Kẻ tàn bạo

 15:05 12/07/2025

Học đạo đức nó làm gì?
Do Hoang
HỌC ĐẠO ĐỨC NÓ LÀM GÌ?
Những kẻ ác nhất trần gian
Hoc đạo đức nó để tan địa cầu!
Ha Noi 26 - 9- 2016
D - H
1- Thien Vu
2- Hitle
10 người độc ác và tàn bạo nhất lịch sử nhân loại
Trong lịch sử loài người, có rất nhiều những kẻ tàn bạo, đáng sợ. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi sẽ đưa ra một danh sách tổng hợp những người đàn ông ác nhất trong lịch sử. Ác ở đây không chỉ bao gồm việc tàn sát mà còn dựa trên những tác động xấu, sự tàn bạo mà họ đã gây ra cho cả xã hội. Sẽ có những ý kiến trái chiều vì những nhân vật này hoàn toàn cũng có đóng góp của họ. Nhưng về mặt khách quan, họ đã gây ra những hậu quả xấu trên quy mô lớn.
10. Thiền vu Hung Nô Attila
[​IMG]​
Cái tên đầu tiên trong danh sách đến từ xứ sở Hung Nô hoang dại. Attila hay còn được người châu Âu là Attila Rợ Hung, mang biệt hiệu "Ngọn roi của Thượng đế" hoặc "tai họa của trời", là Thiền Vu của Đế quốc Hung Nô từ năm 434 đến năm 453. Đối với Hung Nô thì ông là một người niềm tự hào, ông đã lãnh đại đế chế Hunnic trải dài từ Đức đến sông Ural và sông Danube tới biển Baltic. Nhưng với nền văn minh Tây Âu ông hiện thân là một kẻ tham lam và tàn bạo bậc nhất.
Ông đã chinh phạt khắp các chiến trận, từ vùng Balkan đén tận phát, thậm chí còn suýt chiếm được Đông La Mã. Tuy nhiên một dịch bệnh đã ngăn trở thành công của ông. Trên những con đường mình đi qua, ông ta đã cướp bóc và tàn sát rất nhiều người. Những cuộc thanh trừng của ông khiến cho bao kẻ nước mất nhà tan, phải sống một cuộc đời nô lệ phục vụ cho quân đội của vị vua tàn bạo. Ông còn được biết đến qua câu nói thể hiện tư tưởng tận diệt : "Nơi nào vó ngựa của ta đi qua, ở đó cỏ không còn mọc được nữa”.
Nhưng cuối cùng, trớ trêu thay vị hoàng đế đầy quyền lực này lại chết vì chảy máu cam trong tiệc cưới của chính mình.
9. Maximilien Robespierre
[​IMG]​
Nhiều người sẽ vô cùng thắc mắc và phản đối khi tên nhà lãnh đạo khởi nghĩa pháp lại có trong danh sách này. Ông là nghị sĩ của đẳng cấp thứ 3, đẳng cấp của tư sản và nông dân trong xã hội Pháp. Ông nổi tiếng qua những lời lẽ sắc bén và ý kiến sâu sắc. Năm 1789, ông tham gia cách mạng Pháp với tinh thần trách nhiệm cao và ý thức phục vụ nhân dân. Nhân dân Pháp tôn ông là "bạn của người nghèo", "lãnh tụ không thể mua chuộc”.
Tuy nhiên rằng trong cuộc đời cách mạng của mình, ông đã có những sai lầm nhất định. Ông là người đứng sau những cuộc hành quyết hàng loạt sau cách mạng lấy đi mạng sống của nhiều người vô tội. Số người chết dao động trong khoảng từ 18500 đến 40000 người, có rất nhiều người vô tội. Trong đó có khoảng 8% quý tốc, 6% giáo sĩ, 14% ở tầng lớp trung lưu và 70% là công nông dân. Những người này đều bị buộc các tội như tích trữ, đào ngũ, nổi loạn, … Đặc biệt trong số những người bị kết tội oan có nhà bác học nổi tiếng Antoine Laurent Lavoisier. Ông đã mất dần sự ủng hộ của nhân dân.
Cuối cùng thì ông cũng bị bắt và xử tử khi mới chỉ 36 tuổi bởi những người phản cách mạng.
8. Ruhollah Khomeini
[​IMG]​
Khomeini là một nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị gia người Iran, người lãnh đạo cuộc Cách mạng Iran 1979 trong đó chứng kiến sự lật đổ của Mohammad Reza Pahlavi, vị Shah cuối cùng của Iran. Sau cuộc cách mạng và một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc, Khomeini trở thành Lãnh đạo Tối cao của Iran - một vị trí có quyền lực tối cao cả về chính trị lẫn tôn giáo của quốc gia được hiến pháp đặt ra, cho tới khi ông qua đời. Trong thời gian lãnh đạo, ông đã thực thi luật Sharia ( luật hành vi hoặc luật tôn giáo của Hồi giáo) với những quy định về quần áo, ăn uống bắt buộc. Ai chống lại sẽ bị xử bởi những hình phạt khắc nghiệt. Trong cuộc nói chuyện tại trường Fayzieah ở Qom, ngày 30 tháng 8 năm 1979, Khomeini cho biết : “Những kẻ giả danh dân chủ để mang lại sự tàn phá cho đất nước này sẽ phải bị đàn áp và treo cổ”.
Ở trong nước ông rất được ủng hộ và tôn thờ nhưng ở nước ngoài, ông được biết nhiều vì sự ủng hộ những người bắt cóc con tin trong suốt cuộc Khủng hoảng Con tin Iran và lời kêu gọi fatwa (bản án) cho cái chết của công dân Anh Salman Rushdie.
Trong vụ thảm sát các tù nhân của Iran năm 1988, Khomeini đã ra lệnh cho tòa án ra phán quyết cho các tù nhân chính trị và giết những người chống lại chế độ. Hàng ngàn người đã phải chết, theo cuốn hồi ký của Grand Ayatullah Hossein Ali Montazeri thì số người chết lên đến con số 30.000.
Khomeini qua đời vì bệnh ung thư vào ngày thứ Bảy , 04 tháng Sáu năm 1989 ở tuổi 86.
7. Idi Amin
[​IMG]​
Idi Amin là một nhà chính trị và đã từng giữ chức tổng thống Uganda. Amin đã gia nhập quân đội thực dân Anh năm 1946 và đã được thăng lên đến hàm trung tướng và tư lệnh quân đội Uganda. Ông đã lên nắm quyền sau vụ đảo chính quân sự tháng 1 năm 1971, phế bỏ Milton Obote.
Trong thời kì của mình, ông đã ông đã đàn áp chính trị, lạm dụng nhân quyền và hành quyết các dân tộc khác, trục xuất người Ấn Độ ra khỏi Uganda. Số lượng người chết trong chế độ của ông chưa được xác định rõ nhưng được ước tính trong khoảng từ 80.000 đến 500.000 người. Ngày 04 tháng 8 năm 1972 , Amin đã ban hành một sắc lệnh trục xuất 60.000 người châu Á không phải là công dân Uganda.
Amin cuối cùng đã bị lật đổ, nhưng cho đến khi qua đời ông ta vẫn không hề bày tỏ sự hối hận vì đã lạm dụng chế độ cũng như những cái chết do ông gây ra.
6. Leopold II của Bỉ
[​IMG]​
Leopold II đã lập ra thứ được gọi là “Nhà nước Tự do Congo” (một quốc gia-doanh nghiệp của riêng ông). Mục đích của ông là để trích xuất cao su và ngà voi trong khu vực này. Việc sản xuất dựa trên cưỡng bức lao động, tàn sát … nhà nước Tự do Congo chìm trong cảnh khủng bố, giết chóc hàng loạt, săn người làm nô lệ.
Chế độ Nhà nước tự do Congo đã gây phẫn nộ trong dư luận quốc tế. Leopold đã cai trị vùng đất lớn hơn cả diện tích nước Bỉ và áp bức người dân ở đây bằng quân đội. Những lao động ở đây bị tra tấn, tàn sát dã man, họ bị chặt tay, chân khi không nghe lời... Con số nạn nhân ước tính khoảng từ 5 đến 20 triệu, số người chết là 3 triệu người.
Năm 1908, trong một hành động xoa dịu sự phản đối quốc tế về tính tàn bạo của Nhà nước Tự do Congo, chính quyền Bỉ đã đồng ý sáp nhập nơi đây thành một thuộc địa, là lập tức đổi tên thành Congo thuộc Bỉ. Tháng 12 năm 1909, Leopold II qua đời tại Laeken.
5. Pol Pot
[​IMG]​
Nhân vật này hẳn chẳng còn xa lạ với chúng ta nữa. Tội ác của vị thủ lĩnh Khmer đỏ đến nay vẫn còn được nhắc đến rất nhiều. Tên thật là Saloth Sar, được biết đến dưới cái tên Pol Pot, là người lãnh đạo đảng cộng sản Khmer Đỏ và là thủ tướng Campuchia từ 1976 đến 1979, cầm quyền không chính thức từ giữa năm 1975.
Ông ta đã lãnh đạo đất nước theo hướng nông nghiệp một cách cực đoan. Tất cả các cư dân thành phố được chuyển tới các vùng nông thôn để làm việc trong các trang trại tập thể. Việc lao động ở đây là sự kết hợp của lao động cưỡng bức, nô lệ, chăm sóc y tế kém, suy dinh dưỡng và hành quyết.
Chế độ Pol Pot đã giết hại từ 1,5 tới 2,3 triệu người trong giai đoạn 1975-1979, trong tổng dân số gần 8 triệu (26% dân số). Mục tiêu của chế độ là các nhà sư Phật giáo, những trí thức có ảnh hưởng phương tây, những người có vẻ là trí thức (như những người đeo kính), những người tàn tật, các dân tộc thiểu số như Lào và Việt Nam.
Lãnh đạo Khmer Đỏ khoe khoang rằng chỉ một hay hai triệu người trong số dân chúng toàn cuộc là cần thiết để xây dựng một xã hội điền địa cộng sản không tưởng. Đối với những người khác, thì theo câu châm ngôn, "sống cũng chẳng được gì; chết cũng chẳng mất gì. Hàng trăm ngàn người đã bị xiềng xích, bị buộc phải đào mồ chôn chính mình. Sau đó các binh sĩ Khmer Đỏ đánh họ đến chết bằng những thanh sắt và những cái cuốc hay chôn sống họ. Một chỉ thị của Khmer Đỏ về việc giết chóc đã ra lệnh, "Không được làm phí đạn dược" . Khmer Đỏ từ chối những lời đề nghị viện trợ nhân đạo, một quyết định cho thấy là một thảm hoạ nhân đạo, khi hàng triệu người đã chết đói và vì phải làm việc quá sức ở vùng nông thôn. (nguồn : Wikipedia)
Pol Pot mất ngày 15 tháng 4 năm 1998.
4. Vlad III Ţepeş
[​IMG]​
Vlad III của Ru-ma-ni (còn được gọi là Vlad Impaler, Dracula) là một vị Vương công của xứ Wallachia (phía nam Romania). Ông đã trị vì ba lần: trong các năm 1448, 1456 - 1462, và 1476. Ông ta được biết đến như một huyền thoại với cuộc sống lập dị, tính cách tàn bạo và những màn tra tấn cực kì tàn nhẫn được áp dụng trong triều đại của mình. Người ta tin rằng, tên tuổi của Vương công Vlad III đã ảnh hưởng đến hình ảnh con ma cà rồng trong tiểu thuyết Dracula của Bram Stoker vào năm 1897.
Dracula còn được gọi là Ţepeş nghĩa là Kẻ xiên người vì một trong những hình phạt là đóng cọ xuyên người. Ngoài ra còn có một phương pháp nổi tiếng nữa là phanh thây bằng ngựa … ngoài ra danh sách những hình thức tra tấn của ông còn dài dằng dặc với đủ các loại hình thức kinh tởm nhất. Có thông tin rằng chỉ riêng trong năm 1460 đã có 10.000 người bị Vlad tra tấn chết.
Theo lịch sử thì cha ông là hoàng thân xứ Wallachia và ở tại cung điện Tirgoviste. Năm 1442, vì lý do chính trị, Dracula và em trai đã bị vua Murad II bắt giữ làm con tin tại Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ cho tới năm 1448. Chính cuộc sống cầm tù chính trị, trong thời gian này đã đóng một vai trò quan trọng trong nhận thức của Dracula và cũng là thời kỳ hình thành cái nhìn bi quan về cuộc sống. Sau khi được thả thì Vlad III đã trả thù cho anh trai và cha (đã chết trong một vụ ám sát) bằng việc giết và đóng cọc toàn bộ những người có liên quan.
3. Ivan bạo chúa
[​IMG]​
Ivan IV là nhà cầm quyền đầu tiên của nước Nga chính thức xưng Sa hoàng. Trong thời gian cầm quyền kéo dài của mình ông đã chinh phục Tartar và Xibia cũng như chuyển nước Nga trở thành một quốc gia đa sắc tộc và đa tôn giáo. Trong lịch sử Nga, vị Nga hoàng này đơn giản được gọi là Ivan Bạo chúa hay Ivan Hung Đế vì những điều độc ác và tàn bạo từ ông.
Thời kì đầu, ông cai trị và sát nhập đất nước trong hòa bình. Nhưng đến thời kì cuối, do nhiều biến cố không mong muốn, ông dần trở nên mất ổn định và trở nên bạo lực. Những kẻ trung thành với ông đã đốt phá và cướp bóc thành phố cùng các làng mạc. Có thể tới 60.000 người đã bị giết hại trong vụ Thảm sát Novgorod nổi tiếng năm 1570. Năm 1581, Ivan đã đánh cô con dâu đang mang thai của mình vì tội mặc quần áo khiếm nhã, có thể đây là nguyên nhân khiến cô bị sảy thai. Con trai ông, cũng tên là Ivan, khi biết tin này đã lao vào một cuộc tranh cãi nảy lửa với cha, cuộc tranh cãi kết thúc khi Ivan dùng cây gậy nhọn đánh vào đầu con mình, gây ra cái chết của người con trai. Sự kiện này đã được thể hiện trong bức tranh nổi tiếng của Ilya Repin, Ivan Bạo chúa và con trai Ivan vào thứ Sáu, 16 tháng 11 năm 1581 nổi tiếng hơn với tên gọi Ivan Bạo chúa giết con trai.
Ông mất ngày 18 tháng 3 năm 1584 khi đang chơi cờ. Nhưng giới khoa học có những nghi ngờ về việc ông bị đầu độc thủy ngân.
2. Adolf Hitler
[​IMG]​
Danh sách này không thể thiếu đi Hitler, vị Quốc trưởng gây ra nạn diệt chủng Do thái và khơi ngòi chiến tranh thế giới thứ 2. Adolf Hitler được bổ nhiệm làm tướng Đức vào năm 1933, trở thành Quốc trưởng vào năm 1934 khi chiến tranh kết thúc năm 1945.
Chính sách của Hitler là xâm chiếm lãnh thổ và chinh phục chủng tộc đã xem lại sự diệt chủng hàng loạt. Vào năm 1939, có khoảng 10 triệu người Do Thái sống trên những lãnh thổ bị lực lượng của Hitler chiếm đóng. Dù theo ước lượng nào, điều chắc chắn là phân nửa số người này đã bị Quốc xã sát hại. Đấy là hệ lụy chung cuộc và cái giá ghê gớm của sự lầm lạc mà nhà lãnh đạo Quốc xã truyền tải đến - hoặc chia sẻ với - nhiều người đi theo ông ta.
Hitler đã tự tử bằng súng vào ngày 30 tháng 4 năm 1945, dưới boongke riêng của mình.
1. Josef Stalin
[​IMG]​
Stalin là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1922 đến năm mất 1953. Stalin còn là Tổng tư lệnh quân đội, hàm Đại nguyên soái Liên Xô. Ông là nhà lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920 cho đến khi qua đời. Ông có công lãnh đạo Liên Xô giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức, cũng như đưa Liên Xô trở thành một siêu cường thế giới. Tuy nhiên, ông cũng bị phê phán vì những chính sách sai lầm và tệ sùng bái cá nhân, và được xem là một nhà độc tài.
Dưới sự cầm quyền của Stalin, Ukraine đã phải chịu một nạn đói kinh khủng, ước tính số người chết từ 2,5 đến 10 triệu người. Nguyên nhân nạn đói này là do những quyết định chính trị và hành chính của nhà độc tài. Stalin đã ra lệnh thực hiện vụ thảm sát Katyn, bắn chết hàng ngàn sĩ quan Ba Lan bị bắt trong cuộc chiến thế giới lần thứ Hai khi Liên Xô cùng Đức Quốc Xã tấn công Ba Lan. Stalin sử dụng các phương pháp điều hành cứng rắn, bao gồm cả khủng bố nhà nước trong thời kỳ đại thanh trừng, theo ước tính từ tháng 08/1937 đến tháng 10/1938, chỉ riêng trong nhà tù tại Ủy ban an ninh quốc gia, chế độ Stalin đã bắn bỏ 20.760 người, trong đó có khoảng 1000 người lãnh đạo tôn giáo.
Tổng số người bị sát hại dưới chế độ cầm quyền của ông nay được ước tỉnh khoảng từ 10 đến 60 triệu.
Bổ sung: Hirohito
[​IMG]​
Được biết dưới tên Thiên Hoàng Chiêu Hòa, ông là Nhật Hoàng của Nhật Bản từ 1926 đến 1989. Năm 1937, quân đội Nhật Bản đã phạm tội ác chiến tranh mà bây giờ được gọi là Thảm sát Nam Kinh, cũng thường được gọi là vụ "Cưỡng hiếp Nam Kinh", là một vụ tội ác chiến tranh do quân đội Nhật Bản tiến hành bên trong và xung quanh Nam Kinh, Trung Quốc sau khi thành phố này rơi vào tay Quân đội Thiên hoàng Nhật Bản ngày 13 tháng 12 năm 1937. Thời gian diễn ra cuộc thảm sát vẫn chưa được biết rõ, dù bạo lực đã kết thúc trong vòng sáu tuần, cho tới đầu tháng 2 năm 1938.
Trong thời gian chiếm Nam Kinh , quân đội Nhật Bản đã thực hiện rất nhiều các hành động tàn bạo như hiếp dâm, cướp bóc, đốt phá với các tù nhân chiến tranh và thường dân. Một số lượng lớn phụ nữ và trẻ em bị giết, hãm hiếp. Số người chết khoảng từ 150.000 đến 300.000.
Tuy không trực tiếp nhưng ông là người trị vì khi vụ thảm sát xảy ra nên có vai trò trách nhiệm lớn. Thiên hoàng Chiêu Hòa qua đời năm 1989 sau một thời gian ốm đau dài.
Tham khảo: Listverse​

Nỗi đau tiên tổ

 15:00 12/07/2025

Nỗi đau tiên tổ
Chủ nhật - 03/01/2016 10:40


Ltg: Cách đây mấy năm Thủ tưởng Nguyễn Tấn Dũng nói trước đại chúng: Việt Nam đã chuyển 175 000 héc ta đất nông nghiệp thành nhà máy công xưởng cho doanh nghiệp trong nước và nước ngoài làm ăn xây nhà xưởng và nhà ở. Nước ta ba phần tư núi đồi bỏ không, đất bở xôi ruộng mất nghìn năm cha ông mới tạo dựng được dần dần biến mất, bê tông hóa. Thật là đau xót. Vậy có thơ rằng:

Đỗ Hoàng

NỖI ĐAU TIÊN TỔ

Ruộng vườn xôi mật hóa bê tông!
Đất nước mất tiêu vạn cánh đồng.
Quan lại lầu trang đi mỏi đít, (1)
Dân có ổ chuột xổm tê mông!
Gian tà ác bá nhiều như rắn,
Nghĩa sỹ hiền nhân hiếm tựa rồng!
Vằm nát dư đồ bầy khuyển mã.
Suối vàng tiên tổ có đau không!

Hà Nội ngày 1 – 1 – 2016

Đ – H

Vô lối Trúc Thông

 21:41 11/07/2025

GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG THƠ VIỆT
DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT
Dịch Vô lối Trúc Thông

Đỗ Hoàng

TRÚC THÔNG VÔ LÔI

Ltg: Nhà thơ Tiến sỹ Văn chươg Trần Quang Đạo, nhà thơ Tiến sỹ Triết học Nguyễn Linh Khiếu nói với tôi: “ Vừa qua báo chí, các nhà phê bình tang bốc Trúc Thông lên quá, chúng mình không có mắc mớ gì với ông, ông là người tốt nhưng thơ làm mới của ông hỏng hết, không được cái gì, Đỗ Hoàng nên viết một bài phản biện.
Tôi đáp: “Tôi cũng vậy, anh Thông tốt với mọi người, nhưng thơ làm mới của anh như ma - nơ – canh (tượng gỗ ở các cửa hàng may mặc )! Tôi đã viết bài “Đau chữ không thể thành thi sỹ” và dịch “thơ Vô lối” của Trúc Thông ra thơ Việt và dịch thơ Vô lối của những kẻ nhân danh cách tân làm hỏng thơ Việt”.
Hai Tiến sỹ bảo tiếp: - Cứ viết nhiều vào!
Tôi : Oke! Được ngay!
Văn bản:


Nhà thơ Trúc Thông

Nguyên bản:

PHẢI LÒNG RỪNG NÚI (1)

Kính tặng nhà giáo Đỗ Đắc Oánh
Bên dòng sông thời gian
Tóc thầy ngả bạc

Thày gieo trong trái tim học trò
Hơn bốn mươi năm qua
Một mối tình tận tụy
Vượt các giáo trình
Thày dạy môn yêu thương

Cả đời người sống với vùng cao
Vẫn không quen rượu
Nhưng thay say say
Men tình người
Ôi những bản không thể còn nghèo hơn
Và không thể tốt hơn được thế…


Ít dịp xuôi thành phố
Thày mong mong về lại những chiếng xưa
Cơm bày ra gà đã gáy canh ba
Tâm sự bốn mươi năm tới sáng.
Ngắm tóc nhau ngả bạc
Bên màu xanh trong suốt của rừng
(Rút trong tập Vưà đi vừa ở NHXB Hội Nhà văn 2005)
(1) Bài in trên báo Văn Nghệ số 46 ngày 14-11-2015)
Lới bình:
Đây là một bài Vô lối nhạt nhẽo, sơ sài, nội dung không có gì. Ca ngợi một ông giáo cắm bản mà chả thấy toát lên hình ảnh nào cảm động, tình cảm nào sâu sắc. Cách lập luận, cách làm mới ra vẻ cách tân càng làm cho bài viết như một thứ của giả, gượng gạo, khô khan, đầy lỗi trong cách cảm, cách nghĩ và dùng từ!
Trước hết là cách đặt tựa đề.”Phải lòng rừng núi” Nó hỏng từ câu này. Hai từ “Rừng núi” thì có thể chọn một từ “Núi” là đủ nghĩa. Còn phải lòng thì người Việt hay dùng cho trái gái yêu nhau. Cô này phải lòng anh kia, anh kia phải lòng ả nọ. Thày giáo đến dạy chữ là đem phần trí tuệ thiêng liêng đến cho núi. Tình cảm ấy nằm ở phần kính trọng, cao hơn tình cảm trai gái phải lòng nhau. Có thể thày là con của núi cũng không thể nói núi phải lòng thày hay thày phải lòng núi được, dù sau này thày có thể nên duyên với gái núi.
“Bên dòng sông thời gian”, nói cái thực bằng cái ảo, dùng một lần có thể hay, dùng một người có thể được; nhưng dùng nhiều lần, nhiều người dùng như “đi bên mùa thu”, “gấp đêm làm gối cho ngày rạng ra”, “chạm môi Thăng Long nghìn tuổi”, “đẻo tư tương Nit sơ làm guốc mộc”… thì gượng gạo, kém thẩm mỹ! Mà kiểu nói này không mới, người ta đã dung ngàn năm nay, như: “Trâu Yak mang trên lưng mùa thu” (Tạng thư).
Nhiều người khen chữ gieo, khen Trúc Thông đã đem cái từ chỉ dùng trong nông nghiệp phân gio vào được thơ. Thực ra là hỏng, nó không có gì hay ho ở việc dùng gieo vào con tim học trò. Con tim phải thắp lên, thổi bùng lên, chớp lên, hình ảnh ấy mới lộng lẫy như hình ảnh Đanko lấy tìm mình thắp lửa thổi bùng lên cho mọi người bước qua đầm lầy!. Còn “gieo” thì “gieo mầm” mùa xuân là quá được rồi. Và cũng nên cho chữ “gieo” này dừng lại ở phần phân gio nông nghiệp.
“Vượt các giáo trình
Thày dạy môn yêu thương”
Đây là kiểu nói hàm hồ, nói lấy được. Kiểu nói của người không hiểu nghề dạy học! Chưa một người thày nào, cô nào giỏi đến mức dạy hết giáo trình dạy học, dù giáo trình dạy học từ thời phong kiến để lại. “Thày dạy môn yêu thương” tưởng là kiểu nói làm mới nhưng nó cũ rich và phản cảm. Kiểu nói của đứa trẻ lên ba chưa đi học. Không có môn nào trong các giáo trình của xưa và nay không là môn yêu thương.
Văn ngày xưa cha ông dạy:
“Thương người như thể thương thân
Thấy người hoạn nạn thì thương”…
…”Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn
Lấy chi đền nỗi khó khăn
Thôi thôi ta lên non gánh đá về xây lăng phụng thờ!”
…”Mụ cài chài (ngư dân) thả con cá long còng cong,
Thương anh đứt tấm ruột, tấm lòng ơi anh ơi!”...
…”Một ngàn ba mươi vạn thằng Tây
Thảm thương cái mụ ăn mày cái xách cái bị loọng toòng, tọ tè ti te tọ tọ tè ti ti tè!

Và nay:
“Yêu tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt
Lao động tốt”
(Hồ Chí Minh)
Đó không phải môn yêu thương là gì?
Đấy là chưa kể các môn Luân lý, Đạo đức, Công dân, Chính trị. Ngay môn toán chỉ là con số nhưng cũng tràn đầy yêu thương:
“Mắt em nhìn ngấp nghé góc anpha”
“Bắt được quả tang, sin nằm trên cos”
Hay: “Bên nhà nghe tiếng nói dân công
Thảo luận cùng nhau việc gánh gồng
Một người hai gánh thừa một gánh
Hai người sáu gánh bốn người không.
Chiến trường bộ đội đang cần đạn
Tính số dân công, số gánh gồng?”
Câu tiếp:
“Cả đời người sống ở vùng cao
Vẫn không quen rượu…”
Câu này Trúc Thông muốn khen ông giáo cắm bản ở với dân vùng cao đầy rượu chè như ông vẫn “trong sạch” không nhuốm hơi men. Tưởng thế là đạo đức lắm, thanh cao lắm. Nhưng nhầm. Phàm con người, ngay cả con vật, thần kinh tốt, tố chất thông minh, sức khỏe hoàn hảo đều rất thích chất kích thích (rượu, bia, thuốc lá, hê rô in, đực cái…). Những bậc kiệt hiệt họ biết dùng và biết dừng. Chỉ những anh lại giống, ẻo lả, nửa đàn ông, nửa đàn bà mới kiêng các món trên. Ngay cả phụ nữ khỏe mạnh, thông minh cũng xài được các thứ ấy. Ông giáo cắm bản của Trúc Thông chắc là pede Thái Lan (!). Giả dối hết mực, sượng sạo hết mực, mậu dịch hết mức!
Hai câu này sai không thể chữa được:
“Ở những bản không thể còn nghèo hơn
Và không thể tốt hơn được thế”
Trúc Thông chưa đến bản Là Si của người La Hủ trên biên giới Việt – Trung thuộc địa phận huyện Mường Tè, Lai Châu. Bản không có thày đến dạy như bản của Trúc Thông. Ngườiì ta ở trong túp tranh lá vàng và ăn rễ cây, giun đất, chuột sóc làm gì có trường, có lớp. Bản Là Si sẽ nghèo hơn bản trên là cái cái chắc! nói lấy như thế nên cho điểm không về chỗ!
Mà bản nghèo ăn không đủ thì giúp ai? Làm sao tốt hơn bà mẹ người Hy Lạp suốt tuần, suốt tháng nấu cơm, đưa thực phẩm, thức ăn, lều bạt cho người tỵ nạn bơi qua Đại Trung Hải thoát vòng I S vừa qua!
Trong bài câu nào cũng sượng sùng lên gân, sai bét về mặt tâm lý tình cảm. Nhiều câu sáo rỗng dở hơn cả câu văn xuôi:
“Nhưng thày say say
Men tình người”
Có nhiều câu quá dở:
“Một mối tình tận tụy”
“Phải lòng rừng núi” là một bài thơ Vô lối của Trúc Thông không có giá trị gì,thơ Vô lối của Trúc Thông không có giá trị gì. Ông phải chuốc lấy sự thất bại thảm hại trong đời thơ của mình!
Như:
“Vỹ nhân công sức còn lại
Càn khôn muôn thế rộng dài
Hòn đá bên đường thành bại
Mỉm cười tay trắng đời trai!
(Đỗ Hoàng)
Đời thơ Trúc Thông thực là tay trắng!
Dịch ra thơ Việt:
Đỗ Hoàng

VỚI NÚI

Theo dòng sông thời gian
Tóc thày giờ ngả bạc
Thày là người gieo hạt
Mầm xanh tim học trò!
Hơn bốn mươi năm qua
Yêu ghề vẫn nồng mặn
Thức cùng trang giáo án
Lời thày, lời yêu thương!

Cả đời gắn vùng cao
Tình nồng như ché rượu
Những cái say muốn níu
Dào dạt men tình người.
Ôi những bản tận nghèo
Ai dám so lòng tốt?
Phố phường thày xuống ít
Chỉ mong về chiềng xưa.

Và cơm trong tiếng gà
Chuyện một đời tới sáng
Ngắm tóc nhau bạc trắng
Bên màu xanh núi rừng!

Hà Nội ngày 27 – 12 – 2015
Đ - H

Vịnh Đỗ Chu

 21:38 11/07/2025

Vịnh Đỗ Chu
Vịnh Đỗ Chu
Thứ năm - 31/12/2015 12:31
Ltg: Văn xuôi Đỗ Chu uyển chuyển, chữ nghĩa thanh thoát, nhẹ nhàng rất đặc trưng văn xuôi Bắc Hà nhưng rất nhạt với sự hời hợt, phớt Ăng lê trước nỗi đau tột cùng của nhân quần trong chiến tranh dai dẳng huynh đệ tương tàn xương chất thành núi, máu chảy thành sông! Và tiếc tác phẩm của ông không có tư tưởng gì, chỉ là một thứ tụng ca không mới! Ví như phim Bác Hồ năm 1946, Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, Biệt động Sải Gòn, Ván bài lật ngửa, Dòng sông phẳng lặng…
Vậy có thơ rằng:


Đỗ Hoàng


VỊNH ĐỖ CHU

Nhàn nhạt văn xuôi có Đỗ Chu.
Thuộc dòng xưng tụng loại ba xu!
Tum toe mấy chữ kênh bà,Đốp
Chóp chép vài lời đỡ Bố Cu!
Cứ tưởng đây là quầng điện sáng,
Nào ngờ đấy chính chóp đèn lu.
Văn chương Nam Việt mà như thế.
Không thẹn những thời rạng Đại Ngu!
Hà Nội, 2014
Đ - H

Người đăng: do hoang vào lúc 21:43 Không có nhận xét nào:

25 tập thơ Tâm sự người lính xuât bản

 15:57 11/07/2025

25 NĂM "TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH " ĐƯỢC XUẤT BẢN, 3 NĂM ĐƯỢC TÁI BẢN

1, Giấy phép nhà xuất bản Văn học do Lữ Huy Nguyên ký năm 1996
2, Giấy phép nhà xuất bản Hội nhà văn do Nguyễn Quang Thiều ký năm 2018
a, Nguyễn Khoa Điềm lúc đó bộ trưởng hay thứ trưởng bộ Văn hóa thông tin kiêm Tổng thư ký (chủ tịch) Hội nhà văn Việt Nam ra lệnh cấm "Tâm sự người lính". Đi đâu gã cũng vu oan giá họa: "Tác giả thay bài". Từ đó trở đi các nhà xuất bản phải bảo biên tập viên ký duyệt từng trang một.
b, Xuân Thiều người giới thiệu thứ hai cho tôi vào Hội nhà văn Việt Nam, ông nói: " mình ký xong rồi, nhưng mình rất buồn Hoàng viết "Tâm sự người lính".
c, Cao Tiến Lê chỉ thẳng mặt tôi bảo: "Mi ở đơn vị tao, tao tước quân tịch đuổi ra khỏi quân đội. Sao mi nói xấu cụ Hồ và Tố Hữu rứa?

Kiều thơ

 15:54 11/07/2025

Kiều Thơ - giới thiệu tác phẩm




























Đỗ Hoàng








Kiều Thơ















Nhà xuất bản Hội Nhà văn























Lời đầu sách :

Nhà thơ Đỗ Hoàng sáng tác và dịch Kim Vân Kiều truyện nguyên bản ra thơ lục bát gồm 6.122 câu

Trong nguyên bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Tử có gần 1 000 câu thơ do Kiều (572 câu), Thúc Sinh (110 câu), Sở Khanh (8 câu) , Giác Duyên (4 câu), Tống Ngọc (44 câu) sáng tác. Đại thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều có nhắc đến việc Kiều sáng tác nhưng không có tác phẩm nào được dịch. Mà Kiều cũng như Thúc Sinh, Sở Khanh...có rất nhiều thơ. Chẳng hạn: Thơ luận về bạc mệnh, thơ viết ở gốc cây, thơ vịnh, thơ thù tạc, thơ viết ở cửa công… “Khúc nhà lay tựa nên chương/ Một thiên Bạc mệnh lại càng nảo nhân” hay: “Rút trâm sẵn giắt mái đầu/ Vạch da cây vịnh bốn câu, ba vần” và “Lòng thơ lai láng bồi hồi/ Gốc cây lại vạch một bài cổ thi”… Khi sáng tạo ra thơ lục bát, Đỗ Hoàng dịch tất cả các sáng tác của Kiều, Thúc Sinh, Sở Khanh, Giác Duyên và bài Chiêu hồn tử của Tống Ngọc do Kim Trọng đọc lúc cả nhà Vương Thuý Kiều đoàn viên.



Trong Truyện Kiều Nguyễn Du có viết:
“Khúc nhà, tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh lạị càng nảo nhân”

Nguyên bản Hán - Việt:

Bạc mệnh oán khúc

Hoài cố quốc hề thán ná Sâm Thương,
Bi luân vương hề ngọc dung hà tường?
Tỉ muội cố sủng hề nhất triêu câu tử,
Đông quân bất lệnh hề Phụng Tiên diệt vương.
Hầu môn tự hải hề Tiêu Lang mạch lộ
Thất thân phi loại hế Mậu Lâm tranh quang.
Vị lang tiều tuỵ hề cập nhĩ đồng tử,
Ly hồn tình trọng hề thiển xướng ám thương.
Tử phụ phụ thi hề sinh đại phụ tử,
Sủng suy hoàn phiến hề nhĩ sinh bất xương.
Hữu thuỷ vô chung hề bi hồ thất lữ,
Môn tiền linh lạc hề lão đại thuỳ tương.
Cổ kim hồng nhan hề mạc bất bạc mệnh.
Hồng nhan bạc mệnh hề mạc bất đoạn trường.
Ngã bản oán nhân hề nãi vi oán khúc,
Văn thử oán khúc hề thuỳ bất bi thương.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:

Khúc oán mệnh bạc

Lòng nhớ về quê cũ, những lần lữa cách trở như Sâm, Thương,
Hồng nhan có phải để nỗi buồn như điềm gở?
Chị em Triệu Phi Yến được vua sủng ái như thế một sớm cũng tiêu tan!
Phụng Tiên chết thảm, Chúa Xuân cũng vô tình.
Một bước vào chốn Công hầu khác nào bước xuống bể thẳm, chàng Tiêu Sử trở thánh khách qua đường!
Gái ở chốn Mậu Lâm tài sắc đủ điều xe duyên chẳng lựa đành bỏ mạng.
Lòng dạ thiếp đây tiều tuỵ, khô héo cũng vì chàng.
Hồn bỏ đi cửu tuyền, tình nặng vô vàn sao chẳng cùng khuất nẻo trần gian? Cất lên những tiếng than nảo nề, ai oán!
Nàng Tào Nga đội thây cha chết đuối, cha lớn lao sinh con lớn lao!
Tấm lòng sủng ái lúc yêu, lúc ghét, sương thu lạnh, mảnh quạt để rơi.
Trước cửa lạnh lùng, lúc già cỗi còn ai cầu nữa.
Xưa nay hồng nhan đều là người bạc mệnh.
Hồng nhan bạc mệnh làm không khỏi nỗi đau đứt ruột.
Ta cùng là khách má hồng ai oán làm ra khúc oán này.
Hỏi ai khi nghe khúc oán này mà không buồn thương bi luỵ!
Đỗ Hoàng dịch thơ:

Khúc oán mệnh bạc

…Nhớ về cách trở Sâm, Thương. (1)
Hồng nhan là giống buồn vương luỵ phiền.(2)
Triệu nương vua chuộng ngày đêm (3)
Chúa Xuân chán bỏ Phụng Tiên chết sầu!(4)
Chàng Tiêu người ngọc thấy đâu? (5)
Mậu Lâm con gái gieo cầu trái duyên! (6)
Vì chàng khô héo thuyền quyên (7)
Hồn vương ly loạn cửu tuyền, trần gian. (8)
Cứu cha ghi dấu sử vàng! (9)
Tấm lòng ưu ái vì nàng đó thôi! (10)
Bởi đâu làm lỡ lứa đôi?
Vô duyên già cội chẳng ngồi lầu trang (11)
Cổ kim bạc mệnh hồng nhan! (12)
Má hường phận mỏng đa đoan, đoạn trường! (13)
Với ta khúc oán Kiều nương.
Ai nghe không khỏi xót thương phận mình!...

Chú thích:
(1) Tích cũ là hai ngôi sao trên trời chỉ sự xa cách.
(2) Thuyết hồng nhan
(3) Triệu Phi Yến người đẹp đời Hán được vua sủng ái, sau chết vì oán hờn.
(4) Phụng Tiên tên hiệu của Triệu Phi Yến.
(5) Tích xưa, chàng Tiêu bán thiếp tài sắc vào cửa Công hầu không bao giờ thấy mặt nữa.
(6) Tích ở Tư Mã Tương Như - Con gái miền Mậu Lâm đẹp nhưng cầu hôn không đúng chỗ nên xảy ra nhiều oan trái.
(7) Thuyền quyên là gái đẹp.
(8) Theo đạo Phật chết còn hồn vương lại dưới chín suối và trên cõi trần
(9) Tích Tào Nga một thiếu nữ đời Đông Hán liều mình xuống sông cứu cha được đời sau khen ngợi.
(10) Ai cũng yêu mến Tào Nga.
(11) Ca dao: “Còn duyên kẻ đón, người đưa/ Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng”, chỉ nhưng cô gái hết duyên không còn ngồi được ở lầu hồng.
(12)(13) Thuyết hồng nhan bạc mệnh - Người đẹp đều bất hạnh trong tình yêu và cuộc sống.

Kiều làm thơ trước mộ Đạm Tiên (Bài một) :

“Rút trâm sẵn giắt mái đầu
Vạch da cây vịnh bốn câu, ba vần” ( Nguyễn Du).
Đoạn này trong nguyên bản, Kiều không vạch da cây, Thanh Tâm Tài Tử chỉ tả: …Vừa khấn, vừa đốt hương rồi thụp ngồi trước mộ, bái xong bốn bái, nàng mới đề một bài thơ như sau:

Nguyên bản âm Hán - Việt:

Sắc hương hà xứ dã,
Bằng điếu thống tâm tai.
Minh nguyệt lãnh loan bị,
Ám trần phong kính đài.
Ngọc tuy hoàng thổ oánh,
Danh vị bạch tuyết mai,
Thượng hữu như miên tửu
Vô nhân điện nhất tửu bôi.

Đỗ Hoàng dịch nghĩa:

Sắc hương đã trôi dạt về miền nào rồi?
Đến đây viếng thăm lòng đau đớn lắm thay!
Trăng sáng lạnh lẽo soi chăn uyên.
Bụi ám mờ tấm gương trong.
Ngọc bị bùn đen vầy lấp.
Danh chưa thành trước cây tuyết mai trắng.
Trên còn chung rượu say.
Không ai rót một chén rượu cho người bạc mệnh, thì có em đây!

Đỗ Hoàng dịch thơ:

…Sắc tài chẳng có tri âm, (1)
Buốt lòng thăm viếng, lệ thầm xót xa!
Chăn đơn lạnh lẽo bóng ngà, (2)
Trải bao gió bụi nhạt nhoà gương trong. (3)
Bùn nhơ vầy bẩn ngọc hồng! (4)
Tuyết mai trắng xoá tên không tỏ bày. (5)
Chỉ em cùng chị hôm nay, (6)
Xin dâng một chén rượu cay đượm nồng!..
Chú thích:
(1) Tích xưa, bạn thân nhất.
(2) Ngà chỉ ánh trăng, nghĩa bóng là người đẹp.
(3) Gương trong chỉ người đẹp.
(4) Ngọc hồng chỉ người đẹp.
(5) Tuyết mai trắng xoá chỉ người đẹp.
(6) Chỉ em cùng chị : Thuý Kiều và Đạm Tiên.

Kiều làm thơ trước mộ Đạm Tiên (Bài hai):

Lòng thơ lai láng bồi hồi
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi ( Nguyễn Du)
Đoạn này trong nguyên bản củaThanh Tâm Tài Tử có tả: …Linh hồn người trước nay đã cảm thông, vậy trước khi ra về em cũng phải có mấy câu từ biệt. Nói xong nàng liền rút chiếc trâm ở trên mái tóc vạch vào gốc cây một bài từ tạ như sau:

Nguyên bản âm Hán – Việt:

Tây phong hà hối khí,
Trân trân sử nhân ai.
Thảm thiết như hàm oán,
Thê lương tự hữu hoài.
Thừa loan nghi sạ khứ,
Khoá hạc nhạ trùng lai.
Bất đoạn hương hồn xứ,
Thương thương xi ấn đài!
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:

Gió tây thổi tới lúc nào đó?
Từng trận, từng trận làm cho lòng người sầu nảo.
Thảm thiết như ngậm một nỗi oán.
Buồn bã thê lương như nhớ nhau.
Hình chim oanh đã vụt biến đi đâu
Bóng chim hạc lại chợt về sau đó.
Hương hồn không mất chốn này.
Gót ngọc còn in trên lớp rêu xanh!

Đỗ Hoàng dịch thơ:

…Gió tây tơi táp bời bời,
Nát tan cây cỏ chẳng vơi mối sầu.
Ngậm hờn, oán tủi, oan sâu.(1)
Thê lương nguồn cội, rầu rầu nhớ nhung! (2)
Oanh vờn chấp chới mông lung,(3)
Bóng chiều cánh hạc ngại ngùng về mau. (4)
Hương hồn còn mãi muôn sau, (5)
Gót tiên, dáng ngọc in màu rêu phong!... (6)



Chú thích:
(1) Nguyên bản Hàm oán là ngậm nỗi oán hờn.
(2) Thê lương: Buồn thảm, não nùng.
(3) (4) Chim oanh và chim hạc.
(5) Theo thuyết nhà Phật thì người chết rồi nhưng linh hồn vẫn còn.
(6) Gót tiên, dáng ngọc chỉ Đạm Tiên














Mở đầu

Cõi đời muôn đắng, ngàn cay.
Kiếp tằm có được một ngày nào vui. (1)
Trải bao chìm nổi dập vùi
Mong manh phận số ngậm ngùi, xót thương!
5- Xem ra trong cõi vô thường, (2)
Càng gian ác lắm, càng vương tội đồ. (3)
Thiên Hà cũng thể hư vô. (4)
Trăm năm chỉ nắm đất khô ngoài đồng! (5)
Trầm luân đầy đoạ má hồng (6)
10- Tài tình, quốc sắc lắm lòng ghét ghen.(7)

Chương một
Gia thế Kiều

Sách xưa xem kỹ trước đèn.
Kim Vân Kiều truyện tiếng khen truyền đời. (8)
Vào năm Gia Tĩnh thứ mười, (9)
Bên Tàu cựu quốc thuộc thời nhà Minh. (10)
15- Ở trong thành nội Bắc Kinh, (11)
Có Vương Viên ngoại Tử Trinh tự là. (12)
Hiền thê dòng dõi họ Hà.
Vương ông tên thật phiên ra Lưỡng Tùng. (13)
Giàu sang thuộc loại bậc trung.
20- Ở ăn hiền hậu cả vùng mến yêu.
Đầu lòng hai gái mỹ miều.
Em Thuý Vân, chị Thuý Kiều sắc hương!
Phúc cho gia tộc họ Vương,
Vương Quan trai út theo đường thư thi.(14)
25- Thuý Vân rực rỡ xuân thì,
Bàn tay tháp bút, làn mi diệu huyền
Mắt long lanh nước hồ tiên,
Lưng ong mềm mại dịu hiền căn cơ. (15)
Thuý Kiều sắc sảo mộng mơ,
30- Mày ngài mắt phượng, cầm thơ đều rành.
Sắc tài hiếm có, lừng danh.
Ánh nhìn nghiêng nước, nghiêng thành người ta. (16)
Kiều nương nổi tiếng hào hoa
Tinh thông nhạc lý, tài ba Hồ cầm (17)

35- Giỏi đàn hát, giỏi ca ngâm,
Cung, thương biến hoá ngũ âm tuyệt vời. (18)
Cầm kỳ thi hoạ nhà nòi.
Một khúc Bạc Mệnh rụng rời gió sương (19)
“Nhớ về cách trở Sâm, Thương. (20)
40- Hồng nhan là giống buồn vương luỵ phiền.(21)
Triệu nương vua chuộng ngày đêm (22)
Chúa Xuân chán bỏ Phụng Tiên chết sầu! (23)
Chàng Tiêu người ngọc thấy đâu? (24)
Mậu Lâm con gái gieo cầu trái duyên! (25)
45- Vì chàng khô héo thuyền quyên (26)
Hồn vương ly loạn cửu tuyền, trần gian. (27)
Cứu cha ghi dấu sử vàng! (28)
Tấm lòng ưu ái vì nàng đó thôi! (29)
Bỡi đâu làm lỡ lứa đôi?
50- Vô duyên già cỗi phải dời lầu trang (30)
Cổ kim bạc mệnh hồng nhan! (31)
Má hường phận mỏng đa đoan, đoạn trường! (32)
Với ta khúc oán Kiều nương.
Ai nghe không khỏi xót thương phận mình!”
55- Thấu tài thi bá phục tình (33)
Hào hoa, nét ngọc, thông minh vĩnh hằng!
Chị em đang độ tròn trăng,
Xa gần khách nức tiếng tăm tìm về.
Thanh nhàn khuê các mộng mê,
60- Mặc ai nghìn dặm sơn khê kiếm tìm.
Chương hai
Kim Trọng

Có chàng tú sỹ đa tình. (34)
Họ Kim, tên Trọmg phú vinh nghìn vàng
Khôi ngô như thể Phan An (35)
Tài thơ Tử Kiến so chàng cũng thua.(36)
65- Chữ như bức hoạ thêu thùa,
Văn tài thần, phật ngàn xưa độ trì!
Phong lưu khó có ai bì?
Nếp nhà gia giáo thư thi thánh hiền!
Chàng vừa qua tuổi thiếu niên (37)
70- Nặng lòng mơ mộng dáng tiên trên trời.
Mong tìm ngọc nữ giữa đời,
Sớm khuya chiều sáng rối bời, bâng khuâng!
Đơn phương tình mộng trào dâng.
Đêm chằn chặn nhớ, ngày lâng lâng mồng!
75- Nghe danh Kiều khách má hồng,
Tây Thi tài sắc cũng không so tày.(38)
Nổi danh thơ phú tuyệt hay,
Thạo thành ca khúc, lại tay Hồ Cầm.(39)
Ước gì là được tri âm,
80- Thoả bao khao khát, âm thầm nhớ mong.
Tháng ngày mòn mỏi chờ trông,
Người tiên vẫn chốn phòng không mịt mù.
Mùa đông cảnh sắc thâm u,
Mây chìm trong sóng, trăng lu cuối ngàn.
(còn nữa)

Tac phẩm hay do trời ban tặng

 19:14 10/07/2025

Tác phẩm hay do Trời ban tặng
Báo TỔ QUỐC – Điện tử - Tạp chí Nhật Lệ
VĂN HỌC QUÊ NHÀ
ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VĂN CHƯƠNG VÀ DƯ LUẬN CHÂN DUNG ĐỐI THOẠI VĂN XUÔIGIỚI THIỆU SÁCH THƠ THƠ MỖI NGÀY TIN TỨC
Tác phẩm hay là do trời ban tặng
18-01-2008 03:58
(Toquoc)- Tôi gặp nhà thơ Đỗ Hoàng, trưởng ban biên tập thơ của Tạp chí Nhà Văn vào một ngày đầu đông, nắng vẫn vàng như rót mật. Nhìn con người nhỏ bé ấy tôi vẫn thấy toát lên sức sống căng tràn của tuổi trẻ, mặc dù ông chẳng còn trẻ chút nào.
Quán cà phê 84, Nguyễn Du sáng hôm ấy ít khách, nhân viên trong quán chắc đã quen bởi lối nói chuyện dân dã và đầy nhiệt huyết của ông, nhưng với tôi, dù đã phần nào hiểu biết về con người này vẫn không khỏi lấy làm thú vị.
Nhà thơ Đỗ Hoàng sinh ra ở miền đất Quảng Bình đầy nắng và gió với muôn vàn nỗi khó khăn, vất vả mà mảnh đất Miền Trung nào cũng phải gánh chịu. Một thời gian ông sống ở Huế, rồi tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc… Qua nhiều duyên nghiệp cuối cùng ông trở thành nhà thơ, sống và làm việc như một nhà báo tại Hà Nội. Cuộc đời con người thật chẳng thể nói trước…
Gọi Đỗ Hoàng là nhà thơ thì chưa hẳn đúng vì ông viết cả tiểu thuyết và phóng sự, kí sự. Từ bài thơ đầu tiên- “Ngày mùa” được in ở báo Văn nghệ Quảng Bình cho đến nay ông đã in được sáu tập thơ, bốn tiểu thuyết và một tập phóng sự… Không nhiều một cách đặc biệt chú ý nhưng cũng đáng nể. Ông không có ý định trở thành một nhà thơ và hoạt động văn chương vì buổi đầu ông học Sư phạm Toán và đã từng là thầy giáo dạy toán. Nhưng như là mối lương duyên tiền định từ kiếp trước, niềm yêu văn chương của ông cứ le lói sáng rồi bùng lên lúc nào không biết. Những câu thơ, câu văn của ông là hiện thực về cuộc sống nơi mảnh đất ông sinh ra, là những vùng đất ông đã đi qua trong chiến tranh, là những ngày khốn cùng của đất nước… Hãy cùng đọc một vài vần thơ của ông như:
Anh đi trên trái đất cô đơn,
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
- Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.
(“Cái chết người đẹp”- Quảng Trị 1974)
Hình ảnh xác người phụ nữ im lìm nơi chiến trường đổ nát cứ ám ảnh vào tâm trí tôi. Sao không phải là một anh lính, là một người đàn ông với cảm giác quen thuộc mỗi khi nói đến chiến tranh mà lại là một “người đẹp”. Không phải là không có những người phụ nữ nơi chiến trường nhưng hình ảnh này quả là đặc biệt, ít thấy, thậm chí chưa thấy trong văn chương. Đỗ Hoàng vừa tạo một ấn tượng về hình ảnh, lại tạo được cả ấn tượng về cảm xúc. Một thứ cảm xúc đau đớn, uất hận trong tâm hồn. Lẽ ra những hình ảnh đó sẽ không bao giờ được nói đến…
Có lẽ tâm hồn nhạy cảm cộng với những trải nghiệm thực tế khiến thơ của ông nhiều niềm đau hơn là sự vui vẻ. Nó cứ nhẹ nhàng thấm sâu vào hồn của đất, của núi, của sông rồi tâm hồn người đọc. Đối với Đỗ Hoàng văn chương chỉ là những tâm sự cần phải giãi bày từ tâm hồn nhạy cảm và nhiều băn khoăn, trăn trở của ông. Và nỗi buồn được ông định nghĩa là:
Tôi chết đi vì buồn.
Tôi sống thêm nhờ buồn.
Cũng vì buồn mà tôi yêu
Cũng vì yêu mà tôi buồn.
Tôi có thể mất đi
Nhưng buồn tồn tại.
Trái tim còn mãi!
(“Buồn”- Huế 1985)
Ông chẳng cầu kì, diêm dúa trong văn chương, cũng chẳng dùng những mĩ từ như quan điểm nghệ thuật hay tuyên ngôn nghệ thuật… Thơ của Đỗ Hoàng dung dị và thật thà. Phải chăng vì vậy mà ông có ít nhiều sự phản ứng với văn chương đương đại. Theo ông văn chương hiện nay (một bộ phận lớn) đang rơi vào tình trạng “đa ngôn và tắc tỵ” tức là họ cố làm cho ra những sự “lạ” cả về cách thể hiện cùng như cái thể hiện nhằm tạo “thương hiệu” cho mình. Nhưng khổ nỗi đâu phải cứ “lạ” là “mới”. Đỗ Hoàng phản ứng quyết liệt với những loại văn chương dung tục thái quá. “Xưa nay không có thứ bệnh hoạn nào được đồng loại chấp nhận”- nói xong lại thấy ông trầm ngâm, ưu tư. Đối với ông “viết thánh thiện mà tạo được thương hiệu mới đáng quý”. Nhưng khi tôi hỏi “Vậy ông phủ nhận hết công lao của những sáng tác trẻ ư ?” Thì ông không ngần ngại trả lời: “Không. Tôi ủng hộ. Không chỉ những người trẻ, lớp già chúng tôi cũng Đổi Mới. Văn chương phải Đổi Mới mới tồn tại được. Nhưng tôi thích sự Đổi Mới tự thân… chứ không phải cố gắng tạo ra sự “lạ” như một vài nhà thơ trẻ bây giờ. Tất nhiên không thể phủ nhận tên tuổi và sự đóng góp của những nhà thơ như: Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phan Thị Vàng Anh, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh… Và rất nhiều nhà thơ khác nữa… ”
Miền Trung cũng là một trong những cái nôi của văn chương. Ngày xưa là Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận… rồi đến Lâm Thị Mĩ Dạ, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo… gần hơn nữa là Văn Cầm Hải, Lê Vĩnh Tài, Nguyễn Thanh Mừng, Trần Thị Huyền Trang… và các nhà thơ trẻ hơn thuộc thế hệ 7X, 8X… Tất cả những cái tên đó đều ít nhiều để lại trong lòng người đọc niềm yêu thích. Phải chăng ngoài sự nỗ lực của bản thân mỗi con người chúng ta còn được thừa hưởng thêm phần “di truyền” từ vùng đất nơi sinh ra và lớn lên của mình. Chẳng thế mà Nhà thơ Đỗ Hoàng luôn tự hào về mảnh đất Quảng Bình, mảnh đất anh hùng khói lửa, mảnh đất chôn rau cắt rốn, mảnh đất đã nuôi dưỡng tâm hồn ông.
Không hiểu sao Đỗ Hoàng hay gặp “tai nạn nghề nghiệp”, có lẽ vì thế nên nhiều người không biết thơ ông. Nhưng chẳng bao giờ ông chối bỏ những gì mình đã viết ra, bởi theo ông, “tác phẩm hay là do trời ban tặng”, mà cái thiên phú đâu phải ai cũng có được. Có thể bây giờ Đỗ Hoàng chưa được đông đảo người đọc biết đến nhưng ông tin và tôi tin một ngày không xa các tác phẩm của ông sẽ tự thân tỏa sáng. Như những vần thơ dung dị của ông…
Và cũng bất ngờ,
Nhặt từ bùn câu Thơ
- Thời gian không hóa thạch!
(“Nhặt từ bùn”- Huế 1982)
HƯƠNG MAI

Tâm tình bạn trẻ

 19:09 10/07/2025

TÂM TÌNH VỚI CÁC NHÀ THƠ TRẺ




TÂM TÌNH VỚI CÁC NHÀ THƠ TRẺ

(tiếp theo)

Đỗ Hoàng

Đào Trung Việt nói vui: - Anh Hoàng dịch thơ Việt ra thơ Việt mà không dám dịch thơ thằng Việt.

Tôi chỉ cười.

Xin nói thêm về việc này.

Thật không ai rỗi hơi đi làm cái dịch thơ Việt ra thơ Việt, nhưng cái thời điên loạn, có những con người viết điên loạn mà minh là người yêu văn chương hết lòng, yêu tiêng việt minh hết lòng nên nên phải xông vào trận tuyến chống thi tặc – giặc thơ đang phá nát văn chương ông cha để lại!

Tôi dịch bài đầu tiên là “Mãi viên trà” của nhà thơ Hoàng Vũ Thuật. Anh Thuật và tôi là anh em con chí cắn đôi. Vừa cùng đồng nghiệp giáo viên cấp hai, anh dạy văn, tôi dạy toán; vừa gia cảnh là đối tượng của Cách mạng. Gia đình anh Thuật bị qui sai địa chủ, nhẹ hơn tôi.

Tôi, ba tôi trước ở bên Pháp ủng hộ hết lòng chính phủ Hồ Chí Minh, về nước tham gia bộ đội làm đại đội trưởng huyện đội nhưng bỏ chạy sang Pháp chống trả quyết liệt Việt Minh bị chết trận. Tôi lập tờ báo”Người viết trẻ” ra được vài số. Anh Thuật bảo: - Lý lịch mày quá xấu mà lý lịch tao cũng nhọ nồi, anh em mình viết, họ tóm ngay, mọt gông! Bỏ đi!

Bỏ đi, tiếc quá, biết làm sao!



Tôi đang làm biên tập cho tạp chí Nhà văn, anh Thuật gửi ra một chùm, trong đó bài “Mãi viên trà”. Tôi đọc không hiểu Mãi viên trà nói gì. Tôi gửi bên “Diễn đàn văn nghê”, nơi tôi đã từng làm bên ấy, họ in tất cả cho anh.

“Mãi viên trà” viết cho đúng Hán ngữ là “Mãi trà viên! Nghĩa là - Bán vườn chè. Nhưng đọc đi, đọc lại chẳng thấy có việc nào nói bán vườn chè.

Nhân chuyến đi công tác miền trong ngang qua Đồng Hới, Quảng Binh thấy bên phố có cái quán xập xè đề mấy chữ quán “Mãi trà viên” người viết ít học chữ cũng xập xè như quán. Nghe anh em Đồng Hới nói anh Thuật yêu cả hai mẹ con quán này. (Nhà thơ đa tình mà). Tôi vỡ lẽ. Thế thì mắc chi không viết “Thơ đề tặng quán Mãi viên trà?. Vưa giản dị, vừa rò nghia mà hay! Tôi dịch nó ra thơ Việt đọc nghe êm tai hơn.. Sau đó tôi dịch nhiều bài của anh. Mất tình cảm của một người anh nhưng tôi bảo vệ được sự trong sáng thơ Việt.

(trích)

Hoàng Vũ Thuật



mùi



ở đâu đó rất xa vừa nhìn thấy vừa không nhìn thấy

nghe được sờ được



dòng thác nóng ran hai bờ đêm



nguyên bản cuộc sống vốn thế

cơn sốt bất thần run bần bật



có thể viêm nhiễm sau cuộc phẫu có thể mới ra đời đã biến mất

có thể từ trời cao đổ xuống từ dưới đất trồi lên



mằn mặn nhàn nhạt hương một loài

hoa không tên gọi



mùi mưa mùi nắng mùi gió mùi cáu bẩn mùi nguyên trinh

mùi kiệt quệ mùi phục sinh mùi mùa



mùi của mùi



29/12/2010



Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt



MÙI LỒN!



ở nơi nào đó rất xa,

vừa nhìn thấy bóng ta bà vừa không.

nghe sờ được một dòng thác nóng

hai bờ đêm cháy bỏng râm ran.

nguyên sơ cuộc sống trần gian

bất thần cơn sốt lan tràn bật run.

sau phẫu thuật nhiễm trùng có thể

cái mới ra nhỏ bé đi tong.

từ trời đổ xuống khoảng không

từ đất nảy nở một dòng trồi lên

hương loài hoa chẳng có tên

mằn mặn nhạt nhạt mắm nêm quê nhà.

muì mưa nắng, mùi bùn sa

mùi trinh bạch, mùi thối tha…

mùi mùi!



Vỹ thanh:

Cuối cùng còn lai mùi tui (*)

Cái mùi lồn thối mần đui mũi người!

(*) Tôi – tiếng Quảng Bình

Hà Nội ngày 4 – 1- 2016

Đ – H

(còn nữa)

Đạo đức kinh - chương 2

 11:37 05/07/2025

CHƯƠNG 2
DƯỠNG THÂN
養 身
Hán văn:
天 下 皆 知 美 之 為 美, 斯 惡 已; 皆 知 善 之 為 善, 斯 不 善 已. 故 有 無 相 生, 難 易 相 成, 長 短 相 形, 高 下 相 傾, 音 聲 相 和, 前 後 相 隨. 是 以 聖 人 處 無 為 之 事, 行 不 言 之 教. 萬 物 作 焉 而 不 辭, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 功 成 而 弗 居. 夫 唯 弗 居, 是 以 不 去.
Phiên âm:
1. Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy.
2. Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo.
3. Vạn vật tác yên nhi bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị,công thành nhi phất cư.
4. Phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ.
Dịch nghĩa:
1. Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, thế là xấu vậy; đều biết tốt là tốt thế là không tốt vậy, bởi vì có không sinh ra nhau dễ khó thành tựu lẫn nhau, ngắn dài tạo thành lẫn nhau, trên dưới lộn lạo ra nhau, thanh âm hòa hợp với nhau, sau trước theo nhau.
2. Cho nên thánh nhân dùng Vô vi mà xử sự, dùng «vô ngôn» mà dạy dỗ.
3. Vạn vật hoạt động mà vẫn im lìm; sống động mà không (đòi quyền) sở hữu; lao tác mà không cậy công; công thành mà không lưu luyến.
4. Không lưu luyến nên mới không mất.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ở đời khen tuyệt vời cái đẹp
Cái xấu kia đã biết chen vào
Đời khen cái tốt thanh cao
Cái xấu len đến đã đến đào huyệt sâu
Không sinh, không diệt vì nhau
Cái trên,cái dưới, trước sau hòa đồng.
Thánh nhân vẫn cầu mong hòa hợp
Dúng vô vi cảm được vô ngôn
Công thành tất thảy vẹn tròn
Lặng im công sức vẫn còn mốt mai!

Soi gương

 11:30 05/07/2025

見白髮
張九齡)
照鏡見白髮
宿昔青雲志,
蹉跎白髮年。
誰知明鏡裏,
形影自相憐。
Chiếu kính kiến bạch phát
Túc tích thanh vân chí,
Tha đà bạch phát niên.
Thuỳ tri minh kính lý,
Hình ảnh tự tương liên.
Đỗ Hoàng
Dịch nghĩa
SOI GƯƠNG THẤY TÓC BẠC
Nhớ xưa chí để trên mây xanh,
Theo năm tháng tóc bạc trắng.
Ai có biết trong tấm gương sáng?
Người và bóng cùng thương nhau!
Đỗ Hoàng
Dịch thơ:
Xưa chí trên mây thắm
Tháng ngày tóc phai màu.
Ai biết trong gương sáng?
Người bóng cùng thương nhau!
Đ - H
Bài này và trong nhiều bài Đường thi, Đỗ Hoàng dịch trước lúc nhập ngũ lần đầu (6/1966). Sau bị thải về vì lý lịch xấu (bố đi lính Pháp). Tiếp sau được sửa chữa, nâng cao lúc ơ trên cao điểm chốt 176, 280 biên giới Việt - Lào tháng 12/1972 (Đỗ Hoàng)

Việt -Hán

 11:28 05/07/2025

Việt Hán có câu 遠水不救近火 (viễn thủy bất cứu cận hỏa) - nước xa không cứu được lửa gần. Và câu 远亲不如近邻 (Viễn thân bất như cận lân) - thân nhân ở xa không bằng láng giềng gần

Đạo đức kinh - Đỗ Hoàng dịch

 14:59 04/07/2025

ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
ĐẠO KINH
上 經 ● 道 經
CHƯƠNG I
THỂ ĐẠO
體 道
Hán văn:
道 可 道 非 常 道. 名 可 名 非 常 名. 無 名 天 地 之 始; 有 名 萬 物 之 母. 故 常 無 欲 以 觀 其 妙; 常 有 欲, 以 觀 其 徼. 此 兩 者 同 出 而 異 名. 同 謂 之 玄. 玄 之 又 玄. 眾 妙 之 門.
Phiên âm:
1. Đạo khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh.
2. Vô danh thiên địa chi thủy; Hữu danh vạn vật chi mẫu.
3. Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu; Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu.
4. Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền. Chúng diệu chi môn.
Dịch nghĩa:
1. Đạo (mà) có thể gọi được, không phải là Đạo thường (hằng cửu). Tên mà có thể gọi được, không (còn) phải là tên thường (hằng cửu).
2. Không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật.
3. Cho nên thường không có dục để nhìn thấy chỗ vi diệu của mình. Thường có dục, để nhìn thấy chỗ giới hạn (công dụng) của mình. Chính là muôn phải,
4. Hai cái đó cùng một nguồn gốc, nhưng tên khác nhau, đều gọi là Huyền nhiệm. (Cái) tối ư huyền nhiệm ấy chính là cửa phát sinh ra mọi điều huyền diệu.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo gọi đươc! Đạo trời muôn phái.
Tên gọi ra không phải tên thường.
Không tên gốccủa ngọn nguồn
Có tên mẹ của muôn phương đất trời!
Lòng ước muồn nhìn nơi vi diệu
Nâng cao lên tầm hiểu cuả mình
Mong về giới hạn vô minh .
Cùng từ nguồn cội hiển linh mà thành
Tên gọi khác nên danh huyền nhiệm
Cái tôi ư, bất biến vô vàn
Cõi đời vạn vật trần gian
Nhiệm huyền là cửa phát ban diệu huyền !

Thơ & Máu

 14:57 04/07/2025

Đỗ Hoàng
THƠ & MÁU
Giết nhau là chuyện của người.
Tình thương là của thơ tôi buổi đầu!
Rồi đây không biết về sau
Thơ tôi có nhuốm một màu máu không!
Rừng Lào năm 1972

Công Môn

 18:46 02/07/2025

Nguyễn Công MônDo Hoang
roponStdes39
·
Thơ tự do của anh tôi đọc nhưng lĩnh hội được ít có thể chưa quen nhưng khả năng là nó vượt tầm.Tôi thực sự thích thơ dịch của anh, vừa dịch vừa đánh tôi ngán dòng thơ"bác học"mà ko biết ngán ở đâu, đọc thơ dịch của anh tôi đã hiểu
Anh nói thẳng với thơ , tôi dốt nhưng ghét người nịnh thơ
Thơ trên Facebook hơi khác ,nâng đỡ động viên vì nó là tờ đại báo tường,văn nghệ quần chúng, viết làm vui giải tỏa Tâm trạng gần điểm cuối cuộc đời
Động viên mình động viên bạn , cần thiết và quý lắm nên khen vừa phải
Tiếc rằng tuổi tác mắt mũi, thời gian có hạn muốn mà "lực bất tòng tâm"
Chúc anh khỏe
Chào anh

Viêt kém!

 18:44 02/07/2025

ntSosoepdr
c
4
l
1

0
1g11
á

ú
4i95
t
2
9
f
3
6
178m
g
7
i771
h
5

t
3
:
ua7g

6
n
m060
·
Đã chia sẻ với Công khai
TẦM VĂN HÓA THÂP – NGUYỄN QUANG THIỀU KHÔNG NÊN LÀM CHỦ BÚT VĂN CHƯƠNG
Đỗ Hoàng
Viết kém nhất trong “Chuyên đề Viêt & Đọc” là Nguyễn Quang Thiều! Không có tầm văn hóa viết lời “Tựa”, Không có tầm văn hóa viết văn xuôi, không có tầm sáng tác thơ, không có tầm gì hết !
Câu hỏi cuối ngay
Nguyên Quang Thiều
Thiêu viêt như thế này mà gọi là “thơ”
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày
Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên
Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào
Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.
Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng năm 1993!
Sau dó Thiều “xáo trộn văn chương với chả cá”. Đưa tất cả làm thơ hết Mấy eng ả văn xuôi viết văn xuôi như mắm thôi bị mưa như Nguyễn Nhật Ánh, Bichs Ngân, Thùy Dương…in hàng loạt trên Viết & Đọc
“Thơ” Bích Ngân (5 bài)
(trich) Ở cự ly gàn
Tôi chờ từng giọt cà phê
nhỏ xuống lòng chiếc ly sứ
trong tiếng nhạc của trăm năm trước
trong nỗi dau của ngàn năm trướcs
dặc sánh như giọt đăng tôi uống
mỗi ngày…”
(còn nữa)

Hồn Hoa

 18:30 30/06/2025

Đỗ Hoàng
HỒN HOA
Thôi đừng nhắc nữa hồn hoa
Cớ chi mình lại ngồi xa xót hoài
Thôi đừng tơ tưởng về ai
Nắng mòn mỏi đợi, mưa lai rai chờ!
Tiếc chi công xá đêm mơ
Sương chùng chập sáng,
mây vơ vu chiều
Sợi đàn gảy mãi không kêu
Chân ngờ ngợ bước, tóc liêu xiêu bồng
Tám chờ, chín đợi, mười trông...
Trời thăm thẳm khuyết, đất mong mỏi mòn
Tỉnh mơ về cuộc vuông tròn
Hồn hoa lãng đãng hãy còn bến mê!
Hà Nội 2 000
Đ - H

Dang Cao

 18:28 30/06/2025

ĐĂNG CAO - LÊN CAO
Đỗ Phủ
登高
風急天高猿嘯哀,
渚清沙白鳥飛回。
無邊落木蕭蕭下,
不盡長江滾滾來。
萬里悲秋常作客,
百年多病獨登臺。
艱難苦恨繁霜鬢,
潦倒新停濁酒杯。
Đăng cao
Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai,
Chử thanh, sa bạch, điểu phi hồi.
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu há,
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
Vạn lý bi thu thường tác khách,
Bách niên đa bệnh độc đăng đài.
Gian nan khổ hận phồn sương mấn,
Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.
Đỗ Hoàng
Dịch nghĩa
Gió manhj, trời cao, vượn ai oán
Bến trong, cát trắng, chim lượn vòng.
Vô vàn lá xào xạc rụng xuống,
Sông dài cuồn cuộn chảy vô tận.
Ở xa vạn dặm, thu buồn làm khách tha hương.
Trăm năm nhiều bệnh, một mình lên đài cao.
Gian nan, khổ hận, tóc mai dày nhuốm màu sương gió,
Bệnh phổi nặng mới phải dừng chén rượu đục.
Bài thơ này tác giả làm dịp tiết trùng dương năm Đại Lịch thứ 2 (767) khi ở Quỳ Châu, chỉ trước khi qua đời khoảng 3 năm. Theo phong tục của người thời đó, đến ngày trùng dương thường lên cao uống rượu. Bài thơ thông qua miêu tả cảnh sắc mùa thu lúc lên cao, diễn tả tâm trạng buồn đau lúc già bệnh mà thân phiêu bạc xa quê đã lâu ngày.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
LÊN CAO
Gió rít trời cao, vượn ới ôi!
Bến trong, cát trắng lượn chim mồi.
Mênh mang lá rụng rào rào đổ,
Thăm thẳm sông dài cuồn cuộn trôi!
Muôn dặm buồn thu đài lẻ khách,
Trăm năm nảo bệnh gác riêng ngồi!
Khó khăn cùng khốn tóc mai bạc.
Phổi nặng mời dừng chén rượu ôi!
Cao điểm chốt 280, biên giới Việt - Lào tháng 12/ 1972
Đ - H
Bài “ Đăng cao có nhiều dịch giả dịch, nhưng dịch gần như nguyên bản (8 câu thất ngôn bát cú đối cả 8 thì phải nói chỉ Đỗ Hoàng làm được!
vanghecuovsong.com

Tầm văn hóa tháp...

 07:38 29/06/2025

TẦM VĂN HÓA THÂP – NGUYỄN QUANG THIỀU KHÔNG NÊN LÀM CHỦ BÚT VĂN CHƯƠNG
Đỗ Hoàng
Viết kém nhất trong “Chuyên đề Viêt & Đọc” là Nguyễn Quang Thiều! Không có tầm văn hóa viết lời “Tựa”, Không có tầm văn hóa viết văn xuôi, không có tầm sáng tác thơ, không có tầm gì hết !
Câu hỏi cuối ngay
Nguyên Quang Thiều
Thiêu viêt như thế này mà gọi là “thơ”

Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày

Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên

Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào

Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.
Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng năm 1993!
Sau dó Thiều “xáo trộn văn chương với chả cá”. Đưa tất cả làm thơ hết Mấy eng ả văn xuôi viết văn xuôi như mắm thôi bị mưa như Nguyễn Nhật Ánh, Bichs Ngân, Thùy Dương…in hàng loạt trên Viết & Đọc
“Thơ” Bích Ngân (5 bài)
(trich) Ở cự ly gàn
Tôi chờ từng giọt cà phê
nhỏ xuống lòng chiếc ly sứ
trong tiếng nhạc của trăm năm trước
trong nỗi dau của ngàn năm trước
dặc sánh như giọt đăng tôi uống
mỗi ngày…”
(còn nữa)

Vụ Hậu pháo!

 15:31 28/06/2025

"Vụ án Hậu Pháo là lời cảnh tỉnh cuối cùng. Không chỉ là trừng phạt một cá nhân, mà là khoảnh khắc soi chiếu cả một thời kỳ. Nếu hệ thống không thay đổi tận gốc, nếu quyền lực không bị ràng buộc bởi minh bạch và trách nhiệm, thì sau Hậu Pháo sẽ là ai? Và bao nhiêu người dân thường nữa sẽ tiếp tục khóc thầm, bị tước đoạt đất đai, phải rời bỏ ruộng vườn để nhường chỗ cho những “siêu đô thị” mà họ không bao giờ có thể sống trong đó? Lịch sử từng có những lời hứa. Nhưng lời hứa không nuôi được dân. Chỉ có công lý thực sự mới giữ được lòng tin."

Nhin lại Tư lực Văn đoàn

 15:28 28/06/2025

NHÌN LẠI “ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN”
Đỗ Hoàng
Ba anh em Nhât Linh, Tú Mỡ, Xuan Diệu, 1 hoai sĩ nữa thành ngọn núi Tự lực Văn Doàn sngg danh hạu thế. Không bôn tôt , năm dỏ. mang ó tơi, càng giàu , càng tốt dể có tiên trả tiền nhà tin, trả nhuận bút (nêu co)
Tự Lực văn đoàn
Tự Lực văn đoàn là tổ chức văn học mang tính hội đoàn, một nhóm nhà văn đã tạo nên một trường phái văn học, một phong trào cách tân văn học Việt Nam hiện đại, khởi đầu là một tổ chức văn bút do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam khởi xướng vào năm 1932, nhưng đến thứ sáu ngày 2 tháng 3 năm 1934 mới chính thức trình diện.
Nhà sáng lập: Nhất Linh, Khái Hưng
Ngày thành lập: 2 tháng 3, 1934
Chủ soái: Nhất Linh
Màu sắc chính thức: Đỏ, trắng, đen
Trụ sở chính: Số 80, phố Quán Thánh, Hà Nội, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương
Ý thức hệ: Khai sáng, bình dân, lãng mạn, cấp tiến, bài phong kiến, bài Nho giáo
Nhóm văn chương Tự lực văn đoàn sơ khai gồm 7 người đó là: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, Xuân Diệu
Tự lực Văn đoàn - Trăm năm nhìn lạ i
Sự ra đời của Tự lực Văn đoàn và Thơ Mới đã tạo nên một trường phái, một phong trào cách tân văn học, đồng thời là một phong trào cách tân văn hóa, cải cách xã hội, đại diện cho khuynh hướng lãng mạn, sự phát triển theo hướng hiện đại hóa của văn học Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945.
* Dòng họ nổi danh và 3 nhà văn sáng lập Tự lực Văn đoàn (Kỳ 3): Những tên tuổi sống mãi của văn đàn Việt Nam
Cùng với đó, văn đoàn này cũng sáng tạo ra hai nhân vật biếm họa độc đáo, trăm năm qua vẫn là “siêu sao” gồm: Lý Toét và Xã Xệ.
Dấu ấn dòng tiểu thuyết lãng mạn, luận đề
Dù chính thức ra mắt vào ngày 2/3/1934 nhưng Tự lực Văn đoàn được Nhất Linh khởi xướng từ năm 1932. Hiện vẫn còn những tranh cãi về danh sách các thành viên tham gia Tự lực Văn đoàn, tuy nhiên trong di cảo về Đời làm báo, Nhất Linh xác định văn đoàn có 7 “thất tinh” (7 ngôi sao) gồm: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Ðạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) và Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu).
Cơ quan ngôn luận chủ yếu của Tự lực Văn đoàn là hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay. Cùng với đó là Nhà xuất bản Đời Nay. Dù nhân lực ít nhưng Tự lực Văn đoàn đã làm công việc của hai cơ quan xuất bản: vừa làm báo vừa in sách của nhóm, lại cho in thuê kiếm lời.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, chưa có văn đoàn và nhóm tác giả nào được nghiên cứu, viết bài nhiều như Tự lực Văn đoàn. Những năm qua, nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà phê bình cả hai miền Nam Bắc đã bỏ công sức tìm hiểu, đánh giá về phong trào văn học này trên nhiều chiều cạnh, giác độ khác nhau. Có nhiều công trình được nghiên cứu công phu.
Ví dụ như sau hơn 50 năm nghiền ngẫm và gần 30 năm thu thập, bổ sung tư liệu, năm 2007, GS. Hà Minh Ðức mới cho ra mắt bạn đọc công trình khảo cứu về hiện tượng văn học kỳ thú và phức tạp nhất đầu thế kỷ XX: Tự lực Văn đoàn. Kết quả hàng trăm công trình nghiên cứu, bài viết, luận án, luận văn... đã ra đời làm rõ thêm những đóng góp và hạn chế của văn đàn.
Ảnh bìa báo Ngày Nay.Ảnh bìa báo Ngày Nay.
Tự lực Văn đoàn xuất hiện vào lúc mà văn học Việt Nam vừa trải qua 30 năm đầu thế kỷ XX - những năm văn học mang tính chất giao thời, trong đó nền văn học dân tộc chuyển dần từ mô hình văn học Đông Á trung đại truyền thống sang mô hình văn học hiện đại, gần gũi với dạng thức của các nền văn học trong thế giới hiện đại.
Hệ thống thể loại của mô hình văn học cũ lấy văn - thơ - phú - lục làm cơ sở. Hệ thống thể loại của mô hình văn học mới dựa trên các thể: thơ, kịch nói, văn xuôi tiểu thuyết, tiểu luận phê bình. Chính hoạt động văn học của Tự lực Văn đoàn sẽ góp phần đẩy tới sự toàn thắng của mô hình văn học mới.
Dù có nhiều cách đánh giá khác nhau về trào lưu văn học này thì Tự lực Văn đoàn trước sau vẫn có vị trí là bước khởi đầu, là một trong những cơ sở quan trọng xây dựng lên lâu đài văn học Việt Nam hiện đại.
Trong Từ điển văn học (bộ mới), GS. Nguyễn Huệ Chi khẳng định: “Trong lĩnh vực văn học, đóng góp của Tự lực Văn đoàn có vai trò đáng kể. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam hiện đại thực sự hình thành và ghi được những thành tựu cơ bản nhất thông qua hoạt động của văn đoàn này. Phải bắt đầu từ đây, thơ và tiểu thuyết mới đi vào thế giới bên trong nhân vật, giúp người đọc khám phá trực diện vẻ đẹp của cái “tôi” và tạo ra cách đọc “phản tỉnh”, tức là nhìn sâu vào cõi lòng mình.
Về hình thức, tiểu thuyết của văn đoàn đã vượt ra khỏi phạm trù văn học “giao thời”, có cấu trúc mới mẻ, trong đó quy luật tâm lý thay cho lối trần thuật một giọng của người kể chuyện. Câu văn trong văn xuôi đã trở nên trong sáng, chuẩn mực, giàu khả năng biểu cảm tuy có lúc còn đơn điệu. Cùng với việc đào sâu tâm lý nhân vật, thiên nhiên cũng trở thành một đối tượng thẩm mỹ...”.
Nhất Linh - vị chủ soái của Tự lực Văn đoàn được khen là có con mắt tinh đời khi giao “nhiệm vụ” cho các thành viên của văn đoàn. Ông khuyến khích Khái Hưng chuyển từ lối viết luận thuyết trên các báo: Văn học tạp chí, Duy tân (dưới bút danh Bán Than) sang viết tiểu thuyết. Tú Mỡ được Nhất Linh gợi ý chuyên làm thơ trào phúng.
Trọng Lang được ông cổ vũ đi hẳn vào phóng sự, còn Thế Lữ dưới con mắt Nhất Linh phải là người mở đầu cho “Thơ Mới”... Sau này, mỗi thành viên của văn đoàn nghiễm nhiên đóng vai trò “ông tổ” của cái hình thức sáng tác mà Nhất Linh đã phó cho mình cầm trịch.
Không ai có thể tranh ngôi vị cây bút tiểu thuyết tài danh của Khái Hưng. Nói đến giọng thơ trào phúng sau Tú Xương, người ta phải kể đến Tú Mỡ. Thạch Lam nổi tiếng với những kiệt tác truyện ngắn trữ tình. Nhiều bạn bè, kể cả người trong gia đình đều nói sách Thạch Lam bán ế nhất nhưng văn của ông viết hay nhất trong Tự lực Văn đoàn. Thế Lữ được cả làng “Thơ Mới” thừa nhận là chủ soái thi đàn và Xuân Diệu - người tiếp bước Thế Lữ đem lại sự toàn thắng cho “Thơ Mới”.
Dù khi đó báo chí “trăm hoa đua nở” và văn giới đương thời có nhiều nhóm phái, người ta vẫn phải thừa nhận rằng Tự lực Văn đoàn có một uy tín nổi bật. Hầu như ít có nhà văn nào đương thời lại không một lần đưa đăng tác phẩm mình trên các ấn phẩm của Tự lực Văn đoàn. Dù bất đồng quan điểm nhưng Vũ Trọng Phụng đã từng in cuốn Cạm bẫy người ở Nhà xuất bản Đời Nay (1933).
Xung quanh Tự lực Văn đoàn dần dần tập hợp lại một loạt văn nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa. Đó là các nhà văn, nhà thơ Trọng Lang, Đoàn Phú Tứ, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Huy Cận...; là các hoạ sĩ: Nhất Sách, Trần Bình Lộc, Trần Quang Trân, Le Mur Nguyễn Cát Tường, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí...; các kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp...
Trong tôn chỉ 10 điều của mình, ngoài mục đích tự lực, làm giàu thêm văn sản trong nước, thì Tự lực Văn đoàn chống lại những thói tục phong kiến lạc hậu, cổ vũ cho những tư tưởng xã hội tiến bộ, cổ vũ cho tự do cá nhân...
“Tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn” là tên gọi xác định về một thiên tiểu thuyết có luận đề, tức là một câu chuyện hư cấu với những nhân vật và cốt truyện hư cấu, nhằm thể hiện một hoặc một vài tư tưởng xã hội, nhân sinh của tác giả. So với truyện truyền kỳ, truyện Nôm, truyện chương hồi, thì đây là một cơ cấu nghệ thuật khác, được tạo dựng theo mô hình tiểu thuyết châu Âu, cụ thể là Pháp.
Các tiểu thuyết gia Tự lực Văn đoàn đã đem chất liệu đời sống Việt Nam, ngôn từ Việt Nam đan dệt, dân tộc hóa nó đi để nó có thể được tiếp nhận bởi công chúng Việt Nam và họ đã thành công trên hướng này.
Tính hiện đại của tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn được thể hiện ở sự đoạn tuyệt với những điển tích sáo ngữ, những câu văn biền ngẫu, những câu văn với lối ngữ pháp dài dòng trước đó để mở ra một loại hình câu văn xuôi mới, gọn gàng, giản dị, dễ hiểu và có khả năng diễn đạt những tư tưởng, tình cảm của con người.
Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934), Tiêu Sơn tráng sĩ (1934), Gia đình (1936), Thoát ly (1937), Thừa tự (1938) của Khái Hưng; Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1937) của Nhất Linh; Con đường sáng (1938) của Hoàng Đạo... đã gây được dư luận về các vấn đề xã hội và văn học.
Tại Hội thảo Phong trào Thơ Mới và văn xuôi Tự lực Văn đoàn - 80 năm nhìn lại, PGS-TS. Trần Hữu Tá kết luận Tự lực Văn đoàn đã: “Hoàn tất quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc chỉ trong hơn một thập kỷ (1930-1945), đưa văn học nước ta từ quỹ đạo văn học trung đại hòa nhập chung dòng chảy của văn học thế giới hiện đại”.
Tiên phong trong phong trào Thơ Mới
Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 gồm có Thơ Mới và văn xuôi lãng mạn. Ngày 10/3/1932, bài thơ Tình già của Phan Khôi ra mắt bạn đọc trên báo Phụ nữ Tân văn số 122 cùng với bài giới thiệu mang tên: Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ đã có tiếng vang mạnh mẽ, được xem là bài thơ mở đầu cho phong trào Thơ Mới.
Ngay sau đó, cuộc tranh luận giữa lối thơ mới và thơ cũ diễn ra vô cùng gay gắt. Mãi đến năm 1941, cuộc tranh chấp mới chấm dứt do sự thắng thế của lối thơ mới, khép lại mấy trăm năm thống lĩnh của thơ Đường. Một thời kỳ vàng son mới của văn học Việt Nam đã diễn ra với tên gọi quen thuộc là phong trào Thơ Mới.
Khi phong trào thơ mới nổ ra từ báo chí trong Nam rồi nhanh chóng lan ra báo chí ngoài Bắc và trở nên rầm rộ trên báo chí cả nước, Tự lực Văn đoàn đã nhập cuộc. Tờ Phong Hóa của nhóm đăng nhiều ý kiến bênh vực thơ mới, nhiều sáng tác thơ mới của Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú Tứ, Huy Thông...
Từ trong các thành viên Tự lực Văn đoàn xuất hiện những tác giả tiêu biểu của thơ mới, cũng đồng thời là những nhà thơ tiêu biểu của thơ Việt thế kỷ XX: Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ.
Khuynh hướng chung của thời kỳ Thơ Mới những năm 1932-1945 là khuynh hướng lãng mạn, là lý tưởng thẩm mỹ cái “tôi” của tác giả. Cảm hứng sáng tác “gắn liền với ý thức cá nhân”. Thơ Mới là thơ của cái “tôi”, một cái “tôi” chưa bao giờ được biết đến trong thơ cổ điển. Cái “tôi” bấy giờ không làm việc “tải đạo” nữa mà vượt lên những công thức ước lệ, khuôn khổ định sẵn.
Đến giai đoạn 1930-1945, với lớp nhà văn Tây học trẻ tuổi, cái “tôi” cá nhân mới thực sự được thể hiện sâu sắc. Chủ nghĩa lãng mạn do đó phát triển thành trào lưu rầm rộ với đầy đủ đặc trưng của nó trên các thể loại: thơ, truyện ngắn, bút ký, tùy bút.
Trong sự tác động của Tự lực Văn đoàn đến phong trào thơ mới, phải kể vai trò nổi bật của Thế Lữ. Dưới bút danh Lê Ta trên Phong Hóa và Ngày Nay, Thế Lữ thường xuyên điểm bình các sáng tác thơ đương thời, khuyến khích hoặc phê phán những tác giả, tác phẩm cụ thể.
Chính Thế Lữ đã giới thiệu, khẳng định tài năng thơ của Xuân Diệu. Tiếp đó Xuân Diệu giới thiệu với làng thơ khuôn mặt sáng tạo của người bạn thơ thân thiết của ông là Huy Cận. Huy Cận lại gây ảnh hưởng đến một số bạn học ở Huế, trong số đó có Tế Hanh...
Biếm họa ông De Beaumont đem tiền đi dự đấu xảo San Francisco.
Biếm họa ông De Beaumont đem tiền đi dự đấu xảo San Francisco.
Thuở ấy, Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là người làm cho người ta chú ý đến Thơ Mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy vào tương lai của Thơ Mới. Thế Lữ xuất hiện được Hoài Thanh đánh giá rất cao trong Thi nhân Việt Nam: “Ðộ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam”. Thơ Thế Lữ tiêu biểu cho tiếng nói của cái tôi trong Thơ Mới thời kì đầu. Thế Lữ nói đúng cái tôi trong thơ mới khi kêu gọi yêu đi, yêu mãi bạn lòng ơi. Khi ấy, ông được Khái Hưng ca ngợi là Lamartine của Việt Nam”.
Từ 1935 đến 1945, nhà xuất bản Đời Nay của Tự lực Văn đoàn đứng tên cho in 8 tập thơ: Giòng nước ngược (1943) của Tú Mỡ, Mấy vần thơ của Thế Lữ (1935), Thơ thơ (1938) của Xuân Diệu, Lửa thiêng (1940) của Huy Cận, Mấy vần thơ (tập mới, 1941) của Thế Lữ, Bức tranh quê (1941) của Anh Thơ, Mây (1943) của Vũ Hoàng Chương, và Hoa niên (1945) của Tế Hanh. Danh mục này cho thấy sự tinh tường trong việc chọn in thơ của nhà Đời Nay, thường do Thế Lữ, Xuân Diệu, Thạch Lam đảm nhiệm.
Theo Thi nhân Việt Nam, trong thời kì 1936-1939, thời kì này xuất hiện nhà thơ Xuân Diệu trường hợp mới nhất trong các nhà thơ mới. Xuân Diệu xuất hiện chiếm hẳn dịa vị độc tôn trên thi đàn. Tiếng thơ của Xuân Diệu như luồng gió mát thổi tâm hồn trẻ: Xuân Diệu là nhà thơ đầu tiên của Việt Nam đã áp dụng thuyết hiện sinh vào thi ca.
Biếm họa Lý Toét và Xã Xệ
Tự lực Văn đoàn chủ trương cải cách xã hội, vận động hiện đại hóa đời sống xứ sở, tuyên truyền cho văn minh, cho đô thị hóa, Âu hóa. Họ dùng các loại hình nghệ thuật như văn, thơ, hí họa, ảnh thời sự, truyện cười... để đả phá tàn dư lạc hậu trong xã hội, thúc đẩy xây dựng đời sống mới. Họ luôn luôn tìm tòi sáng tạo nhiều nghệ thuật làm báo để hấp dẫn bạn đọc.
Trên báo Ngày Nay, các chuyên mục đã thực sự gây chú ý của bạn đọc như: Vấn đề thuộc địa, Người và việc, Trông và tìm... Ngoài ra còn các tiểu mục như: Xã giao, Phụ nữ, Trào phúng cười nửa miệng và Lượm lặt. Lại còn cả Điểm sách, Điểm thơ, Tin thơ.
Dí dỏm nhất là mục Tập tranh vân đẩu. Hoàng Đạo đã các bài viết ngắn, sắc lạnh mà hóm hỉnh, sâu cay, đả kích các nhân vật trong xã hội thượng lưu bấy giờ như nghị viên Ngô Trọng Trí, Phạm Kim Bảng, Bùi Trọng Ngà, Nguyễn Đình Cung, Tô Văn Lượng, cho đến ông Phủ Hàm, dân biểu Phạm Huy Lục đến các ký giả Bùi Xuân Học, Phạm Bá Khánh... Họ vừa quan liêu, hợm hĩnh, ba hoa, nịnh hót bề trên và thiếu nhân cách, lại lên mặt dạy đời.
Đặc biệt, Tự lực Văn đoàn đã sáng tạo ra bộ ba Bang Bạnh, Lý Toét và Xã Xệ. 3 nhân vật biếm họa thuộc giới chức dịch nhà quê đã làm mưa làm gió trên mặt báo hơn 10 năm trời. Những mẩu chuyện quanh họ đã biếm trích xã hội Đông Dương, không từ bất cứ đẳng cấp nào. Sau khi kết thúc trên mặt báo, hình tượng Lý Toét - Xã Xệ lại được tái hiện trong các loại hình sân khấu như chèo, tuồng, cải lương, thoại kịch, thậm chí đi vào thi phú. Biếm họa Lý Toét và Xã Xệ còn được đăng trên các trang bìa báo Pháp Indochine, George Pisier... và được chế thành nhạc hài Lý Toét.
Biếm họa Lý Toét biếu quan Tây con gà mái.Biếm họa Lý Toét biếu quan Tây con gà mái.
Về hành trạng, Lý Toét (có tên như vậy là bởi mắt toét) là một ông lý trưởng cao gầy, búi tó củ hành, râu ria lởm chởm, mặt mày khắc khổ, mồm rộng tới mang tai, đầu đội khăn xếp, áo dài, tay luôn cầm ô, đôi giày chuyên cắp nách vì sợ mòn, đi đứng cứ lom khom vì tuổi tác hoặc vì ươn hèn. Toét ta thường cố làm vẻ đạo mạo, nhưng lại là kẻ vô cùng lém lỉnh, khi lỡm quan trên, lúc xỏ người dưới, đặc biệt rất thích chửi “ông Tây”, “thói Tây”.
Còn Xã Xệ lùn tịt, béo tròn, đầu trọc lốc như quả táo, với độc một sợi tóc, má phính, mỏ dẩu. Y là hạng người vô học rỗi nghề, ngây ngô, kệch cỡm nhưng thỉnh thoảng diện vest đàng hoàng, ưa làm sang như người Tây. Tuy chức danh có vẻ ngang hàng Lý Toét nhưng lại vô thực vì chỉ là mua cho oai với làng nước.
Bang Bạnh là nhân vật hiếm khi xuất hiện trên báo nhất, có thể vì đặc điểm kém hoạt kê và bị độc giả ghét nhất.
Về cha đẻ của hai nhân vật Lý Toét và Xã Xệ còn những nghi vấn tuy nhiên hình ảnh Lý Toét lúc đầu do Nhất Linh sáng tạo từ tháng 6/1931, khi chưa có Phong Hóa. Nhất Linh chính thức đưa Lý Toét lên Phong Hóa từ số 15 (phát hành ngày 29/9/32), được các họa sĩ đặc biệt là Nguyễn Gia Trí chấm phá thêm, trở thành một trong những nhân vật sáng chói của Tự lực Văn đoàn, biểu hiệu tất cả phong cách hài hước và bi đát trong hý họa của Phong Hóa, Ngày Nay.
Tranh không những ngộ nghĩnh về hình, mà phần lời cũng rất “đắt” và luôn gây nên cái cười bất ngờ cho nên ai cũng thích, xem một lần là nhớ ngay... Đó chính là sức sống mãnh liệt của Lý Toét - Xã Xệ. Như hình ảnh châm biếm sau, nhân dịp chính phủ Đông Dương bỏ ra 2 triệu bạc và phái ông De Beaumont đem tiền đi dự đấu xảo San Francisco, Lý Toét lấy ô kéo chân ông Tây lại, Xã Xệ đứng sau kéo áo Lý Toét: “Thôi! Ông đẹp giai và sang trọng thế, thì ông đi đấu xảo một mình cũng đủ chán rồi. Còn túi tiền ông để lại cho chúng tôi ăn gạo, chúng tôi đói lắm”.
Hay bức tranh hài hước thâm thúy, sâu xa: Ngày Tết, Lý Toét đem quà đến biếu quan Tây và nói: “Nghe nói biểu hiệu của mẫu quốc là con gà sống, nên chúng tôi đem đến tết cụ lớn con gà mái cho có đôi”.
Ở đây Nguyễn Gia Trí chơi chữ: Con gà sống ở xứ Gaule là một trong những biểu hiệu thiêng liêng của dân tộc Pháp. Còn con gái mái, đối với người Pháp có ngụ ý xấu là phụ nữ làm nghề mại dâm, gà móng đỏ. Lý Toét ngụ ý: “Mèo mả gà đồng”, mẫu quốc là con gà Tây, gà tồ, chỉ xứng với gái điếm. Vì xỏ xiên trực diện như thế nên báo Phong Hóa bị đóng cửa.
Hay những bức biếm họa đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự như: Lý Toét đứng trước đội binh vàng mã sắp đốt, nói với Xã Xệ: “Bác Xã ạ, ở âm phủ thì nước ta mạnh nhất, không nước nào bằng”.
Hoặc bức tranh Người Annam mình kinh doanh vẽ một chiếc xe khách loại 25 chỗ ngồi nhưng hành khách bị ấn vào mọi chỗ trong, trên nóc xe, chả khác gì hiện tượng các nhà xe nhồi khách hiện nay.
Sau có rất nhiều tờ báo khác khắp Bắc, Trung, Nam thoải mái bắt chước vẽ cặp bài trùng này, vì đơn giản có Lý Toét và Xã Xệ trên mặt báo thì báo bán chạy. Thậm chí, hai nhân vật biếm họa Lý Toét Xã Xệ từ mặt báo lại đi vào trào phúng dân gian. Đến nay, chưa có nhân vật biếm họa nào qua mặt được hai “siêu sao” này.
“Mỗi văn nghệ sĩ là vũ trụ tinh hoa của đất nước!”
Thơ
Khai Hưng;
“Đời tôi ôm một khối tình
Tình trong giây lát mà thành thiên thâu
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà ai gieo thảm như hầu không hay!
Hỡi ơi người cũ ta nay
Sao ta thui thủi dêm ngày chiếc thân…”
Hà Nội trước thềm thế kỷ XXI
Đ – H
Nay chẳng dược ra hội, nhóm nào.,”Trăm năm cô đơn trùm mặt lạnh”

Nghiên Cứu phê bình- CẦN GIẢI TÁN CÁC HỘI, ĐOÀN THỂ TIÊU TỐN TIỀN CỦA NHÀ NƯỚC

Trong năm năm (2001 - 2005) các họi âm nhạc, hội nhà văn ,hội ,mỹ thuât, hội Nhiệp anh, hội Sân kaaus, hội Điện ảnh tiêu 200 tỷ đồng.

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập62
  • Hôm nay4,548
  • Tháng hiện tại265,546
  • Tổng lượt truy cập478,060
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi