Đạo đức kinh - LaoxTwr (1)

Thứ bảy - 17/05/2025 08:12
ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
ĐẠO KINH
上 經 ● 道 經
CHƯƠNG I
THỂ ĐẠO
體 道
Hán văn:
道 可 道 非 常 道. 名 可 名 非 常 名. 無 名 天 地 之 始; 有 名 萬 物 之 母. 故 常 無 欲 以 觀 其 妙; 常 有 欲, 以 觀 其 徼. 此 兩 者 同 出 而 異 名. 同 謂 之 玄. 玄 之 又 玄. 眾 妙 之 門.
Phiên âm:
1. Đạo khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh.
2. Vô danh thiên địa chi thủy; Hữu danh vạn vật chi mẫu.
3. Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu; Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu.
4. Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền. Chúng diệu chi môn.
Dịch nghĩa:
1. Đạo (mà) có thể gọi được, không phải là Đạo thường (hằng cửu). Tên mà có thể gọi được, không (còn) phải là tên thường (hằng cửu).
2. Không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật.
3. Cho nên thường không có dục để nhìn thấy chỗ vi diệu của mình. Thường có dục, để nhìn thấy chỗ giới hạn (công dụng) của mình. Chính là muôn phải,
4. Hai cái đó cùng một nguồn gốc, nhưng tên khác nhau, đều gọi là Huyền nhiệm. (Cái) tối ư huyền nhiệm ấy chính là cửa phát sinh ra mọi điều huyền diệu.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo gọi đươc! Đạo trời muôn phái.
Tên gọi ra không phải tên thường.
Không tên gốccủa ngọn nguồn
Có tên mẹ của muôn phương đất trời!
Lòng ước muồn nhìn nơi vi diệu
Nâng cao lên tầm hiểu cuả mình
Mong về giới hạn vô minh .
Cùng từ nguồn cội hiển linh mà thành
Tên gọi khác nên danh huyền nhiệm
Cái tôi ư, bất biến vô vàn
Cõi đời vạn vật trần gian
Nhiệm huyền là cửa phát ban diệu huyền !
CHƯƠNG 2
DƯỠNG THÂN
養 身
Hán văn:
天 下 皆 知 美 之 為 美, 斯 惡 已; 皆 知 善 之 為 善, 斯 不 善 已. 故 有 無 相 生, 難 易 相 成, 長 短 相 形, 高 下 相 傾, 音 聲 相 和, 前 後 相 隨. 是 以 聖 人 處 無 為 之 事, 行 不 言 之 教. 萬 物 作 焉 而 不 辭, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 功 成 而 弗 居. 夫 唯 弗 居, 是 以 不 去.
Phiên âm:
1. Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy.
2. Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo.
3. Vạn vật tác yên nhi bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị,công thành nhi phất cư.
4. Phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ.
Dịch nghĩa:
1. Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, thế là xấu vậy; đều biết tốt là tốt thế là không tốt vậy, bởi vì có không sinh ra nhau dễ khó thành tựu lẫn nhau, ngắn dài tạo thành lẫn nhau, trên dưới lộn lạo ra nhau, thanh âm hòa hợp với nhau, sau trước theo nhau.
2. Cho nên thánh nhân dùng Vô vi mà xử sự, dùng «vô ngôn» mà dạy dỗ.
3. Vạn vật hoạt động mà vẫn im lìm; sống động mà không (đòi quyền) sở hữu; lao tác mà không cậy công; công thành mà không lưu luyến.
4. Không lưu luyến nên mới không mất.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ở đời khen tuyệt vời cái đẹp
Cái xấu kia đã biết chen vào
Đời khen cái tốt thanh cao
Cái xấu len đến đã đến đào huyệt sâu
Không sinh, không diệt vì nhau
Cái trên,cái dưới, trước sau hòa đồng.
Thánh nhân vẫn cầu mong hòa hợp
Dúng vô vi cảm được vô ngôn
Công thành tất thảy vẹn tròn
Lặng im công sức vẫn còn mốt mai!
CHƯƠNG 3
AN DÂN
安 民
Hán văn:
不 尚 賢, 使 民 不 爭. 不 貴 難 得 之 貨, 使 民 不 為 盜. 不 見 可 欲, 使 民 心 不 亂. 是以 聖 人 之 治, 虛 其 心, 實 其 腹, 弱 其 志, 強 其 骨. 常 使 民 無 知 無 欲. 使 夫 知 不 敢 為 也. 為 無 為, 則 無 不 治.
Phiên âm:
1. Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quí nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn.
2. Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri vô dục. Sở phù trí giả bất cảm vi dã.
3. Vi vô vi, tắc vô bất trị.
Dịch nghĩa:
1. Không sùng thượng hiền tài, khiến cho dân không tranh. Không quí của khó được, khiến cho dân không trộm cướp. Không phô trương những gì kích thích lòng ham muốn, khiến cho lòng dân không loạn.
2. Vì vậy phép trị nước của thánh nhân là làm cho dân: Trống lòng; No dạ; Yếu chí; Mạnh xương. Thường khiến cho dân không biết, không ham. Khiến cho kẻ trí không dám làm gì cả.
3. Làm theo phép Vô vi, thời không gì là không trị.
Đỗ Hoàng dịch thơ
:Chớ sủng ái hiền tài quá đáng
Khiên cho dân sao lãng đua tranh
Đừng tìm của quí xa gần
Trộm cướp đạo tăc cũng dần tiêu tan
Đưng kích thích lòng ham muốn ước
Khiến cho dân không được bình yên
Trong lòng, no dạ, ấm êm
Kẻ trí cũng chẳng làm nên điều gì.
Đay là theo phép vô vi
Trị mà không trị việc gì cũng nên !
CHƯƠNG 4
VÔ NGUYÊN
無 源
Hán văn:
道 沖 而 用 之 或 不 盈. 淵 兮 似 萬 物 之 宗. 挫 其 銳, 解 其 紛, 和 其 光, 同 其 塵. 湛 兮 似 或 存. 吾 不 知 誰 之 子. 象 帝 之 先.
Phiên âm:
1. Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh.
2. Uyên hề tự vạn vật chi tông.
3. Tỏa kỳ nhuệ,giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần.
4. Trạm hề tự hoặc tồn.
5. Ngô bất tri thùy chi tử. Tượng đế chi tiên.
Dịch nghĩa:
1. Đạo rỗng không mà dùng không hết.
2. Đạo sâu xa man mác tựa hồ như là tổ tông vạn vật.
3. Làm nhụt bén nhọn, tháo gỡ rối rắm, pha trộn ánh sáng, hòa mình cùng bụi rậm.
4. Trong trẻo thay, tựa hồ trường tồn.
5. Ta không biết Đạo con ai; hình như có trước Thiên đế.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo rỗng không, vững bên muôn kiếp
Đạo sâu xa nối tiêp nguồn xưa
Gỡ rối rắm, chuốt tà lưa.
Chan hòa ánh sáng buổi vừa mơi sinh.
Trong trẻo thay, tựa trường sinh
Đạo là con của thiên đình, đế thiên!
CHƯƠNG 5
HƯ DỤNG
虛 用
Hán văn:
天 地 不 仁, 以 萬 物 為 芻 狗. 聖 人 不 仁, 以 百 姓 為 芻 狗. 天 地 之 間, 其 猶 橐 籥 乎. 虛而 不 屈, 動 而 愈 出. 多 聞 數 窮, 不 如 守 中.
Phiên âm:
1. Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. [1]
2. Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.
3. Thiên địa chi gian,[2] kỳ do thác thược [3] hồ.
4. Hư nhi bất khuất,[4] động chi dũ xuất.
5. Đa ngôn số cùng, bất như thủ trung. [5]
Dịch nghĩa:
1. Trời đất không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm.
2. Thánh nhân không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm.
3. Khoảng trời đất giống như ống bễ. Trống không mà không hao kiệt, càng động, hơi càng ra.
4. Nói nhiều cũng chẳng hết, thà giữ lấy Trung.
Đõ Hoàng dịch thơ:
Trời đất lòng dạ bất yên
Coi thiên hạ một miền chó hoang
Khoảng trời đât rỗng toang ống bể
Không anh hùng, xưng đế nhiễu nhương.
Càng lay động, càng lụy vương
Cuối cùng giữ lấy thường thường lòng trung.
CHƯƠNG 6
THÀNH TƯỢNG
成 象
Hán văn:
谷 神 不 死 是 謂 玄 牝. 玄 牝 之 門, 是 謂 天 地 根. 綿 綿 若 存. 用 之 不 勤.
Phiên âm:
1. Cốc thần bất tử thị vị Huyền tẫn.
2. Huyền tẫn chi môn thị vị thiên địa căn.
3. Miên miên nhược tồn. Dụng chi bất cần.
Dịch nghĩa:
1. Cốc thần bất tử, đó là Huyền tẫn.
2. Cửa Huyền tẫn chính là gốc rễ trời đất.
3. Miên man trường tồn, dùng không bao giờ hết.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Huyền Tẫn chốn vô cùng bất tử
Cửa Huyền Tẫn gốc rễ dất trời
Miên man trong cõi sinh sôi
Của kho vô tận đời đời bao dung.
CHƯƠNG 7
THAO QUANG
韜 光
Hán văn:
天 長 地 久. 天 地 所 以 能 長 且 久 者, 以 其 不 自 生, 故 能 長 生. 是以 聖 人 後 其 身 而 身 先, 外 其 身 而 身 存. 非 以 其 無 私 耶? 故 能 成 其 私.
Phiên âm:
1. Thiên trường, địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kỳ bất tự sinh, cố năng trường sinh.
2. Thị dĩ thánh nhân, hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn.
3. Phi dĩ kỳ vô tư da? Cố năng thành kỳ tư.
Dịch nghĩa:
Trời dài, đất lâu. Trời đất sở dĩ dài lâu chính vì không sống cho mình, vì thế nên trường sinh.
Vì vậy thánh nhân để thân ra sau mà thân ở trước; để thân ra ngoài mà thân còn.
Phải chăng vì không riêng tây, nên vẫn thành được cái riêng tây?
Đỗ Hoàng dịch thơ::
Thiên trường địa cửu không dừng
Cho thiên hạ không ngừng phát sinh.
Thánh nhân bâc thần tình
Thân ra sau mà hiển linh mãi còn.
Phải không vương bận núi non
Công thành mãi mãi vẫn tròn riêng tây!
CHƯƠNG 8
DỊ TÍNH
易 性
Hán văn:
上 善 若 水. 水 善 利 萬 物 而 不 爭, 居 眾 人 之 所 惡, 故 几 於 道. 居 善 地, 心 善 淵, 與 善 仁, 言 善 信, 政 善 治, 事 善 能, 動 善 時. 夫 唯 不 爭, 故 無 尤.
Phiên âm:
Thượng thiện nhược thủy.
Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư Đạo.
Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời.
Phù duy bất tranh, cố vô vưu.
Dịch nghĩa:
Bậc trọn lành giống như nước.
Nước khéo làm ích cho muôn loài mà không tranh giành, ở chỗ mọi người đều ghét, cho nên gần Đạo.
Ở thì lựa nơi chốn; tâm hồn thời thâm trầm sâu sắc; giao tiếp với người một mực nhân ái; nói năng thành tín; lâm chính thời trị bình; làm việc thời có khả năng; hoạt động cư xử hợp thời.
Chính vì không tranh, nên không ai chê trách oán thán.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo được chÍnh tròn đầy như nước
Làm có ích không vượt đua tranh
Ở thấp chẳng ai ham giành
Cho nên chính đạo mới thành công huân.
Ở nơi chốn thâm trầm sâu sắc
Giao tiếp người một bâc ái tôn
Tâm thành lâm chính xóm thôn
Trị bình hòa hơp hoạt không trong ngoài
Chính vì không on, không sai
Trên dưới trong ngoài chẳng ai oán than!
CHƯƠNG 9
VẬN DI
運 夷
Hán văn:
持 而 盈 之, 不 如 其 已. 揣 而 銳 之, 不 可 長 保. 金 玉 滿 堂, 莫 之 能 守. 富 貴 而 驕, 自 遺 其 咎. 功 成 名 遂, 身 退, 天 之 道.
Phiên âm:
1. Trì nhi doanh chi bất như kỳ dĩ.
2. Sủy nhi nhuệ chi bất khả trường bảo.
3. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ.
4. Phú quí nhi kiêu, tự di kỳ cữu.
5. Công thành, danh toại, thân thiên chi đạo.
Dịch nghĩa:
1. Giữ mà làm cho đầy mãi, không bằng dừng lại.
2. Mài cho nhọn, cho sắc không giữ được lâu.
3. Vàng ngọc đầy nhà, chẳng thể giữ được.
4. Giàu sang mà kiêu căng, sẽ tự vời tai họa.
5. Thành công, thành danh rồi thời nên lui thân, ấy là đạo Trời.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Làm đầy mãi , không bằng dừng lai
Nhọn săc sao giữ mãi đươc lâu
Cũng như vàng ngọc, nhà lầu
Kiêu căng tất sụp bùn sâu ai ngờ
Thành công rồi nên nên ngơ với ngác
Thành công rồi ông an lạc đạo Trời!
Thành danh nên biết nghỉ ngơi
Dễ thành bâc thánh trên đời không ngoa.
CHƯƠNG 10
NĂNG VI
能 為
Hán văn:
載 營 魄 抱 一 能 無 離 乎? 專 氣 致 柔, 能 如 嬰 兒 乎? 滌 除 玄 覽, 能 無 疵 乎? 愛 民 治 國, 能 無 為 乎? 天 門 開 闔, 能 無 雌 乎? 明 白 四 達, 能 無 知 乎? 生 而 畜 之, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 長 而 不 宰, 是 謂 玄 德.
Phiên âm:
1. Tải doanh phách bão nhất năng vô ly hồ?
2. Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ?
3. Dịch trừ huyền lãm, năng vô tì hồ?
4. Ái dân trị quốc năng vô vi hồ?
5. Thiên môn khai hạp, năng vô thư hồ?
6. Minh bạch tứ đạt năng vô tri hồ?
7. Sinh nhi súc chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng chi bất tể, thị vị huyền đức.
Dịch nghĩa:
Năng vi (Làm được không?)
1. Có thể đem hồn phách ôm ấp lấy Đạo, không lìa xa chăng?
2. Có thể giữ cho nguyên khí không tán loạn, giữ vẹn thiên chân, hoàn toàn theo được đạo Trời, (định luật trời đất) như anh nhi chăng?
3. Có thể tẩy trừ được (trần cấu), giữ được cho gương lòng trong sáng không tì vết chăng?
4. Có thể yêu dân trị nước, mà vẫn vô vi chăng?
5. Cơ trời mở đóng, có thể thuận ứng như con mái chă
6. Có thể sáng suốt mà như người vô tri chăng?
7. Sinh dưỡng vạn vật; sống mà vẫn như không có; làm mà không cậy công; khiến cho lớn mà không đòi làm chủ, thế là đức sâu xa vậy.
Đỗ Hoàng dịch thơ
Vẫn giữ nguyên của ta, nguyên khi
Trấu rơm mài hêt bỉ gương thần
Vô vi trị nước yêu dân
Cơ trời thuận ứng muôn phân như không
Sáng suốt mà nghiệp mà lòng gây dựng
Dưỡng sinh tương ứng vĩnh hằng.
Tài dưỡng sinh ánh như băng
Khiêm cung công đức.sánh bằng cao xa
CHƯƠNG 11
VÔ DỤNG
無 用
Hán văn:
三 十 輻 共 一 轂. 當 其 無, 有 車 之 用. 埏 埴 以 為 器. 當 其 無, 有 器 之 用. 鑿 戶 牖 以 為 室. 當 其 無, 有 室 之 用. 故 有 之 以 為 利, 無 之 以 為 用.
Phiên âm:
1. Tam thập phúc,cộng nhất cốc.Đương kỳ vô, hữu xa chi dụng.
2. Duyên thực dĩ vi khí. Đương kỳ vô, hữu khí chi dụng.
3. Tạc hộ dũ dĩ vi thất. Đương kỳ vô, hữu thất chi dụng.
4. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng.
Dịch nghĩa:
1. Ba chục căm, hợp lại một bầu. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của xe.
2. Nhào đất để làm chén bát. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của chén bát.
3. Đục cửa lớn, cửa sổ để làm nhà; nhờ có chỗ trống không, mới có cái dùng của nhà.
4. Cho nên lấy cái «có» để làm cái lợi, lấy cái «không» để làm cái dụng.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ba chục cân mới ra một đấu
Nơi trống không chỗ bấu càng xe
Nhào đât bát chén vôi ve
Chỗ không ra có bát be để dùng
Cử lớn nhỏ cùng chung ngôi vị
Nhờ trông không nên thế ngôi nhà
Lấy cái có để làm ra
Từ không biến hóa tài ba vật dùng.
CHƯƠNG 12
KIỂM DỤC
檢 欲
Hán văn:
五 色 令 人 目 盲. 五 音 令 人 耳 聾. 五 味 令 人 口 爽. 馳 騁 田 獵 令 人 心 發 狂. 難 得 之 貨, 令 人 行 妨. 是 以 聖 人 為 腹 不 為 目. 故 去 彼 取 此.
Phiên âm:
1. Ngũ sắc lịnh nhân mục manh..Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng.. Trì sính, điền liệp lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa, lịnh nhân hành phương.
2. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục. Cố khứ bỉ thủ thử.
Dịch nghĩa:
1. Năm màu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của cải khó được, khiến người bị tai hại.
2. Bởi vậy, thánh nhân vì bụng không vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Năm màu sắc làm cùng mù mắt
Năm tiếng kêu người đặc điếc tai.
Năm mùi lưỡi liếm lè dài
Ruổi rong săn bắn người tài hóa điên
Của cải kho, người thêm bị hại
Thánh nhân thường kinh hãi bụng mình
Thường tâm coi trọng mắt nhìn
Chọn hay loại bỏ phải tinh tận tường..
CHƯƠNG 13
YẾM SỈ
厭 恥
Hán văn:
寵 辱 若 驚. (貴) 大 患 若身. 何 謂 寵 辱 若 驚. 寵 為 (上, 辱 為) 下. 得 之 若 驚, 失 之 若 驚. 何 謂 (貴) 大 患 若 身. 吾 所 以 有 大 患 者, 為 吾 有 身. 及 吾 無 身, 吾 有 何 患? 故 貴以 身 為 天 下, 若 可 寄 天 下. 愛 以 身 為 天 下, 若 可 托 天 下.
Phiên âm:
1. Sủng nhục nhược kinh. (Quí) đại hoạn nhược* thân.
2. Hà vị sủng nhục nhược* kinh. Sủng vi (thượng, nhục vi) hạ.. Đắc chi nhược* kinh, Thất chi nhược* kinh.
3. Hà vị (quí) đại hoạn nhược* thân. Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?
4. Cố quí dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả ký thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược* khả thác thiên hạ.
Dịch nghĩa:
1. Vinh, nhục cũng làm lo âu. Sở dĩ hoạn nạn là vì có thân.
2. Tại sao vinh, nhục đều làm lo âu? Vinh là ở ngôi cao, nhục là ở địa vị thấp. Được cũng lo, mất cũng lo. Vì thế nên nói: Vinh nhục đều lo.
3. Tại sao nói: «Hoạn nạn là vì có thân?» Ta sở dĩ phải lo âu nhiều, chính vì ta có thân. Nếu không có thân, ta đâu có lo !
4. Cho nên ai quí thiên hạ hơn thân mình, thì có thể đem thiên hạ giao phó cho, ai yêu thiên hạ hơn thân mình, thì có thể gửi gắm thiên hạ cho họ được.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Có vinh nhục đều thường lo lắng
Ngôi cao, hèn đều đáng âu lo
Mất thì hoạn nạn tẽn tò,
Vinh hoa cũng bị một bồ dao đâm!
Họa phúc là vì có thân
Không thân thì cũng chẳng cần điều chi.
Nên ai yêu quý chỉ vì thiên hạ
Thì nên đem tất cả trao cho.
Ai coi thiên hạ trời to
Giao thiên hạ hết chẳng lo việc gì!
CHƯƠNG 14
TÁN HUYỀN
贊 玄
Hán văn:
視 之 不 見, 名 曰 夷. 聽 之 不 聞, 名 曰 希. 搏 之 不 得, 名 曰 微. 此 三 者 不 可 致 詰. 故 混 而 為 一. 其 上 不 皎, 其下 不 昧, 繩 繩 不 可 名, 復 歸 於 無 物. 是 謂 無 狀 之 狀, 無 物 之 象. 是 謂 惚 恍, 迎 之 不 見 其 首. 隨 之 不 見 其 後. 執 古 之 道, 以 御 今 之 有. 能 知 古 始, 是 謂 道 紀.
Phiên âm:
1. Thị chi bất kiến, danh viết Di. Thính chi bất văn, danh viết Hi. Bác chi bất đắc, danh viết Vi. Thử tam giả bất khả trí cật.. Cố hỗn nhi vi nhất.
2. Kỳ thượng bất kiểu..Kỳ hạ bất muội. Thằng thằng bất khả danh, phục qui ư vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng. Thị vị bất hốt hoảng, nghinh chi bất kiến kỳ thủ. Tùy chi bất kiến kỳ hậu.
3. Chấp cổ chi đạo, dĩ ngự kim chi hữu. Năng tri cổ thủy, Thị vị đạo kỷ.
Dịch nghĩa:
1. Nhìn không thấy, gọi là Di. Nghe không thấy, gọi là Hi. Nắm không được, gọi là Vi. Ba điều ấy không thể suy cứu đến cùng. Cho nên hợp lại làm một.
2. Trên nó không sáng. Dưới nó không mờ. Miên man dằng dặc mà không thể đặt tên. Rồi lại trở về chỗ không có gì. Đó là trạng thái của cái không trạng thái. Hình tượng của cái không có vật chất. Cái có hoảng hốt, đón trước không thấy đầu, theo sau không thấy đuôi.
3. Giữ cái Đạo xưa để trị chuyện nay; biết cái đầu mối của thời xưa, ấy là nắm được giềng mối đạo.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ba diều gọi Di, Hi, Vi
Ba điều âý chẳng thể truy đến cùng.
Cho nên goi một tên chung
Trên không sáng, dưới mông lung, lờ mờ
Không đặt tên, miền mơ dằng dặc
Rồi trỏ về ản tắc vô danh
Đó là trạng thái mong manh
Trước sau không thấy hữu hình đầu đuôi
Giềng mối nào tìm nơi gỡ rói
Cái Đạo nầy nối tới ngày nay
CHƯƠNG 15
HIỂN ĐỨC
顯 德
Hán văn:
古 之 善 為 士 者, 微 妙 玄 通, 深 不 可 識. 夫 唯 不 可 識, 故 強 為 之 容. 豫 焉 若 冬 涉 川. 猶 兮 若 畏 四 鄰. 儼 兮 其 若 客. 渙 兮 其 若 冰 之 將 釋. 敦 兮 其 若 朴. 曠 兮 其 若 谷. 混 兮, 其 若 濁. 孰 能 濁 以 止, 靜 而 徐 清. 孰 以 安 以 久 動 而 徐 生. 保 此 道 者, 不 欲 盈. 夫 唯 不盈 故 能 蔽, 不 新 成.
Phiên âm:
1. Cổ chi thiện vi sĩ giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức, cố cưỡng vi chi dung.
2. Dự yên nhược đông thiệp xuyên. Do hề nhược úy tứ lân. Nghiễm hề kỳ nhược khách. Hoán hề nhược băng chi tương thích. Đôn hề kỳ nhược phác. Khoáng hề kỳ nhược cốc. Hỗn hề kỳ nhược trọc.
3. Thục năng trọc dĩ chỉ, tĩnh nhi từ thanh. Thục dĩ an dĩ cửu động nhi từ sinh.
4. Bảo thử Đạo giả bất dục doanh. Phù duy bất doanh cố năng tế,bất tân thành.
Dịch nghĩa:
1. Bậc hoàn thiện xưa siêu vi, huyền diệu, thâm thúy, thông suốt; thâm thúy khôn lường. Vì khó lường nên gượng tả hình dung.
2. Các ngài thận trọng như mùa đông đi qua sông; các ngài e dè sợ láng giềng bốn bên; kính cẩn như khách; lạnh lùng như băng tan; mộc mạc chất phác như chưa đẽo gọt; man mác như hang núi; hỗn mang như nước đục
3. Ai có thể đục mà nhờ tĩnh lại dần dần trong. Ai có thể yên mà nhờ động lại dần dần linh hoạt.
4. Kẻ giữ đạo không muốn đầy. Chỉ vì không muốn đầy, nên mới che dấu và chẳng đổi mới.
Đỗ Hoàng thơ:
Bâc hoàn thiện xưa nay thông suốt
Hình dung ư khó ước khôn lường.
Cẩn thận như đi qua đường
Lạnh lùng băng giá, giản thường suối khe
Không tan chảy màu mè đẽo gọt
Hỗn mang như nước đục trên non
Nhờ có động mà còn linh hoạt
Không muốn đầy nên thoát dư thừa
CHƯƠNG 16
QUI CĂN
歸 根
Hán văn:
致 虛 極, 守 靜 篤. 萬 物 并 作, 吾 以 觀 其 復. 夫 物 芸 芸, 各 歸 其 根. 歸 根 曰 靜, 靜 曰 復 命. 復 命 曰 常. 知 常 曰 明. 不 知 常, 妄 作, 凶. 知 常 容. 容 乃 公. 公 乃 王. 王 乃 天. 天 乃 道. 道 乃 久. 沒 身 不 殆.
Phiên âm:
1. Trí hư cực, thủ tĩnh đốc.
2. Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan kỳ phục. Phù vật vân vân, các qui kỳ căn.
3. Qui căn viết tĩnh. Tĩnh viết phục mạng. Phục mạng viết thường.
4. Tri thường viết minh. Bất tri thường, vọng tác, hung.
5. Tri thường dung. Dung nãi công. Công nãi vương. Vương nãi thiên. Thiên nãi Đạo. Đạo nãi cửu. Một thân bất đãi.
Dịch nghĩa:
1. Hư không cùng cực, hết sức yên tĩnh.
2. Vạn vật đua sống, ta nhân đó xem chúng trở về (nguồn). Vạn vật trùng trùng đều trở về cội.
3. Trở về cội rễ là tĩnh; tĩnh là phục mệnh; phục mệnh tức là trường cửu.
4. Biết «trường cửu» mới là sáng suốt. Không biết trường cửu sẽ làm càn và gây hung họa.
5. Biết «trường cửu» sẽ thung dung như công hầu vương tước, sẽ hợp với Trời với Đạo. Hợp Đạo rồi sẽ cửu trường: thân có mất đi, cũng chẳng nguy hại gì.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Hư không cực tột ưa yên tĩnh
Ta nhẩm xem ai tinh về nguồn.
Trùng trùng vạn vật mưa tuôn
Trở về tĩnh lặng là khuôn mệnh mình.
Phục mệnh mình đinh ninh trường ửu
Không làm càn gây họa cho ai
Biết trường cửu sẽ nối dài
Hợp Trời với Đạo thân ngoài hư không.
CHƯƠNG 17
THUẦN PHONG
淳 風
Hán văn:
太 上, 不 知 有 之. 其 次, 親 而 譽 之. 其 次, 畏 之. 其 次, 侮 之. 信 不 足 焉, 有 不 信 焉. 悠 兮, 其 貴 言. 功 成 事 遂, 百 姓 謂 我 自 然.
Phiên âm:
1. Thái thượng, hạ tri hữu chi.
2. Kỳ thứ, thân nhi dự chi.
3. Kỳ thứ, úy chi.
4. Kỳ thứ, vũ chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên.
5. Du hề, kỳ quí ngôn. Công thành, sự toại, bách tính vị ngã tự nhiên.
Dịch nghĩa:
1. Thánh quân thời cổ xưa (cai trị), dân ở dưới không biết rằng có.
2. Bậc dưới, họ thân và ngợi khen. Bậc dưới nữa họ sợ. Bậc dưới nữa, họ khinh. Vì không đủ tin, nên dân không tin.
3. Bậc thánh xưa quí lời nói. Công việc xong xuôi, mà dân đều bảo rằng: «Tự nhiên bởi ta.»
Đỗ Hoàng dịch thơ :
Dân ở dưới trong vòng cai quản
Rất tin yêu, tinh toán gì đâu.
Bâc dướii họ ngợi khen nhau
Bậc dưới nữa họ sợ mau oán hờn
Thánh nhân lời nói quí hơn
Việc thành dân biết trả ơn chốn nào !
CHƯƠNG 18
TỤC BẠC
俗 薄
Hán văn:
大 道 廢, 有 仁 義. 智 慧 出, 有 大 偽. 六 親 不 和, 有 孝 慈. 國 家 昏 亂, 有 忠 臣.
Phiên âm:
1. Đại Đạo phế, hữu nhân nghĩa.
Trí tuệ xuất, hữu đại ngụy.
2. Lục thân bất hòa, hữu hiếu từ.
3. Quốc gia hôn loạn, hữu trung thần.
Dịch nghĩa:
1. Đại đạo mất mới có nhân nghĩa,
Trí tuệ sinh mới có dối trá lớn.
2. Lục thân bất hòa, nên có kẻ thảo người lành.
3. Quốc gia rối loạn mới có trung thần.
Đỗ Hoàng dịch thơ::
Đạo lớn mất nghĩa nhân sao tỏ
Trí tuệ sinh mới có tráo lừa.
Nội thân xáo trộn ghét ưa.
Quốc gia tao loạn có thừa người trung!
CHƯƠNG 19
HOÀN THUẦN
還 淳
Hán văn:
絕 聖 棄 智, 民 利 百 倍. 絕 仁 棄 義, 民 復 孝 慈. 絕 巧 棄 利, 盜 賊 無 有. 此 三 者 以 為 文, 不 足. 故 令 有 所 屬. 見 素 抱 朴. 少 思 寡 欲.
Phiên âm:
1. Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội.
2. Tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ.
3. Tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu.
4. Thử tam giả dĩ vi văn, bất túc.
5. Cố lệnh hữu sở thuộc. Kiến tố bão phác. Thiểu tư quả dục.
Dịch nghĩai:
1. Dứt thánh bỏ trí, dân lợi gấp trăm.
2. Dứt thân bỏ nghĩa dân lại thảo lành.
3. Dứt khéo, bỏ lợi, không có trộm cướp.
4. Ba điều đó hào nhoáng bên ngoài, chẳng đủ vào đâu.
5. Phải chú trọng điều này: Giữ vẹn tinh anh, chất phác: ít riêng tây, ít ham muốn
Đỗ Hoàng dịch thơ;
Thánh, trí bỏ đi vô cùng dân lợi
Nhân tinh xóa sạch, dân tới thỏa lành
Lợi, kheo tiêu càng an dân
Những điều hào nhoàng chẳng thành vào đâu.
Phải chú trọng điều đầu nhắc nhở
Vẹn tinh anh nên nhớ giữ gìn
Ít ham muốn bỏ quên mình
Riêng tay quét sạch, hiển linh bây giờ!
CHƯƠNG 20
DỊ TỤC
異 俗
Hán văn:
絕 學 無 憂. 唯 之 與 阿, 相 去 幾 何. 善 之 與 惡, 相 去 若 何. 人 之 所 畏, 不 可 不 畏. 荒 兮 其 未 央 哉. 眾 人 熙 熙, 如 享 太 牢, 如 登 春 台. 我 獨 泊 兮 其 未 兆, 如 嬰 兒 之 未 孩. 儡 儡 兮 若 無 所 歸. 眾 人 皆 有 餘, 而 我 獨 若 遺. 我 愚 人 之 心 也 哉. 沌 沌 兮 眾 人 昭 昭, 我 獨 昏 昏. 眾 人 察 察, 我 獨 悶 悶. 澹 兮 其 若 海. 飂 兮 若 無 止. 眾 人 皆 有 以 而 我 頑 且 鄙. 我 獨 異 於 人, 而 貴 食 母.
Phiên âm:
1. Tuyệt học vô ưu. Duy chi dự a, tương khứ kỷ hà.
Thiện chi dữ ác tương khứ nhược hà.
2. Nhân chi sở úy, bất khả bất úy. Hoang hề kỳ vị ương tai.
3. Chúng nhân hi hi như hưởng thái lao,[8] như đăng xuân đài.
4. Ngã độc bạc hề kỳ vị triệu, như anh nhi chi vị hài Luy luy hề nhược vô sở qui.
5. Chúng nhân giai hữu dư, nhi ngã độc nhược di. Ngã ngu nhân chi tâm dã tai. Độn độn hề chúng nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn.Chúng nhân sát sát, ngã độc muộn muộn. Đạm hề kỳ nhược hải.. Liêu hề nhược vô chỉ..Chúng nhân giai hữu dĩ nhi ngã ngoan thả bỉ.
6. Ngã độc dị ư nhân, nhi quí thực mẫu.
Dịch nghĩa:
1. Dứt học, hết lo. Dạ với ơi khác nhau bao lăm? Lành với dữ khác nhau mấy tầm?
2. Cái mà người sợ, ta há không sợ, nhưng không đến nỗi hoảng hốt mất tinh thần.
3. Người đời hớn hở, như hưởng cỗ bàn, như lên đài xuân.
4. Riêng ta lặng lẽ, chẳng chút phô trương, y như trẻ thơ, chưa biết mỉm cười. Dáng điệu phờ phạc, lênh đênh vô định.
5. Chúng nhân có thừa, riêng ta thiếu thốn. Lòng ta ngu dốt thay, mù mịt tay. Người đời sáng chói, riêng ta mịt mù. Vắng lặng như biển khơi, vi vu như gió thổi. Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngu xuẩn, thô kệch.
6. Riêng ta sống khác người, vì không lìa xa «mẹ thiên nhiên».
Dỗ Hoàng dịch thơ:
Không học, không à uôm lo lắng
Dạ và ơi tiếng thẳng, giọng cong
Nhưng nào đến nỗi mất hồn.
Nhưng ta lặng lẽ phô trương làm gì.
Như trẻ thơ nhu mì cười mỉm
Dáng dị khờ đủng dỉnh vô ngôn
Đời thừa, ta kẻ sạch trơn
Lòng ta ngu dốt, gió cồn mờ bay.
Đạo đức kinh của Lão Tử. Ông viêt khoảng 600 năm trước công nguyên dên nay 

Tác giả: duyprint

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

VănNhà thơ Triệu Lam Châu gửi nhà thơ Đỗ Hoàng (*)

Hơn một năm trước, tôi có đọc dịch thơ Việt ra thơ Việt của anh.đăng trên tạp chí Nầ văn thòi anh Nguyễn Trác làm Tổng biên tập

Thăm dò ý kiến

Bạn biết gì về NukeViet 4?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập10
  • Hôm nay1,540
  • Tháng hiện tại19,844
  • Tổng lượt truy cập37,268
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi