Mại dâm cổ Trung Quốc

Mại dâm cổ Trung Quốc

MẠI DÂM CỔ TRUNG HOA (tiếp theo)
Ghi chép sớm nhất về gái mại dâm trong lịch sử Trung Quốc là hệ thống mại dâm chính thức do Quản Trọng thiết lập vào thời Xuân Thu, được thể chế hóa dưới thời Hán Vũ Đế. Trần Đông Nguyên tin rằng sự tồn tại của gái mại dâm ở Trung Quốc thực sự bắt đầu từ các cung đình, gái mại dâm quân đội, gái mại dâm quan chức[a], gái mại dâm nội địa và gái mại dâm dân sự tùy theo địa vị của họ. Họ phụ thuộc vào các nhà thổ hoặc các cơ sở cao cấp và không có quyền tự do cá nhân. Hầu hết họ là tội phạm, thân nhân của tội phạm, kẻ buôn người hoặc tù binh chiến tranh. Gái mại dâm có địa vị xã hội thấp, và việc đưa người thân là nữ của các quan lại hoặc kẻ thù đi làm gái mại dâm cũng là một hình phạt được vua chúa sử dụng
Ở Trung Quốc cổ đại, từ "gái mại dâm" ban đầu là "changji", ban đầu dùng để chỉ các diễn viên nữ trong các buổi biểu diễn ca múa. "Sách thuyết giải tự" của Từ Thận có chữ "chang" nhưng không có chữ "chang". Từ "chang" lần đầu tiên xuất hiện trong "Yu Pian" của Cổ Diệp Vương thời Lương.
Thời cổ đại
Mặc Tử/Phi Nguyệt Thương
Người ta tin rằng kỹ nữ Hồng Nhai thời Tam Hoàng là những kỹ nữ được ghi chép sớm nhất. Người ta nói rằng dưới thời vua Hạ Kiệt, ông có gần 30.000 nhạc nữ[3]. Tuy nhiên, theo sử sách chính thống, nguồn gốc của mại dâm được cho là từ các phù thủy[5] thời Thương[4]. Vào thời đó, họ là những phù thủy mại dâm[6][7]. Họ bị người thời đó lên án và tin rằng họ có thể gây ra "xu hướng dâm dục" hoặc "xu hướng phù thủy". Nhà Thương cũng đặt ra luật lệ và hình phạt cho những xu hướng này.
Nhà Chu
Vào đầu thời Xuân Thu, thừa tướng nước Tề là Quản Trọng đã lập ra "Nữ Lỗ". "Đổng Châu Sách" ghi lại: "Trong cung điện của Tề Hoàn Công nước Tề có bảy chợ gái và 700 nhà chứa gái". Phần tiếp theo của Bộ sưu tập Kiến Hồ ghi lại: "Khi Quản Tử cai trị nước Tề, ông đã lập ra bảy trăm nhà chứa gái và thu tiền họ chi cho mại dâm để bổ sung cho chi tiêu của nhà nước. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của tập tục dùng phấn hoa làm tiền."
Ngũ Nguyệt Xuân Thu chép: "Vua Câu Tiễn nước Việt đã cử các góa phụ lên núi để tiếp đãi binh lính đang lo lắng và đau khổ." Nhạc Quyết Thư ghi: "Núi Đỗ Phủ được xây dựng khi Câu Tiễn chuẩn bị tấn công nước Ngô. Ông đã đưa các góa phụ lên núi để phục vụ như những chiến binh tận tụy của mình, nhưng họ vẫn chưa hoàn toàn tận tụy. Các diễn giải sau này cho rằng Câu Tiễn đã sử dụng điều này để tiếp đãi binh lính của mình."
Sử ký Đại Sử: Truyện Thương Nhân. Sử ký Hán Vũ Đế ghi lại: "Trịnh Cơ, một người phụ nữ nước Triệu, ăn mặc rất đẹp. Bà chơi đàn tranh, xắn tay áo dài, đi giày nhọn. Với đôi mắt và trái tim, bà sẵn sàng đi hàng ngàn dặm, bất kể tuổi tác, để tìm kiếm sự giàu sang và thịnh vượng."
Nhà Hán
Trịnh Tông Thông, trích dẫn "Nguồn gốc vạn vật", viết: "Hán Vũ Đế ban đầu thuê gái mại dâm trong trại để phục vụ binh lính không có vợ. Xem "Sử ký Hán Vũ Đế không chính thức."
Mã Dung thời Đông Hán "có rất nhiều nhạc cụ xa hoa trong nhà. Ông thường ngồi trong một sảnh cao, phía trước có rèm voan, dạy học trò, phía sau có nhạc công nữ." Ông được gọi là "Giang Chương sư."
Nam Bắc Triều
Nam Sử ghi lại rằng Hoàng đế Tề bị phế truất "mỗi đêm đều mở hậu sảnh và mở tiệc trong trại."
Triều Đường
Nam Tân Thư chép rằng Lý Diệu, vị quan thái thú của Xá, rất quan tâm đến các ghi chép về rượu của Mai Xuyên và Xá Châu. Ông thậm chí còn nhận nuôi một kỹ nữ tên là Thiều Quang. Vào ngày bị cách chức, ông đã hẹn với nước Ngô để chăm sóc cô ta. Trước khi đi, ông đã uống rượu với cô ta, lòng tràn ngập nỗi buồn. Có một bài thơ rằng: "Bao năm cai quản quận, ta đã tận hưởng cuộc sống, học cách chiến đấu và hỏi ý kiến của những kẻ say rượu. Hôm nay, trước khi đi, ta phải sắp xếp mọi việc, và ta sẽ nhận được viên ngọc Mai Xuyên." Ngô đáp: "Ta mỗi ngày đều tận hưởng, phong thái tao nhã của ta không gì sánh bằng. Tuổi trẻ của ta đã mất, và giờ ta đã có viên ngọc trong lòng bàn tay."
Sách Nam Tân Thư ghi chép rằng một vị quan nhà Đường có con trai với một kỹ nữ trong trại: "Trương Bác Thương, thái thú Cẩm Châu, nuôi một kỹ nữ trong trại. Trương Sơ Thực sinh được một người con trai tên là Nhân Quý, được ông nhận làm con nuôi. Họ sống giữa vùng Giang Hoài. Sau khi Bác Thương mất, Nhân Quý trở về Trường An, được phong là Giang Hoài Lang Quân."
Trích "Trung Vũ Kế Văn" của Cung Minh Trí thời nhà Tống ghi lại: "Khi Lê Thiên (Bạch Cư Dị) làm thái thú, có lần dẫn Dung Mạn, Trương Chi và mười kỹ nữ khác đi chơi đêm ở chùa Hổ Sơn ở Tây Hồ. Ông đã viết một bài thơ về chuyến đi này. Điều này cho thấy chính quyền quận thời đó khá thoải mái, các quan lại rất khoan dung. Nếu điều này xảy ra ngày nay (ám chỉ thời nhà Tống), chắc chắn sẽ bị coi là phạm tội!"
Đỗ Phủ viết "Hai bài thơ về việc tháp tùng quý tử thưởng ngoạn tiết trời mát mẻ ở Trương Bát Câu cùng kỹ nữ, gặp mưa chiều"; Lý Bạch viết "Thu về săn, đêm về, uống rượu, xem kỹ nữ ở Đông lâu Đan Phủ".
Khai Nguyên Thiên Bảo Y Sĩ của Vương Nhân Vũ ghi lại: "Trường An có một Bình Khang phường, nơi gái mại dâm sống. Trai tráng kinh thành tụ tập ở đó, hàng năm các sĩ tử Kim Sử mới đến thăm, mang theo giấy đỏ và danh nhân. Người thời đó gọi nơi này là chốn bồng lai tiên cảnh."
Đường Y Sĩ viết: "Có một người đàn ông họ Lý. Chú của ông ta, họ Lỗ, là một Đạo sĩ. Ông mời Lý đến nhà và nói rằng muốn tìm một kỹ nữ giỏi chơi đàn tranh. Ông ta nhờ cô gái rót rượu. Trên đàn tranh có khắc chữ đỏ: 'Phân biệt cây sông trên mây, nhận biết thuyền về trên trời'". Sau đó, ông kết hôn với con gái của Lục Trường Nguyên, người mà ông đã gặp ở nhà họ Lục. Nàng quả thực là một người chơi đàn cổ tranh giỏi, và dòng chữ đỏ rất rõ ràng. Lý kể lại những chuyện đã qua, và người phụ nữ nói: 'Tôi từng mơ thấy mình bị một vị tiên quan truy đuổi, đúng như tôi đã mô tả.'
Triều đại nhà Tống
Phụ Trác Mạn Lục nói: "Ngày nay, khi các nhà thơ viết về phụ nữ, họ thường dùng ca múa để giải trí. Hoàng đế Lương Nguyên đã viết trong bài thơ "Kỹ nữ đáp lệnh": "Tiếng hát trong trẻo vang vọng theo tiếng suối, và những bóng người nhảy múa hiện ra trong ao." Lưu Tiểu Xước đã viết trong bài thơ "Ngắm kỹ nữ": "Nàng Yến giỏi múa, nàng Trịnh thích hát trong trẻo." Tháng Hai năm Gia Du thứ nhất, Âu Dương Tu trở về từ sứ mệnh Khiết Đan. Trên đường đi qua châu Đại Minh, Giả Trường Triều đã ra đón ông. "Trước đó, Công tước đã dặn kỹ nữ soạn thơ để mời mọi người uống rượu, nhưng Các kỹ nữ chỉ gật đầu. Sau đó, ông sai các kỹ nữ vào đại sảnh để báo cáo về bữa tiệc, nhưng họ cũng chỉ gật đầu. Công tước ngạc nhiên và nghĩ rằng họ là người nông thôn. Sau bữa tiệc, các kỹ nữ nhảy múa và ca hát để ăn mừng sự kiện này. Vĩnh Thúc cầm chén của mình lắng nghe, và ông luôn rót đầy nó. Công tước lại ngạc nhiên và triệu tập họ đến để hỏi về bữa tiệc. Các kỹ nữ hát thơ của ông. [8] Đông Pha Chí Lâm ghi lại rằng khi Tô Thức làm quan địa phương ở Tiền Đường, "một kỹ nữ có biệt danh là Hồ Cửu Vĩ đã nộp đơn xin miễn đăng ký chính thức. Đông Pha phán, 'Năm ngày sau, kỹ nữ sẽ được tự do; Hồ Cửu Vĩ sẽ được tự do trở thành một người phụ nữ tốt.' Một kỹ nữ khác cũng yêu cầu được miễn đăng ký chính thức theo quy tắc. Đông Pha phán, 'Ý định thúc đẩy nền văn minh phương Nam của ngươi là đáng khen ngợi, nhưng mong muốn hỗ trợ người dân phương Bắc của ngươi là không thể chấp nận được. Yêu cầu của ngươi không được chấp nhận.'
"Cổ Hiện Từ Luận" của Dương Hi ghi lại: "Khi Tô Thức làm thái thú Tiền Đường, ông có một kỹ nữ tên là Tú Lan. Nàng vốn thông minh, giỏi quyết đoán. Trên hồ có yến tiệc, một nhóm kỹ nữ tụ tập. Sau khi yến tiệc kết thúc, chỉ có Tú Lan là chưa đến. Nàng đến sau một hồi chờ đợi. Khi được hỏi tại sao, nàng trả lời rằng đã buộc tóc, tắm rửa xong và ngủ thiếp đi. Đột nhiên, nàng nghe thấy tiếng gõ cửa gấp gáp. Nàng đứng dậy hỏi, thì ra là nhạc trưởng thúc giục nàng đến. Sao nàng dám lơ là? Nàng nói thật. Tử Triển đã tha thứ cho nàng, nhưng một thị nữ vì nàng đến muộn nên cứ tra hỏi mãi. Lúc đó, hoa lựu đang nở rộ, Tú Lan bẻ một cành đưa cho thị nữ, thị nữ càng thêm tức giận. Tú Lan lau nước mắt, không nói gì. Tử Chiêm bèn soạn một bài hát "Tết mát mẻ" và bảo ông hát theo, khiến cho người hầu kia nguôi giận.
Vương Thiệu cách chức Phó Cơ Mật Viện và bổ nhiệm Bộ Lễ làm Thái thú Ngạc Châu. Một hôm, tại một bữa tiệc, một kỹ nữ chơi nhạc. Đêm đến, một vị khách tên là Trương Cơ say xỉn và cố gắng giữ kỹ nữ lại. Khi cô ta từ chối tiến lên, ông ta đột nhiên ôm chầm lấy cô ta. Kỹ nữ khóc lóc và than phiền với Thiệu. Tất cả khách khứa đều thất vọng. Thiệu chậm rãi nói: "Ngươi cố gắng tiếp đãi khách, nhưng ngươi đã phá hỏng niềm vui của họ." Ông ta sai người mang một chiếc cốc lớn đến để trừng phạt kỹ nữ. Sau đó, vẻ mặt ông ta vẫn không thay đổi, vẫn nói chuyện và cười đùa như thường lệ. Ông ta cũng là một người đàn ông có phẩm chất tốt.
Trong "Tĩnh Khang Ký" của Vương Phủ có chép: "Sau vườn có một chợ hoa, cao như núi, giữa có bốn lối đi, giống như kỹ viện của người thường." "Kinh Mộng" chép: "Từ thời Trùng Quan, kỹ viện trong kinh thành... ca sĩ Lý Thi Thi, Từ Phân Hi, Phùng Ân Nô, Tôn Tam Tư và nhiều người khác là những người giỏi nhất."
Trong “Lịch sử tiếng cười cổ đại và hiện đại” của Phùng Mộng Long có một câu chuyện cười về việc “không gần gũi gái mại dâm”: “Hai vị Trình đại sư (tức Trình Hạo và Trình Nghị, hai nhà nho theo trường phái Tân Nho giáo) đến dự yến tiệc của các sĩ phu và quan lại, và có gái mại dâm hầu rượu. Dịch Xuyên (Trình Hạo) đứng dậy phủi quần áo. Minh Đạo (Trình Hạo) vui vẻ rời đi. Ngày hôm sau, Dịch Xuyên đến xưởng vẽ của Minh Đạo, vẫn còn bực bội. Minh Đạo nói: “Hôm qua, bàn của ta có gái mại dâm, nhưng ta không để ý. Hôm nay, xưởng vẽ của ta không có gái mại dâm, nhưng ngươi lại có.”
“Giấc mộng Nam Tống” của Ngô Tử Mục ghi lại rằng: “Vào thời Thiệu Hưng, Dương Dịch Trung, vì nhiều binh lính đóng quân ở đó đến từ Tây Bắc, nên đã lập ra các nhà hát trong và ngoài thành, chiêu mộ gái mại dâm và nhạc công cho binh lính giải trí. Giờ đây, thanh niên nhà quý tộc đang gây ra hỗn loạn và phá hoại, thậm chí còn tồi tệ hơn ở Biên Độ. Hàng Châu có không dưới mười bảy rạp hát, cả trong lẫn ngoài thành phố."
Sách "Sử ký nhà Tống", vào năm Thiên Thánh thứ nhất của Hoàng đế Tống Nhân Tông, có chép: "Một sắc lệnh của triều đình ra lệnh thả nữ công nhân trong các xưởng may và sản xuất cũng như phụ nữ làm việc trong các xưởng ở miền Bắc và miền Nam. Họ được tự do làm bất cứ điều gì họ muốn."
Lưu Dũng tự xưng là "Lưu Tam Biện, người đã đến với gái mại dâm theo lệnh của triều đình."
"Tạp chí Yến Bắc" của Lục Hữu Nhân, Tập 2, ghi lại rằng Phạm Thành Đạt đã tặng Khương Khuê một bài Thanh Y Tiểu Hồng. Khương Khuê đã viết trong một bài thơ: "Lời thơ mới của ta là quyến rũ nhất; Tiểu Hồng hát khe khẽ trong khi ta thổi sáo."
Trong văn bia "Văn bia Trương Cung, một vị quan cao cấp trong triều đình, và một mật thất chỉ huy", tập 38 của Vị Nam tập truyện của Lỗ Du, có ghi chép rằng Trương Cẩn "đã mua một kỹ nữ ở trại Lâm An và đưa cô ta về nhà, sau đó muốn bỏ rơi vợ con..."
"Tây Hồ Du Ký" ghi lại rằng một cô gái hát rong đã bị chủ nhân của mình giết chết dã man vì khen ngợi hai chàng trai trẻ đẹp trai. (Giả) Tư Đạo sống trên hồ. Một ngày nọ, ông đang dựa vào một tòa tháp và ngắm cảnh, cùng với các kỹ nữ của mình. Hai đạo sĩ, tay cầm quạt lông, đi vào bờ trên một chiếc thuyền nhỏ. Một trong số các kỹ nữ thốt lên: "Thật là những chàng trai trẻ đẹp trai!" Tư Đạo nói: "Nếu ngươi muốn cưới họ, ta sẽ giữ ngươi lại và chấp nhận hôn ước." Kỹ nữ mỉm cười nhưng không nói gì. Một lúc sau, có người mang một chiếc hộp đến và triệu tập các kỹ nữ, nói: "Ta vừa mới nhận lời đính hôn với một kỹ nữ." Chàng mở hộp ra và nhìn thấy đầu của những kỹ nữ. Các kỹ nữ rùng mình.
Triều Nguyên: Marco Polo kể rằng tại kinh đô Đại Đô (nay là Bắc Kinh) của triều Nguyên, "tất cả gái mại dâm đều sống ngoài thành, chứ không phải trong thành... Có hơn 20.000 người, tất cả đều có thể tự nuôi sống bản thân bằng chính mái tóc của mình, điều này cho ta thấy được dân số ở đó" (Marco Polo du ký, Phùng Thành Quân dịch, Nhà xuất bản Nhà sách Thượng Hải, 2001, trang 358). Hàng Châu, vốn là kinh đô của Nam Tống và là thành phố lớn nhất ở Giang Nam, là nơi có "gái mại dâm, nhà thổ và quán rượu" (Nguyên Điện Chương, tập 57, "Mười chín điều cấm của Bộ Tư pháp, Cấm bạo chúa, và Ba vụ án về Tuyên bố của Zhahuerdai"). Marco Polo đặc biệt đề cập đến gái mại dâm ở đó, nói rằng: "Có rất nhiều gái mại dâm mà tôi không dám mô tả. Họ không chỉ được tìm thấy ở những nơi những người này thường sống gần chợ, mà còn có mặt ở khắp thành phố. Quần áo của họ sáng màu rực rỡ, mùi hương nồng nàn, họ có nhiều người hầu, nhà cửa đẹp đẽ. Họ giỏi lừa gạt người khác, lời nói và cách ứng xử của họ đều rất hợp với lòng người. Người nước ngoài vừa đặt chân đến nơi của họ, họ lập tức bị mê hoặc. Vì vậy, khi họ trở về, họ luôn nói rằng họ đã đến tòa thị chính và rất mong muốn được quay lại đó. (Marco Polo du ký, trang 359). Triều đại nhà Minh Vào thời nhà Minh, bầu không khí xã hội thối nát và triều đình đánh thuế gái mại dâm. Trong Wuzazu của Tạ Chiêu Triết nói, "Ngày nay, gái mại dâm ở khắp mọi nơi trên thế giới. Ở các thành phố lớn, thường có hàng nghìn người. Họ cũng có thể được tìm thấy ở các thị trấn và làng mạc xa xôi. Họ dành cả ngày ở bậc cửa, bán nụ cười và mại dâm để kiếm sống. Cuộc sống của họ thật đáng thương! Các quan lại triều đình ở kinh đô thu thuế họ, gọi họ là "tiền mỹ phẩm". Những người dưới quyền quản lý của các châu huyện được coi là gái mại dâm, phải tuân lệnh. Cả nhà Đường và nhà Tống đều sử dụng gái mại dâm làm bạn nhậu chính thức, và điều này vẫn tiếp diễn trong những năm đầu của nền Cộng hòa. Vào đầu triều đại Tuyên Đức, một lệnh cấm đã được ban hành, nhưng những người ở nhà trong giới quý tộc thì được miễn. Do đó, mặc dù họ đã biến mất khỏi các tòa án công cộng, nhưng họ thường được tìm thấy ở nông thôn. Cũng có những người không liên quan đến chính phủ nhưng hành nghề mại dâm tại nhà, thường được gọi là 'người làm tổ riêng', và số lượng của họ vô số!
"Meipu Yutan" nói: "Gần đây, phong tục thời đó rất phóng túng, cả nam lẫn nữ đều vô liêm sỉ. Bên ngoài hoàng thành, các kỹ viện mọc lên như nấm, tràn ngập âm nhạc và ca hát. Những người dân thường chật vật kiếm sống thường dụ dỗ một số cô gái ăn mày và lập nên các kỹ viện riêng, được gọi là kỹ viện. Họ thường có một cửa sổ trời trong phòng và hai hoặc ba lỗ nhỏ khoét trên tường hướng ra đường. Những cô gái ăn mày sẽ ăn mặc chỉnh tề, ngồi khoả thân bên trong, vừa ngâm thơ vừa làm những động tác khiêu dâm. Những chàng trai trẻ nhà Phù Lượng đi ngang qua, nhìn qua lỗ hổng. Không cưỡng lại được, họ gõ cửa bước vào. Một hàng dài những cô gái ăn mày khỏa thân tiến đến, những ai phù hợp sẽ trả bảy đồng tiền, rồi nắm tay nhau lên giường, một lát sau rời đi.
Triều Thanh
Năm Ung Chính thứ bảy (1729), Giả Phương Tự được đổi tên thành Hòa Thịnh Tự, và tất cả nhạc công từ khắp các vùng đều bị xóa tên khỏi danh sách thường dân.
Dưới triều đại của Hoàng đế Càn Long, một chỉ dụ được ban hành nêu rõ: "Bốn điều ác này là cướp của, giết người, làm bị thương chân tay, phá nhà cửa, và hủy hoại đạo đức của người dân. Không có gì hại người tốt hơn những điều này."
Bình Xuân Lộ Yên Đài nói: "Vào thời Gia Khánh và Đạo Quang, sáu phố cấm ngặt; trai hát rong khắp nơi, và các quan văn Bình Khang không dám ở đó. Các sĩ tử và quan lại cũng sợ những chuyện bất ngờ, nên không muốn gần gũi với gái mại dâm." "Trước thời Đạo Quang, kinh thành coi trọng gái mại dâm nhất, và rất ít nhà thổ."
Kinh Hoa Xuân Mộng Lộ: "Vào giữa thời Quang Tự của nhà Thanh, trào lưu trai hát rong và gái mại dâm rất thịnh hành, và các sĩ tử và quan lại trong triều đều xấu hổ vì có gái mại dâm." Khi Thạch Hồng Bảo, người Hàng Châu, đến Phúc Kiến, chứng kiến cảnh phụ nữ Phúc Châu hành nghề mại dâm trên thuyền: "Ở Nam Đài có một loại thuyền, mái che bằng ván. Trước sau đều có cửa, trái phải đều có cửa sổ, giữa thuyền có giường có bàn. Ba năm kỹ nữ xinh đẹp đi cùng đón khách, qua lại giữa sông Hồng Đường và cửa sông. Thuyền này gọi là thuyền nằm. Quan lại, thương nhân giàu có đều được mời đến đón tiếp, tiễn khách. Đèn đỏ rượu xanh, trúc tươi, lụa trắng, những khúc ca mộng mơ. Nó đẹp mê hồn như Loạn Thiên ở Quảng Đông, Hồng Các ở Chiết Giang."
Thanh Bạch Lôi Triều ghi chép: "Ở Gia Ứng Khúc Bộ, Triều Châu, một nửa là con gái nhà Tanka... Khi một cô gái sinh ra, tùy theo nhan sắc mà được giữ lại để dùng, hoặc bán cho thuyền bên cạnh. Cha mẹ và anh em trai thường đến thăm. Khi lớn lên, cô bé sẽ được mặc áo lụa và thổi sáo. Dường như đây là một phong tục khiến cô bé không thể tránh khỏi việc trở thành gái mại dâm." .Nguyên Mai nói: "Suốt hai ngàn năm, mại dâm là một tập tục mà không một bậc quân vương hay đức quan nào có thể cấm đoán. Cũng như các nhà sư, Đạo sĩ và chùa chiền, nó vẫn lan tràn khắp cả nước và là một cách tốt để tiếp đãi những người nhàn rỗi."
"Thời Hàm Phong, mại dâm rất thịnh hành. Trong những ngõ hẻm như Yên Chi Thạch Đầu, nhà nào cũng treo đèn lồng bằng vải gấm và treo thiệp đỏ trước cửa. Mỗi buổi chiều, xe ngựa và khách khứa tấp nập đến, tiếng người gọi rượu tiễn khách vang lên inh ỏi suốt đêm. Các sĩ tử và quan lại đã quen với điều đó và không còn thấy lạ lẫm nữa."
Đỗ Hoàng theo Wikipedia, bách khoa toàn thư mở

Xem tiếp...

Mid-page advertisement

Mại dâm cổ Trung Quốc

  •   19/08/2025 08:02
  •   3
  •   0
MẠI DÂM CỔ TRUNG HOA (tiếp theo)
Ghi chép sớm nhất về gái mại dâm trong lịch sử Trung Quốc là hệ thống mại dâm chính thức do Quản Trọng thiết lập vào thời Xuân Thu, được thể chế hóa dưới thời Hán Vũ Đế. Trần Đông Nguyên tin rằng sự tồn tại của gái mại dâm ở Trung Quốc thực sự bắt đầu từ các cung đình, gái mại dâm quân đội, gái mại dâm quan chức[a], gái mại dâm nội địa và gái mại dâm dân sự tùy theo địa vị của họ. Họ phụ thuộc vào các nhà thổ hoặc các cơ sở cao cấp và không có quyền tự do cá nhân. Hầu hết họ là tội phạm, thân nhân của tội phạm, kẻ buôn người hoặc tù binh chiến tranh. Gái mại dâm có địa vị xã hội thấp, và việc đưa người thân là nữ của các quan lại hoặc kẻ thù đi làm gái mại dâm cũng là một hình phạt được vua chúa sử dụng
Ở Trung Quốc cổ đại, từ "gái mại dâm" ban đầu là "changji", ban đầu dùng để chỉ các diễn viên nữ trong các buổi biểu diễn ca múa. "Sách thuyết giải tự" của Từ Thận có chữ "chang" nhưng không có chữ "chang". Từ "chang" lần đầu tiên xuất hiện trong "Yu Pian" của Cổ Diệp Vương thời Lương.
Thời cổ đại
Mặc Tử/Phi Nguyệt Thương
Người ta tin rằng kỹ nữ Hồng Nhai thời Tam Hoàng là những kỹ nữ được ghi chép sớm nhất. Người ta nói rằng dưới thời vua Hạ Kiệt, ông có gần 30.000 nhạc nữ[3]. Tuy nhiên, theo sử sách chính thống, nguồn gốc của mại dâm được cho là từ các phù thủy[5] thời Thương[4]. Vào thời đó, họ là những phù thủy mại dâm[6][7]. Họ bị người thời đó lên án và tin rằng họ có thể gây ra "xu hướng dâm dục" hoặc "xu hướng phù thủy". Nhà Thương cũng đặt ra luật lệ và hình phạt cho những xu hướng này.
Nhà Chu
Vào đầu thời Xuân Thu, thừa tướng nước Tề là Quản Trọng đã lập ra "Nữ Lỗ". "Đổng Châu Sách" ghi lại: "Trong cung điện của Tề Hoàn Công nước Tề có bảy chợ gái và 700 nhà chứa gái". Phần tiếp theo của Bộ sưu tập Kiến Hồ ghi lại: "Khi Quản Tử cai trị nước Tề, ông đã lập ra bảy trăm nhà chứa gái và thu tiền họ chi cho mại dâm để bổ sung cho chi tiêu của nhà nước. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của tập tục dùng phấn hoa làm tiền."
Ngũ Nguyệt Xuân Thu chép: "Vua Câu Tiễn nước Việt đã cử các góa phụ lên núi để tiếp đãi binh lính đang lo lắng và đau khổ." Nhạc Quyết Thư ghi: "Núi Đỗ Phủ được xây dựng khi Câu Tiễn chuẩn bị tấn công nước Ngô. Ông đã đưa các góa phụ lên núi để phục vụ như những chiến binh tận tụy của mình, nhưng họ vẫn chưa hoàn toàn tận tụy. Các diễn giải sau này cho rằng Câu Tiễn đã sử dụng điều này để tiếp đãi binh lính của mình."
Sử ký Đại Sử: Truyện Thương Nhân. Sử ký Hán Vũ Đế ghi lại: "Trịnh Cơ, một người phụ nữ nước Triệu, ăn mặc rất đẹp. Bà chơi đàn tranh, xắn tay áo dài, đi giày nhọn. Với đôi mắt và trái tim, bà sẵn sàng đi hàng ngàn dặm, bất kể tuổi tác, để tìm kiếm sự giàu sang và thịnh vượng."
Nhà Hán
Trịnh Tông Thông, trích dẫn "Nguồn gốc vạn vật", viết: "Hán Vũ Đế ban đầu thuê gái mại dâm trong trại để phục vụ binh lính không có vợ. Xem "Sử ký Hán Vũ Đế không chính thức."
Mã Dung thời Đông Hán "có rất nhiều nhạc cụ xa hoa trong nhà. Ông thường ngồi trong một sảnh cao, phía trước có rèm voan, dạy học trò, phía sau có nhạc công nữ." Ông được gọi là "Giang Chương sư."
Nam Bắc Triều
Nam Sử ghi lại rằng Hoàng đế Tề bị phế truất "mỗi đêm đều mở hậu sảnh và mở tiệc trong trại."
Triều Đường
Nam Tân Thư chép rằng Lý Diệu, vị quan thái thú của Xá, rất quan tâm đến các ghi chép về rượu của Mai Xuyên và Xá Châu. Ông thậm chí còn nhận nuôi một kỹ nữ tên là Thiều Quang. Vào ngày bị cách chức, ông đã hẹn với nước Ngô để chăm sóc cô ta. Trước khi đi, ông đã uống rượu với cô ta, lòng tràn ngập nỗi buồn. Có một bài thơ rằng: "Bao năm cai quản quận, ta đã tận hưởng cuộc sống, học cách chiến đấu và hỏi ý kiến của những kẻ say rượu. Hôm nay, trước khi đi, ta phải sắp xếp mọi việc, và ta sẽ nhận được viên ngọc Mai Xuyên." Ngô đáp: "Ta mỗi ngày đều tận hưởng, phong thái tao nhã của ta không gì sánh bằng. Tuổi trẻ của ta đã mất, và giờ ta đã có viên ngọc trong lòng bàn tay."
Sách Nam Tân Thư ghi chép rằng một vị quan nhà Đường có con trai với một kỹ nữ trong trại: "Trương Bác Thương, thái thú Cẩm Châu, nuôi một kỹ nữ trong trại. Trương Sơ Thực sinh được một người con trai tên là Nhân Quý, được ông nhận làm con nuôi. Họ sống giữa vùng Giang Hoài. Sau khi Bác Thương mất, Nhân Quý trở về Trường An, được phong là Giang Hoài Lang Quân."
Trích "Trung Vũ Kế Văn" của Cung Minh Trí thời nhà Tống ghi lại: "Khi Lê Thiên (Bạch Cư Dị) làm thái thú, có lần dẫn Dung Mạn, Trương Chi và mười kỹ nữ khác đi chơi đêm ở chùa Hổ Sơn ở Tây Hồ. Ông đã viết một bài thơ về chuyến đi này. Điều này cho thấy chính quyền quận thời đó khá thoải mái, các quan lại rất khoan dung. Nếu điều này xảy ra ngày nay (ám chỉ thời nhà Tống), chắc chắn sẽ bị coi là phạm tội!"
Đỗ Phủ viết "Hai bài thơ về việc tháp tùng quý tử thưởng ngoạn tiết trời mát mẻ ở Trương Bát Câu cùng kỹ nữ, gặp mưa chiều"; Lý Bạch viết "Thu về săn, đêm về, uống rượu, xem kỹ nữ ở Đông lâu Đan Phủ".
Khai Nguyên Thiên Bảo Y Sĩ của Vương Nhân Vũ ghi lại: "Trường An có một Bình Khang phường, nơi gái mại dâm sống. Trai tráng kinh thành tụ tập ở đó, hàng năm các sĩ tử Kim Sử mới đến thăm, mang theo giấy đỏ và danh nhân. Người thời đó gọi nơi này là chốn bồng lai tiên cảnh."
Đường Y Sĩ viết: "Có một người đàn ông họ Lý. Chú của ông ta, họ Lỗ, là một Đạo sĩ. Ông mời Lý đến nhà và nói rằng muốn tìm một kỹ nữ giỏi chơi đàn tranh. Ông ta nhờ cô gái rót rượu. Trên đàn tranh có khắc chữ đỏ: 'Phân biệt cây sông trên mây, nhận biết thuyền về trên trời'". Sau đó, ông kết hôn với con gái của Lục Trường Nguyên, người mà ông đã gặp ở nhà họ Lục. Nàng quả thực là một người chơi đàn cổ tranh giỏi, và dòng chữ đỏ rất rõ ràng. Lý kể lại những chuyện đã qua, và người phụ nữ nói: 'Tôi từng mơ thấy mình bị một vị tiên quan truy đuổi, đúng như tôi đã mô tả.'
Triều đại nhà Tống
Phụ Trác Mạn Lục nói: "Ngày nay, khi các nhà thơ viết về phụ nữ, họ thường dùng ca múa để giải trí. Hoàng đế Lương Nguyên đã viết trong bài thơ "Kỹ nữ đáp lệnh": "Tiếng hát trong trẻo vang vọng theo tiếng suối, và những bóng người nhảy múa hiện ra trong ao." Lưu Tiểu Xước đã viết trong bài thơ "Ngắm kỹ nữ": "Nàng Yến giỏi múa, nàng Trịnh thích hát trong trẻo." Tháng Hai năm Gia Du thứ nhất, Âu Dương Tu trở về từ sứ mệnh Khiết Đan. Trên đường đi qua châu Đại Minh, Giả Trường Triều đã ra đón ông. "Trước đó, Công tước đã dặn kỹ nữ soạn thơ để mời mọi người uống rượu, nhưng Các kỹ nữ chỉ gật đầu. Sau đó, ông sai các kỹ nữ vào đại sảnh để báo cáo về bữa tiệc, nhưng họ cũng chỉ gật đầu. Công tước ngạc nhiên và nghĩ rằng họ là người nông thôn. Sau bữa tiệc, các kỹ nữ nhảy múa và ca hát để ăn mừng sự kiện này. Vĩnh Thúc cầm chén của mình lắng nghe, và ông luôn rót đầy nó. Công tước lại ngạc nhiên và triệu tập họ đến để hỏi về bữa tiệc. Các kỹ nữ hát thơ của ông. [8] Đông Pha Chí Lâm ghi lại rằng khi Tô Thức làm quan địa phương ở Tiền Đường, "một kỹ nữ có biệt danh là Hồ Cửu Vĩ đã nộp đơn xin miễn đăng ký chính thức. Đông Pha phán, 'Năm ngày sau, kỹ nữ sẽ được tự do; Hồ Cửu Vĩ sẽ được tự do trở thành một người phụ nữ tốt.' Một kỹ nữ khác cũng yêu cầu được miễn đăng ký chính thức theo quy tắc. Đông Pha phán, 'Ý định thúc đẩy nền văn minh phương Nam của ngươi là đáng khen ngợi, nhưng mong muốn hỗ trợ người dân phương Bắc của ngươi là không thể chấp nận được. Yêu cầu của ngươi không được chấp nhận.'
"Cổ Hiện Từ Luận" của Dương Hi ghi lại: "Khi Tô Thức làm thái thú Tiền Đường, ông có một kỹ nữ tên là Tú Lan. Nàng vốn thông minh, giỏi quyết đoán. Trên hồ có yến tiệc, một nhóm kỹ nữ tụ tập. Sau khi yến tiệc kết thúc, chỉ có Tú Lan là chưa đến. Nàng đến sau một hồi chờ đợi. Khi được hỏi tại sao, nàng trả lời rằng đã buộc tóc, tắm rửa xong và ngủ thiếp đi. Đột nhiên, nàng nghe thấy tiếng gõ cửa gấp gáp. Nàng đứng dậy hỏi, thì ra là nhạc trưởng thúc giục nàng đến. Sao nàng dám lơ là? Nàng nói thật. Tử Triển đã tha thứ cho nàng, nhưng một thị nữ vì nàng đến muộn nên cứ tra hỏi mãi. Lúc đó, hoa lựu đang nở rộ, Tú Lan bẻ một cành đưa cho thị nữ, thị nữ càng thêm tức giận. Tú Lan lau nước mắt, không nói gì. Tử Chiêm bèn soạn một bài hát "Tết mát mẻ" và bảo ông hát theo, khiến cho người hầu kia nguôi giận.
Vương Thiệu cách chức Phó Cơ Mật Viện và bổ nhiệm Bộ Lễ làm Thái thú Ngạc Châu. Một hôm, tại một bữa tiệc, một kỹ nữ chơi nhạc. Đêm đến, một vị khách tên là Trương Cơ say xỉn và cố gắng giữ kỹ nữ lại. Khi cô ta từ chối tiến lên, ông ta đột nhiên ôm chầm lấy cô ta. Kỹ nữ khóc lóc và than phiền với Thiệu. Tất cả khách khứa đều thất vọng. Thiệu chậm rãi nói: "Ngươi cố gắng tiếp đãi khách, nhưng ngươi đã phá hỏng niềm vui của họ." Ông ta sai người mang một chiếc cốc lớn đến để trừng phạt kỹ nữ. Sau đó, vẻ mặt ông ta vẫn không thay đổi, vẫn nói chuyện và cười đùa như thường lệ. Ông ta cũng là một người đàn ông có phẩm chất tốt.
Trong "Tĩnh Khang Ký" của Vương Phủ có chép: "Sau vườn có một chợ hoa, cao như núi, giữa có bốn lối đi, giống như kỹ viện của người thường." "Kinh Mộng" chép: "Từ thời Trùng Quan, kỹ viện trong kinh thành... ca sĩ Lý Thi Thi, Từ Phân Hi, Phùng Ân Nô, Tôn Tam Tư và nhiều người khác là những người giỏi nhất."
Trong “Lịch sử tiếng cười cổ đại và hiện đại” của Phùng Mộng Long có một câu chuyện cười về việc “không gần gũi gái mại dâm”: “Hai vị Trình đại sư (tức Trình Hạo và Trình Nghị, hai nhà nho theo trường phái Tân Nho giáo) đến dự yến tiệc của các sĩ phu và quan lại, và có gái mại dâm hầu rượu. Dịch Xuyên (Trình Hạo) đứng dậy phủi quần áo. Minh Đạo (Trình Hạo) vui vẻ rời đi. Ngày hôm sau, Dịch Xuyên đến xưởng vẽ của Minh Đạo, vẫn còn bực bội. Minh Đạo nói: “Hôm qua, bàn của ta có gái mại dâm, nhưng ta không để ý. Hôm nay, xưởng vẽ của ta không có gái mại dâm, nhưng ngươi lại có.”
“Giấc mộng Nam Tống” của Ngô Tử Mục ghi lại rằng: “Vào thời Thiệu Hưng, Dương Dịch Trung, vì nhiều binh lính đóng quân ở đó đến từ Tây Bắc, nên đã lập ra các nhà hát trong và ngoài thành, chiêu mộ gái mại dâm và nhạc công cho binh lính giải trí. Giờ đây, thanh niên nhà quý tộc đang gây ra hỗn loạn và phá hoại, thậm chí còn tồi tệ hơn ở Biên Độ. Hàng Châu có không dưới mười bảy rạp hát, cả trong lẫn ngoài thành phố."
Sách "Sử ký nhà Tống", vào năm Thiên Thánh thứ nhất của Hoàng đế Tống Nhân Tông, có chép: "Một sắc lệnh của triều đình ra lệnh thả nữ công nhân trong các xưởng may và sản xuất cũng như phụ nữ làm việc trong các xưởng ở miền Bắc và miền Nam. Họ được tự do làm bất cứ điều gì họ muốn."
Lưu Dũng tự xưng là "Lưu Tam Biện, người đã đến với gái mại dâm theo lệnh của triều đình."
"Tạp chí Yến Bắc" của Lục Hữu Nhân, Tập 2, ghi lại rằng Phạm Thành Đạt đã tặng Khương Khuê một bài Thanh Y Tiểu Hồng. Khương Khuê đã viết trong một bài thơ: "Lời thơ mới của ta là quyến rũ nhất; Tiểu Hồng hát khe khẽ trong khi ta thổi sáo."
Trong văn bia "Văn bia Trương Cung, một vị quan cao cấp trong triều đình, và một mật thất chỉ huy", tập 38 của Vị Nam tập truyện của Lỗ Du, có ghi chép rằng Trương Cẩn "đã mua một kỹ nữ ở trại Lâm An và đưa cô ta về nhà, sau đó muốn bỏ rơi vợ con..."
"Tây Hồ Du Ký" ghi lại rằng một cô gái hát rong đã bị chủ nhân của mình giết chết dã man vì khen ngợi hai chàng trai trẻ đẹp trai. (Giả) Tư Đạo sống trên hồ. Một ngày nọ, ông đang dựa vào một tòa tháp và ngắm cảnh, cùng với các kỹ nữ của mình. Hai đạo sĩ, tay cầm quạt lông, đi vào bờ trên một chiếc thuyền nhỏ. Một trong số các kỹ nữ thốt lên: "Thật là những chàng trai trẻ đẹp trai!" Tư Đạo nói: "Nếu ngươi muốn cưới họ, ta sẽ giữ ngươi lại và chấp nhận hôn ước." Kỹ nữ mỉm cười nhưng không nói gì. Một lúc sau, có người mang một chiếc hộp đến và triệu tập các kỹ nữ, nói: "Ta vừa mới nhận lời đính hôn với một kỹ nữ." Chàng mở hộp ra và nhìn thấy đầu của những kỹ nữ. Các kỹ nữ rùng mình.
Triều Nguyên: Marco Polo kể rằng tại kinh đô Đại Đô (nay là Bắc Kinh) của triều Nguyên, "tất cả gái mại dâm đều sống ngoài thành, chứ không phải trong thành... Có hơn 20.000 người, tất cả đều có thể tự nuôi sống bản thân bằng chính mái tóc của mình, điều này cho ta thấy được dân số ở đó" (Marco Polo du ký, Phùng Thành Quân dịch, Nhà xuất bản Nhà sách Thượng Hải, 2001, trang 358). Hàng Châu, vốn là kinh đô của Nam Tống và là thành phố lớn nhất ở Giang Nam, là nơi có "gái mại dâm, nhà thổ và quán rượu" (Nguyên Điện Chương, tập 57, "Mười chín điều cấm của Bộ Tư pháp, Cấm bạo chúa, và Ba vụ án về Tuyên bố của Zhahuerdai"). Marco Polo đặc biệt đề cập đến gái mại dâm ở đó, nói rằng: "Có rất nhiều gái mại dâm mà tôi không dám mô tả. Họ không chỉ được tìm thấy ở những nơi những người này thường sống gần chợ, mà còn có mặt ở khắp thành phố. Quần áo của họ sáng màu rực rỡ, mùi hương nồng nàn, họ có nhiều người hầu, nhà cửa đẹp đẽ. Họ giỏi lừa gạt người khác, lời nói và cách ứng xử của họ đều rất hợp với lòng người. Người nước ngoài vừa đặt chân đến nơi của họ, họ lập tức bị mê hoặc. Vì vậy, khi họ trở về, họ luôn nói rằng họ đã đến tòa thị chính và rất mong muốn được quay lại đó. (Marco Polo du ký, trang 359). Triều đại nhà Minh Vào thời nhà Minh, bầu không khí xã hội thối nát và triều đình đánh thuế gái mại dâm. Trong Wuzazu của Tạ Chiêu Triết nói, "Ngày nay, gái mại dâm ở khắp mọi nơi trên thế giới. Ở các thành phố lớn, thường có hàng nghìn người. Họ cũng có thể được tìm thấy ở các thị trấn và làng mạc xa xôi. Họ dành cả ngày ở bậc cửa, bán nụ cười và mại dâm để kiếm sống. Cuộc sống của họ thật đáng thương! Các quan lại triều đình ở kinh đô thu thuế họ, gọi họ là "tiền mỹ phẩm". Những người dưới quyền quản lý của các châu huyện được coi là gái mại dâm, phải tuân lệnh. Cả nhà Đường và nhà Tống đều sử dụng gái mại dâm làm bạn nhậu chính thức, và điều này vẫn tiếp diễn trong những năm đầu của nền Cộng hòa. Vào đầu triều đại Tuyên Đức, một lệnh cấm đã được ban hành, nhưng những người ở nhà trong giới quý tộc thì được miễn. Do đó, mặc dù họ đã biến mất khỏi các tòa án công cộng, nhưng họ thường được tìm thấy ở nông thôn. Cũng có những người không liên quan đến chính phủ nhưng hành nghề mại dâm tại nhà, thường được gọi là 'người làm tổ riêng', và số lượng của họ vô số!
"Meipu Yutan" nói: "Gần đây, phong tục thời đó rất phóng túng, cả nam lẫn nữ đều vô liêm sỉ. Bên ngoài hoàng thành, các kỹ viện mọc lên như nấm, tràn ngập âm nhạc và ca hát. Những người dân thường chật vật kiếm sống thường dụ dỗ một số cô gái ăn mày và lập nên các kỹ viện riêng, được gọi là kỹ viện. Họ thường có một cửa sổ trời trong phòng và hai hoặc ba lỗ nhỏ khoét trên tường hướng ra đường. Những cô gái ăn mày sẽ ăn mặc chỉnh tề, ngồi khoả thân bên trong, vừa ngâm thơ vừa làm những động tác khiêu dâm. Những chàng trai trẻ nhà Phù Lượng đi ngang qua, nhìn qua lỗ hổng. Không cưỡng lại được, họ gõ cửa bước vào. Một hàng dài những cô gái ăn mày khỏa thân tiến đến, những ai phù hợp sẽ trả bảy đồng tiền, rồi nắm tay nhau lên giường, một lát sau rời đi.
Triều Thanh
Năm Ung Chính thứ bảy (1729), Giả Phương Tự được đổi tên thành Hòa Thịnh Tự, và tất cả nhạc công từ khắp các vùng đều bị xóa tên khỏi danh sách thường dân.
Dưới triều đại của Hoàng đế Càn Long, một chỉ dụ được ban hành nêu rõ: "Bốn điều ác này là cướp của, giết người, làm bị thương chân tay, phá nhà cửa, và hủy hoại đạo đức của người dân. Không có gì hại người tốt hơn những điều này."
Bình Xuân Lộ Yên Đài nói: "Vào thời Gia Khánh và Đạo Quang, sáu phố cấm ngặt; trai hát rong khắp nơi, và các quan văn Bình Khang không dám ở đó. Các sĩ tử và quan lại cũng sợ những chuyện bất ngờ, nên không muốn gần gũi với gái mại dâm." "Trước thời Đạo Quang, kinh thành coi trọng gái mại dâm nhất, và rất ít nhà thổ."
Kinh Hoa Xuân Mộng Lộ: "Vào giữa thời Quang Tự của nhà Thanh, trào lưu trai hát rong và gái mại dâm rất thịnh hành, và các sĩ tử và quan lại trong triều đều xấu hổ vì có gái mại dâm." Khi Thạch Hồng Bảo, người Hàng Châu, đến Phúc Kiến, chứng kiến cảnh phụ nữ Phúc Châu hành nghề mại dâm trên thuyền: "Ở Nam Đài có một loại thuyền, mái che bằng ván. Trước sau đều có cửa, trái phải đều có cửa sổ, giữa thuyền có giường có bàn. Ba năm kỹ nữ xinh đẹp đi cùng đón khách, qua lại giữa sông Hồng Đường và cửa sông. Thuyền này gọi là thuyền nằm. Quan lại, thương nhân giàu có đều được mời đến đón tiếp, tiễn khách. Đèn đỏ rượu xanh, trúc tươi, lụa trắng, những khúc ca mộng mơ. Nó đẹp mê hồn như Loạn Thiên ở Quảng Đông, Hồng Các ở Chiết Giang."
Thanh Bạch Lôi Triều ghi chép: "Ở Gia Ứng Khúc Bộ, Triều Châu, một nửa là con gái nhà Tanka... Khi một cô gái sinh ra, tùy theo nhan sắc mà được giữ lại để dùng, hoặc bán cho thuyền bên cạnh. Cha mẹ và anh em trai thường đến thăm. Khi lớn lên, cô bé sẽ được mặc áo lụa và thổi sáo. Dường như đây là một phong tục khiến cô bé không thể tránh khỏi việc trở thành gái mại dâm." .Nguyên Mai nói: "Suốt hai ngàn năm, mại dâm là một tập tục mà không một bậc quân vương hay đức quan nào có thể cấm đoán. Cũng như các nhà sư, Đạo sĩ và chùa chiền, nó vẫn lan tràn khắp cả nước và là một cách tốt để tiếp đãi những người nhàn rỗi."
"Thời Hàm Phong, mại dâm rất thịnh hành. Trong những ngõ hẻm như Yên Chi Thạch Đầu, nhà nào cũng treo đèn lồng bằng vải gấm và treo thiệp đỏ trước cửa. Mỗi buổi chiều, xe ngựa và khách khứa tấp nập đến, tiếng người gọi rượu tiễn khách vang lên inh ỏi suốt đêm. Các sĩ tử và quan lại đã quen với điều đó và không còn thấy lạ lẫm nữa."
Đỗ Hoàng theo Wikipedia, bách khoa toàn thư mở

Cụ Hồ thơ.

  •   17/08/2025 20:25
  •   3
  •   0
夜半聞哭夫
嗚呼夫君兮夫君,
何故夫君遽棄塵。
使妾從今何處見,
十分心合意投人。

Dạ bán văn khốc phu
Ô hô phu quân, hề phu quân!
Hà cố phu quân cự khí trần?
Sử thiếp tòng kim hà xứ kiến,
Thập phần tâm hợp ý đầu nhân.
Dịch nghĩa
Than ôi! Chàng hỡi chàng!
Cớ sao chàng vội lìa bỏ cõi đời?
Khiến cho thiếp từ nay biết tìm đâu thấy,
Người bạn đời mười phần tâm đầu ý hợp
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Than ôi! Chàng ơi hỡi! Chàng ôi!
Duyên cớ sao, sao vội lìa đờì!
Khiến thiếp từ đây đời vò võ
Còn đâu tâm ý hợp như người!

50 nhfvawn Trung Quốc

  •   11/08/2025 14:41
  •   8
  •   0
op 50 Nhà văn Trung Quốc Hiện đại và Đương đại!
Số 50 Trương Vĩ
Trương Vĩ, sinh tháng 11 năm 1956, quê ở Long Khẩu, tỉnh Sơn Đông. Ông là một nhà văn đương đại nổi tiếng và hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn Sơn Đông. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Thuyền Cổ", "Truyện ngụ ngôn tháng Chín" và "Cao nguyên".
Số 49 Thiết Ninh
Thiết Ninh, sinh năm 1957, là một nhà văn đương đại và hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc và Hội Nhà văn Hà Bắc. Các tác phẩm chính của bà bao gồm "Cổng Hoa Hồng", "Thành phố không mưa", "Người tắm sông", "Đống rơm", "Ôi, Hương Tuyết" và "Phụ nữ mang thai và bò". Tập tiểu luận "Đêm Trắng Của Phụ Nữ" của bà đã giành Giải thưởng Văn học Lỗ Tấn đầu tiên tại Trung Quốc, và truyện ngắn "Mãi Mãi Xa Cách" của bà đã giành Giải thưởng Văn học Lỗ Tấn lần thứ hai.
Số 48 Tam Mao
Tam Mao, tên thật là Trần Mậu Bình, sinh ra tại Chu Sơn, tỉnh Chiết Giang, từ năm 1943 đến năm 1991. Bà đã viết hơn mười tập tiểu luận và tiểu thuyết, bao gồm "Chuyện Từ Sa Mạc", "Con Lạc Đà Khóc", "Mùa Mưa Sẽ Không Bao Giờ Trở Lại", "Đêm Dịu Nhẹ", "Mơ Bao Nhiêu Hoa Rơi", "Nhìn Từ Phía Sau" và "Em Yêu". Văn xuôi của Tam Mao khai thác nhiều chủ đề, nhiều trong số đó thấm đẫm những cảm xúc kỳ lạ. Văn phong của bà giản dị, lãng mạn và quyến rũ một cách độc đáo, thể hiện tình yêu của bà đối với nhân loại, cuộc sống, tự do và thiên nhiên.
Số 47 Trương Kiệt
Trương Kiệt, sinh năm 1937 tại Bắc Kinh, là nhà văn hạng nhất toàn quốc, một nhà văn có những đóng góp đặc biệt được Quốc vụ viện ghi nhận, hội viên Hội Nhà văn Trung Quốc và Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Bắc Kinh. Các tác phẩm của Trương Kiệt, tập trung vào chủ đề "nhân văn" và "tình yêu", thường gây tranh cãi trong giới văn chương. Bà không ngừng mở rộng biểu đạt nghệ thuật, khai thác tâm hồn con người với cảm xúc mãnh liệt, thể hiện những tác phẩm tinh tế, sâu sắc và tao nhã. Tiểu thuyết "Cánh Nặng" của bà đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ hai. Tiểu thuyết "Vô Ngôn" của ông đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ sáu. Ông là nhà văn duy nhất giành được hai Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn.
Số 46 A Thành
A Thành, sinh năm 1949 tại Bắc Kinh, tên thật là Chung A Thành. Tác phẩm tiêu biểu của ông là "Vua Cờ" và ông đã viết kịch bản cho "Phù Dung Trấn". Ông là một đại diện tiêu biểu của dòng tiểu thuyết đương đại tìm về cội nguồn, với những tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa truyền thống Trung Hoa.
Số 45 Hàn Thiếu Cung
Hàn Thiếu Cung, được biết đến với các bút danh như Thiếu Cung và Người Lái đò, quê ở Trường Sa, Hồ Nam. Ông là một nhân vật chủ chốt trong việc thúc đẩy "văn học tìm gốc" vào năm 1985, xuất bản "Văn học cội nguồn" và đề xuất khẩu hiệu "tìm gốc". Các tác phẩm đáng chú ý nhất của ông bao gồm "Bố Bố" và "Mã Kiều Từ điển", thể hiện xu hướng khai thác sức mạnh từ chiều sâu của lịch sử và văn hóa dân tộc, thấm đẫm những hàm ý triết học sâu sắc, và có tác động đáng kể đến giới văn học.
Số 44 Lưu Chấn Vân
Lưu Chấn Vân sinh tháng 5 năm 1958 tại huyện Diên Tân, tỉnh Hà Nam. "Một câu đáng giá vạn câu" đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ 8. Phong cách tự sự của tiểu thuyết gợi nhớ đến những cuốn nhật ký hoang dã của triều đại nhà Minh và nhà Thanh, với ngôn từ súc tích và sự hài hước sống động. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Một Đống Lông Vũ", "Tên Tôi Là Lưu Dược Tiến" và "Một Câu Nói Đáng Giá Ngàn Người".
Vị trí thứ 43: Vương Thước
Vương Thước, một nhà văn và biên kịch nổi tiếng, bắt đầu viết văn vào năm 1978 và đã xuất bản các tiểu thuyết như "Chơi Cho Cảm Giác Mạnh", "Chết Sau Cơn Nghiện", "Những Loài Thú Dữ" và "Trông Đẹp". Những tiểu thuyết và thơ đầu tay của ông dựa trên trải nghiệm lớn lên trong doanh trại quân đội. Những tiểu thuyết sau này của ông phát triển một phong cách độc đáo, đặc trưng bởi những lời thoại dễ hiểu nhưng sống động và lối kể chuyện dí dỏm, châm biếm, chế giễu lối diễn ngôn độc đoán và lập trường tinh hoa của giới trí thức. Sau đó, ông bước vào lĩnh vực điện ảnh và truyền hình, đạt được thành công với loạt phim truyền hình "Khát Vọng" và "Chuyện Ban Biên Tập".
Giải 42: Trương Thành Chí
Trương Thành Chí sinh năm 1948 tại Bắc Kinh. Ông đã giành Giải thưởng Truyện ngắn Quốc gia lần thứ Nhất, Giải thưởng Tiểu thuyết Xuất sắc Quốc gia lần thứ Hai và thứ Ba, và Giải thưởng Sáng tác Văn học Dân tộc thiểu số Quốc gia. Ông đã xuất bản hơn 30 cuốn sách. Trong những năm 1980 và 1990, ông được biết đến với "khí chất duy tâm". Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm các tập truyện ngắn "Hắc Mã" và "Bắc Giang" và tiểu thuyết "Đồng Cỏ Vàng". Trương Thành Chí sở hữu một phong cách thẩm mỹ độc lập, phóng khoáng, trang nghiêm, sâu sắc, lạnh lùng và nồng nàn.
Giải 41: Thư Đình
Thư Đình, tên thật là Cung Bội Ngọc, sinh năm 1952. Quê bà ở Tuyền Châu, Phúc Kiến. Bà là một nữ thi sĩ đương đại và là đại diện của trường phái Thơ Mộng. "Đến Cây Sồi" là một tác phẩm tiêu biểu của trường phái Thơ Mộng, và bà ngang hàng với Bối Dao và Cố Thành. Tuy nhiên, trên thực tế, thơ bà gần gũi hơn với những nhà thơ sâu sắc và truyền thống hơn của thế hệ trước. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Chiếc thuyền buồm", "Hoa diên vĩ biết hát" và "Hoa thủy tổ".
Số 40: Cổ Thành
Cổ Thành, một nhân vật hàng đầu của Thơ Mộng, được biết đến như một nhà thơ lãng mạn theo chủ nghĩa duy linh đương đại. Những bài thơ đầu tay của ông mang phong cách ngây thơ, trẻ thơ và tâm trạng mơ mộng, sử dụng ngôn ngữ trực giác và ấn tượng để ca ngợi cuộc sống tuổi trẻ như trong truyện cổ tích. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Một thế hệ", "Mắt đen", "Anh Tử" và "Trăng ban ngày".
Số 39: Đinh Linh
Đinh Linh (tháng 10 năm 1904 - tháng 3 năm 1986) quê ở Lâm Lý, tỉnh Hồ Nam. Bà là một nhà văn và nhà hoạt động xã hội đương đại nổi tiếng của Trung Quốc. "Nhật ký của Tiểu thư Sophia" và "Mặt trời chiếu trên sông Tang Can" là những tác phẩm tiêu biểu của bà, và bà đã được trao Giải thưởng Stalin về Văn học và Nghệ thuật.
Số 38: Mục Đan
Mục Đan (1918-1977), tên thật là Tra Lương Chính, là một nhà thơ yêu nước và dịch giả nổi tiếng. Từ những năm 1980, nhiều chuyên gia văn học hiện đại đã coi ông là nhân vật hàng đầu của thơ ca hiện đại. Mục Đan đã kết hợp chủ nghĩa hiện đại Tây Âu với thơ ca truyền thống Trung Quốc, tạo nên một phong cách giàu tính biểu tượng và suy tư tâm linh. Ông là một nhà thơ tiêu biểu của "Trường phái thơ Cửu Diệp". Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Cuộc viễn chinh", "Tuyển tập thơ Mục Đan" và "Lá cờ".
Số 37 Bính Tân
Bính Tân, tên thật là Tạ Uyển Anh, là một nhà thơ, nhà văn, dịch giả và nhà văn thiếu nhi nổi tiếng. Bà từng là Chủ tịch Danh dự của Ủy ban Trung ương Liên đoàn Dân chủ Trung Quốc, Phó Chủ tịch Liên đoàn Văn học Nghệ thuật Trung Quốc, và Chủ tịch Danh dự kiêm Cố vấn của Hội Nhà văn Trung Quốc. Cuộc đời của Bính Tân gắn liền với những biến động của thế kỷ, và bà đã miệt mài sáng tác trong suốt bảy mươi lăm năm. Bà là một trong những người sáng lập Phong trào Văn học Mới. Bà là người tiên phong cho nhiều phong cách văn học được gọi là "Phong cách Băng Tâm" và có những đóng góp to lớn trong việc hiện đại hóa văn học. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Những vì sao", "Nước suối" và "Thư gửi độc giả trẻ".
Số 36: Tô Đồng
Tô Đồng, quê ở Tô Châu, tỉnh Giang Tô, là nhà văn chuyên nghiệp thường trú tại Chi hội Nhà văn Trung Quốc tại Giang Tô. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Hồng phấn", "Vợ chồng phi tần", "Bờ sông", "Lúa gạo", "Sự nghiệp triều đình" và "Chim hoàng yến". Truyện ngắn "Vợ chồng phi tần" của ông đã được chuyển thể thành phim "Đèn lồng đỏ treo cao" của Trương Nghệ Mưu, đạt được nhiều thành công cả trong nước lẫn quốc tế. Tiểu thuyết "Chim sẻ vàng" của ông đã giành được Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ 9.
Giải 35: Trương Hành Thủy
Trương Hành Thủy, 1895-1967, là một nhà văn nổi tiếng của thể loại tiểu thuyết chương hồi và là đại diện của trường phái Vịt trời và Bướm. Ông được tôn sùng là "bậc thầy của tiểu thuyết chương hồi" và là "bậc thầy văn học đại chúng" đầu tiên trong lịch sử văn học hiện đại. Các tác phẩm của ông có cốt truyện phức tạp và bố cục chặt chẽ, có cấu trúc tốt, kết hợp giữa tiểu thuyết chương hồi truyền thống của Trung Quốc với kỹ thuật mới của tiểu thuyết phương Tây. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Thời đại hoàng kim", "Nước mắt và tiếng cười" và "Xuân thu thời nhà Minh".
Giải 34: Trần Trung Thực
Trần Trung Thực là một nhà văn đương đại nổi tiếng của Trung Quốc và là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc. "Bạch Lộc Nguyên" là tác phẩm tiêu biểu của ông. Năm 1997, "Bạch Lộc Nguyên" đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ tư.
Giải 33: Quách Mạt Nhược
Quách Mạt Nhược, 1892-1978, quê ở Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, là một nhà văn, nhà viết kịch, nhà thơ, sử gia và nhà cổ tự học nổi tiếng. Ông là người sáng lập ra thơ ca hiện đại Trung Quốc. Tập thơ tiêu biểu của ông, "Nữ thần", đã thoát khỏi những ràng buộc của thơ ca truyền thống Trung Quốc, phản ánh trọn vẹn tinh thần của Phong trào Ngũ Tứ. Nó đã tiên phong cho một thế hệ phong cách thơ mới trong lịch sử văn học Trung Quốc và là đại diện tiêu biểu của thơ ca lãng mạn đương đại. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Nữ thần" và "Tôi là Thiên khuyển".
Giải 32: Lương Sĩ Khâu
Lương Sĩ Khâu, tháng 1 năm 1903 - tháng 11 năm 1987, sinh ra tại Bắc Kinh. Ông là một nhà tiểu luận, học giả, nhà phê bình văn học và dịch giả nổi tiếng của Trung Quốc, và là chuyên gia đầu tiên của Trung Quốc về Shakespeare. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm "Tiểu luận từ Yashe".
Giải 31: Triệu Thụ Lý
Triệu Thụ Lý, 1906-1970, quê ở huyện Tần Thủy, tỉnh Sơn Tây, là một tiểu thuyết gia hiện đại và Nghệ sĩ Nhân dân nổi tiếng. Tiểu thuyết của ông thường lấy bối cảnh nông thôn miền Bắc Trung Quốc, phản ánh những thay đổi trong xã hội nông thôn, những xung đột và đấu tranh nội bộ, đồng thời khắc họa nhiều nhân vật nông thôn đa dạng. Ông là người sáng lập "Trường phái Sơn Diệu Đan". Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Tiểu Nhị Hắc Kết Hôn" và "Tam Lý Loan".
Số 30: Lâm Ngữ Đường
Lâm Ngữ Đường là một trong những cộng tác viên chính của "Yusi" (Những Sợi Tơ Lụa) từ năm 1895 đến năm 1976. Năm 1932, ông biên tập tạp chí "Luận Ngữ" xuất bản nửa kỳ. Năm 1935, ông thành lập "Yuzhou Feng", chuyên viết về tự sự với phong cách thư thái, trở thành một nhân vật chủ chốt của "Luận Ngữ phái". Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Khoảnh Khắc Bắc Kinh", "Gió và Hạc", và "Đất Nước và Nhân Dân".
Số 29: Văn Nhất Đa (Wen Yiduo)
Văn Nhất Đa (11/1899 - 7/1946) là một nhà yêu nước vĩ đại của Trung Quốc hiện đại, một chiến sĩ dân chủ kiên cường, một trong những lãnh tụ đầu tiên của Đồng Minh Dân Chủ Trung Quốc, một nhà thơ, một học giả và một chiến sĩ dân chủ. Ông là một nhà thơ tiêu biểu của trường phái Trăng Lưỡi Liềm. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm "Ngọn nến đỏ" và "Nước chết".
Số 28: Lục Dao
Lục Dao (1949-1992) là một nhà văn Trung Quốc đương đại. Sinh ra trong một gia đình nông dân nhiều thế hệ ở miền bắc Thiểm Tây, kiệt tác "Thế giới bình thường" của ông, với sự hùng tráng và chất sử thi, mang đến một cái nhìn toàn cảnh về những thay đổi sâu sắc trong đời sống xã hội, tư tưởng và cảm xúc của người dân ở thành thị và nông thôn Trung Quốc thời kỳ cải cách. Tác phẩm đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ ba.
Số 27: Tiểu Hồng
Tiểu Hồng là một nữ nhà văn Trung Quốc hiện đại nổi tiếng. Các tác phẩm tiêu biểu của bà bao gồm "Cánh đồng sinh tử", "Cuộc sống cô độc", "Hạt cát", "Mã Bá Lạc" và "Hồ Lan truyện". Trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc hiện đại, những tác phẩm như "Cánh đồng sinh tử" và "Hồ Lan truyện" đã nuôi dưỡng và tạo nên một phong cách văn học độc đáo mang phong cách Tiêu Hồng - phong cách văn xuôi của tiểu thuyết Trung Quốc hiện đại. Ý nghĩa của nó nằm ở việc "thu hẹp khoảng cách giữa văn học hiện đại và văn học truyền thống về mặt ý thức thẩm mỹ".
Số 26: Bạch Hiền Dũng
Bạch Hiền Dũng, sinh tháng 7 năm 1937, là một nhà văn đương đại nổi tiếng của Đài Loan. Ông là con trai của Bạch Sùng Hy, một vị tướng cấp cao của Quốc Dân Đảng. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Người Đài Bắc", "Mộng trong vườn" và "Người New York".
Số 25: Dư Quang Trung
Dư Quang Trung sinh tháng 10 năm 1928 tại Nam Kinh. Năm 1953, ông đồng sáng lập Hội Thơ "Ngôi sao xanh" cùng với Tần Tử Hào, Chung Định Văn và những người khác. Ngôn ngữ văn chương của Dư Quang Trung phức tạp và luôn biến đổi, nỗ lực rèn luyện một loại thuốc tiên "trong lò lửa chữ Hán". Về mặt thơ ca, Dư Quang Trung được coi là một "người đa thê trong nghệ thuật". Phong cách của ông rất đa dạng: những bài thơ thể hiện khát vọng và lý tưởng thường hùng tráng và vang dội, trong khi những bài thơ khắc họa nỗi nhớ nhà và tình yêu thường tinh tế và êm dịu. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Nỗi nhớ nhà", "Lông vũ xanh", "Chợ đêm trên thiên đường" và "Bạch ngọc khổ qua".
Số 24: Ai Thanh
Ai Thanh, quê ở Kim Hoa, tỉnh Chiết Giang, là một nhà thơ hiện đại Trung Quốc. Ông được coi là một trong những nhân vật hàng đầu của thơ ca Trung Quốc hiện đại. Các tác phẩm chính của ông bao gồm "Đại Anh Hà - Bà vú của tôi", "Bài ca trở về" và "Hóa thạch cá". Trước giải phóng, Ai Thanh đã sử dụng lối viết sâu sắc, nồng nhiệt và phóng khoáng để nguyền rủa bóng tối và ca ngợi ánh sáng. Sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ông ca ngợi nhân dân, ca ngợi ánh sáng và suy ngẫm về cuộc sống. Ai Thanh nổi tiếng với những bài hát mang đậm tính nghệ thuật cá nhân, thể hiện thẩm mỹ thơ ca của ông về "sự giản dị, thuần khiết, tập trung và sáng suốt".
Số 23 Vương Mạnh
Vương Mạnh, quê ở Nam Bì, tỉnh Hà Bắc, sinh tháng 10 năm 1934. Ông là một nhà văn và học giả đương đại Trung Quốc. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm "Tuổi trẻ muôn năm" và "Sự chuyển hóa của một con người đang sống". Các tác phẩm của ông phản ánh hành trình gian nan của người dân Trung Quốc trên con đường tiến lên. Tinh thần lạc quan và nhiệt huyết đã đưa ông trở thành một trong những nhà văn sung mãn và sáng tạo nhất trong văn học đương đại. Năm 2015, tiểu thuyết "Phong cảnh nơi đây" của ông đã giành được Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ chín.
Số 22 Tôn Lý
Tôn Lý, tên thật là Tôn Thục Huân, là người sáng lập "Trường phái Liên Trì". Trước khi được giải phóng, ông đã vẽ nên những bức chân dung văn học chj Hội nhà văn Tứ Xuyên. Khi 41 tuôi, ông giành giải thưởng Mo Thuunng, tỉnh Tứ Xuyên. Ông là một nhà văn đương đại nổi tiếng và là Chủ tịch Hội Nhà văn Tứ Xuyên. Năm 2000, khi mới 41 tuổi, Alai đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ năm cho tiểu thuyết "Bụi lắng", trở thành người chiến thắng Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn.
(còn nữa)
Dỗ Hoàng theo Tân Hoa Xã
Nhà văn Mặc Ngôn

Nguc trung nhật ký (tiếp)

  •   15/08/2025 08:06
  •   9
  •   0
Ngục trung nhật ký là tập thơ gồm các bài chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943 dưới dạng một quyển sổ tay nhỏ. Tác phẩm được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay tác phẩm đã được xuất bản nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật... Ngày 1-10-2012, thủ tướng đã ra quyết định công nhận đây là bảo vật quốc gia. Tôi dịch thơ Hồ Chí Minh khi học chữ Hán ở trường trung học và khi ra công tác. Đây là ghi chép nhật ký nôm na, đơn giản. Khi trừng trải thấy ý nghĩ lớn lao, có nhiều bài rất hay.Giới thiệu để bạn đọc tham khảo! – Đỗ Hoàng
開卷
老夫原不愛吟詩,
因為囚中無所為。
聊借吟詩消永日,
且吟且待自由時。
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Dịch nghĩa
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm.
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ta đây người chẳng thích ngâm thơ
Trong ngục ngồi không chỉ vật vờ.
Hãy mượn ngâm nga tiêu ngày rộng
Vừa ngâm, vừa đợi tự do chờ!

Thích Minh Đạo vịnh

Hội sư quốc doanh không hiểu gì giáo ly Phật giao. Chúng nó chỉ v

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập8
  • Hôm nay1,016
  • Tháng hiện tại23,444
  • Tổng lượt truy cập185,166
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi