nghĩa:
Năng vi (Làm được không?)
1. Có thể đem hồn phách ôm ấp lấy Đạo, không lìa xa chăng?
2. Có thể giữ cho nguyên khí không tán loạn, giữ vẹn thiên chân, hoàn toàn theo được đạo Trời, (định luật trời đất) như anh nhi chăng?
3. Có thể tẩy trừ được (trần cấu), giữ được cho gương lòng trong sáng không tì vết chăng?
4. Có thể yêu dân trị nước, mà vẫn vô vi chăng?
5. Cơ trời mở đóng, có thể thuận ứng như con mái chă
6. Có thể sáng suốt mà như người vô tri chăng?
7. Sinh dưỡng vạn vật; sống mà vẫn như không có; làm mà không cậy công; khiến cho lớn mà không đòi làm chủ, thế là đức sâu xa vậy.
Đỗ Hoàng dịch thơ
Vẫn giữ nguyên của ta, nguyên khi
Trấu rơm mài hêt bỉ gương thần
Vô vi trị nước yêu dân
Cơ trời thuận ứng muôn phân như không
Sáng suốt mà nghiệp mà lòng gây dựng
Dưỡng sinh tương ứng vĩnh hằng.
Tài dưỡng sinh ánh như băng
Khiêm cung công đức.sánh bằng cao xa
CHƯƠNG 11
VÔ DỤNG
無 用
Hán văn:
三 十 輻 共 一 轂. 當 其 無, 有 車 之 用. 埏 埴 以 為 器. 當 其 無, 有 器 之 用. 鑿 戶 牖 以 為 室. 當 其 無, 有 室 之 用. 故 有 之 以 為 利, 無 之 以 為 用.
Phiên âm:
1. Tam thập phúc,cộng nhất cốc.Đương kỳ vô, hữu xa chi dụng.
2. Duyên thực dĩ vi khí. Đương kỳ vô, hữu khí chi dụng.
3. Tạc hộ dũ dĩ vi thất. Đương kỳ vô, hữu thất chi dụng.
4. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng.
Dịch nghĩa:
1. Ba chục căm, hợp lại một bầu. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của xe.
2. Nhào đất để làm chén bát. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của chén bát.
3. Đục cửa lớn, cửa sổ để làm nhà; nhờ có chỗ trống không, mới có cái dùng của nhà.
4. Cho nên lấy cái «có» để làm cái lợi, lấy cái «không» để làm cái dụng.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ba chục cân mới ra một đấu
Nơi trống không chỗ bấu càng xe
Nhào đât bát chén vôi ve
Chỗ không ra có bát be để dùng
Cử lớn nhỏ cùng chung ngôi vị
Nhờ trông không nên thế ngôi nhà
Lấy cái có để làm ra
Từ không biến hóa tài ba vật dùng.
CHƯƠNG 12
KIỂM DỤC
檢 欲
Hán văn:
五 色 令 人 目 盲. 五 音 令 人 耳 聾. 五 味 令 人 口 爽. 馳 騁 田 獵 令 人 心 發 狂. 難 得 之 貨, 令 人 行 妨. 是 以 聖 人 為 腹 不 為 目. 故 去 彼 取 此.
Phiên âm:
1. Ngũ sắc lịnh nhân mục manh..Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng.. Trì sính, điền liệp lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa, lịnh nhân hành phương.
2. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục. Cố khứ bỉ thủ thử.
Dịch nghĩa:
1. Năm màu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của cải khó được, khiến người bị tai hại.
2. Bởi vậy, thánh nhân vì bụng không vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Năm màu sắc làm cùng mù mắt
Năm tiếng kêu người đặc điếc tai.
Năm mùi lưỡi liếm lè dài
Ruổi rong săn bắn người tài hóa điên
Của cải kho, người thêm bị hại
Thánh nhân thường kinh hãi bụng mình
Thường tâm coi trọng mắt nhìn
Chọn hay loại bỏ phải tinh tận tường..
CHƯƠNG 13
YẾM SỈ
厭 恥
Hán văn:
寵 辱 若 驚. (貴) 大 患 若身. 何 謂 寵 辱 若 驚. 寵 為 (上, 辱 為) 下. 得 之 若 驚, 失 之 若 驚. 何 謂 (貴) 大 患 若 身. 吾 所 以 有 大 患 者, 為 吾 有 身. 及 吾 無 身, 吾 有 何 患? 故 貴以 身 為 天 下, 若 可 寄 天 下. 愛 以 身 為 天 下, 若 可 托 天 下.
Phiên âm:
1. Sủng nhục nhược kinh. (Quí) đại hoạn nhược* thân.
2. Hà vị sủng nhục nhược* kinh. Sủng vi (thượng, nhục vi) hạ.. Đắc chi nhược* kinh, Thất chi nhược* kinh.
3. Hà vị (quí) đại hoạn nhược* thân. Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?
4. Cố quí dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả ký thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược* khả thác thiên hạ.
Dịch nghĩa:
1. Vinh, nhục cũng làm lo âu. Sở dĩ hoạn nạn là vì có thân.
2. Tại sao vinh, nhục đều làm lo âu? Vinh là ở ngôi cao, nhục là ở địa vị thấp. Được cũng lo, mất cũng lo. Vì thế nên nói: Vinh nhục đều lo.
3. Tại sao nói: «Hoạn nạn là vì có thân?» Ta sở dĩ phải lo âu nhiều, chính vì ta có thân. Nếu không có thân, ta đâu có lo !
4. Cho nên ai quí thiên hạ hơn thân mình, thì có thể đem thiên hạ giao phó cho, ai yêu thiên hạ hơn thân mình, thì có thể gửi gắm thiên hạ cho họ được.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Có vinh nhục đều thường lo lắng
Ngôi cao, hèn đều đáng âu lo
Mất thì hoạn nạn tẽn tò,
Vinh hoa cũng bị một bồ dao đâm!
Họa phúc là vì có thân
Không thân thì cũng chẳng cần điều chi.
Nên ai yêu quý chỉ vì thiên hạ
Thì nên đem tất cả trao cho.
Ai coi thiên hạ trời to
Giao thiên hạ hết chẳng lo việc gì!
CHƯƠNG 14
TÁN HUYỀN
贊 玄
Hán văn:
視 之 不 見, 名 曰 夷. 聽 之 不 聞, 名 曰 希. 搏 之 不 得, 名 曰 微. 此 三 者 不 可 致 詰. 故 混 而 為 一. 其 上 不 皎, 其下 不 昧, 繩 繩 不 可 名, 復 歸 於 無 物. 是 謂 無 狀 之 狀, 無 物 之 象. 是 謂 惚 恍, 迎 之 不 見 其 首. 隨 之 不 見 其 後. 執 古 之 道, 以 御 今 之 有. 能 知 古 始, 是 謂 道 紀.
Phiên âm:
1. Thị chi bất kiến, danh viết Di. Thính chi bất văn, danh viết Hi. Bác chi bất đắc, danh viết Vi. Thử tam giả bất khả trí cật.. Cố hỗn nhi vi nhất.
2. Kỳ thượng bất kiểu..Kỳ hạ bất muội. Thằng thằng bất khả danh, phục qui ư vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng. Thị vị bất hốt hoảng, nghinh chi bất kiến kỳ thủ. Tùy chi bất kiến kỳ hậu.
3. Chấp cổ chi đạo, dĩ ngự kim chi hữu. Năng tri cổ thủy, Thị vị đạo kỷ.
Dịch nghĩa:
1. Nhìn không thấy, gọi là Di. Nghe không thấy, gọi là Hi. Nắm không được, gọi là Vi. Ba điều ấy không thể suy cứu đến cùng. Cho nên hợp lại làm một.
2. Trên nó không sáng. Dưới nó không mờ. Miên man dằng dặc mà không thể đặt tên. Rồi lại trở về chỗ không có gì. Đó là trạng thái của cái không trạng thái. Hình tượng của cái không có vật chất. Cái có hoảng hốt, đón trước không thấy đầu, theo sau không thấy đuôi.
3. Giữ cái Đạo xưa để trị chuyện nay; biết cái đầu mối của thời xưa, ấy là nắm được giềng mối đạo.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ba diều gọi Di, Hi, Vi
Ba điều âý chẳng thể truy đến cùng.
Cho nên goi một tên chung
Trên không sáng, dưới mông lung, lờ mờ
Không đặt tên, miền mơ dằng dặc
Rồi trỏ về ản tắc vô danh
Đó là trạng thái mong manh
Trước sau không thấy hữu hình đầu đuôi
Giềng mối nào tìm nơi gỡ rói
Cái Đạo nầy nối tới ngày nay
CHƯƠNG 15
HIỂN ĐỨC
顯 德
Hán văn:
古 之 善 為 士 者, 微 妙 玄 通, 深 不 可 識. 夫 唯 不 可 識, 故 強 為 之 容. 豫 焉 若 冬 涉 川. 猶 兮 若 畏 四 鄰. 儼 兮 其 若 客. 渙 兮 其 若 冰 之 將 釋. 敦 兮 其 若 朴. 曠 兮 其 若 谷. 混 兮, 其 若 濁. 孰 能 濁 以 止, 靜 而 徐 清. 孰 以 安 以 久 動 而 徐 生. 保 此 道 者, 不 欲 盈. 夫 唯 不盈 故 能 蔽, 不 新 成.
Phiên âm:
1. Cổ chi thiện vi sĩ giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức, cố cưỡng vi chi dung.
2. Dự yên nhược đông thiệp xuyên. Do hề nhược úy tứ lân. Nghiễm hề kỳ nhược khách. Hoán hề nhược băng chi tương thích. Đôn hề kỳ nhược phác. Khoáng hề kỳ nhược cốc. Hỗn hề kỳ nhược trọc.
3. Thục năng trọc dĩ chỉ, tĩnh nhi từ thanh. Thục dĩ an dĩ cửu động nhi từ sinh.
4. Bảo thử Đạo giả bất dục doanh. Phù duy bất doanh cố năng tế,bất tân thành.
Dịch nghĩa:
1. Bậc hoàn thiện xưa siêu vi, huyền diệu, thâm thúy, thông suốt; thâm thúy khôn lường. Vì khó lường nên gượng tả hình dung.
2. Các ngài thận trọng như mùa đông đi qua sông; các ngài e dè sợ láng giềng bốn bên; kính cẩn như khách; lạnh lùng như băng tan; mộc mạc chất phác như chưa đẽo gọt; man mác như hang núi; hỗn mang như nước đục
3. Ai có thể đục mà nhờ tĩnh lại dần dần trong. Ai có thể yên mà nhờ động lại dần dần linh hoạt.
4. Kẻ giữ đạo không muốn đầy. Chỉ vì không muốn đầy, nên mới che dấu và chẳng đổi mới.
Đỗ Hoàng thơ:
Bâc hoàn thiện xưa nay thông suốt
Hình dung ư khó ước khôn lường.
Cẩn thận như đi qua đường
Lạnh lùng băng giá, giản thường suối khe
Không tan chảy màu mè đẽo gọt
Hỗn mang như nước đục trên non
Nhờ có động mà còn linh hoạt
Không muốn đầy nên thoát dư thừa
CHƯƠNG 16
QUI CĂN
歸 根
Hán văn:
致 虛 極, 守 靜 篤. 萬 物 并 作, 吾 以 觀 其 復. 夫 物 芸 芸, 各 歸 其 根. 歸 根 曰 靜, 靜 曰 復 命. 復 命 曰 常. 知 常 曰 明. 不 知 常, 妄 作, 凶. 知 常 容. 容 乃 公. 公 乃 王. 王 乃 天. 天 乃 道. 道 乃 久. 沒 身 不 殆.
Phiên âm:
1. Trí hư cực, thủ tĩnh đốc.
2. Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan kỳ phục. Phù vật vân vân, các qui kỳ căn.
3. Qui căn viết tĩnh. Tĩnh viết phục mạng. Phục mạng viết thường.
4. Tri thường viết minh. Bất tri thường, vọng tác, hung.
5. Tri thường dung. Dung nãi công. Công nãi vương. Vương nãi thiên. Thiên nãi Đạo. Đạo nãi cửu. Một thân bất đãi.
Dịch nghĩa:
1. Hư không cùng cực, hết sức yên tĩnh.
2. Vạn vật đua sống, ta nhân đó xem chúng trở về (nguồn). Vạn vật trùng trùng đều trở về cội.
3. Trở về cội rễ là tĩnh; tĩnh là phục mệnh; phục mệnh tức là trường cửu.
4. Biết «trường cửu» mới là sáng suốt. Không biết trường cửu sẽ làm càn và gây hung họa.
5. Biết «trường cửu» sẽ thung dung như công hầu vương tước, sẽ hợp với Trời với Đạo. Hợp Đạo rồi sẽ cửu trường: thân có mất đi, cũng chẳng nguy hại gì.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Hư không cực tột ưa yên tĩnh
Ta nhẩm xem ai tinh về nguồn.
Trùng trùng vạn vật mưa tuôn
Trở về tĩnh lặng là khuôn mệnh mình.
Phục mệnh mình đinh ninh trường ửu
Không làm càn gây họa cho ai
Biết trường cửu sẽ nối dài
Hợp Trời với Đạo thân ngoài hư không.
CHƯƠNG 17
THUẦN PHONG
淳 風
Hán văn:
太 上, 不 知 有 之. 其 次, 親 而 譽 之. 其 次, 畏 之. 其 次, 侮 之. 信 不 足 焉, 有 不 信 焉. 悠 兮, 其 貴 言. 功 成 事 遂, 百 姓 謂 我 自 然.
Phiên âm:
1. Thái thượng, hạ tri hữu chi.
2. Kỳ thứ, thân nhi dự chi.
3. Kỳ thứ, úy chi.
4. Kỳ thứ, vũ chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên.
5. Du hề, kỳ quí ngôn. Công thành, sự toại, bách tính vị ngã tự nhiên.
Dịch nghĩa:
1. Thánh quân thời cổ xưa (cai trị), dân ở dưới không biết rằng có.
2. Bậc dưới, họ thân và ngợi khen. Bậc dưới nữa họ sợ. Bậc dưới nữa, họ khinh. Vì không đủ tin, nên dân không tin.
3. Bậc thánh xưa quí lời nói. Công việc xong xuôi, mà dân đều bảo rằng: «Tự nhiên bởi ta.»
Đỗ Hoàng dịch thơ :
Dân ở dưới trong vòng cai quản
Rất tin yêu, tinh toán gì đâu.
Bâc dướii họ ngợi khen nhau
Bậc dưới nữa họ sợ mau oán hờn
Thánh nhân lời nói quí hơn
Việc thành dân biết trả ơn chốn nào !
CHƯƠNG 18
TỤC BẠC
俗 薄
Hán văn:
大 道 廢, 有 仁 義. 智 慧 出, 有 大 偽. 六 親 不 和, 有 孝 慈. 國 家 昏 亂, 有 忠 臣.
Phiên âm:
1. Đại Đạo phế, hữu nhân nghĩa.
Trí tuệ xuất, hữu đại ngụy.
2. Lục thân bất hòa, hữu hiếu từ.
3. Quốc gia hôn loạn, hữu trung thần.
Dịch nghĩa:
1. Đại đạo mất mới có nhân nghĩa,
Trí tuệ sinh mới có dối trá lớn.
2. Lục thân bất hòa, nên có kẻ thảo người lành.
3. Quốc gia rối loạn mới có trung thần.
Đỗ Hoàng dịch thơ::
Đạo lớn mất nghĩa nhân sao tỏ
Trí tuệ sinh mới có tráo lừa.
Nội thân xáo trộn ghét ưa.
Quốc gia tao loạn có thừa người trung!
CHƯƠNG 19
HOÀN THUẦN
還 淳
Hán văn:
絕 聖 棄 智, 民 利 百 倍. 絕 仁 棄 義, 民 復 孝 慈. 絕 巧 棄 利, 盜 賊 無 有. 此 三 者 以 為 文, 不 足. 故 令 有 所 屬. 見 素 抱 朴. 少 思 寡 欲.
Phiên âm:
1. Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội.
2. Tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ.
3. Tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu.
4. Thử tam giả dĩ vi văn, bất túc.
5. Cố lệnh hữu sở thuộc. Kiến tố bão phác. Thiểu tư quả dục.
Dịch nghĩai:
1. Dứt thánh bỏ trí, dân lợi gấp trăm.
2. Dứt thân bỏ nghĩa dân lại thảo lành.
3. Dứt khéo, bỏ lợi, không có trộm cướp.
4. Ba điều đó hào nhoáng bên ngoài, chẳng đủ vào đâu.
5. Phải chú trọng điều này: Giữ vẹn tinh anh, chất phác: ít riêng tây, ít ham muốn
Đỗ Hoàng dịch thơ;
Thánh, trí bỏ đi vô cùng dân lợi
Nhân tinh xóa sạch, dân tới thỏa lành
Lợi, kheo tiêu càng an dân
Những điều hào nhoàng chẳng thành vào đâu.
Phải chú trọng điều đầu nhắc nhở
Vẹn tinh anh nên nhớ giữ gìn
Ít ham muốn bỏ quên mình
Riêng tay quét sạch, hiển linh bây giờ!
CHƯƠNG 20
DỊ TỤC
異 俗
Hán văn:
絕 學 無 憂. 唯 之 與 阿, 相 去 幾 何. 善 之 與 惡, 相 去 若 何. 人 之 所 畏, 不 可 不 畏. 荒 兮 其 未 央 哉. 眾 人 熙 熙, 如 享 太 牢, 如 登 春 台. 我 獨 泊 兮 其 未 兆, 如 嬰 兒 之 未 孩. 儡 儡 兮 若 無 所 歸. 眾 人 皆 有 餘, 而 我 獨 若 遺. 我 愚 人 之 心 也 哉. 沌 沌 兮 眾 人 昭 昭, 我 獨 昏 昏. 眾 人 察 察, 我 獨 悶 悶. 澹 兮 其 若 海. 飂 兮 若 無 止. 眾 人 皆 有 以 而 我 頑 且 鄙. 我 獨 異 於 人, 而 貴 食 母.
Phiên âm:
1. Tuyệt học vô ưu. Duy chi dự a, tương khứ kỷ hà.
Thiện chi dữ ác tương khứ nhược hà.
2. Nhân chi sở úy, bất khả bất úy. Hoang hề kỳ vị ương tai.
3. Chúng nhân hi hi như hưởng thái lao,[8] như đăng xuân đài.
4. Ngã độc bạc hề kỳ vị triệu, như anh nhi chi vị hài Luy luy hề nhược vô sở qui.
5. Chúng nhân giai hữu dư, nhi ngã độc nhược di. Ngã ngu nhân chi tâm dã tai. Độn độn hề chúng nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn.Chúng nhân sát sát, ngã độc muộn muộn. Đạm hề kỳ nhược hải.. Liêu hề nhược vô chỉ..Chúng nhân giai hữu dĩ nhi ngã ngoan thả bỉ.
6. Ngã độc dị ư nhân, nhi quí thực mẫu.
Dịch nghĩa:
1. Dứt học, hết lo. Dạ với ơi khác nhau bao lăm? Lành với dữ khác nhau mấy tầm?
2. Cái mà người sợ, ta há không sợ, nhưng không đến nỗi hoảng hốt mất tinh thần.
3. Người đời hớn hở, như hưởng cỗ bàn, như lên đài xuân.
4. Riêng ta lặng lẽ, chẳng chút phô trương, y như trẻ thơ, chưa biết mỉm cười. Dáng điệu phờ phạc, lênh đênh vô định.
5. Chúng nhân có thừa, riêng ta thiếu thốn. Lòng ta ngu dốt thay, mù mịt tay. Người đời sáng chói, riêng ta mịt mù. Vắng lặng như biển khơi, vi vu như gió thổi. Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngu xuẩn, thô kệch.
6. Riêng ta sống khác người, vì không lìa xa «mẹ thiên nhiên».
Dỗ Hoàng dịch thơ:
Không học, không à uôm lo lắng
Dạ và ơi tiếng thẳng, giọng cong
Nhưng nào đến nỗi mất hồn.
Nhưng ta lặng lẽ phô trương làm gì.
Như trẻ thơ nhu mì cười mỉm
Dáng dị khờ đủng dỉnh vô ngôn
Đời thừa, ta kẻ sạch trơn
Lòng ta ngu dốt, gió cồn mờ bay.

Lê Thanh Hải vịnh

 21:01 16/05/2025

Đỗ Hoàng
LÊ THANH HẢI vịnh
Xuất thân thợ máy sửa hon đa.
Nhưng lại đặc tình tình báo ta.
Sớm đến cà lê văng thụt khí,
Chiều về súng lục kết gian tà!
Làm quan tột đỉnh, trên tam phẩm,
Học lớp cuối cùng dưới o a!
Không cướp, không gian thì mới lạ
Xứ niềng lắm thứ nghĩ không ra!
Hà Nội vài năm trước
Đ - H

Vịnh qyan hèn, tướng mạt

 20:59 16/05/2025

Đỗ Hoàng
HÈN
Hèn hạ như là lũ đại quan
Hèn mà cả nước dân đều than
Hèn rừng gán hết cho thằng láo
Hèn biển dâng đầy gửi lũ ham.
Hèn lấy của dân tiêu xả láng,
Hèn đem công quỹ phá hoang tàn.
Hèn gương phụ mẫu mà như thế
Hèn sống lâu dài để nước tan!
Hà Nội, ngày 3-12-2014
MẠT
Mạt hạng quan gian cướp của dân
Mạt đời dấu biệt để ăn dần
Mạt ngày lọm khọm lo quỳ gối
Mạt tối lò mò sợ gập thân
Mạt sức chống chèo cơn bui gió
Mạt tài tế thế đợt phong trần
Mạt thời ngồi giữ bao thần lộc
Mạt kiếp quan tham cướp của dân!
Hà Nội, ngày 3-12-2014

Dơ dáy một bầy quan độn đần
Dơ thời gió bụi chốn phong trần
Dơ thằng làm tướng không còn giặc
Dơ đứa lên quan chẳng có dân.
Dơ ả tham tiền mà hiến xác
Dơ cô hám bạc mà dâng thân
Dơ trời, dơ đất bầy tham nhũng
Dơ kiếp tôi đòi hầu gãy chân!
Hà Nội, ngày 3-12-2014

Phê binh Hữu Thỉnh thẩm thơ!

 10:30 07/05/2025

CHỦ TỊCH HỘI NHÀ VĂN VN HỮU THỈNH CÓ NHIỀU NHẬN ĐỊNH SAI LẦM VỀ THƠ MỚI, THƠ CHỐNG PHÁP, THƠ CHỐNG MỸ (KỲ 2)
Phong trào thơ sau giải phóng năm 1975, nhà thơ Hữu Thỉnh chưa có nhận định và đánh giá mà chỉ gộp vào trong thơ chống Mỹ: “Thơ chống Mỹ và thơ hiện nay lấy sự bổ sung và làm đầy là nguyên tắc cho sự phát triển” là chưa rõ.
Hữu Thỉnh đánh giá về “trường phái phu chữ” là đúng.
Trong lúc các thi nhân nhấn mạnh phần hồn thì Lê Đạt tuyên bố”chữ bầu lên nhà thơ” và kéo theo cả một trường phái phu chữ. Đó cũng là một hướng tìm tòi đáng trân trọng. Vấn đề là tác phẩm. Tác phẩm nào hay theo trường phái phu chữ thì hãy trưng ra. Thoải mái. Và xem công chúng tiếp nhận đến đâu.
Nói về trường phái phu chữ Lê Đạt thì nhà thơ Hữu Thỉnh chí lý nhưng nói về Vô lối tắc tỵ, tù mũ rối rắm, tình dục bệnh hoạn của thế hệ sau 1975 thì nhà thơ Hữu Thỉnh nói chung chung: “ Không bằng lòng với thơ tự do hiện tại, họ muốn đi tìm tự do nữa, tự do sau tự do tháo bỏ mọi kích cỡ để thuận tiện cho việc biểu cảm tự nhiên”
Cái gọi là phong trào “tự do sau tự do” đã 30 năm đủ để nhìn nhận đánh giá. Vì một phong trào thơ, cả Thơ Mới, thơ chống Pháp, thơ chống Mỹ chỉ có 10 năm đã được khẳng định. Còn phong trào “tự do sau tự do” 30 năm thì biết nó thất bại hoàn toàn, nó không để lại dấu ấn trên thi đàn. (Xem Vô Lối phản lại thơ ca – vannghecuocsong.com)
Vô lối – Phản lại thơ ca!
Vô lối manh nha và xuất hiện ở Việt Nam trên dưới nửa thế kỷ từ giữa thập kỷ 50 thế kỷ trước cho đến hôm nay. Nó bùng phát như nấm độc mọc sau mưa là từ thập kỷ 90 thế kỷ trước và nhất là khi Hội Nhà văn Việt Nam trao giải cho tập Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều. Và nó bị kết liễu khi Hội Nhà văn Việt Nam trao giải cho nó vào năm 2010 – 2011 với 4 tập Vô lối của Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Đinh Thị Như Thúy.
Thời gian Vô lối bùng phát đến nay đã trên dưới 20 năm (1992 – 2012) nhưng nó không gây được tiếng vang, không dấy lên một phong trào thơ ca nào cả. Nó có cách cảm, cách nghĩ tù mù, rối rắm, khập khà khập khễnh, kênh kiệu, lôm nhôm, loam nhoam, lộn xà lộn xộn… với một loại hình câu chữ dài dòng lê thê lếch thếch hoặc kể lể con cà con kê, hoặc nói năng lảm nhảm rối rắm, hoặc làm duyên làm dáng vô bổ, hoặc uốn éo da lươn, hoặc tịch mịch tối bưng, hoặc đen ngòm da gấu, hoặc đa ngôn đa quái, hoặc lai căng chữ nghĩa nước ngoài một cách thô thiển đàng điếm hoặc mê muội bệnh hoạn về tình dục thể hiện trong câu viết, trong tâm tưởng ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nó bị đại đa số công chúng, bạn đọc của toàn dân tộc phản bác dù nó được báo chí chính thống, cục vụ viện chính thống, cánh hẩu lăng xê, tán tụng đưa lên mây xanh và dành không ít tiền thuế của dân đeo vòng “nguyệt quế” rởm cho nó!
Xin nhắc lại một vài nhận dạng Vô lối.
Đó là một loại hình không có trong tất các loại thể văn học nước nhà và thế giới. Nó dịch không ra dịch, mô phỏng không ra mô phỏng, không phải phú, không phải tế, không phải hát nói, không phải kịch, không phải ca từ, không phải ngâm, không phải vịnh, không phải hát vui chơi, không phải hát ru em, không phải nói lối, không phải văn xuôi, không phải kể chuyện, nó là một loại quái thai của văn chương! Nó chính là Vô lối!
Đặc điểm của Vô lối là: Thứ nhất là nó chối bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, chối bỏ thẩm mỹ của loài người; thứ hai là triệt tiêu một trăm phần trăm vần điệu; thứ ba là viết dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống; thứ tư là tù mù, tịch mịch, rối rắm, đánh đố mình, đánh đố người đọc; thứ năm là đại ngôn, sáo rỗng, trống hơ, trống hoắc, hô khẩu hiệu; thứ sáu là dung tục bẩn thỉu và tình dục bệnh hoạn; thứ bảy là sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, chưa Việt hóa…
Gooki nhà văn Xô viết (Liên Xô cũ) đã từng nói: “Nhà văn không biết đến văn học dân gian là một nhà văn tồi”. Đến Kalinin lãnh tụ của Liên Xô cũ cũng nói đại ý: “ Nội dung và hình thức văn học dân gian là thiên tài, các tài năng lớn về văn học đều biết tiếp thu và học tập thành công văn học dân gian. Bao nhiều tài năng lơn trong nước và thế giới đã minh chứng điều đó: Puskin, Lecmongtop, Bairon, Oma Khayam, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ…
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẻ ngược xuôi hở chàng
Đưa nhau một bước lên đàng
Cỏ xanh hai dãy mấy hàng châu sa
(Ca đao)
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Đoạn trường tân thanh – Nghuyễn Du)
Sinh vi vạn nhân thê
Tử vi vô phu quỷ
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chống
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
Những người viết Vô lối chổi bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, chối bỏ cách nói cách cảm của ông cha. Trước tiên, Vô lối triệt tiêu 100% vần điệu nhưng câu viết thì cứng cỏi, khô khan, không có một chút truyền cảm, không rung động lòng người. giống như ông nói gà, bà nói vịt, tù mù, hủ nút. Đọc nó có cảm giác lê thê, vô bổ:
“…Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
(nếu đời người không có những sớm mai)
anh trở dậy
đọc thơ Nguyễn Du
những câu lục bát buồn rưng rưng cuối đường của một ngày
chợt anh muốn viết tặng em
không thể được
em làm con tin ở một thế giới
(Thanh Tâm Tuyền)

Phan Rang, những năm ấy, có lẽ chị Ba không nhớ nữa
nhưng tôi kẻ từng chịu ơn chị, tôi không thể nào quên quá khứ.
Năm ấy, tôi đến từ phương xa
không giấy tờ, không người quen, không nhà không cửa
và tương lai tôi
tương lai ở trong tay những kẻ bố ráp bắt người đi đánh thuê cho quân xâm lược
tương lai buồn tênh như con đường bụi khô ngoài quán cà phê chiều hôm gió cuốn.
(Lê Văn Ngăn)

Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Đêm ấy tôi nằm trong chăn nghe tiếng chim đập cửa
Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi
(Nguyễn Quang Thiều)

Tôi đã làm khổ cô láng diềng niên
khóa cuối trung học trước khi làm lang
thang. Năm năm nàng chờ, thằng Wang nói
mầy quá tệ làm nó khổ mầy ngủ
ngon ăn khỏe còn nhăn răng cười như
khỉ. Ôi em còn hay đã thành ma,
hôm nay trời trăng nào biết? Tôi đã
chửi tệ bà nhà quê đáng tuổi mẹ
….
Ông không làm gì cả, đi loanh
quanh. Ông không đi đến đâu cả,
đi rồi về. Ông không làm gì
cả, ông suy nghĩ – không nghĩ ra
cái gì cả. Con cháu nói thứ
ăn hại, ông cười buồn. Lối xóm
bảo đồ lười biếng, ông nín lặng.
(In ra sa ra)…
Bây giờ là lúc có thể chia tay với điện thoại để bàn, cá vi dít, nắm đấm mi crô
Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường
Một mình một ba lô với xe đạp
Bây giờ gió gọi anh đi
Mặt trời đánh nhịp về tám hướng
Từ giã cà vạt, giày đen lời trịnh trọng
Anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ
Hò hét một mình, đọc những gì mình yêu thích, ghi chép những gì cần ghi chép
(Nguyễn Khoa Điềm)
Thành đôi môi đẫm rượu
Lênh đênh qua hàng quán tàn phai
Với cái nhìn bạc màu kiêm ái
Anh nhận ra tro tàn kim cương
Sau chớp mắt chậm như vĩnh cửu
Còn nhớ chăng bầu trời quạnh hiu
Trong thân thể gầy gò nơi giam giữ phận anh thoáng chốc
Em hay vầng trăng khiến nó mịt mù
(Nguyễn Bình Phương )
thanh tẩy (2) mãi vẫn không thấy sạch
quay về tắm bằng ngọn đèn
thử đưa bờ vai về phía ánh sáng
rồi cả hai tay
bàn chân, cằm, đầu gối
cả đôi tròng mắt và tiếng ho khan
xối ánh sáng vào từng góc khuất
gốc khuất như lò thúc mầm (3)
như thép nóng đem tôi vào nước
như quả trứng trong ổ đang ấp
rễ thân cành đã chết đâm ngang
(Mai Văn Phấn)
Trăng sáng
Ngư dân ở nhà chơi với vợ
đợi đêm còn ra với phong ba
Trăng sáng
Nước bạc, lưới không sao giấu mắt
Cá băng tung tẩy từng đàn
Ngộp thở
Phố cổ oi, đèn lồng vàng và đỏ
Người đi từng đang đổ về phía bờ sông
(Phan Thị Vàng Anh)
Vô lối viết câu dây cà ra dây muống, dài dòng văn tự mà lại không có một thông tin, một ý nghĩa, đọc lên như hủ nút, rối rắm, ngúc nga, ngúc ngắc, tâm thần, đa số các câu dài câu dài 30 , 40 chữ, thậm chí có câu dài đến 40, 50 chữ. Đặc biệt có câu dài 42, 58 chữ, như điển hình các câu sau: câu trong bài “Sinh ngày 4 – 4”. Câu này đã vượt câu thơ Nguyễn Thị Kiêm thời Thơ mới 15 chữ;
Trò Domino với hiệu ứng lan truyền, đổ sang nhau những ăn năn – bất cần, trong sạch – vấy bẩn, ý nghĩa – vô bổ, cạn kiệt – lấp đầy, tuyệt vọng và ngộ nhận, đoàn tụ và lưu lạc, trấn tỉnh và hoảng loạn.
(Vi Thùy Linh)
Câu của Nguyễn Quang Thiều trong Cây ánh sáng đạt kỷ lục, vượt Nguyễn Thị Kiêm đến 31 chữ (!) tức là 58 chữ.
Cả những người đàn bà tội lỗi và thánh thiện vẫn vuốt ve con đỉa khổng lồ bám chặt bộ xương chàng và thì thầm run rẩy với con đỉa ấy, bị hành hạ vì con đỉa ấy, tự vẫn vì con đỉa ấy và tìm thấy một chút ý nghĩa đầy ảo giác với con đỉa ấy
(Nguyễn Quang Thiều)
Người đọc nào kiên nhẩn đọc câu trên chắc cũng phải điên lên cùng kẻ viết!
Trong khi đó thơ ca tinh hoa của thế giới phương Tây hay phương Đông chỉ một bài thơ 20 chữ đã sống mài hơn 2 000 năm và còn sồng lâu hơn nữa:
“Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm túy sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai”
(Lưu Vũ Tích – Đời Đường)
Trước hoa giờ được uống
Mấy chén ngất ngư say
Chỉ buồn hoa lại nói
Không nở cho già này!
(Đỗ Hoàng dịch)
27 chữ của Nguyễn Thị Kiêm thời Thơ mới đã không còn thì câu 41 chữ của Vi Thùy Linh và câu 58 chữ của Nguyễn Quang Thiều thời Vô lối sẽ tan như bong bóng xà phòng!
Những người làm Vô lối bây giờ ngoài việc chối bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, họ còn dấn thêm một bước là dung tục hóa câu viết mà các sách dâm thư cổ ( Nhục bồ đoàn) kim (các trang mạng đen bẩn thỉu) hiện nay cũng còn thua, cái nhìn rất bệnh hoạn vào người khác giới:
Mặt hồ thủ dâm nổi sóng
(Nguyễn Quang Thiều)
Một bài thơ viết ở Hà nội
Có một bài thơ tôi viết
Trong bóng tối
Của thành phố này
Đấy không phải là đêm
Tôi vẫn nhìn thấy những đám mây nặng
Bò trên những mái nhà thành phố
Và vẫn nhìn thấy
Một người đàn bà
Tắm trong một toilet không có rèm che
Kỳ cọ như tuốt hết da thịt mình
Và vẫn nhìn thấy
Cuộc làm tình ban ngày
Của những kẻ thất nghiệp
Trong chính công sở của họ
Viết lúc 10 giờ 13 phút
H ngủ muộn. 10h13 phút chưa dậy.
Những sự sống trôi qua chiếc giường.
Những cái chết trôi qua chiếc giường.
Và H nhìn thấy trong giấc ngủ
Một tấm thân đàn ông nóng rừng rực
Trôi qua chiếc giường và dừng lại
ở một khoảng trên đầu
lúc 10h13 một người đàn bà khác
khoả thân trong một chiếc giường
đặt ở giữa thành phố
(Nguyễn Quang Thiều)
Đúng là người viết bệnh hoạn và của một số cây viết bệnh hoạn, bị bệnh thị dâm rất nặng, đàn ông hay nhìn trộm phụ nữ tắm, đàn bà hay nhìn vào hạ bộ đàn ông để lấy cảm hứng “sáng tác”(!)
Số này cần phải đến bệnh viện tâm thần điều trị lâu dài, trước khi cầm bút viết lách!
Và rất nhiều, rất nhiều cách viết trắng trợn, ô trọc, súc vật:
Khỏa thân trong chăn thèm chồng, thèm Anh!
(Vi Thùy Linh)
Đến như loài lục súc, con chó cái nó có nhu cầu bạn tình nó cũng chạy khắp vườn trên, xóm dưới đánh tín hiệu bằng cách kêu ăng ẳng, ngúc ngoắc cái đuôi thể hiện nhu cầu ái ân theo văn hóa kiểu chó, sạch sẽ hơn nhiều kiểu viết thô lậu trần truồng, không Việt hóa ở trên!
Sau một phút êm đềm trên ghế đá
Anh quên cài khuya áo cho em
(Dư Thị Hoàn)
Cái ghế đá thường đặt nơi công cộng, công viên, hoặc vườn thú. Người đứng đắn có ai kéo nhau đến nơi công cộng làm cái truyền giống bao giờ. Một “anh du côn tám thẹo gặp chị điếm giang hồ bảy da” mà còn đòi hạnh kiểm đạo đức thì lấy đâu ra khi rủ nhau vào nơi công cộng giữa thanh thiên bạch nhật làm cái chuyện đực cái mà chỉ có loài lục súc mới làm trước mặt mọi người!
Hay kém thẩm mỹ, thô tục:
Nằm nghiêng ở trần thương kiếp nàng Bân
ngón tay rỉ máu.
Nằm nghiêng khe cửa ứa ra một dòng ấm cô đơn.
Nằm nghiêng cùng sương triền đê đôi bờ ỡm ờ nước lũ
Nămg nghiên lạnh hơi lạnh cũ.
Ngoài đường khô tiếng ngày
Nằm nghiêng.
Mùa đông nằm nghiêng trên thảm gió mùa.
Nằm nghiêng nứt nẻ khóe môi đã lâu không vồ vập răng lưỡi
Nằm nghiêng xứ sở bốn mùa nhiệt đới, tự dưng nhói đau sau lần áo lót có đệm mút dầy
(Phan Huyền Thư)
Những người làm vô lối đã thổi phù cái tình dục bệnh hoạn phản cảm của mình một cách thô thiển trắng trợn làm băng hoại con người.
Viết bẩn thỉu, dung tục dâm ô, ở thế giới phương Tây có nhiều nhà thơ lạm dụng. Nhưng những tài năng lớn họ thường biết hạn chế để làm đẹp,trong sáng thơ ca.
Apollinaire nhà thơ Pháp đầu thế kỷ XX nổi tiếng với câu thơ mà người Pháp nào cũng thuộc lòng: Sous le pont Mirabeau coule la Seine ( Dưới cầu Mira beau trôi dòng sông Seine…) khi viết bài thơ văn xuôi dài Vùng, bản thảo lúc đầu câu thơ có mấy chữ thô tục: “Hôm nay tôi bước giữa Paris những người đàn bà vấy máu kinh nguyệt chảy đỏ các rảnh nước…”. Nhưng sau đó ông thấy không được viết bẩn như thế, nhà thơ liền sửa lại:
Hôm nay mi bước giữa Paris những người đàn bà vấy máu.
(Aujourd’hui tu marches dans Paris les femmes sont ensanglanteses)
Những người viết vô lối Việt viết hết sức bẩn thỉu nói trắng ra là rất mất vệ sinh. Viết đến mức mà các bác sỹ khoa sản phụ cũng chào thua!
“Ngáp ngủ đêm đã qua
Chửi tục đêm đã qua
Gạ gẫm làm tình đêm đã qua
Âm hộ đêm đã qua
Dương vật đêm đã qua!”
(Nguyễn Quang Thiều)
Ngoài ra họ còn`tắc tỵ hóa câu viết và nhiều kiểu khác phi văn chương nữa!

luật lệ
tử cung
sự giao l­uu hoang hoái ngực Mạ
một ngày mai tinh khôi vân tay
một ngày thơ cô đơn rực rỡ mai San Francisco
hao gầy
bóng Mỹ
nợ nần
lửa khói
hoe đáy mắt phù du Thiên Cầm
phù du kiếp biển
mùi n­uớc mắm vàng lên chân lời Hồng Lĩnh
(Văn Cầm Hải)
… bên kia,
về phía bên kia nơi bờ sông quê hương
tháng Tư đang hành Lễ tẩy trần.
Làm sao em song hành cùng tôi về đứng bờ sông đêm nay?
trong cơn đau hoan lạc
hát vang bài tụng ca của nước
chảy đi
chảy đi
chảy trôi đi
chảy trôi tất cả đi …
Giở một vòm trời khác.
on ma nào đưa tôi ngồi quán
tôi rơi vào mắt cô gái Cham đầu tiên bán bia ôm
em ngồi sát vào khiến tôi rụt cái đầu con nít.
ồ tôi có thể dòm gì, làm gì em cũng được
nhưng tôi muốn dòm / làm gì!?
đôi mắt em chuyển màu suy nghĩ tôi
có gì liên quan giữa bắp chân tròn thô đậm rơm rạ em với cặp giò thon thả vũ nữ Apsara xưa?
(In ra sa ra)
Một nghìn ba trăm năm mươi mét cao ly hồng nở
đôi mắt bồ câu
vô biên im lặng
cơn mưa đồng phạm
con chó thảo hiền không biết sủa dẫn tôi đi cùng
bài thơ tình ăn theo mưa
ly thơm vào trưa
xấu hổ tôi cúi mặt
(Hoàng Vũ Thuật)
Những người làm Vô lối chối bỏ các phép tu từ: ẩn dụ ,ngoa dụ, hoán dụ, nói giảm, nói tăng(nghệ thuật thơ ca – thi pháp) của ông cha, viết một cách trần trụi, sống sượng kém truyền cảm,
Những con cá thiêng quay mặt khóc

Và cá thiêng lại quay mặt khóc

Vục cát lên
Tôi khóc
(Nguyễn quang Thiều)
Khóc cho đoàn tàu dừng lại
Khóc cho tà vẹc vỡ đôi
Khóc cho núi đồi sụp lỡ
(Dư Thị Hoàn)
Người viết Vô lối dùng hàng trăm chữ khóc, không một ai rớm lệ, dùng hàng trăm chữ cười, chẳng có nhếch môi.
Ngoài ra những người viết Vô lối còn đa quái, đại ngôn, sáo rống, trống huếch, rối rắm, tắc tỵ, tối như mõm chó lá đa, chẳng có một thông tin nào:
Cát đã vơi
Lẹ làng
Yểu điệu
Như chú ong vừa bay vừa tan
Chưa kịp vắng
Đã lại dào dạt chữ
………
Tôi nhớ tiếng bản lề kèn kẹt
mở từ xa tới gần
và nhớ
trong mũi tiêm quấn quýt một đám mây
hứa hẹn những nổi trôi ngoạn mục
(Nguyễn Bình Phương)
Vô lối còn lạm dụng dùng chữ nước ngoài, đối với âm Hán – Việt thì dùng vô độ những chữ chưa Việt hóa như: vô ngôn, thanh tẩy, cuồng thảo, khỏa thân, hàm ngôn, hoan ca, hoan lạc, bi ca, tuyệt ca; ngoạn mục, đối với tiếng Âu - Mỹ thì để nguyên cả chữ như wifi, link, thank you, hello, hercule:
Thanh tẩy mãi vẫn không thấy sạch
(Mai Văn Phấn)
Nhân loại đi qua
Vô ngôn
(Nguyễn Khoa Điềm)
Link tháng tư
….
Hercule đâu thần tu­ợng muôn dân.
(Vi Thùy Linh)
Mười năm đã đủ để khẳng định một phong trào thơ. Hai mươi năm càng đủ thời gian để khẳng định nhiều phong trào thơ. Vô lối đươc xuất hiện rầm rộ từ năm 1993 khi Hội Nhà văn Việt Nam trao giải cho tập Vô lối Sự mất ngủ của lửa đến hôm nay năm 2012, Hội Nhà văn Việt Nam lại tiếp tục trao giải cho 4 tập Vô lối khác là sự kết liễu của một cách viết Vô lối. Dù Vô lối được các cơ quan báo chí chính thống tung hô, được các học giả lăng xê, được ưu ái hưởng tiền thuế dân đóng ở những lần trao giải thưởng và nhiều lần khác.
Vô lối là một loại mà dân tộc Việt và cả nhân loại tiến bộ không thể chấp nhận được. Thế hệ cha ông chúng ta, chúng ta và con cháu chúng ta hôm nay ai ai lớn lên đều ở trong tiếng ru của ca dao, dân ca, của câu kiều (câu ca, câu thơ hay) - ca dao ru cháu, câu kiều ru con và cả câu Kiều của Nguyễn Du nữa. Con cháu chúng ta mai sau không có thể đem cái thứ Vô lối này được! Mà không thể làm tiếng ru được! Đó là điều hoàn toàn sự thật! Nó đươc ru vô lối thì nó lớn lên chắc chắn không thể thành người.
*
Trong bài viết vê "Một nền thơ đang chuyển động" nhà thơ Hữu Thỉnh trích dẫn có nhiều câu thơ chưa phải là hay
Gượng:
“Những mùa hoa đại trắng
Tiếng mõ chừng cũng thơm”
Nhạt:
“Chiều đứng lặng nghe tiếng người cuối bãi
Trăng lại treo mơ mộng trước hiên nhà”
Và triết lý vặt:
“Tối tối mẹ ta hay kể chuyện xưa
Sông vì biển mà dài, biển vì sông mà rộng”
Nhà thơ Hữu Thỉnh hơi lạm dụng từ Hán chưa Việt hoá:
Tiệm tiến là dần dần tiến, sao không nói dần dần tiến hay từ từ tiến mà dùng tiệm tiến. Người đọc chắc có người không hiểu tác giả nói gì.
Bài Một nền thơ đang chuyển cần xem lại!
Nhà thơ ĐỖ HOÀNG
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Chính Luận
tondSposer2ii
ú
27032642
p
h
0thla70t608411ut3m

3
9
c
t
m7t47030h59gt
·
Nguyễn Doãn Đôn
tondSposer2ii
ú
27032642

h
0thla70t608411ut3m
9
3
5
c
t
m7t470
p
0h59gt
·
Ông Hà Sỹ Phu viết:… Xem thêm
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Sinh nhật
Ngư

TÂM TÌNH VỚI CÁC NHÀ THƠ TRẺ

Tam tinh voi cacs nha tho tre, tacs gia Do Hoang muon nhacs nhow nguoi lam tho   

Thăm dò ý kiến

Bạn biết gì về NukeViet 4?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập7
  • Hôm nay344
  • Tháng hiện tại4,876
  • Tổng lượt truy cập166,598
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi