Chân dung 810 Văn sĩ Việt

  •   08/08/2025 19:40:00
  •   Đã xem: 35
  •   Phản hồi: 0
CHÂN DUNG 810 VĂN SĨ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI
“Hà Minh Đức chẳng phê bình
Chỉ thường phê chén những hình ông to” - Đỗ Hoàng - NXB Hội Nhà văn năm 2018.

Chân dung Văn sĩ Việt

  •   07/08/2025 08:57:00
  •   Đã xem: 29
  •   Phản hồi: 0
CHÂN DUNG 810 VẮN SĨ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI
“Động trời vòng tay học trò
Nguyễn Thị Hoàng đốt ra tro luân thường “
Nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2018.

Hung trạch -

  •   02/08/2025 14:50:00
  •   Đã xem: 54
  •   Phản hồi: 0
HUNG TRẠCH – Bạch Cư Dị
凶宅
長安多大宅,
列在街西東。
往往朱門內,
房廊相對空。
梟鳴松桂樹,
狐藏蘭菊叢。
蒼苔黃葉地,
日暮多旋風。
前主為將相,
得罪竄巴庸。
後主為公卿,
寢疾歿其中。
連延四五主,
殃禍繼相鐘。
自從十年來,
不利主人翁。
風雨壞檐隙,
蛇鼠穿牆墉。
人疑不敢買,
日毀土木功。
嗟嗟俗人心,
甚矣其愚蒙。
但恐災將至,
不思禍所從。
我今題此詩,
欲悟迷者胸。
凡為大官人,
年祿多高崇。
權重持難久,
位高勢易窮。
驕者物之盈,
老者數之終。
四者如寇盜,
日夜來相攻。
假使居吉土,
孰能保其躬。
因小以明大,
借家可喻邦。
周秦宅崤函,
其宅非不同。
一興八百年,
一死望夷宮。
寄語家與國,
人凶非宅凶。
Bạch Cư Dị
Hung trạch
Trường An đa đại trạch,
Liệt tại nhai tây đông.
Vãng vãng chu môn nội,
Phòng lang tương đối không.
Kiêu minh tùng quế thụ,
Hồ tàng lan cúc tùng.
Thương đài hoàng diệp địa,
Nhật mộ đa tuyền phong.
Tiền chủ vi tương tướng,
Đắc tội thoán Ba Dung.
Hậu chủ vi công khanh,
Tẩm tật một kỳ trung.
Liên diên tứ ngũ chủ,
Ương hoạ kế tương chung.
Tự tòng thập niên lai,
Bất lợi chủ nhân ông.
Phong vũ hoại thiềm khích,
Xà thử xuyên tường dung.
Nhân nghi bất cảm mãi,
Nhật huỷ thổ mộc công.
Ta ta tục nhân tâm,
Thậm hỹ kỳ ngu mông.
Đãn khủng tai tương chí,
Bất tư hoạ sở tòng.
Ngã kim đề thử thi,
Dục ngộ mê giả hung.
Phàm vi đại quan nhân,
Niên lộc đa cao sùng.
Quyền trọng trì nan cửu,
Vị cao thế dị cùng.
Kiêu giả vật chi doanh,
Lão giả số chi chung.
Tứ giả như khấu đạo,
Nhật dạ lai tương công.
Giả sử cư cát thổ,
Thục năng bảo kỳ cung?
Nhân tiểu dĩ minh đại,
Tá gia khả dụ bang.
Chu, Tần trạch Hào, Hàm,
Kỳ trạch phi bất đồng.
Nhất hưng bát bách niên,
Nhất tử Vọng Di cung.
Ký ngữ gia dữ quốc,
Nhân hung phi trạch hung.

Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
NHÀ DỮ
Trường An nhiều nhà lớn
Từng dãy thẳng, đứng hai bên đường
Thường thường bên trong cửa son
Có nhiều phòng đối nhau mà bỏ không
Cú kêu trong cây tùng, cây quế
Cáo ẩn nơi khóm cúc, khóm lan
Mặt đất đầy rêu xanh, lá vàng rải rác
Mỗi buổi chiều tà từng cơn gió lốc thổi
Chủ trước làm quan tướng
Phải tội đày đi Ba Dung
Chủ sau là bậc khanh tướng
Ốm lâu rồi cũng chết
Liền liền đến bốn năm chủ
Tai vạ liên tiếp dập dồn
Đã từ mười năm lại đây
Ngôi nhà này không hợp chủ!
Mưa gió làm hỏng hết mái hiên, khe cửa
Chuột rắn đục khoét kẽ ngặt, chân tường
Người ta sợ, chẳng ai dám mua
Gạch, gỗ, ngày một hư hỏng
Than ôi! Bụng dạ người đời
Sao mà ngu muội quá!
Chỉ sợ tai vạ sẽ đến
Không nghĩ xem nguồn cơn từ đâu mà ra
Nay ta viết bài thơ này
Muốn thức tỉnh những người u mê trong bụng
Phàm đã làm đến quan lớn
Tuổi đã cao mà bổng nhiều lắm
Quyền đã to thì khó giữ được lâu
Ngôi đã cao thì thế dễ cùng
Kiêu căng, theo lẽ của sự vật, tất sẽ sụp đổ
Già là lúc số mệnh sắp hết
Bốn điều ấy như trộm cướp
Ngày đêm xúm lại tiến công
Ví bằng có được ở chỗ đất lành
Dễ ai đã giữ được toàn thân?
Suy việc nhỏ để rõ việc lớn
Mượn việc nhà để ví việc nước:
Nhà Chu, nhà Tần cùng đóng đô ở Hào, Hàm cả
Chỗ ở không phải không giống nhau
Vậy mà một đằng thì hưng thịnh đến tám trăm năm
Một đằng thì hết đời ở cung Vọng Di
Nhắn nhủ những ai có nhà, có nước
Chỉ có người dữ, chứ không có nhà dữ!
Đỗ Hoàng dịch thơ:
NHÀ DỮ
Trường An nhiều nhà lớn
San sát khắp tây, đông
Nhiều cửa son lở lói
Lắm hiên phòng bỏ không.
Cú kêu trong gốc quế
Cáo ẩn nơi khóm tùng.
Đất rêu xanh, lá đổ
Chiều chiều gió giật rung!
Chủ trước là khanh tướng
Phả tội đày Ba Dung
Chủ sau bậc quyền quý
Đến già cũng tử vong.
Tiếp liền năm sáu chủ
Tai họa cứ dập dồn!
Mười năm nay trở lại
Nhà dữ có ai ưng!
Cửa hiên mưa gió hỏng
Tường, ngách chuột rắn lùng
Chăng ai tìm thuê nữa
Nhà càng mục nát hơn!
Ôi! Người ơi, bụng dạ!
Ngu muội đến thế cùng.
Cứ sợ tai vạ đên
Không nghĩ kỹ nguồn cơn.
Ta làm vần thơ tỏ
Nhắc ai kẻ mê lòng!
Đã phàm là quan lớn
Tuỏi cao, bổng lộc tràn
Quyền to khó giữ được
Ngôi cao thế dễ cùng!
Kiêu căng tất sụp đổ
Già, tài mệnh long đong
Tai ương như trộm cướp
Đêm ngày đến tấn công
Ví bằng nơi đất tốt
Thân đâu dễ bảo toàn
Suy nhỏ ra viêc lớn
Chuyện riêng để nói chung
Chu, Tần đất Hàm ỏ
Đều là nơi đế vương
Người nghìn năm hưng thịnh
Kẻ một sớm không còn
Nhắc làng rồi nhắn nước
Người dữ chứ nhà không!
Dịch trước khi nhập ngũ lần một tháng 6 năm 1966. Sau hai anh em bị thải về vì ly lịch xấu (bố đi lính Pháp). Sửa chưã trên cao điểm chốt 280, biên giới Việt – Lào năm 1973
Đ - H

Hành lộ nan

  •   31/07/2025 07:46:00
  •   Đã xem: 53
  •   Phản hồi: 0
行路難其一 (Lý Bạch
- 李白)
行路難其三
有耳莫洗穎川水
有口莫食首陽蕨
含光混世貴無名
何用孤高比雲月
吾觀自古賢達人
功成不返皆殞身
子胥既棄吳江上
屈原終投湘水濱
陸機雄才豈自保
李斯稅駕苦不早
華亭鶴唳詎可聞
上蔡蒼鷹何足道
君不見
吳中張翰稱達生
秋風忽憶江東行
且樂生前一杯酒
何須身後千載名
Hành lộ nan kỳ 3

Hữu nhĩ mạc tẩy Dĩnh Xuyên thuỷ
Hữu khẩu mạc thực Thú Dương quyết!
Hàm quang hỗn thế quý vô danh
Hà dụng cô cao tỷ vân nguyệt!
Ngô quan tự cổ hiền đạt nhân
Công thành bất thoái giai vẫn thân
Tử Tư ký khí Ngô giang thượng
Khuất Nguyên chung đầu Tương thuỷ tân
Lục Cơ hùng tài khởi tự bảo
Lý Tư thuế giá khổ bất tảo
Hoa Đình hạc lệ cự khả văn
Thượng Thái thương ưng hà túc đạo ?
Quân bất kiến:
Ngô Trung Trương Hàn xung đạt sinh
Thu phong hốt ức Giang Đông hành
Thả lạc sinh tiền nhất bôi tửu
Hà tu thân hậu thiên tải danh ?
Đỗ Hoàng dich nghĩa:
Đường đi khó kỳ 3
Người dịch: Đỗ Hoàng
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
Có tai đừng rửa nước sông Dĩnh
Có miệng đừng ăn rau núi Thú Dương.
Lẫn đời giấu sáng quý kẻ không tên tuổi.
Thanh cao sao sánh bằng sao trăng
Từ xưa ta thấy bậc thánh nhân
Công thành chẳng lui về đều phải chết.
Ngũ Tử tan xác trên sông Ngô Giang
Khuất Nguyên cũng bỏ mình trên sông Tương Thuỷ
Lục Cơ tài lớn thân mang hại
Lý Tư muộn nghỉ đời ngang trái
Đâu còn nghe tiếng hạc Hoa Đình
Thôi hết bàn loài ưng Thượng Thái
Bác chẳng thấy:
Trương Hàn người thông đạt ở Ngô Trung
Gió thu chợt nhớ về Giang Đông
Hiện tại nên vui nâng chén rượu
Nghìn năm chi để cái danh không!
Đỗ Hoàng dịch thơ:
ĐƯỜNG ĐỜI KHÓ ĐI!
Nước sông Dĩnh, có tai đừng rửa
Rau Thủ Dương xin nhớ đừng ăn!
Đời điên cần chi tiếng tăm.
Thnh danh giữ sánh may trăng làm gị!
Ta xem cổ nhan khi hiển đạt
Không lui về chẳng thoát chết oan
Tử Tư bỏ xác Ngô giang.
Khuất Nguyên cùng kế sông Tương trãm mình
Lục Cơ dẫu tàì tình há biêt,
Lý Tư kia hối tiếcvề sau
Hoa Đình tiếng hạc còn đâu.
Chim ưng Thái Thượng từ lâu vắng bàn

Nhin xem chỉ Trương Hàn khoáng đạt
Về Giang Dông khi chợt gió thu
Rượu nồng lúc sống đầy ly
Tiếng tăm muôn thuở cần chi sau này!
Cao điểm hôt 280, biên giới Việt – Lào tháng 6 năm 1973
Đ - H
(1) Rút trong tập thow “Tuy Thi Ca’- Thơ dịch – NXB Văn hóa- Dân tộc năm 2000

Dịch thơ Lý Bạch

  •   26/07/2025 07:40:00
  •   Đã xem: 29
  •   Phản hồi: 0
春日醉起言志 (Lý Bạch) (1)
Nhà thơ Đỗ hoàng có biệt tài dịch Đường thi. Ông đã đưa các thiên tài thơ thành thêm thiên tài nữa như:: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu…
Xin giới thiệu một bài dịch của ông
“Ngày xuân tỉnh dậy nói chí mình”
春日醉起言志
處世若大夢,
胡為勞其生?
所以終日醉,
頹然臥前楹。
覺來眄庭前,acs thiên tài
一鳥花間鳴。
借問此何時?
春風語流鶯。
感之欲歎息,
對酒還自傾,
浩歌待明月,
曲盡已忘情。
Xuân nhật tuý khởi ngôn chí
Xử thế nhược đại mộng,
Hồ vi lao kỳ sinh!
Sở dĩ chung nhật tuý,
Đồi nhiên ngoạ tiền doanh.
Giác lai miện đình tiền,
Nhất điểu hoa gian minh.
Tá vấn thử hà thời,
Xuân phong ngữ lưu oanh.
Cảm chi dục thán tức,
Đối tửu hoàn tự khuynh.
Hạo ca đãi minh nguyệt,
Khúc tận dĩ vong tình.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
Ở cõi đời như trong một giấc mộng lớn
Tại làm sao mà lại phải làm mệt nhọc cho cuộc sống
Bởi vậy suốt ngày cứ say sưa
Nằm uể oải nhoài trước hiên
Lúc tỉnh dậy nhìn ra trước sân
Một con chim đang hót trong đám hoa
Xin hỏi hôm nay là ngày nào
Mà chim oanh trò chuyện trong gió xuân
Cảm xúc trước cảnh ấy, muốn thở than
Hướng về đó, thôi thì lại tự rót rượu
Hát vang chờ đợi trăng sáng
Hát xong thì đã quên hết tình
Lý Bạch tả cái tư tưởng chán đời, muốn trốn việc đời bằng rượu. Ý nói ở đời chẳng qua như giấc mộng lớn, làm gì mà phải vất vả thân mình, bởi mình hiều cái lẽ ấy, cho nên cả ngày say sưa không tỉnh. Trong khi say quá, lăn ra ngủ trước cột nhà, quên cả ngày tháng. Đến lúc thình lình tỉnh dậy, ngó ra trước sân thì một con chim đương véo von kêu ở trong hoa. Vì đã không nhớ ngày tháng, nên phải hỏi ngày nay là ngày gì. Thì ra, bấy giờ đã đương mùa xuân, gió xuâns mộng lớn
đã giục con oanh tập hót. Cảm vì thấy ngày tháng mau chóng, những muốn than thở ngậm ngùi. Và đối trước cái cảnh hoa nở, chim kêu, lại nghiêng bình rượu tự chuốc cho mình. Rồi cứ hát xướng nghêu ngao đề chờ trăng lên. Nhưng, hát vừa hết bài thì đã quên cả tình ý ở trong câu hát.
Đõ Hoàng dịch thơ:
NGÀY XUÂN TỈNH DẬY NÓI CHÍ MÌNH.
Đời như giâc mộng lớn.
Làm chi nhọc tám thân
Nên suốt ngày say khướt
Bên cột nhà nằm khênh.
Tỉnh dây nhìn ra cửa
Chim chi hot trên cành?
Ướm hỏi ngày gì thế?
Oanh líu lo gió xuân
Rồi ngậm ngùi than thở
Lại nghiêng bầu một mình!
Hát tràn chờ trăng sáng
Lời dứt đã quên tình!
(1) Rút trong tập “Túy thì ca” thơ dịch – NXB Văn hóa - Dân tôc năm 2 000

Ngục trung nhật ký(tiếp)

  •   25/07/2025 20:38:00
  •   Đã xem: 66
  •   Phản hồi: 0

倦鳥歸林尋宿樹,
孤雲慢慢度天空。
山村少女磨包粟,
包粟磨完爐已烘。

Mộ
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Dịch nghĩa
Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,
Chòm mây đơn lẻ trôi tầng không;
Xóm rừng thiếu nữ xay ngô tối,
Ngô xay vừa xong, lò than đã đỏ
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Chim mỏi về rừng tìm chỗ ngủ
Đám mây chàm chậm giữa tầng không
Gái tơ xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng!

Ngục trung nhất ký - thơ dịch

  •   22/07/2025 14:10:00
  •   Đã xem: 74
  •   Phản hồi: 0

脛臂長龍環繞著,
宛如外國武勳官。
勳官的是金絲線,
我的麻繩一大端。

Bang
Hĩnh tí trường long hoàn nhiễu trước,
Uyển như ngoại quốc vũ huân quan.
Huân quan đích thị kim ty tuyến,
Ngã đích ma thằng nhất đại đoan.

Rồng dài quấn quanh cẳng chân và cánh tay,
Giống hệt dây tua quan võ nước ngoài.
Dây tua quan võ là tơ kim tuyến,
Còn của ta là một sợi thừng gai lớn.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Rồng dài quấn quanh chân liền tay.
Giống hệt tua quan võ nước ngoài
Tua võ quan bằng tơ kim tuyến
Tua ta là một sợi thừng gai!

Vịnh Đỗ Chu

  •   11/07/2025 21:38:00
  •   Đã xem: 31
  •   Phản hồi: 0
Vịnh Đỗ Chu
Vịnh Đỗ Chu
Thứ năm - 31/12/2015 12:31
Ltg: Văn xuôi Đỗ Chu uyển chuyển, chữ nghĩa thanh thoát, nhẹ nhàng rất đặc trưng văn xuôi Bắc Hà nhưng rất nhạt với sự hời hợt, phớt Ăng lê trước nỗi đau tột cùng của nhân quần trong chiến tranh dai dẳng huynh đệ tương tàn xương chất thành núi, máu chảy thành sông! Và tiếc tác phẩm của ông không có tư tưởng gì, chỉ là một thứ tụng ca không mới! Ví như phim Bác Hồ năm 1946, Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, Biệt động Sải Gòn, Ván bài lật ngửa, Dòng sông phẳng lặng…
Vậy có thơ rằng:


Đỗ Hoàng


VỊNH ĐỖ CHU

Nhàn nhạt văn xuôi có Đỗ Chu.
Thuộc dòng xưng tụng loại ba xu!
Tum toe mấy chữ kênh bà,Đốp
Chóp chép vài lời đỡ Bố Cu!
Cứ tưởng đây là quầng điện sáng,
Nào ngờ đấy chính chóp đèn lu.
Văn chương Nam Việt mà như thế.
Không thẹn những thời rạng Đại Ngu!
Hà Nội, 2014
Đ - H

Người đăng: do hoang vào lúc 21:43 Không có nhận xét nào:

25 tập thơ Tâm sự người lính xuât bản

  •   11/07/2025 15:57:00
  •   Đã xem: 28
  •   Phản hồi: 0
25 NĂM "TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH " ĐƯỢC XUẤT BẢN, 3 NĂM ĐƯỢC TÁI BẢN

1, Giấy phép nhà xuất bản Văn học do Lữ Huy Nguyên ký năm 1996
2, Giấy phép nhà xuất bản Hội nhà văn do Nguyễn Quang Thiều ký năm 2018
a, Nguyễn Khoa Điềm lúc đó bộ trưởng hay thứ trưởng bộ Văn hóa thông tin kiêm Tổng thư ký (chủ tịch) Hội nhà văn Việt Nam ra lệnh cấm "Tâm sự người lính". Đi đâu gã cũng vu oan giá họa: "Tác giả thay bài". Từ đó trở đi các nhà xuất bản phải bảo biên tập viên ký duyệt từng trang một.
b, Xuân Thiều người giới thiệu thứ hai cho tôi vào Hội nhà văn Việt Nam, ông nói: " mình ký xong rồi, nhưng mình rất buồn Hoàng viết "Tâm sự người lính".
c, Cao Tiến Lê chỉ thẳng mặt tôi bảo: "Mi ở đơn vị tao, tao tước quân tịch đuổi ra khỏi quân đội. Sao mi nói xấu cụ Hồ và Tố Hữu rứa?

Tac phẩm hay do trời ban tặng

  •   10/07/2025 19:14:00
  •   Đã xem: 30
  •   Phản hồi: 0
Tác phẩm hay do Trời ban tặng
Báo TỔ QUỐC – Điện tử - Tạp chí Nhật Lệ
VĂN HỌC QUÊ NHÀ
ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VĂN CHƯƠNG VÀ DƯ LUẬN CHÂN DUNG ĐỐI THOẠI VĂN XUÔIGIỚI THIỆU SÁCH THƠ THƠ MỖI NGÀY TIN TỨC
Tác phẩm hay là do trời ban tặng
18-01-2008 03:58
(Toquoc)- Tôi gặp nhà thơ Đỗ Hoàng, trưởng ban biên tập thơ của Tạp chí Nhà Văn vào một ngày đầu đông, nắng vẫn vàng như rót mật. Nhìn con người nhỏ bé ấy tôi vẫn thấy toát lên sức sống căng tràn của tuổi trẻ, mặc dù ông chẳng còn trẻ chút nào.
Quán cà phê 84, Nguyễn Du sáng hôm ấy ít khách, nhân viên trong quán chắc đã quen bởi lối nói chuyện dân dã và đầy nhiệt huyết của ông, nhưng với tôi, dù đã phần nào hiểu biết về con người này vẫn không khỏi lấy làm thú vị.
Nhà thơ Đỗ Hoàng sinh ra ở miền đất Quảng Bình đầy nắng và gió với muôn vàn nỗi khó khăn, vất vả mà mảnh đất Miền Trung nào cũng phải gánh chịu. Một thời gian ông sống ở Huế, rồi tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc… Qua nhiều duyên nghiệp cuối cùng ông trở thành nhà thơ, sống và làm việc như một nhà báo tại Hà Nội. Cuộc đời con người thật chẳng thể nói trước…
Gọi Đỗ Hoàng là nhà thơ thì chưa hẳn đúng vì ông viết cả tiểu thuyết và phóng sự, kí sự. Từ bài thơ đầu tiên- “Ngày mùa” được in ở báo Văn nghệ Quảng Bình cho đến nay ông đã in được sáu tập thơ, bốn tiểu thuyết và một tập phóng sự… Không nhiều một cách đặc biệt chú ý nhưng cũng đáng nể. Ông không có ý định trở thành một nhà thơ và hoạt động văn chương vì buổi đầu ông học Sư phạm Toán và đã từng là thầy giáo dạy toán. Nhưng như là mối lương duyên tiền định từ kiếp trước, niềm yêu văn chương của ông cứ le lói sáng rồi bùng lên lúc nào không biết. Những câu thơ, câu văn của ông là hiện thực về cuộc sống nơi mảnh đất ông sinh ra, là những vùng đất ông đã đi qua trong chiến tranh, là những ngày khốn cùng của đất nước… Hãy cùng đọc một vài vần thơ của ông như:
Anh đi trên trái đất cô đơn,
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
- Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.
(“Cái chết người đẹp”- Quảng Trị 1974)
Hình ảnh xác người phụ nữ im lìm nơi chiến trường đổ nát cứ ám ảnh vào tâm trí tôi. Sao không phải là một anh lính, là một người đàn ông với cảm giác quen thuộc mỗi khi nói đến chiến tranh mà lại là một “người đẹp”. Không phải là không có những người phụ nữ nơi chiến trường nhưng hình ảnh này quả là đặc biệt, ít thấy, thậm chí chưa thấy trong văn chương. Đỗ Hoàng vừa tạo một ấn tượng về hình ảnh, lại tạo được cả ấn tượng về cảm xúc. Một thứ cảm xúc đau đớn, uất hận trong tâm hồn. Lẽ ra những hình ảnh đó sẽ không bao giờ được nói đến…
Có lẽ tâm hồn nhạy cảm cộng với những trải nghiệm thực tế khiến thơ của ông nhiều niềm đau hơn là sự vui vẻ. Nó cứ nhẹ nhàng thấm sâu vào hồn của đất, của núi, của sông rồi tâm hồn người đọc. Đối với Đỗ Hoàng văn chương chỉ là những tâm sự cần phải giãi bày từ tâm hồn nhạy cảm và nhiều băn khoăn, trăn trở của ông. Và nỗi buồn được ông định nghĩa là:
Tôi chết đi vì buồn.
Tôi sống thêm nhờ buồn.
Cũng vì buồn mà tôi yêu
Cũng vì yêu mà tôi buồn.
Tôi có thể mất đi
Nhưng buồn tồn tại.
Trái tim còn mãi!
(“Buồn”- Huế 1985)
Ông chẳng cầu kì, diêm dúa trong văn chương, cũng chẳng dùng những mĩ từ như quan điểm nghệ thuật hay tuyên ngôn nghệ thuật… Thơ của Đỗ Hoàng dung dị và thật thà. Phải chăng vì vậy mà ông có ít nhiều sự phản ứng với văn chương đương đại. Theo ông văn chương hiện nay (một bộ phận lớn) đang rơi vào tình trạng “đa ngôn và tắc tỵ” tức là họ cố làm cho ra những sự “lạ” cả về cách thể hiện cùng như cái thể hiện nhằm tạo “thương hiệu” cho mình. Nhưng khổ nỗi đâu phải cứ “lạ” là “mới”. Đỗ Hoàng phản ứng quyết liệt với những loại văn chương dung tục thái quá. “Xưa nay không có thứ bệnh hoạn nào được đồng loại chấp nhận”- nói xong lại thấy ông trầm ngâm, ưu tư. Đối với ông “viết thánh thiện mà tạo được thương hiệu mới đáng quý”. Nhưng khi tôi hỏi “Vậy ông phủ nhận hết công lao của những sáng tác trẻ ư ?” Thì ông không ngần ngại trả lời: “Không. Tôi ủng hộ. Không chỉ những người trẻ, lớp già chúng tôi cũng Đổi Mới. Văn chương phải Đổi Mới mới tồn tại được. Nhưng tôi thích sự Đổi Mới tự thân… chứ không phải cố gắng tạo ra sự “lạ” như một vài nhà thơ trẻ bây giờ. Tất nhiên không thể phủ nhận tên tuổi và sự đóng góp của những nhà thơ như: Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phan Thị Vàng Anh, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh… Và rất nhiều nhà thơ khác nữa… ”
Miền Trung cũng là một trong những cái nôi của văn chương. Ngày xưa là Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận… rồi đến Lâm Thị Mĩ Dạ, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo… gần hơn nữa là Văn Cầm Hải, Lê Vĩnh Tài, Nguyễn Thanh Mừng, Trần Thị Huyền Trang… và các nhà thơ trẻ hơn thuộc thế hệ 7X, 8X… Tất cả những cái tên đó đều ít nhiều để lại trong lòng người đọc niềm yêu thích. Phải chăng ngoài sự nỗ lực của bản thân mỗi con người chúng ta còn được thừa hưởng thêm phần “di truyền” từ vùng đất nơi sinh ra và lớn lên của mình. Chẳng thế mà Nhà thơ Đỗ Hoàng luôn tự hào về mảnh đất Quảng Bình, mảnh đất anh hùng khói lửa, mảnh đất chôn rau cắt rốn, mảnh đất đã nuôi dưỡng tâm hồn ông.
Không hiểu sao Đỗ Hoàng hay gặp “tai nạn nghề nghiệp”, có lẽ vì thế nên nhiều người không biết thơ ông. Nhưng chẳng bao giờ ông chối bỏ những gì mình đã viết ra, bởi theo ông, “tác phẩm hay là do trời ban tặng”, mà cái thiên phú đâu phải ai cũng có được. Có thể bây giờ Đỗ Hoàng chưa được đông đảo người đọc biết đến nhưng ông tin và tôi tin một ngày không xa các tác phẩm của ông sẽ tự thân tỏa sáng. Như những vần thơ dung dị của ông…
Và cũng bất ngờ,
Nhặt từ bùn câu Thơ
- Thời gian không hóa thạch!
(“Nhặt từ bùn”- Huế 1982)
HƯƠNG MAI

Tâm tình bạn trẻ

  •   10/07/2025 19:09:00
  •   Đã xem: 25
  •   Phản hồi: 0
TÂM TÌNH VỚI CÁC NHÀ THƠ TRẺ




TÂM TÌNH VỚI CÁC NHÀ THƠ TRẺ

(tiếp theo)

Đỗ Hoàng

Đào Trung Việt nói vui: - Anh Hoàng dịch thơ Việt ra thơ Việt mà không dám dịch thơ thằng Việt.

Tôi chỉ cười.

Xin nói thêm về việc này.

Thật không ai rỗi hơi đi làm cái dịch thơ Việt ra thơ Việt, nhưng cái thời điên loạn, có những con người viết điên loạn mà minh là người yêu văn chương hết lòng, yêu tiêng việt minh hết lòng nên nên phải xông vào trận tuyến chống thi tặc – giặc thơ đang phá nát văn chương ông cha để lại!

Tôi dịch bài đầu tiên là “Mãi viên trà” của nhà thơ Hoàng Vũ Thuật. Anh Thuật và tôi là anh em con chí cắn đôi. Vừa cùng đồng nghiệp giáo viên cấp hai, anh dạy văn, tôi dạy toán; vừa gia cảnh là đối tượng của Cách mạng. Gia đình anh Thuật bị qui sai địa chủ, nhẹ hơn tôi.

Tôi, ba tôi trước ở bên Pháp ủng hộ hết lòng chính phủ Hồ Chí Minh, về nước tham gia bộ đội làm đại đội trưởng huyện đội nhưng bỏ chạy sang Pháp chống trả quyết liệt Việt Minh bị chết trận. Tôi lập tờ báo”Người viết trẻ” ra được vài số. Anh Thuật bảo: - Lý lịch mày quá xấu mà lý lịch tao cũng nhọ nồi, anh em mình viết, họ tóm ngay, mọt gông! Bỏ đi!

Bỏ đi, tiếc quá, biết làm sao!



Tôi đang làm biên tập cho tạp chí Nhà văn, anh Thuật gửi ra một chùm, trong đó bài “Mãi viên trà”. Tôi đọc không hiểu Mãi viên trà nói gì. Tôi gửi bên “Diễn đàn văn nghê”, nơi tôi đã từng làm bên ấy, họ in tất cả cho anh.

“Mãi viên trà” viết cho đúng Hán ngữ là “Mãi trà viên! Nghĩa là - Bán vườn chè. Nhưng đọc đi, đọc lại chẳng thấy có việc nào nói bán vườn chè.

Nhân chuyến đi công tác miền trong ngang qua Đồng Hới, Quảng Binh thấy bên phố có cái quán xập xè đề mấy chữ quán “Mãi trà viên” người viết ít học chữ cũng xập xè như quán. Nghe anh em Đồng Hới nói anh Thuật yêu cả hai mẹ con quán này. (Nhà thơ đa tình mà). Tôi vỡ lẽ. Thế thì mắc chi không viết “Thơ đề tặng quán Mãi viên trà?. Vưa giản dị, vừa rò nghia mà hay! Tôi dịch nó ra thơ Việt đọc nghe êm tai hơn.. Sau đó tôi dịch nhiều bài của anh. Mất tình cảm của một người anh nhưng tôi bảo vệ được sự trong sáng thơ Việt.

(trích)

Hoàng Vũ Thuật



mùi



ở đâu đó rất xa vừa nhìn thấy vừa không nhìn thấy

nghe được sờ được



dòng thác nóng ran hai bờ đêm



nguyên bản cuộc sống vốn thế

cơn sốt bất thần run bần bật



có thể viêm nhiễm sau cuộc phẫu có thể mới ra đời đã biến mất

có thể từ trời cao đổ xuống từ dưới đất trồi lên



mằn mặn nhàn nhạt hương một loài

hoa không tên gọi



mùi mưa mùi nắng mùi gió mùi cáu bẩn mùi nguyên trinh

mùi kiệt quệ mùi phục sinh mùi mùa



mùi của mùi



29/12/2010



Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt



MÙI LỒN!



ở nơi nào đó rất xa,

vừa nhìn thấy bóng ta bà vừa không.

nghe sờ được một dòng thác nóng

hai bờ đêm cháy bỏng râm ran.

nguyên sơ cuộc sống trần gian

bất thần cơn sốt lan tràn bật run.

sau phẫu thuật nhiễm trùng có thể

cái mới ra nhỏ bé đi tong.

từ trời đổ xuống khoảng không

từ đất nảy nở một dòng trồi lên

hương loài hoa chẳng có tên

mằn mặn nhạt nhạt mắm nêm quê nhà.

muì mưa nắng, mùi bùn sa

mùi trinh bạch, mùi thối tha…

mùi mùi!



Vỹ thanh:

Cuối cùng còn lai mùi tui (*)

Cái mùi lồn thối mần đui mũi người!

(*) Tôi – tiếng Quảng Bình

Hà Nội ngày 4 – 1- 2016

Đ – H

(còn nữa)

Tàm văn hóa tháp ---Nguyễn Qung Thiều

  •   27/06/2025 14:43:00
  •   Đã xem: 26
  •   Phản hồi: 0
NGUYỄN QUANG THIỀU KHÔNG ĐỦ TẦM LÀM CHỦ BÚT CHƯƠNG
Đỗ Hoàng
So với những người cùng thế hệ, Nguyễn Quang Thiều được Công ân cho học tiếng Anh dù là người Mễ Tây Có dạy. ‘Méo mó có hơn không” Nhưng phong văn hóa của Thiều rất thấp , không thẩm mỹ đươc cái hay, cái đẹp của văn chương cha ông! Thiều qui tập một dàn “vô lối – thi tặc ( 27 ) tên.phá nát thi ca tổ tiên! Thiều lập cái trà hình Viết & Đọc để in bài vở cho nhóm, cánh hữu.
Thiều viêt:”Bạn phải luôn nghi rằng;”Ta sẽ lảm những điều mà trước ta chưa ai làm,ta sẽ làm ra những điều khác với những gì ta đã làm”. Đấy chính lâ sự can đảm. Đấy chính là bản chât của sáng tạo.. Trong sáng tạo không bao giờ không bao giờ co khái niệm “đi theo’, “làm theo”. Sáng tạo thực sự luôn mang tinh thần độc lập, riêng biết và cô đơn.”
Kiểu viêt của đứa vô học. Lê Quý Đôn nói: ‘người tài giỏi hơn hêt mọi người cũng không chối bỏ người trước” Trong Tâm lý học, có hiện thực, tưởng tượng mới sáng tạọ. Có cai xe dạp bánh gỗ mới co cái xe đạp bánh cao su., co sim sơn mới có honda,Sh,có sam 1, mới có sam2…có chữ la tinh mới có cho Thiều làm vô lối, tắc tỵ…
Với tầm nghĩ quá ngắn như vậy nên Thiều đưa Vi Thùy Linh lên tầm “sư hào” in 7 bài thơ trong Viết & Đocxin trích”số Chuyên dề mùa xuân năm 2024
“Rút ngắn nhất về mình.
ViLi là người hiếu tri
Không ngừng học học và say mê nghệ thuật
Nghệ thuạt là nghịp thường hăng
Y nghĩ và liên tưởng
Khi giặt, phơi, gấp đỗ
Khi tăm đêm để được đăm trong nước lâu hơn khi con ngủ
Khi đọc sach nghĩ về quyền lưc 24 chữ.
Tứng ký tự ghép nhau, tách – nối
Đôc thúc tôi….”
Nâng thơ Thi Hoàng lên tầm “Đậu Phụ” của Thiều
“Dây phơi nhà ai, chiếc nịt vu thơm lừng , nhìn đã thấy no nê” Lão già 83 tuổi (sinh 1943)
Mà mới thấy nịt vú con gái phơi nhà hàng xóm cường dương như thanh niên trẻ khỏe. Bài in trên báo Văn nghệ năm 2923!
(còn nữa)

Thiều - Phấn - 2 Thi tặc

  •   24/06/2025 20:29:00
  •   Đã xem: 29
  •   Phản hồi: 0
Tay Thiều cũng như tay Phấn hay khoe Mỹ, Columbia tặng giải thưởng Thơ! Những nước ấy biết gì thơ Việt, người đọc Việt. Ngay Hội Nhà văn Việt trao giải thưởng cho Nguyễn Quang Thiều năm 1993 tập sự mất ngủ của lửa - Một tập sách như Quỷ Sa tăng, ba đầu sáu tay! Tởm lợm!
Ảnh:
(1) Thi tặc số 1 - Thiều
(2) Thi tặc số 2- Phấn
Nhà thơ Đỗ Hoàng
Thi tặc số 1 Nguyễn Quang Thiều không biết làm thơ tiếng Việt , tư tưởng văn nô, tay nghề non nớt, việt lách thần kinh, thừa ý, thiếu lời, dốt đặc cán mai, loăng quăng chu nghĩa, dâm loạn bẩn thỉu hơn nhà chó đẻ...Thế mà hắn làm Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam(!) Có thời nào như thời này?
Nguyễn Quang Thiều
Nguyên bản(1)
Trong quán rượu rắn
Những con rắn được thủy táng trong rượu
Linh hồn nó bò qua miệng bình nằm cuộn khoanh đáy chén
Bò nữa đi, bò nữa đi qua đôi môi bạc trắng
Có kẻ say gào lên những khúc bụi bờ
Một chóp mũ và một đôi giày vải
Mắt ngơ ngơ loang mãi đến chân trời
Nhóm u uất trong những vòm tháp cổ
Người suốt đời lảm nhảm với hư vô
Như đá vỡ, như vật vờ lau chết
Thơ âm âm, thơ thon thót giật mình
Kinh hãi chảy điên cuồng như lưỡi liếm
Ngửa mặt cười trong tiếng khóc mộng du
Bò nữa đi, bò nữa đi, hỡi những linh hồn rắn
Nọc độc từng tia phun chói trong bình
Người không uống rượu mà uống từng ký ức
Mạch máu căng lên lên những vệt rắn bò
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
Rừng mang mang gọi những khúc thu vàng
Rượu câm lặng chở những linh hồn rắn
Có người say hát lên bằng nọc độc của mình.
(1) Bài rút trong tập Thi Tửu - NXB Hội Nhà văn quý IV năm 2007
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt:
Trong quán rượu – mắm rắn
Lũ rắn độc bị đem tửu táng
Hồn bò quanh đáy chén, miệng bình
Bò nữa đi qua môi bạc trắng
Kẻ say gào giọng rượu thất kinh!
Áo quần, mũ, tất giày trút bỏ
Mắt ngu ngơ hoang mạc chân trời
Nỗi u uất ứ vòm tháp cũ
Với hư vô lảm nhảm suốt đời!
Như đá vỡ, như vật vờ lau chết
Hồn rên lên, tim thon thót nhói lòng
Kinh hoàng chảy điên cuồng như lửa liếm
Ngửa mặt cười khóc mộng du không!
Bò nữa đi! Hỡi những linh hồn chết!
Nọc độc phun bầm cả đáy vò
Ta uống rượu và uống từng ký ức
Mạch máu căng lên những vệt rắn bò!
Đêm dài rộng chôn vùi trong quán vắng.
Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng.
Rượu câm lặng chở bao linh hồn rắn.
Hát bằng nọc độc mình, kẻ xỉn hú rất hăng!
Hà Nội ngày 13 - 1 - 2008
Bài Vô lối
- Những người đàn bà gánh nước sông
Nguyễn Quang Thiều.
Nguyên bản:
Những ngón chân xương xẩu móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm mười lăm năm ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết rồi
Những người đàn ông giận dữ buồn bã và bỏ đi
Đã năm năm mười lăm năm ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi
1992
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt :
Những người đàn bà gánh nước sông
Bàn chân toẽ như chân gà mái
Quá nửa đời non dại tôi trông.
Đàn bà xuống gánh nước sông
Bối tóc vỡ xối bềnh bồng trên lưng
Tay giữ chặt giữa chừng đòn gánh
Tay vịn vào mây trắng như tơ
Sông trôi úp mặt vào bờ
Trai mang mơ biển lặng tờ ra đi.
Cá thiêng khóc rầu rì quạnh quẻ
Chiếc phao ngô cô lẻ chết rồi!
Đàn ông giận dữ ôi thôi.
Nuốt sầu ngao ngán chán đời đi luôn.
Nửa đời trải thấm buồn tôi thấy
Lũ trẻ con níu váy u già
Lớn lên giữa chốn bùn sa.
Gái thay mẹ gánh nghèo qua bến thuyền
Con trai mộng triền miên mơ biển
Vác cần câu lặng biến tha hương
Cá thiêng quay mặt lệ tuôn
Để trơ cái lưỡi câu lươn lộ mồi!
Hà Nội ngày 6 tháng 5 năm 2010
Đ - H

Vô lối Nguyên Quang Thiều...

  •   24/06/2025 14:55:00
  •   Đã xem: 33
  •   Phản hồi: 0
VÔ LỐI NGUYỄN QUANG THIỀU
(Bài do tác giả gửi CBTT)
Đỗ Hoàng
Vô lối là một loại viết có từ thập kỷ 60 thế kỷ trước và bùng phát nhiều nhất từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến hôm nay. Nó càng bùng phát hơn nữa khi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 trào giải cho tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều và vừa rồi (năm 2011 - 2012), Hội Nhà văn Việt Nam lại tiếp tục trao giải cho cả 4 tập của các tác giả Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Định Thị Như Thúy, kiểu viết như Nguyễn Quang Thiều nối dài.
Điển hình của Vô lối là triệt tiêu một trăm phần vần điệu, xóa bỏ cách nghĩ, cách cảm của ông cha và thơ ca truyền thống dân tộc và thế giới, tắc tỵ, rắc rối, tù mù, dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống, nhạt nhẽo, đánh đố mình, đánh đố người đọc, dung tục, tình dục bệnh hoạn, sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, tuỳ hứng…
Vô lối có một đặc điểm nữa là không thể đọc nổi vài ba dòng.
Nguyễn Quang Thiều cũng là một trong những đại biểu của Vô lối ấy vừa được các báo chí chính thống, các vụ viện chính thống, các học giả, nhà phê bình, giáo sư đại học, cánh hẩu viết bài lắng xê, ca ngợi hết lời. Họ coi đó là sự là “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân”, Thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn từ mẫu gốc” (Tạp chí Nhà văn số 6 - 2012); “Hộp đen” Nguyễn Quang Thiều – Báo Văn nghệ số 17 + 18 tháng 4 – 2012...
Cách tân tức là làm mới không chỉ ở thơ ca mà trong cuộc sống muôn loài cũng phải luôn luôn đổi mới để phát triển tồn tại. Thế hệ sau tiến bộ hơn thế hệ trước thì muôn loài, muôn vật, xã hội mới phát triển, không thì chỉ dừng lại và đi đến triệt tiêu!
Nhưng làm mới như thế nào? Tôi đã nhiều lần nói về việc làm mới. Làm mới – cách tân chứ không phải cách mạng. Đến như cách mạng lật đổ hoàn toàn quá khứ mà người vẫn còn giữ gìn và tiếp thu những ưu tú của đời trước để lại, huống hồ cách tân - làm mới, phải có kế thừa và phát huy cái hay, cái đẹp của dân tộc, của nhân loại. Nhà bác học Lê Quý Đôn nói: “Người tài giỏi hơn hết một thời, cũng không được phá bỏ đời trước”
Những người tìm tòi đổi mới thơ ca là đáng trân trọng. Nhưng lấy cớ tìm tòi đối mới để phá bỏ, đạp đổ những chuẩn mực, những tinh hoa của cha ông từ muôn đời để lại là một ý nghĩ, hành động điên rồ.
Hàn Mặc Tử có nói: “Vẫn biết thơ ca phải tân kỳ (mới và lạ), song thơ ta là thơ quốc âm, người phương Đông chuộng nỗi đau thâm trầm, nỗi buồn kín đáo. Ta phải thể hiện cái tinh thần phương Đông ấy.”
Nhưng những người viết hôm nay và nhất Nguyễn Quang Thiều không theo tiêu chí ấy mà đi tìm một cách viết rất chi là Vô lối.
Nguyễn Quang Thiều cố tìm một cách nói, cách lập ngôn như việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” – (Hỏa đích bất thụy sự), đã thể hiện cách ấy. Đọc thấy lạ tai, không theo cách nói cách viết thuần Việt, nó như là cách viết của Tây, nhưng Tây người ta không viết thế. Câu thơ, câu văn của Tây dài nhưng phải chính xác, không thừa chữ, không thừa ý và phải thuần chủng ngôn ngữ. Đằng này Nguyễn Quang Thiều cố tạo ra cách viết lạ nhưng lại vừa dùng chữ nước ngoài, vừa không theo cách cảm cách nghĩ của dân tộc. Cách này cũng đã có người trước Nguyễn Quang Thiều viết như “Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai” (Liên khúc những bài thơ tình thời cách xa – Thanh Tâm Tuyền)
Chữ sự nguyên là chữ Hán đã tương đối Việt hóa. Nó có ba nghĩa : 1- việc, 2 - làm việc, 3 - thờ. Không hiểu sự mất ngủ của lửa ở đây là việc, làm việc hay là thờ? Suy đoán trong bài hiểu theo nghĩa Hán “Hỏa đích bất thụy sự” thì có thể là việc. Dịch ra là “Việc mất ngủ của lửa” chắc là đúng ý tác giả!
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Hồ Chí Minh)
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Xuân Thủy dịch)
Thời Nguyễn Đình Chiểu, cũng là thời Hán học đang thịnh hành, cụ Đồ Chiểu còn đi thi tú tài Hán học, thế nhưng thơ Cụ, văn tế, phú của Cụ thì rất Việt hóa.
Việc cấy, việc cày việc bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cớ mắt chưa từng ngó
(Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc )
Nếu viết như Nguyễn Quang Thiều và Thanh Tâm Tuyền là phải:
Sự cấy, sự cày, sự bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cờ mắt chưa từng ngó
Lại bàn về mất ngủ. Mất ngủ chỉ một trạng thái tâm lý của con người do lao lực, do nghĩ ngợi đau khổ nhiều, thần kinh yếu, do chấn động thân kinh, do chấn thương sọ não …nên dẫn đến mất ngủ. Nói chung nó là một trạng thái bệnh lý nhiều hơn. Còn người khỏe mạnh, thần kinh vững vàng thì khó có thể mất ngủ.
Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
(Hồ Chí Minh)
Người khỏe mạnh, cứng rắn, người ta chưa ngủ hoặc người ta không ngủ để lo quốc gia đại sự, chứ họ không bị chứng bệnh mất ngủ!
Vì vậy việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” vừa không Việt hóa, vừa thừa chữ, thừa lời, vừa không ổn trong nhận thức. Có thể đặt theo cách thuần Việt “Lửa mất ngủ” hoặc “Lửa thức”…
Cách đặt tựa đề, đặt câu này Nguyễn Quang Thiều lặp đi lặp lại ở nhiều bài khác như: “Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi” (Tiếng vọng) – In trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập một, tháng 1 năm 2011.
Ảnh Thiều
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều đa phần dài dòng văn tự. Viết ngắn viết dài tùy theo cảm xúc, suy nghĩ, tùy theo mức độ tình cảm của tác giả. Cái đáng viết dài thì viết dài, cái đáng viết ngắn thì viết ngắn. Có cái không đáng ba dòng tác giả lại kéo ra tràng giang đại hải
“Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi”
(Những người đàn bà gánh nước sông)
Hay:
“Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được giàn dụa nước mưa sông. “ (Sông Đáy)
Nên nhớ rằng “ Đoản thi tối hảo phá” (Thơ ngắn có sức mạnh vô biên). Ngay phương Tây cũng có nói phải cô níc (viết ngắn).
Bác Hồ cũng đã từng nói: “Bác ít có thi giờ xem văn nghệ, nhưng khi xem thì thấy nó dài dòng, dây cà ra dây muống, hình như người viết cố viết dài ra để lấy nhuận bút. Rồi lại sính dùng chữ nước ngoài. Chữ ta có thì nên dùng chữ ta, chữ ta không có mới mượn chữ nước ngoài – theo “Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt – Sửa đổi lề lối làm việc)
Có nhiều bài viết vừa dài, vừa lập luận thừa thải. Điển hình là bài “Những người đàn bà gánh nước sông” (đã trích dẫn ở trên). Ví dụ câu:
"Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy”. Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy, thì cần gì phải kể đến từng chặng một thời gian như vậy. Kể thế sao cho hết. Nếu kể thế thì phải viết cho đủ: Đã một năm, đã hai năm, đã ba năm… đã và đã, thì đến bao giờ mới kể xong. Viết chỉ ngắn gọn là “nửa đời tôi thấy” thì vừa đầy đủ, vừa chính xác. Còn có những người, họ chỉ sống 50 tuổi , 40 tuổi, 30 tuổi thì sao?
Mỉa mai thay bài này đã được chọn in trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX(!)
Cách nghĩ và cách viết không chính xác, viết lấy được của Nguyễn Quang Thiều còn nhiều nhiều. Như bài “Trong quán rượu rắn”. Người ngồi trong quán rượu rắn, chắc là không uống rượu nên tỉnh bơ, như uống nước chai lave “Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ/ Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng”. Người đọc tưởng tác giả đang đi dạo rừng thu bạch dương ở bên Nga!
“Những con rắn bị thủy táng trong rượu". “Thủy táng” là chôn nước. Táng - nguyên chữ Hán là chôn, vùi đã tương đối Việt hóa. Khi người chết, nhất là người thân, người ta dùng chữ táng cho nhẹ đi, đỡ đau hơn nếu dùng chữ Việt là chôn hoặc vùi. Từ cổ đến nay có nhiều cách táng: thổ táng, hỏa táng, thủy táng, mộc táng, điểu táng, thạch táng, cẩu táng, điện táng… “Những con rắn bị thủy táng trong rượu” – Tức là những con rắn chôn nước trong rượu. Thật ra rượu là nước có nồng độ men cao, cũng như nước biển có nồng độ muối cao mà thồi. Những người đi biển khi chết được đem bỏ xuống biền và nói như cách nói của Nguyễn Quang Thiều: “Những con người bị thủy táng trong biển”. Nó vô lý và buồn cười, đau xót biết bao cho cách lập câu, cách viết như thế này.
Cha ông ta đã có cách nói rất hay khi đem bỏ thảo quả và động vật quý làm thuốc vào rượu và gọi là “ngâm rượu”: táo ngâm rượu, cam ngâm rượu, lê, mận ngâm rượu, bìm bịp ngâm rượu, rắn độc ngâm rượu… Nếu nói cho có hình ảnh mượn chữ Hán thì có thể nói “những con rắn bị đem tửu táng”!
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều rất kém thi pháp (nghệ thuật thơ), lạm dụng nhiều chữ nhiều từ như : khóc, vỹ đại, lạm dụng từ Hán Việt chưa được Việt hóa…
Những con cá thiêng quay mặt khóc
………
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
(Những người đàn bà gánh nước sông – đã dẫn).
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quì xuống vốc cát ấp vào mặt
Tôi khóc.
(Sông Đáy)
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo gọi Nguyễn Quang Thiều là “nhà khóc học” thật không sai!
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
(Trong quán rượu rắn)
Cha ông ta có những phép tu từ rất diệu nghệ, người ta không hề nói đến một chữ khóc mà đời nào nghe cũng rưng rưng:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi!
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn
Hay:
Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả mẹ chín chìu ruột đau!
(Ca dao)
Bạn về chẳng có chi đưa
Có hai lọn nếp mà chưa lặt lòn!…
(Ca dao)
Rồi mùa toóc rạ rơm khô
Bạn về quê bạn biết mô mà tìm
(Ca dao)
Ở đây Nguyễn Quang Thiều và nhiều người viết khác dùng vô thiên lũng chữ “ khóc”, người ta gọi là các “nhà khóc học” mà chẳng làm một ai mủi lòng! Thật là tại hại!
Nguyễn Quang Thiều hay viết về quê hương mình, vùng làng Chùa, sông Đáy là xứ Đoài xưa nhưng không hề thầy bóng dáng “Xứa Đoài mây trắng” ở đâu, không thấy áo lụa Hà Đông ở đâu, không thấy Hà Tây quê lụa ở đâu? Một miền cội nguồn dân ca Bắc Bộ, một miền hát xoan, ghẹobiến mất trong cách viết của Nguyễn Quang Thiều!
Mà Xứ Đoài không chỉ người con của xứ sở ấy máu thịt mà cả dân tộc, thậm chí cả châu Á, châu Âu cũng có trong hồn của họ.
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuy khoắt thổi đêm trăng
(Quang Dũng)
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt nhớ
Bởi vì em mặc áo lụa Đông
( Nguyên Sa)
Bóng chiếc thoi đưa, ánh mắt long lanh, trời đất Hà Tây quê em dệt lụa
Mây trắng Ba Vì…hồn thơ Nguyễn Trãi
(Hà Tây quê lụa – Nhật Lai)
Một lần trò chuyện với nhà văn Trung Quốc Trịnh Bá Nông nguyên Tổng biên tập báo Văn Nghệ Trung Quốc tại Bắc Kinh, ông nói: “Ở việt Nam tôi yêu thích nhất là Ca dao và Quan họ Bắc Ninh”. Trong khi đó các nhà thơ, nhạc sỹ nước mình đi tìm con cáo lông đen (ý của Gam zatop) ở đâu đâu.
Viết ngắn, viết giản dị mới khó. Đông Tây, kim cố gì cha ông cũng đã dạy
Rien n’est plus dificille que d’ecrire ficille - Không có gì khó bằng viết dễ hiểu – Châm ngôn Pháp. "Công phu thâm xứ thi bình dị" - Thơ hay nhất là thơ dễ hiểu – Lục Dụ đời Tống, Trung Quốc.
Điển hình cho sự dài dòng văn tự, tắc tỵ lố bịch, quái dị của Nguyễn Quang Thiều là bài “Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ”.
(Trích)
"Người hướng dẫn : Được dệt thủ công bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
"Người mua : Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm"…
Kịch không ra kịch, đối thoại không ra đối thoại, tế không phải tế, cáo không phải cáo, điếu văn cũng không ra điều văn, kể chuyện học sinh cũng không ra kể chuyện học sinh, nhật ký cũng không phải nhật ký, hát ru bà, hát ru ông cũng không phải… Nó là một thứ ba đầu sáu tay, quái thai văn chương. Thế rồi nó lại còn dung tục: “Một bà già đi tiểu 5 lần nói: “Mẹ đau lắm!”. Trong bệnh viện khoa dưỡng lão, các bác sỹ ghi bệnh án còn sạch sẽ hơn nhiều cái gọi là thơ này!
Thơ hậu hiện đại có thể lược bỏ vần điệu, coi nhẹ vần điệu nhưng ý tứ phải sâu sắc, hình ảnh phải mới lạ, độc đáo, tình cảm phải dạt dào rung động người đọc mới chấp nhận:
Thời gian ơi, xin hãy đừng trôi nữa
Đó là lời khẩn cầu
Của những kẻ đang yêu
Tại sao các vị lại không khẩn cầu ngược lại
Tình yêu hãy ở bên các người mãi mãi
Còn thời gian thì:
Cứ kệ nó trôi đi…
(Thời gian và tình yêu – Ion Milos – Nhà thơ Thụy Điển – Thơ hậu hiện đại – Phạm Viết Đào dịch)
Hay:
Người đẹp
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
(Dân ca Dáy)
Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết- nhìn người đẹp lại không muốn chết nữa
Ơ! Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!
(Lò Ngân Sủn)
hay:
Hôm qua sáu giờ năm mươi phút
Đồng chí Lê nin từ trần
Năm này chứng kiến một lần
Điều bất hạnh trăm năm không thấy nửa
Ngày ngày muôn thuở
Sẽ là truyền thuyết đau thương
Tin kinh hoàng
Sắt thép bất tiếng kêu than
Sóng nức nở trên những người cộng sản
Sức nặng đè ghê gớm
Không lê nổi chân đi
Biết thế nào đây và làm gì nữa!
Nhà hát lớn trôi trên đường phố
Nỗi buồn như một cỗ xe tang
Nỗi vui bò như ốc như sên
Nỗi buồn chạy như điên như dại
Không ánh mặt trời
Không ánh băng sang dọi
Tất cả đã rắc một lớp tuyết đen
Sàng qua báo chí
Tin ập tới
Người công nhân trước máy
Như một chén lệ đổ xuống bàn dụng cụ
Trẻ nhỏ bỗng nghiêm trang như các cụ già
Các cụ già khóc như trẻ nhỏ!...
(Trường ca Vladimia Ilích Lê nin – Maiacop xki – Trần Dần dịch)
Hay:
Sầm phu tử
Đan Khâu sinh
Tương tiến tửu
Bôi mạc đình
Thỉnh quân ca nhất khúc
Vị ngã khuynh nhĩ thinh
Chung cổ soạn ngọc bất túc quý
Đã nguyện trường túy bất nguyện tinh
Cổ lai thánh hiền giai tỉnh mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Tương tiến tửu – Lý Bạch)
Sầm Phu tử
Đan Khâu sinh
Sắp mời rượu
Đừng có sai
Mời anh ca một khúc
Vì tôi nghe mầy bài
Rượu tiệc ngon giữa trống chiêng nào có đáng quý
Không muốn tình cứ say sưa mãi hoài
Xưa nay thánh hiền có ai tên tuổi
Chỉ kẻ uống rượu là lưu danh muôn đời
(Sắp mời rượu – Đỗ Hoàng dịch)
Nói vậy, chứ tiếng Việt lược bỏ hoàn toàn vần điệu rất dễ chuốc lấy thất bại thảm hại. Vì tiếng Việt hoặc tiểng phương Đông là xỉ âm – phát ra từ răng, phần nhiều một âm tiết, không như tiếng các Âu – Mỹ - đa âm tiết, một từ nói đã có tính nhạc trong đó ví dụ như bữa ăn sáng (phiên âm): bờ rét phát, đẹp - bui ti phul (Anh ), đẹp - kờrát xvưi (Nga)…
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và một số nhà thơ, người làm thơ khác cũng có công cố gắng tìm tòi, đấy là điều đáng trân trọng. Nhưng theo quan điểm và cách thưởng thức, thẩm định của tôi thi những gì họ viết ra không phải thi ca, văn chương. Họ hoàn toàn thật bại một trăm phần trăm.
Người viết ra loại Vô lối thật đáng trách, người tung hô, in ấn lăng xê càng đáng trách hơn, tố chức nào đó trao tặng giải thưởng, khuyến khích cổ vũ thì đáng trách vô cùng. Những người này nếu được đề bạt quản lý cầm cương nảy mực nền văn nghệ nước nhà thì văn chương Việt đi đến đâu? Nhãn tiền ấy mọi người đã rõ!
Hà nội ngày 1 – 6 -2012
Đ.H.

Viết buồn nôn!

  •   21/06/2025 22:35:00
  •   Đã xem: 30
  •   Phản hồi: 0
VIẾT BUỒN NÔN NHƯ GIẪM PHẢI CỨT NGƯỜI!
Vi Thùy linh
Nguyên bản (1)
Mùa thụ mầm
Đêm song song phố ướt – cặp đùi dài
Nàng đếm ngày người yêu về lại
Đếm bằng ngón tay như những phím cầm nâu của anh
Đôi chân chưa nhìn thấy
Chỉ những dấu chân vân nhấn trời mang bầu vĩnh cửu
Từ kiếp trước
Chúng mình đã yêu cẫn mẫn . Và im lặng
Đời người thì ngắn
Giấc mơ lại dài
Anh giấu đôi tay trước sự chờ đợi của em
Ngoài kia
Tất cả thành phố cây xanh bỗng rạc vàng cành khô. Lá vàng ngân nga như những át – cơ hồi hộp
Căn phong say mềm tay
ánh vàng toát từ những lọ gốm như mồ hôi mặt trời chiều
Níu anh, em sóng.
Không thể đu lên giữ chiếc kim giờ hiện thực
Vì khuôn mặt chúng ta là chiếc đồng hồ
Gửi cho anh hai mươi búp ngọc lan ủ bên ngực em từ đêm anh choáng ngợp
Vốc tay đầy hương linh
Mạch mạch nước nấc lên vì nhớ
Bừng từng đêm lưỡi như ngọn lửa
Liếm vào thân sóng nóng
Nguyên một mùa đắm đuối
Tình yêu sinh ra Con người
Khi em lúng túng không cất tiếng, là lúc nỗi sợ hãi xa cách quất lên
Ngôn ngữ không quyền uy cho diễn đạt yếu đuối
Đôi mắt ôi mùi nồng nàn ơi
Tạo hóa cho chúng ta ánh sáng mới tinh sau một đêm mê man còn váng sữa
Mảnh trăng như miếng dưa hấu đỏ
Bỏ lạc giữa trời
Váng vất cơn cơn mưa mê sảng
Những giọt mưa tuột ra từ những đám mây bụng mang dạ chửa
Khiến cái túi ni - lon tứ tung bỗng vỡ nước ối từ một số mái nhà
Vỡ không gian rối tung bê tông cọc sắt
Mưa tới tấp vừa rơi, vừa yêu
Không phải Phật nghìn mắt, nghìn tay
Anh ủ em trong im lặng đầy hơi ấm bằng đôi tay xuất thần
Con đường khểnh theo chiếc răng bên trái
Cầu vồng mọc từ hai ngón tay cái
Em ngập vào ngân gió
Ngân anh
Giữa nỗi lạc lõng
Trong ánh sáng đỏ của mặt trăng dưa hấu đang hồi lại màu thu non vì được bú dịu dàng
Những chiếc máy bay như bầy chuồn chuồn ớt
Cắn rồn Ngày và Đêm
Thế mà Đêm chẳng biết bơi băng qua những ngăn cách, khủng hoảng của loài người
Đêm một mình và đêm yêu nhau. Lúc nào cũng tóc
Tóc ướt trong phòng tắm tóc khô héo gối
Dòng sông đầy tóc rụng đang ngân gió
Gọi xanh
Kìa búp sen xanh mắt quyền uy khép đêm giao linh
Ôm cơn khát để anh tung vó
Chỉ hơi thở và tiếng hân hoan tưới đầy mặt đất
Hằng hà mầm cây như những núm vú bật lên từ hoang hóa đất đai
Tiếng lục lạc tràn hoang mạc
Ngày sinh của chúng : sự nhân – chia đôi tiền định hai người tháng Tư
Em nấp vào vết tay anh để lại trên bàn vàng căn phòng quen lạ ấy
Nơi lỡi nến phập phồng vươn cả khi sắp tắt trong cái nhìn hình phễu của chiếc lới chụp bên nụ hồng vàng khô nép cánh giống đôi môi em
Ngày anh về, chưa biết rõ
Phố đầy cây phượng gọi anh từ mùa hoa này
Nơi bay lên bầy vú thiếu nữ
Con đường đêm héo như quả phượng già
Tháng 9 nhớ về chín nhịp phồn sinh trong tiếng gọi đóa hoa kèn tháng Tư nở vào mùa thu tinh khiết.
Con đường trổi cặp chân dài
(1) Theo Đặc Trưng – Thơ
Đỗ Hoàng Dịch ra thơ Việt:
Mùa sinh sôi
Đêm đôi ngã trải dài phố ướt
Nàng tính ngày người yêu trở về.
Bấm đốt tay như bấm phím cầm mơ ước,
Chưa thấy người trong khoảng trời quê!
Từ kiếp trước tình đôi ta im lặng
Với lời yêu gửi chốn địa đàng.
Đời thì ngắn, ước mơ thì dài rộng,
Anh có bồi hồi trước nỗi em mong?
Ngoài kia là nhiệt nồng phố xá,
Hàng cây xanh bỗng rực rỡ thắm vàng
Những chiếc là hoe ngân nga trong gió
Như lá bài hồi hộp âm vang!
Nhớ căn phòng mềm say tay ấm,
ánh vàng như nước giọt trời chiều
Dập dìu níu anh em như sóng
Giữa thì giờ hiện thực phiêu diêu.
Gương mặt ta, chiếc đồng hồ báo thức
Giữ cho anh những búp ngọc lan
ủ ngực em làm anh choáng ngợp
Vốc tay đầy lan hương linh thơm!
Ngầm mạch đời cuộn sôi nỗi nhớ
Lưỡi mềm như ngọn lửa rực hồng
Đi đến tận ngọn nguồn sóng vỗ
Tình yêu sinh nhân loại kiêu hùng!
Lúc bối rối, em làm sao nói hết.
Em sợ nhiều hoang vắng cách xa.
Chút yếu mềm làm em mỏi mệt
Đôi mắt đầy nồng thắm thiết tha.
Đêm thăm thẳm giữ giùm ta ánh sáng
Mảnh trăng thanh tựa mảnh dưa hồng,
Ai bỏ lạc giữa trời cao rộng
Từng cơn mưa váng vất rót thinh không.
Mưa rơi xuống trên mây mờ sủng nước,
Nước tứ tung gõ những mái nhà,
Làm vỡ cả bê tông, cốt thép.
Mưa nồng nàn tình cảm đôi ta!
Không phải Phật nghìn tay, nghìn mắt.
Anh ủ em bằng cả tâm hồn
Đường đời ấy còn biết bao trở trắc
Ngón tay anh như ánh cầu vồng!
Em ngụp lặn trong anh ngàn gió,
Giữa cô đơn lạc lõng lứa đôi.
Trong ánh sáng mặt trời dưa đỏ
Dòng sữa thơm bú mớm tuyệt vời.
Đêm ồn tiếng máy bay chuồn ớt,
Cố băng qua khoảng cách loài người
Đêm nồng nàn yêu mùi hương tóc,
Ngân gió ngàn, xanh gọi sông trôi.
Đêm giao linh, mắt quyền uy khép mở
Em phi thân trên cơn khát đời anh,
Tươi mặt đất phút hân hoan ngẹt thở
Mầm cây lên cho bằng địa êm lành!
Trên hoang mạc rung vang lục lạc,
Ngày tháng Tư của ta sinh sôi.
Em ngập vào tay anh thân thuộc
Ngọn nến mềm dịu ấm làn môi.
Ngày trở về, em chưa tường tỏ
Phượng hồng ơi! Anh của mùa này
Sẽ bay lên như bầy thiếu nữ
Nở mùa thu tinh khiết đắm say!
Hà Nội ngày 10 – 9 - 2007
Đ - H

Tinh thàn hòa hợp dân tôc

  •   20/06/2025 16:57:00
  •   Đã xem: 34
  •   Phản hồi: 0
TẦM VÓC HÒA HỢP DÂN TỘC TRONG CHÂN DUNG 810 VỊ VĂN SĨ VIỆT của Đỗ Hoàng - NXB Hội Nhà văn năm 2018
Nếu hai miền nam bắc Việt Nam hòa hợp được như nước Mỹ thì " Chân dung 810 vị Văn sĩ Việt đương đại của Đỗ Hoàng xứng giải Nobel Hòa bình!
Gần 400 văn sĩ thuộc nước Việt Nam Cộng Hòa 1954 - 1975 có.mặt.
(tiếp theo)
Phần Văn:
1- Doãn Quốc Sĩ nổi địa cầu
Ba sinh hương lửa thần sầu An nam.
2 - Văn phong Võ Phiến nhẹ nhàng
Nỗi đau nhân thế , danh càng thơm hơn!
3 - Xuân Vũ xương trắng Trường Sơn
Đường đi không đến, nỗi hờn máu tuôn!
4 -Vũ Bằng tình báo văn chương
Miếng ngon Hà Nội khó lường hiểm nguy!
5 - Đêm xa Hà Nội một thời
Mai Thảo văn bút rụng rời đến nay!
(còn nữa)

Thi tăc số 21 - Hoàng Hưng

  •   18/06/2025 02:02:00
  •   Đã xem: 33
  •   Phản hồi: 0
THI TAC số 21 - "Bạn giờ giao hợp nơi đâu/hay về gacs cũ sắc mù đung đưa!
"Con gà quay
Con gà quay
Cởi quần chửi thề"
Hoàng Hưng
DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT
Nguyên bản: GIẤC MƠ ANH NGẬP BIỂN
Tặng Mười
Rồi một ngày anh gặp em
Vàng rực bờ biển nắng
Em mới hiểu rằng em là biển
Bao nhiêu năm sóng thầm réo trong mình
Anh mới hiểu chính em là biển
Bao nhiêu năm anh tìm
Những bắp thịt săn của sóng
Đánh vào ta nồng nàn,
Muối mặn ngấm vào rực máu
Trái tim bắt đầu hoang mang
Rồi giấc mơ anh ngập biển
Vụt kinh hoàng bóng em tan biến,
Và giấc mơ em ngập biển
Ngượng ngùng để anh nắm tay.
Nắm tay nhau nhảy tung ngọn sóng,
Nắm tay nhau ngụp lặn thủy triều,
Em sặc nước rồi anh sặc nước.
Tỉnh dậy một mình đầm nước mắt
Thôi chúng mình đã yêu!
Đỗ Hoàng
Dịch ra THƠ VIỆT –VÔ LỐI HOÀNG HƯNG
GIẤC MƠ BIỂN
Rồi một ngày anh được gặp em
Trời rực vàng rực trên bờ biển thắm
Anh mới hiểu em là biển nắng
Bao nhiêu năm reo sóng trong mình
Anh thêm hiểu chính em biển thắm
Bao nhiêu năm anh đã đi tìm!
Những bắp thịt săn chắc của sóng
Đánh vào ta mãnh liệt vô vàn,
Biết muối mặn ngấm vào người rực máu
Trái tim trẻ trai hồi hộp hoang mang
Rồi giấc mơ anh tràn ngập biển
Bóng em tan vụt biến bàng hoàng!,
Và giấc mơ em đầy ngập biển
Tay trong tay thương yêu nồng nàn!
Ngượng ngùng biển để anh tay nắm.
Tay trong tay tấy tung ngọn sóng,
Tay trong tay ngụp cơn triều cường,
Em và anh tất thảy đều sặc nước.
Tỉnh dậy một mình anh nước mắt đầy tràn
Thôi chúng mình đã thật yêu nồng nàn!
Hà Nội ngày 18 – 11 -2022
Đ - H
Không có thông tin chi tiết để hiển thị
Tác giả
Do Hoang

Thi tặc sô 8 - Phú Trạm Ỉnasara

  •   17/06/2025 15:50:00
  •   Đã xem: 32
  •   Phản hồi: 0
nStrosopdei0
2

07gu
0
2
7

2
,
t518
6
3
6ca
g
86
á
l708l2
t
105
1
86m
h
3
2

n
uf1i
·
Đã chia sẻ với Công khai
THI TẶC 8 - VÔ LỐI PHÚ TRẠM IN RA SA RA VIẾT CHO AI ĐỌC -Hời còn 1000 người, 1tiểu đoàn linh về làng Hời ngủ 1đêm tiêu mà dân Hời - Chủ tịch Hội đồng Thơ - Hội Thi tặc khoá X do trùm cu lít Thiều chọn!(đã từ chức)
Thứ tư - 10/11/2021 14:12
Trong các chuyên luận trước tôi đã viết có nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số, họ là những nhà thơ song ngữ tài danh như Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn…thế hệ kế tiếp Lương Định, Dương Thuấn, Mai Liễu…đã góp phần làm rạng rỡ văn học nước nhà. Trong cộng đồng 54 dân tộc của Việt Nam lấy tiếng nói, chữ viết, chữ ,,quốc ngữ,, của người Việt, tộc người đa số làm chính. Các nước trên thế giới, như Trung Quốc, Nga, Anh, Mĩ…cũng vậy. Trung Quốc quốc ngữ là tiếng Hán, Nga thì tiếng Nga, Anh thì tiếng Anh…Các nhà thơ dân tộc thiểu số như Lão Xá ,Trung Quốc, Raxun Gamzatop ,Nga, đều thông thạo quốc ngữ của mình và họ có nhiều tác phẩm rất nổi tiếng.
VÔ LỐI PHÚ TRẠM IN RA SA RA VIẾT CHO AI ĐỌC
VÔ LỐI PHÚ TRẠM IN RA SA RA VIẾT CHO AI ĐỌC
Đỗ Hoàng
Trong các chuyên luận trước tôi đã viết có nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số, họ là những nhà thơ song ngữ tài danh như Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn…thế hệ kế tiếp Lương Định, Dương Thuấn, Mai Liễu…đã góp phần làm rạng rỡ văn học nước nhà. Trong cộng đồng 54 dân tộc của Việt Nam lấy tiếng nói, chữ viết, chữ ,,quốc ngữ,, của người Việt, tộc người đa số làm chính. Các nước trên thế giới, như Trung Quốc, Nga, Anh, Mĩ…cũng vậy. Trung Quốc quốc ngữ là tiếng Hán, Nga thì tiếng Nga, Anh thì tiếng Anh…Các nhà thơ dân tộc thiểu số như Lão Xá ,Trung Quốc, Raxun Gamzatop ,Nga, đều thông thạo quốc ngữ của mình và họ có nhiều tác phẩm rất nổi tiếng.
Phú Trạm Inrasara dân tộc thiểu số Chăm. Người Chăm thuộc nhóm chủng tộc Austronesia (người Nam Đảo) có nguồn gốc Đông Nam Á.
Người Chăm hay người Champa (Chăm Pa) (tiếng Chăm: Urang Campa), còn gọi là người Chàm, người Chiêm, người Chiêm Thành, người Hời... hiện cư ngụ chủ yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Đến thời vua Minh Mạng, vương quốc Chăm pa đã bị xóa sổ; thời Pháp thuộc còn lưu lại Bảo tàng Chăm ở Đà Nẵng. Dân số người Chăm tại Việt Nam theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là 178.948 người, tương đương dân số một phường trung bình ở thành phố.
Hàng nghìn, hàng trăm năm qua, cộng đồng dân tộc thiểu sống trong cõi Việt họ nắm vững tiếng phổ thông ,, tiếng Việt,, như tiếng mẹ đẻ. Riêng Phú Trạm Inrasara tiếng Việt làm thơ rất kém. Tôi có lần khảo sát tiếng Việt của Inrasara thì thấy ông ta trình độ chỉ lớp 1, lớp 2 trường làng. Ông ta làm thơ tiếng Việt rất nhăng cuội, lộn xà lộn xộn, rồi đưa lẫn tiếng Hán, tiếng Anh, các dấu toán học vào trong bài thơ như một mớ bòng bong. Phú Trạm Inrasara là loại đại biểu số I thơ vô lối.
Báo Văn nghệ bộ mới do những người thơ vô lối cầm chịch nên số 19 Phú Trạm Inrasara được in một chùm 2 bài. Bài thứ nhất là ,,Tam khúc Orchid Island Taiwan,, ; bài thứ 2 ,, 3 Đoản thi trái đất,,.
Phú Trạm Inrasara đã dốt chữ Việt lại sính dùng mấy chữ tiếng Hán và mấy chữ tiếng Anh học thời phổ thông pha trộn vào trong bài thơ vô lối để ,,khoe ,, mình có văn hóa cao. Bài thơ nào cũng thế, tập thơ nào cũng thế.
CON ĐƯỜNG VỠ
Người cư ngụ dưới căn nhà tồi tàn
trước ngọn đèn tồi tàn, người suy tưởng
về sự thống khổ bần hàn trong thế gới bần cùng
giàu sang là nẻo đường rừng người đi buổi sớm
Con đường khép lại và mở ra dưới sức nặng bàn chân
Xát mòn vẹt đau để vui mở ngọn
cưu mang gót giày nhục nhằn cho mầm nắng trồi lên
Con đường rừng nhạt và chìm vào ẩn mật
kiên nhẫn chờ đợi bước chân thế hệ chưa hình thành
bất chợt chiều nay tôi thấy con đường vỡ
đang nhìn tôi trong tiếng nói không lời
In trong tạp chí Thơ số 1&2 – 2012)
Một bài ngắn 11 dòng, In ra sa ra đã dùng đến 20 chữ Hán chưa Việt hóa ! Rất kém.
居 cư ở, cư trú; 寓 ngụ 1. nhờ cậy 2. nói bóng gió; 摧殘 tồi tàn : tồi tàn, hư hỏng, đổ nát; 推想 suy tưởng , như suy tư 推思. 推思 suy tư : nghĩ ngợi. 推奬 suy tưởng :đề cao mà khen thưởng;丩cưu : bò lan, quấn quýt ( nói về loại dây leo ). 忙 mang : bận rộn, bề bộn; 辱 nhục :1. nhục, xấu hổ 2. làm nhục 3. chịu khuất; 隱密 ẩn mật 1. Dấu kín.Che dấu kín đáo. 堅忍 kiên nhẫn - Vững lòng nhẫn nại, Bền vững chiu đựng; 世繫 thế hệ 1. Liên hệ dòng dõi của một gia tộc trải qua các đời. 2. Liên hệ dòng dõi giữa các tông phái kế thừa nhau.
形成 hình thành hình thành, lập nên, tạo thành
Chùm thơ của Phú Trạm Inrasara in tên báo Văn nghệ bộ mới cũng dở dơi, dở chuột. Một tí chữ Hán, một tí chữ Anh, một nhóm chữ Việt không ra làm sao, có ý khoe mẽ. Bài đầu là
Tam khúc Orchid Island Taiwan, Tam khúc là chữ Hán =三 曲=
Nghĩa là ba đoạn.
Con cháu nhắc lời cụ Hồ vạn lần là ,, chữ ta có thì dùng chữ ta, khi nào chữ ta không có, ta mới mượn chữ chữ nước ngoài,,. Ta có chữ ,, ba đoạn thơ,, đàng hoàng nhưng Phú Trạm Insarara không dùng mà dùng ,,tam khúc,, cho ra vẻ ta đây cũng chú ,,khách,, Tàu Ô.
,,3 Đoản thi trái đất,,. Đoản thi là chữ Hán = 短詩 =
Chữ Việt nghĩa là ba đoạn thơ ngắn. Sao lại không dùng tiếng Việt. Phú Trạm Inrasara đang làm thơ tiếng Việt mà.
Tiếp đến ông ta dùng chữ Anh lởm cởm. Làm thơ tiếng Việt mà dùng tiếng Anh để viết thì ông nội Phú Trạm Insarara cũng đếch biết mô tê răng rứa nói chi đến người đọc bình thường. Chắc đám vô lối cho in bài này đọc được. Đây cũng là sự lòe bạn đọc một cÁch ngu dốt, quê kệch. Tiếng Việt có sao không viết thẳng ra ,, Ba đọan thơ về đảo hoa lan Đài Loan,, mà viết chuột không ra chuột, dơi không ra dơi thế này ,,Tam khúc Orchid Island Taiwan,,.
Khúc một là một thông báo lịch sử, địa lý sơ sài không có một tỉ ti nào gọi là có chất thơ, dù là chất thơ vô lối, mà nói đến quốc gia nào cũng được
[1] Sông núi dời đổi
triều đại chuyển đổi
quốc gia biến đổi
lòng người bấp bênh thay đổi không lường ,
duy rác hạt nhân là vĩnh cửu
Khúc này nói cho nước Lào, Căm pu chia, Cu ba, Nga, Mĩ, Anh, Pháp …được tất.. Một khổ vô lối như thông báo sử, địa mà tác giả lạm dùng đến 11 chữ Hán.
朝代 triều đại = Đời vua — Khoảng thời gian của một dòng vua trị vì ; chuyển = quay vòng, chuyển, đổi ; 国家 quốc gia= nhà nước, quốc gia, đất nước ; 变 biến 1. thay đổi, biến đổi 2. trờ thành, biến thành 3. bán lấy tiền
4. biến cố, rối loạn ; 量lường 1. đong, đo 2. bao dung 3. khả năng, dung lượng ; 唯 duy chỉ có ; 害 hạt = hại, hại vô cùng ; 因 nhân 1. nguyên nhân 2. nhân tiện 3. tuỳ theo 4. phép toán nhân ; 永久 vĩnh cửu = vĩnh cửu, vĩnh viễn, lâu dài, mãi mãi
[2] Và họ hiện đại hóa chúng tôi
và họ tạo thêm nhiều, nhiều hơn nữa
nhu cầu mới lạ cho ngày thường của chúng tôi
[nhu cầu chưa bao giờ cần]
và họ mang cố gái của chúng tôi đi mất
và họ chở thứ rác lạ về
cùng với rác lạ
bệnh lạ về
nỗi lo lắng lạ về
và ở lại…
Khổ này như thông báo tổ chở rác của chị em công nhân môi trường làm vệ sinh đường phố mỗi ngày, Nó không dính dáng gì đến hòn quốc đảo hoa lan Đài Loan cả.
[3]
Và chúng tôi trôi giạt về hoang đảo xa hơn
và chúng tôi chạy lên dốc núi cao, cao hơn nữa
và tôi thấy một mình giữa đường phố xa lạ
và tôi thấy đời tổ tiên tôi đang ở góc bảo tàng
và tôi thầy
đời tôi
sắp bảo tàng…,,
Ngắm nhìn hòn đảo hoa lan Đài Loan, anh liên tưởng đến thân phận dân tộc Chăm của anh, bản thân anh, hẩm hiu mạt hạng, nhưng kể lể lạnh lùng một cách vô cảm, không một chút rung động, không để lại một dòng đồng cảm xót thương những tộc người man di mọi rợ bị xóa sổ trong lịch sử, bị nhồi trấu nằm trong nhà bảo tàng như chuồng bò.
Bài thứ hai trong chùm thơ của Phú Trạm Inrasara là ,,3 Đoản thi trái đất,, viết về tai nạn Tchernobyl ,,Checnoo bin,, bên Ucraian ; tỉnh bị đại hồng thủy Fukushima Nhật bản và đảo Haiti. Như ,,Ba khúc về đảo hoa lan Đài Loan,,, ,,3 Đoản thi trái đất,, viết cho ba địa danh nào trên trái đất cũng đươc.
Ngôi nà trống trong thành phố trống
thành phố vừa bị bỏ lại
cái bàn trống trog ngôi nhà trống
tờ giấy và cây bút bỏ trước chiếc ghế trống
ký ức một gia đình bị đánh mất, chắc thế
cũng có thể là những câu thơ
bỏ quên
[1] Tchernobyl
Những câu tổ dân phố thông báo hàng ngày ở các nơi bị dịch covis 19 . Câu thông báo của người ta còn đầy chất thông tin, thiết thực, giúp cho công an, phường đội, tự vệ biết giải quyết kịp thời sự cố xảy ra ở địa phương hơn các câu gọi là thơ của Phú Trạm Inrasara.
Những chiếc ô tô
những ngôi nhà và những biệt thự
một khu cư xá đầy nhóc người ;; rồi
một thị trấn.
trôi
như đồ chơi của bọn trẻ con
trong bàn tay bà mẹ thiên nhiên giận dữ,,
[2] Fukushima
Đây không phải là những câu thơ mà những câu nói bộ khi xem ti vi chiều cảnh đại lụt ở tỉnh Fukushima, Nhật bản.
Số phận một dân tộc
số phận một nền văn minh
số phận một vùng đất
sắp bị trôi vào cuộc chơi
ngu ngốc,,
[3] Haiti
Haiti (phát âm /ˈheɪtiː/; tiếng Pháp Haïti, phát âm: [a.iti]; tiếng Haiti: Ayiti), tên chính thức Cộng hòa Haiti (Tiếng Pháp: République d'Haïti)); (Tiếng Haiti: Repiblik Ayiti) (Tiếng Việt: Cộng hòa Ha-i-ti[6]), là một quốc gia ở vùng biển Ca-ri-bê nói tiếng Creole Haiti- và tiếng Pháp. Cùng với Cộng hòa Dominicana, quốc gia này nằm ở đảo Hispaniola, trong quần đảo Đại Antilles. Ayiti (vùng đất núi cao) đã là tên Taíno hay Amerindian bản địa của phía tây núi non của hòn đảo. Điểm cao nhất quốc gia này là Pic la Selle, với độ cao 2.680 mét (8.793 ft). Tổng diện tích là 27.750 km² và thủ đô là Port-au-Prince.
Vị trí dân tộc, ngôn ngữ và lịch sử của Haiti độc đáo vì nhiều lý do. Đây là quốc gia độc lập đầu tiên ở Mỹ Latin, quốc gia do người da đen độc lập phi thực dân hóa đầu tiên trên thế giới, là quốc gia duy nhất mà sự độc lập một phần là nhờ cuộc nổi loạn nô lệ. Dù có mối liên hệ văn hóa với các láng giềng Hispano-Caribbe, Haiti là quốc gia độc lập chủ yếu sử dụng Pháp ngữ ở châu Mỹ, và là một trong hai quốc gia (cùng với Canada) với tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức.
Quốc gia Haiti (Pháp: État d'Haïti, Haiti: Leta an Ayiti) là tên gọi của quốc gia ở miền bắc Haiti. Quốc gia này được tạo ra vào ngày 17 tháng 10 năm 1806 sau khi lật đổ Đế quốc Haiti từ sau vụ ám sát Hoàng đế Jacques I. Quốc gia Haiti miền bắc nằm dưới sự cai trị của Henri Christophe lúc đầu là Trưởng quan Chính phủ Lâm thời Haiti từ ngày 17 tháng 10 năm 1806 cho đến ngày 17 tháng 2 năm 1807 khi ông trở thành Tổng thống Quốc gia Haiti. Hiến pháp năm 1807 dành cho Quốc gia Haiti đã biến chức vụ tổng thống thành vị trí suốt đời với quyền được bổ nhiệm người kế nhiệm mình. Ngày 28 tháng 3 năm 1811, Tổng thống Henri đã tự xưng là Vua Henry I, do đó giải thể Quốc gia Haiti và lập nên Vương quốc Haiti.,,
Quốc gia Haiti như thế mà tác giả viết quá sơ sài thua một cái tin trênbáo và đặt cho một vùng đất nào cũng được.
Phú Trạm Inraara tỏ ra ngông nghênh, chơi trội, ta phải viết cho ngang tầm trái đất, nhưng gã như con châu chấu lên cầm xà ich lái xe ngựa. Chưa đi bước nào xe ngựa đã chổng bánh lên trời. Rốt cuộc ,, Tam khúc Orchid Island Taiwan,, ; 3 Đoản thi trái đất,, hiện nguyên hình con ngáo ộp vô lối chết tươm xác thối như cứt chó.
Đã ngu độn, dốt nát tiếng Việt không khiêm tốn làm ra vẻ ta đây viết như thằng hề bôi son phấn đầy mặt quỷ.
Bài 1 thì ghi Tam khúc, bài 2 thì đề số 3 Đoản thi, câu thì xuống dòng tùy tiện,
đặt dấu ngoặc ,, ;;,, ngớ ngẩn.
,, một khu cư xá đầy nhóc người ;; rồi
một thị trấn.
trôi,,…
o
Không chỉ Phú Trạm Inrasara mà cả đám vô lối Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phú Trạm Inrasara,Nguyễn Khoa Điềm, Mai Văn Phấn, Phan Hoàng, Phạm Đương, Trần Hùng, Dư Thị Hoàn, Mã Giang Lân, Mai Quỳnh Nam, Từ Quốc Hoài, Hoàng Vũ Thuật, Hoàng Hưng, Đỗ Doãn Phương, Đinh Thị Như Thúy,Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Trúc Thông, Thi Hoàng, Thanh Tùng…rất ngu độn tiếng Việt, ba que xỏ lá, ném lựu đạn, trí trá, gian manh…đã tàn phá thơ dân tộc một cách nguy hại trầm trọng.
Chùm gọi là thơ của Phú Trạm Inrasara chỉ có bọn vô lối thưởng ngoạn với nhau, dân tộc Việt không ai chấp nhận loại này.
Hà Nội , ngày 1O/11/221
Đ H

Thi tăj 21 - Hoàng Hưngc

  •   17/06/2025 15:47:00
  •   Đã xem: 33
  •   Phản hồi: 0
THI TAC số 21 -
Hoàng Hưng
DỊCH THƠ VIỆT RA THƠ VIỆT
Nguyên bản: GIẤC MƠ ANH NGẬP BIỂN
Tặng Mười
Rồi một ngày anh gặp em
Vàng rực bờ biển nắng
Em mới hiểu rằng em là biển
Bao nhiêu năm sóng thầm réo trong mình
Anh mới hiểu chính em là biển
Bao nhiêu năm anh tìm
Những bắp thịt săn của sóng
Đánh vào ta nồng nàn,
Muối mặn ngấm vào rực máu
Trái tim bắt đầu hoang mang
Rồi giấc mơ anh ngập biển
Vụt kinh hoàng bóng em tan biến,
Và giấc mơ em ngập biển
Ngượng ngùng để anh nắm tay.
Nắm tay nhau nhảy tung ngọn sóng,
Nắm tay nhau ngụp lặn thủy triều,
Em sặc nước rồi anh sặc nước.
Tỉnh dậy một mình đầm nước mắt
Thôi chúng mình đã yêu!
Đỗ Hoàng
Dịch ra THƠ VIỆT –VÔ LỐI HOÀNG HƯNG
GIẤC MƠ BIỂN
Rồi một ngày anh được gặp em
Trời rực vàng rực trên bờ biển thắm
Anh mới hiểu em là biển nắng
Bao nhiêu năm reo sóng trong mình
Anh thêm hiểu chính em biển thắm
Bao nhiêu năm anh đã đi tìm!
Những bắp thịt săn chắc của sóng
Đánh vào ta mãnh liệt vô vàn,
Biết muối mặn ngấm vào người rực máu
Trái tim trẻ trai hồi hộp hoang mang
Rồi giấc mơ anh tràn ngập biển
Bóng em tan vụt biến bàng hoàng!,
Và giấc mơ em đầy ngập biển
Tay trong tay thương yêu nồng nàn!
Ngượng ngùng biển để anh tay nắm.
Tay trong tay tấy tung ngọn sóng,
Tay trong tay ngụp cơn triều cường,
Em và anh tất thảy đều sặc nước.
Tỉnh dậy một mình anh nước mắt đầy tràn
Thôi chúng mình đã thật yêu nồng nàn!
Hà Nội ngày 18 – 11 -2022
Đ - H
Không có thông tin chi tiết để hiển thị

Tác giả
Do Hoang
Ok Trinh Oanh Lan chia sẻ!

Các tin khác

RÁNH HÁO DANH

Nguyên Tài Cẩn là nhà nghiên cứu văn học tài năng.

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập3
  • Hôm nay616
  • Tháng hiện tại73,683
  • Tổng lượt truy cập705,164
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi