A D H 1

Nguyễn Quang Thiều , kỳ 5

  •   18/09/2025 15:03:00
  •   Đã xem: 7
  •   Phản hồi: 0
Ky 5: NGUYỄN QUANG THIỀU – TÀM VĂN HÓA QUÁ THẤP - KHÔNG ĐỦ TẦM LÀM CHỦ BÚT VĂN CHƯƠNG
Đỗ Hoàng
Có một số anh công an khi mặc săc phục, đi giày đinh, đeo tua dãi trông rât hùng dũng nhưng khi viết lách thể hiện quan điểm học thuật thì lộ rõ những lỗ hỏng vô hoc rất tai hại!
Nguyễn Quang Thiều là một anh như thế! So với những người cùng thế hệ, Nguyễn Quang Thiều được Công an cho học tiếng Anh ở Cu Ba - dù là người Mễ Tây Cơ dạy. Méo mó co hơn không. Bài viết của Thiều đầy rẫy Hán tự , phá vỡ cái đẹp của văn chương cha ông! Thiều qui tập một dàn “vô lối – thi tặc ( 27 ) tên làm hỏngthi ca tổ tiên!
Năm cái lời tựa đọc qua, bài nào cũng giọng điệu la lối, ôm đồm, sáo rỗng, ba voi không ngọt bát xáo, lại dùng nhiều Han tự xơ cứng cũ mèm!
Bạn đọc xem “Hãy ngước măt lên dũ chỉ một lần”.Đên nổi cái lời nói đầu một tập sách cũng không biêt viêt. Nói quàng, nói xiên!
“Trong thời hiện đại mà chúng ta đang sống, nổi hoài nghi lớn nhất luôn luôn thường trực trong tôi là hoài nghi về sự tồn tại niềm vui.Có chăng lừa mị chúng ta đã đượcnếm trải chín của niềm vui trong khi cuôc sống của chúng ta luôn luôn bất toàn. Chúng ta luôn kiếm tìm , kiếm tìm bằng cả trái tim chân thành nhất,để hưởng đươc niềm vui đươc sông trong cuộc đời này. Nhưng những gì chúng ta tìm thấy chỉ là lớp áo choàng (đôi khi đã thay ra) của niềm vui.. Và tất cả những gì mà chúng ta mơ hồ đạt tới niềm vui đang đầy đoa, lừa mị chúng ta nhiều nhất. Thực tế như vậy nguy hiểm vô cùng đối với ý thức sống của chúng ta. Chúng ta đang cố tạọ dựng nó , gọi tên nó và nhiều lúc cưỡng bức nó. Sự ảo tưởng về niềm vui đang rỗng chính tâm hồn của con người như một đàn mối rời bỏ chiếc tổ ấm áp của mình chỉ vì những cơn mưa tưởng tượng. Dường như những trân mưa niềm vui còn chưa đến. Trong ảo tưởng niềm vui, con người luôn luôn có nguy cơ hư hỏng nhiều hơn. Sự ngạo mạn và ngu ngôc thường đươcsinh ra trong trạng thái ấy. Đồng thời nỗi sợ hãi, nỗi cô đơn và khát vọng vượt qua nỗi sợ hãi, cô đơn ấy bị đánh mất. Khi con người rơi vào nỗi đau đớn tinh thần họng và tuyệt vọng về chính đời sống của mình, khi mà con người dứt hêt mọi sợi dây ràng buộc của thiên nhiên, của đời sống, khi ấycon người cần đến Cái Đẹp hơn mọi nhu cầu khác.” – “Hãy ngước mắt lên dù chỉ một lần”( Viêt&Đoc chuyên đề mùa đông 2023)
Một đoạn văn dài ông Thiều không nói gì đến “ngước mắt lên dù chỉ một lần”, ông đang ba hoa về hoài nghi niềm vui”. Cái gì cũng có thể hoài nghi, chứ thớ gì niềm vui! Nhất là niềm vui trong cái chú nghĩa xã hội không tưởng bời cái học thuyết không tưởng! Nhưng trong cái không tưởng ấy thì cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trên quê ông là có thật. hàng triệu người bần cố là có thật.Hàng triệu người thoát vọng nô lệ ngoại bang là có thật. Niềm vui của hàng triệu người bần cố là có thât! Niềm vui ấy được khẳng định chứ không phải hoài nghi! Ông Nguyễn Quang Thiều đã phản lại cha ông cúả ông, phản lại chủ thuyêt của j sự cứu rỗi.
Mãi gần hết bài ông Thiều mới nói;”Có ngườ hỏi tôi về người đàn bà trong bài thoe Cái Đẹp ở tập Sự mất ngủ của lửa có y nghĩa gì .Trong bài thơ ấy cảnh con bò kéo chiêc xe đá trên đường gió lạnh. Sau xe là người đần ông cúi mặt đẩy xe. Cả con bò và người đàn ông kia đã nguyền rủa con đường gió lanh và nguyền rủa nhau. Trong khi chỉ có người đàn bà ngồi trên thùng xa đã lấy khăn che bớt khuôn mặt đẹp của mình.Con người, con bò và chiêc đá nặng nề chính là thế giới của chúng ta. Thê giới ây luôn luôn có sự ngự trị của Cái Đẹp. Người đàn bà đẹp là sự ngự trị. ấy.Nếu con người kia ngước lên dù chỉ một làn thôi thì anh ta nhận ra cái Đẹp. Anh sẽ nhạn đươc sự cứu rỗi.” Kiều làm vô lôi – thi tăc của Nguyễn Quang Thiều để thế kỷ sau giải nghĩa mới rò ý tác giả (!). Cung như bài “Những người đàn bà gánh nướs sông” người ta hỏi đư cá thiêng vào có nghĩa gì? Thiều trả lời :”Đó là thời cơ may mắn”
Muốn làm triết học nhưng kiến thức lổ mổ, các khái niêm triết học mù mờ, diễn đạt lủng ca, lủng củng dẫn đên nhiều sai lầm nghiêm trọng tổn hại đên danh dự bàn thân, danh dự gia đình, cha ông, dòng tộc, đất nước, các tổ chức chinh đảng.
Với kiến thức lổ mổ, chắp vá, ít hoc Nguyễn Quang Thiều không nên làm chủ bút!
Đoạn văn đầy Tàu ô như : Hiện đai (現代),hoài nghi (難以置信),thường trưcj (永恆的) tồn tại (存在),bất toàn (不完善),chân thành nhất (最真誠地), tất cả (全部),đạt tời (抵達),đầy đọa (折磨),ma mị(幽靈般的), (thưctế (現實),lừa mị (欺騙), nguy hiểm (危險), vô cùng (極為),tưởng tượng (想像),x bưcchinh (主要的),cưỡng bức (被迫),ảo tưởng (錯覺),hư hỏng (損壞的), ngạo mạn (傲慢的),ngu ngôc (愚蠢的),
thiên nhiên (自然),đồng thời ( 同時地)….
Đ - H
Kỳ 6 :Thông điệp của những ngọn gió

Nguyễn Quang Thiều

  •   15/09/2025 14:41:00
  •   Đã xem: 7
  •   Phản hồi: 0
NGUYÊN QUANG THIỀU – TÀM VĂN HÓA QUẤ THÂP – HỌC HÀNH LỔ MỔ - KHÔNG NÊN LÀM CHỦ BÚT.(tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Mấy ông công an khi đeo dao găm, súng lục, giày đính, kiếm mác, tua dãi… trông rất hùng dũng;;nhưng khi viết lách thể hiện ý đồ, quan điểm thì lòi lổ hỏng kiên thức vô học rất trầm trọng! Nguyễn Quang Thiều là một người như thế!
Khác những người cùng thế hệ, Thiều dược Công an cho học tiếng Anh tận Cu Ba do Mễ Tây Cơ dạy. Méo mó có hơn không. Về nước làm công an ngoại tuyến (mật vụ). Thiều làm cái gọi là “thơ” – vô lối, được cài caì cắms vào văn nghệ, trở thành “nhà thơ” (thi tăc)! Thiều lamf gims đốc nhà xuất bản Hội nhà văn, có cấu Chủ tịch Hội Nhà văn. Thiều ra cái càng viêt càng sai, chuyên đề Viết & Đọc. Bằng hữu gọi là “tạp chí”! Thế là Thiều tha hồ tung tẩy viêtt mọi thứ. Càng viết càng sai, càng thể hiện cây gdường là cái xa mờỗ mục!
Xin trích dẫn bài”đít cua”, thông điệp “Chúng ta đi qua thiên đường với đôi mắt mù lòa’ in chuyên đề “Viết & Đọc mùa thu 2024”. Bài này co cùng hàng trăm bài như thế hiện tỏ rỏ lổ hỏng trong kiên thức văn chương của Thiều!
Thiên đường là nơi hạnh phúc đạt được trọn vẹn theo quan niệm của Công giáo, cũng như nó đã có hình thù chưa miền cực lac bên đạọ Phật.
"Thiên đường" (hea ven) là một khái niệm chỉ về một thế giới lý tưởng, hạnh phúc và viên mãn, thường được mô tả là nơi cư ngụ của các đấng tối cao, thần tiên, hoặc nơi an nghỉ cuối cùng của những linh hồn tốt đẹp sau khi qua đời. Ngoài ra, từ này còn có thể chỉ một Vườn địa đàng (nơi Adam và Eva cư ngụ).
Thiên đường là cái không có thực trong cuộc đời chỉ có thánh thần may mắn mới lên được. Người cộng sản lạc quan tếu nhất cũng mới nghĩ tới ” thiên đường cộng sản”. Nó đã có hình thù ra sao thi cũng chưa bết!.
Chỉ có ông hót hoc Tố Hữu Việt Nam bốc phét “miền Bắc thiên đường của các con tôi” chứ không phải thiên đường của nhân loại!!. Nay có ông cộng con Nguyễn Quang Thiều mới khẳng định có thật “thiên đường” “Chúng ta đi qua thiên đường vớ bằng đôi mắt mù lòa”! Thật diệu kỳ ‘thiên đường của Nguyễn Quang Thiều đã đi qua, dù di qua với đôi mắt dũ mù lóa!. Thiên đường đã có thật rồi.. Người cộng sản đâu phải vẽ hượu, vẽ vượn!” Ngườ主要的i người đế quốc biêt hay chăng/ Trai đát già nua, ta trẻ măng/ Trai đât ngươi ôm ôm chẳng nổi/ Trời kia ta với tới cung trăng” Vờ òa sung sướng chưa bà con công nông!
“Đã có lần tôi mơ thấy mình bay lơ lững trên cao (高) và nhìn xuống thê gian(.世界) Tôi chăc không chỉ minh tôi mơ như thế.. Và từ trên cao tôi nhìn thây chính (主要)tôi đang進行中)(cùng biêt bao người khác đang chen chuc trên những con đường trên mặt đát . Một cảnh tượng hổn lọạn (混亂)và thật tội nghiệp(職業) hiện ra (出現)trước măt tôi. Khi chúng ta thoát khỏi chúng ta để quay đầu lại nhìn chính (chúng ta, chúng ta mới thật kinh haĩ về những năm chúng ta đã sông và đang sống. Chẳng lẽ chúng ta những kẻ đươc quyền(正正確)cất giữ những giấc mơ đẹp , lại hiện ra thật tồi tệ và đày đọa (折磨) đến như thê kia.
Vì trong đám đông bât tận đang chen chúc , đang nguyền rủa nhau, đang mưu mô, đang độc ác, đang lầm lạc, đang tuyệt vọng, tôi thây dôi mắt đang ngước lên. Họ cầu xin và mơ ước đến Thiên đường(天堂) một ngày nào đó. Và trong những người ngước mắt lên mơ đến một Thiên đường đã có quá nhiều người gục xuống bởi tuyệt vọng vì chính điều họ mơ đên. Họ không đủ kiên nhẫn đợi chờ cái ngày họ được đến Thiên đường.. Họ guc gã trong bóng tôi của vô vọng (絕望)ở phía thẳm xa (邊緣c) húng ta, chỉ cách một lớp áo, một làn da và nói cho đúng hơn thì Thiên đường ở trong lòng bàn tay của chúng ta. Nhưng chúng ta đã không tin vì không nhìn thấy điều ấy….”
Ông Nguyễn Quang Thiều trên ông Mác, ông Ăng ghen, ông Lên nin… hàng triệu cái đầu. Chỉ mở lòng bàn tay Thiên đường đã có rồi. Không phải các ông vô sản đót cháy hêt núi non, thiêu trọi hàng trăm triệu mạng sống mà không thấy “Thiên đường”
Nguyễn Quang Thiều là thần tuyên truyền viên tuyên huấn bịp bợm, láo khoét, ngu độn đến Gơ ben (phát xit Đức) phải gọi bằng Cụ!
P/s: Bài viết ngăn đầy chất Tầu ô, lối câu văn nhan nhản!
Đ – H
Kỳ sau: Hãy ngước mắt lên dù chỉ một lần

Nguyễn Quang Thiều - tầm văn hóa thấp

  •   14/09/2025 09:20:00
  •   Đã xem: 13
  •   Phản hồi: 0
NGUYÊN QUANG THIỀU – HỌC HÀNH LỔ MỔ - TÀM VĂN HÓA QUẤ THÂP – KHÔNG NÊN LÀM CHỦ BÚT.Đỗ HoàngMấy ông công an khi đeo dao găm, súng lục, giày đính, kiếm mác, tua dãi trông rất hùng dũng;;nhưng khi viết lách thể hiện ý đồ, quan điểm thì lòi lổ hỏng kiên thức vô học rất trầm trọng! Nguyễn Quang Thiều là một người như thế! So với những người cùng thế hệ, Nguyễn Quang Thiều được Công ân cho học tiếng Anh dù là người Mễ Tây Cu Ba dạy. ‘Méo mó có hơn không” Nhưng phong văn hóa của Thiều rất lởm khởm. Thiều qui tập một dàn “vô lối – thi tặc ( 27 ) tên.phá nát thi ca tổ tiên! Thiều viêt:”Bạn phải luôn nghĩ rằng;”Ta sẽ lảm những điều mà trước ta chưa ai làm, ta sẽ làm sẽ làm ra những điều khều khác với những gì ta đã làm”. Đấy chinh là sự can đảm. Đấy chính là bản chât của sáng tạo.. Trong sáng tạo không bao giờ không bao giờ có khái niệm “đi theo’, “làm theo”. Sáng tạo thực sự luôn mang tinh thần độc lập, riêng biết và cô đơn.”Chúng ta kinh trọng và thậm chí tôn thờ Dante, Shakesre, Nguyễn Du như những vị thánh, nhưng đừng sợ hãi họ. Nếu các vỹ nhân làm ra những ngọn núi kỳ vỹ thì bạn hãy làm ra những viên sỏi.Những ngọn núi vỹ đại hơn những viên sỏi nhưng mỗi thứ đều mang vẻ đẹp riêng của mình. Đây chính là sự kỳ vỹ của đời sống và cũng là sự kỳ vỹ của nghệ thuật sáng tạo. Nếu Dante, Shakespere, Nguyễn Du hoàn thiện đên mức trở thành một bức trường thành mà bạn không tìm được lối đi thì sự vỹ đại của họ chính là sự tuyên cáo môt “cái chết” cho nghệ thuật. Nhưng kỳ lạ thay, khi ta nhìn thật sâu vào những tác phẩm vỹ đại của họ , ta lại thấy những cửa lớn rộng lớn đầy gợi mở, đầy cảm hứng và đầy khát khao mở ra cho ta. Đấy là những tác giả và những tác phẩm lớn.(Sáng tạo – Những bước chân của sự can đảm – Viêt &Đọc –chuyên đề mùa xuân năm 2024)Một đọan văn ngắn la lối, sáo rỗng, ba , xu đầy chất Tàu ô, nhiều sai lầm trong học thuật.Tàu ô; sự(事件) can đảm (勇敢) chinh sự(政治) , vị thánh ( 位 聖 ) sáng taọ( 創造), khái niệm (概念) , vỹ nhân (偉人) , kỳ vỹ (壯麗) , nghệ thuât (藝術) , trường thành (擴張) , hóan thiện , (完善) tuyên cáo (宣言), cảm hứng(靈感), khat khao (慾望), tác giả(作者), tác phảm (作品), kỳ lạ (奇怪的). Kiểu viêt của đứa rất kém Lê Quý Đôn nói: ‘người tài giỏi hơn hêt mọi người, mọi thời cũng không chối bỏ dời trước” Trong Tâm lý học sáng taọ, có hiện thực, tưởng tượng mới sáng tạọ.(Từ trưc quan sinh dộng đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thưc tiễn). Có cái đạp bánh gỗ mới cócái xe đạp bánh cao su., co se sim sơn mới có honda,Sh,có sam 1, mới có sam2…có chữ la tinh mới có cho Thiều làm vô lối, tắc tỵ…Với tầm nghĩ quá ngắn như vậy nên Thiều đưa Vi Thùy Linh lên tầm “sư hào” in 7 bài thơ trong Viết & Đocxin trích”số Chuyên dề mùa xuân năm 2024”j tiễn)“Rút ngắn nhất về mình.ViLi là người hiếu triKhông ngừng học học và say mê nghệ thuậtNghệ thuât là nghịp thường hăngY nghĩ và liên tưởngKhi giặt, phơi, gấp đỗKhi tăm đêm để được đăm trong nước lâu hơn khi con ngủKhi đọc sach nghĩ về quyền lưc 24 chữ.Tứng ký tự ghép nhau, tách – nốiĐôc thúc tôi….”Nâng thơ Thi Hoàng lên tầm “Sư Đậu Phụ” của Thiều“Dây phơi nhà ai, chiếc nịt vu thơm lừng , nhìn đã thấy no nê” Lão già 83 tuổi (sinh 1943)Mà mới thấy nịt vú con gái phơi nhà hàng xóm cường dương như thanh niên trẻ khỏe. Bài in trên báo Văn nghệ năm 2923!(còn nữafKỳ sau: “Chúng ta đi qua thiên đường vơi đôi măt mù lòa”

50 nhfvawn Trung Quốc

  •   11/08/2025 14:41:00
  •   Đã xem: 34
  •   Phản hồi: 0
op 50 Nhà văn Trung Quốc Hiện đại và Đương đại!
Số 50 Trương Vĩ
Trương Vĩ, sinh tháng 11 năm 1956, quê ở Long Khẩu, tỉnh Sơn Đông. Ông là một nhà văn đương đại nổi tiếng và hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn Sơn Đông. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Thuyền Cổ", "Truyện ngụ ngôn tháng Chín" và "Cao nguyên".
Số 49 Thiết Ninh
Thiết Ninh, sinh năm 1957, là một nhà văn đương đại và hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc và Hội Nhà văn Hà Bắc. Các tác phẩm chính của bà bao gồm "Cổng Hoa Hồng", "Thành phố không mưa", "Người tắm sông", "Đống rơm", "Ôi, Hương Tuyết" và "Phụ nữ mang thai và bò". Tập tiểu luận "Đêm Trắng Của Phụ Nữ" của bà đã giành Giải thưởng Văn học Lỗ Tấn đầu tiên tại Trung Quốc, và truyện ngắn "Mãi Mãi Xa Cách" của bà đã giành Giải thưởng Văn học Lỗ Tấn lần thứ hai.
Số 48 Tam Mao
Tam Mao, tên thật là Trần Mậu Bình, sinh ra tại Chu Sơn, tỉnh Chiết Giang, từ năm 1943 đến năm 1991. Bà đã viết hơn mười tập tiểu luận và tiểu thuyết, bao gồm "Chuyện Từ Sa Mạc", "Con Lạc Đà Khóc", "Mùa Mưa Sẽ Không Bao Giờ Trở Lại", "Đêm Dịu Nhẹ", "Mơ Bao Nhiêu Hoa Rơi", "Nhìn Từ Phía Sau" và "Em Yêu". Văn xuôi của Tam Mao khai thác nhiều chủ đề, nhiều trong số đó thấm đẫm những cảm xúc kỳ lạ. Văn phong của bà giản dị, lãng mạn và quyến rũ một cách độc đáo, thể hiện tình yêu của bà đối với nhân loại, cuộc sống, tự do và thiên nhiên.
Số 47 Trương Kiệt
Trương Kiệt, sinh năm 1937 tại Bắc Kinh, là nhà văn hạng nhất toàn quốc, một nhà văn có những đóng góp đặc biệt được Quốc vụ viện ghi nhận, hội viên Hội Nhà văn Trung Quốc và Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Bắc Kinh. Các tác phẩm của Trương Kiệt, tập trung vào chủ đề "nhân văn" và "tình yêu", thường gây tranh cãi trong giới văn chương. Bà không ngừng mở rộng biểu đạt nghệ thuật, khai thác tâm hồn con người với cảm xúc mãnh liệt, thể hiện những tác phẩm tinh tế, sâu sắc và tao nhã. Tiểu thuyết "Cánh Nặng" của bà đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ hai. Tiểu thuyết "Vô Ngôn" của ông đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ sáu. Ông là nhà văn duy nhất giành được hai Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn.
Số 46 A Thành
A Thành, sinh năm 1949 tại Bắc Kinh, tên thật là Chung A Thành. Tác phẩm tiêu biểu của ông là "Vua Cờ" và ông đã viết kịch bản cho "Phù Dung Trấn". Ông là một đại diện tiêu biểu của dòng tiểu thuyết đương đại tìm về cội nguồn, với những tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa truyền thống Trung Hoa.
Số 45 Hàn Thiếu Cung
Hàn Thiếu Cung, được biết đến với các bút danh như Thiếu Cung và Người Lái đò, quê ở Trường Sa, Hồ Nam. Ông là một nhân vật chủ chốt trong việc thúc đẩy "văn học tìm gốc" vào năm 1985, xuất bản "Văn học cội nguồn" và đề xuất khẩu hiệu "tìm gốc". Các tác phẩm đáng chú ý nhất của ông bao gồm "Bố Bố" và "Mã Kiều Từ điển", thể hiện xu hướng khai thác sức mạnh từ chiều sâu của lịch sử và văn hóa dân tộc, thấm đẫm những hàm ý triết học sâu sắc, và có tác động đáng kể đến giới văn học.
Số 44 Lưu Chấn Vân
Lưu Chấn Vân sinh tháng 5 năm 1958 tại huyện Diên Tân, tỉnh Hà Nam. "Một câu đáng giá vạn câu" đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ 8. Phong cách tự sự của tiểu thuyết gợi nhớ đến những cuốn nhật ký hoang dã của triều đại nhà Minh và nhà Thanh, với ngôn từ súc tích và sự hài hước sống động. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Một Đống Lông Vũ", "Tên Tôi Là Lưu Dược Tiến" và "Một Câu Nói Đáng Giá Ngàn Người".
Vị trí thứ 43: Vương Thước
Vương Thước, một nhà văn và biên kịch nổi tiếng, bắt đầu viết văn vào năm 1978 và đã xuất bản các tiểu thuyết như "Chơi Cho Cảm Giác Mạnh", "Chết Sau Cơn Nghiện", "Những Loài Thú Dữ" và "Trông Đẹp". Những tiểu thuyết và thơ đầu tay của ông dựa trên trải nghiệm lớn lên trong doanh trại quân đội. Những tiểu thuyết sau này của ông phát triển một phong cách độc đáo, đặc trưng bởi những lời thoại dễ hiểu nhưng sống động và lối kể chuyện dí dỏm, châm biếm, chế giễu lối diễn ngôn độc đoán và lập trường tinh hoa của giới trí thức. Sau đó, ông bước vào lĩnh vực điện ảnh và truyền hình, đạt được thành công với loạt phim truyền hình "Khát Vọng" và "Chuyện Ban Biên Tập".
Giải 42: Trương Thành Chí
Trương Thành Chí sinh năm 1948 tại Bắc Kinh. Ông đã giành Giải thưởng Truyện ngắn Quốc gia lần thứ Nhất, Giải thưởng Tiểu thuyết Xuất sắc Quốc gia lần thứ Hai và thứ Ba, và Giải thưởng Sáng tác Văn học Dân tộc thiểu số Quốc gia. Ông đã xuất bản hơn 30 cuốn sách. Trong những năm 1980 và 1990, ông được biết đến với "khí chất duy tâm". Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm các tập truyện ngắn "Hắc Mã" và "Bắc Giang" và tiểu thuyết "Đồng Cỏ Vàng". Trương Thành Chí sở hữu một phong cách thẩm mỹ độc lập, phóng khoáng, trang nghiêm, sâu sắc, lạnh lùng và nồng nàn.
Giải 41: Thư Đình
Thư Đình, tên thật là Cung Bội Ngọc, sinh năm 1952. Quê bà ở Tuyền Châu, Phúc Kiến. Bà là một nữ thi sĩ đương đại và là đại diện của trường phái Thơ Mộng. "Đến Cây Sồi" là một tác phẩm tiêu biểu của trường phái Thơ Mộng, và bà ngang hàng với Bối Dao và Cố Thành. Tuy nhiên, trên thực tế, thơ bà gần gũi hơn với những nhà thơ sâu sắc và truyền thống hơn của thế hệ trước. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Chiếc thuyền buồm", "Hoa diên vĩ biết hát" và "Hoa thủy tổ".
Số 40: Cổ Thành
Cổ Thành, một nhân vật hàng đầu của Thơ Mộng, được biết đến như một nhà thơ lãng mạn theo chủ nghĩa duy linh đương đại. Những bài thơ đầu tay của ông mang phong cách ngây thơ, trẻ thơ và tâm trạng mơ mộng, sử dụng ngôn ngữ trực giác và ấn tượng để ca ngợi cuộc sống tuổi trẻ như trong truyện cổ tích. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Một thế hệ", "Mắt đen", "Anh Tử" và "Trăng ban ngày".
Số 39: Đinh Linh
Đinh Linh (tháng 10 năm 1904 - tháng 3 năm 1986) quê ở Lâm Lý, tỉnh Hồ Nam. Bà là một nhà văn và nhà hoạt động xã hội đương đại nổi tiếng của Trung Quốc. "Nhật ký của Tiểu thư Sophia" và "Mặt trời chiếu trên sông Tang Can" là những tác phẩm tiêu biểu của bà, và bà đã được trao Giải thưởng Stalin về Văn học và Nghệ thuật.
Số 38: Mục Đan
Mục Đan (1918-1977), tên thật là Tra Lương Chính, là một nhà thơ yêu nước và dịch giả nổi tiếng. Từ những năm 1980, nhiều chuyên gia văn học hiện đại đã coi ông là nhân vật hàng đầu của thơ ca hiện đại. Mục Đan đã kết hợp chủ nghĩa hiện đại Tây Âu với thơ ca truyền thống Trung Quốc, tạo nên một phong cách giàu tính biểu tượng và suy tư tâm linh. Ông là một nhà thơ tiêu biểu của "Trường phái thơ Cửu Diệp". Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Cuộc viễn chinh", "Tuyển tập thơ Mục Đan" và "Lá cờ".
Số 37 Bính Tân
Bính Tân, tên thật là Tạ Uyển Anh, là một nhà thơ, nhà văn, dịch giả và nhà văn thiếu nhi nổi tiếng. Bà từng là Chủ tịch Danh dự của Ủy ban Trung ương Liên đoàn Dân chủ Trung Quốc, Phó Chủ tịch Liên đoàn Văn học Nghệ thuật Trung Quốc, và Chủ tịch Danh dự kiêm Cố vấn của Hội Nhà văn Trung Quốc. Cuộc đời của Bính Tân gắn liền với những biến động của thế kỷ, và bà đã miệt mài sáng tác trong suốt bảy mươi lăm năm. Bà là một trong những người sáng lập Phong trào Văn học Mới. Bà là người tiên phong cho nhiều phong cách văn học được gọi là "Phong cách Băng Tâm" và có những đóng góp to lớn trong việc hiện đại hóa văn học. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Những vì sao", "Nước suối" và "Thư gửi độc giả trẻ".
Số 36: Tô Đồng
Tô Đồng, quê ở Tô Châu, tỉnh Giang Tô, là nhà văn chuyên nghiệp thường trú tại Chi hội Nhà văn Trung Quốc tại Giang Tô. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Hồng phấn", "Vợ chồng phi tần", "Bờ sông", "Lúa gạo", "Sự nghiệp triều đình" và "Chim hoàng yến". Truyện ngắn "Vợ chồng phi tần" của ông đã được chuyển thể thành phim "Đèn lồng đỏ treo cao" của Trương Nghệ Mưu, đạt được nhiều thành công cả trong nước lẫn quốc tế. Tiểu thuyết "Chim sẻ vàng" của ông đã giành được Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ 9.
Giải 35: Trương Hành Thủy
Trương Hành Thủy, 1895-1967, là một nhà văn nổi tiếng của thể loại tiểu thuyết chương hồi và là đại diện của trường phái Vịt trời và Bướm. Ông được tôn sùng là "bậc thầy của tiểu thuyết chương hồi" và là "bậc thầy văn học đại chúng" đầu tiên trong lịch sử văn học hiện đại. Các tác phẩm của ông có cốt truyện phức tạp và bố cục chặt chẽ, có cấu trúc tốt, kết hợp giữa tiểu thuyết chương hồi truyền thống của Trung Quốc với kỹ thuật mới của tiểu thuyết phương Tây. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Thời đại hoàng kim", "Nước mắt và tiếng cười" và "Xuân thu thời nhà Minh".
Giải 34: Trần Trung Thực
Trần Trung Thực là một nhà văn đương đại nổi tiếng của Trung Quốc và là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc. "Bạch Lộc Nguyên" là tác phẩm tiêu biểu của ông. Năm 1997, "Bạch Lộc Nguyên" đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ tư.
Giải 33: Quách Mạt Nhược
Quách Mạt Nhược, 1892-1978, quê ở Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, là một nhà văn, nhà viết kịch, nhà thơ, sử gia và nhà cổ tự học nổi tiếng. Ông là người sáng lập ra thơ ca hiện đại Trung Quốc. Tập thơ tiêu biểu của ông, "Nữ thần", đã thoát khỏi những ràng buộc của thơ ca truyền thống Trung Quốc, phản ánh trọn vẹn tinh thần của Phong trào Ngũ Tứ. Nó đã tiên phong cho một thế hệ phong cách thơ mới trong lịch sử văn học Trung Quốc và là đại diện tiêu biểu của thơ ca lãng mạn đương đại. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Nữ thần" và "Tôi là Thiên khuyển".
Giải 32: Lương Sĩ Khâu
Lương Sĩ Khâu, tháng 1 năm 1903 - tháng 11 năm 1987, sinh ra tại Bắc Kinh. Ông là một nhà tiểu luận, học giả, nhà phê bình văn học và dịch giả nổi tiếng của Trung Quốc, và là chuyên gia đầu tiên của Trung Quốc về Shakespeare. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm "Tiểu luận từ Yashe".
Giải 31: Triệu Thụ Lý
Triệu Thụ Lý, 1906-1970, quê ở huyện Tần Thủy, tỉnh Sơn Tây, là một tiểu thuyết gia hiện đại và Nghệ sĩ Nhân dân nổi tiếng. Tiểu thuyết của ông thường lấy bối cảnh nông thôn miền Bắc Trung Quốc, phản ánh những thay đổi trong xã hội nông thôn, những xung đột và đấu tranh nội bộ, đồng thời khắc họa nhiều nhân vật nông thôn đa dạng. Ông là người sáng lập "Trường phái Sơn Diệu Đan". Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Tiểu Nhị Hắc Kết Hôn" và "Tam Lý Loan".
Số 30: Lâm Ngữ Đường
Lâm Ngữ Đường là một trong những cộng tác viên chính của "Yusi" (Những Sợi Tơ Lụa) từ năm 1895 đến năm 1976. Năm 1932, ông biên tập tạp chí "Luận Ngữ" xuất bản nửa kỳ. Năm 1935, ông thành lập "Yuzhou Feng", chuyên viết về tự sự với phong cách thư thái, trở thành một nhân vật chủ chốt của "Luận Ngữ phái". Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Khoảnh Khắc Bắc Kinh", "Gió và Hạc", và "Đất Nước và Nhân Dân".
Số 29: Văn Nhất Đa (Wen Yiduo)
Văn Nhất Đa (11/1899 - 7/1946) là một nhà yêu nước vĩ đại của Trung Quốc hiện đại, một chiến sĩ dân chủ kiên cường, một trong những lãnh tụ đầu tiên của Đồng Minh Dân Chủ Trung Quốc, một nhà thơ, một học giả và một chiến sĩ dân chủ. Ông là một nhà thơ tiêu biểu của trường phái Trăng Lưỡi Liềm. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm "Ngọn nến đỏ" và "Nước chết".
Số 28: Lục Dao
Lục Dao (1949-1992) là một nhà văn Trung Quốc đương đại. Sinh ra trong một gia đình nông dân nhiều thế hệ ở miền bắc Thiểm Tây, kiệt tác "Thế giới bình thường" của ông, với sự hùng tráng và chất sử thi, mang đến một cái nhìn toàn cảnh về những thay đổi sâu sắc trong đời sống xã hội, tư tưởng và cảm xúc của người dân ở thành thị và nông thôn Trung Quốc thời kỳ cải cách. Tác phẩm đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ ba.
Số 27: Tiểu Hồng
Tiểu Hồng là một nữ nhà văn Trung Quốc hiện đại nổi tiếng. Các tác phẩm tiêu biểu của bà bao gồm "Cánh đồng sinh tử", "Cuộc sống cô độc", "Hạt cát", "Mã Bá Lạc" và "Hồ Lan truyện". Trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc hiện đại, những tác phẩm như "Cánh đồng sinh tử" và "Hồ Lan truyện" đã nuôi dưỡng và tạo nên một phong cách văn học độc đáo mang phong cách Tiêu Hồng - phong cách văn xuôi của tiểu thuyết Trung Quốc hiện đại. Ý nghĩa của nó nằm ở việc "thu hẹp khoảng cách giữa văn học hiện đại và văn học truyền thống về mặt ý thức thẩm mỹ".
Số 26: Bạch Hiền Dũng
Bạch Hiền Dũng, sinh tháng 7 năm 1937, là một nhà văn đương đại nổi tiếng của Đài Loan. Ông là con trai của Bạch Sùng Hy, một vị tướng cấp cao của Quốc Dân Đảng. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Người Đài Bắc", "Mộng trong vườn" và "Người New York".
Số 25: Dư Quang Trung
Dư Quang Trung sinh tháng 10 năm 1928 tại Nam Kinh. Năm 1953, ông đồng sáng lập Hội Thơ "Ngôi sao xanh" cùng với Tần Tử Hào, Chung Định Văn và những người khác. Ngôn ngữ văn chương của Dư Quang Trung phức tạp và luôn biến đổi, nỗ lực rèn luyện một loại thuốc tiên "trong lò lửa chữ Hán". Về mặt thơ ca, Dư Quang Trung được coi là một "người đa thê trong nghệ thuật". Phong cách của ông rất đa dạng: những bài thơ thể hiện khát vọng và lý tưởng thường hùng tráng và vang dội, trong khi những bài thơ khắc họa nỗi nhớ nhà và tình yêu thường tinh tế và êm dịu. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Nỗi nhớ nhà", "Lông vũ xanh", "Chợ đêm trên thiên đường" và "Bạch ngọc khổ qua".
Số 24: Ai Thanh
Ai Thanh, quê ở Kim Hoa, tỉnh Chiết Giang, là một nhà thơ hiện đại Trung Quốc. Ông được coi là một trong những nhân vật hàng đầu của thơ ca Trung Quốc hiện đại. Các tác phẩm chính của ông bao gồm "Đại Anh Hà - Bà vú của tôi", "Bài ca trở về" và "Hóa thạch cá". Trước giải phóng, Ai Thanh đã sử dụng lối viết sâu sắc, nồng nhiệt và phóng khoáng để nguyền rủa bóng tối và ca ngợi ánh sáng. Sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ông ca ngợi nhân dân, ca ngợi ánh sáng và suy ngẫm về cuộc sống. Ai Thanh nổi tiếng với những bài hát mang đậm tính nghệ thuật cá nhân, thể hiện thẩm mỹ thơ ca của ông về "sự giản dị, thuần khiết, tập trung và sáng suốt".
Số 23 Vương Mạnh
Vương Mạnh, quê ở Nam Bì, tỉnh Hà Bắc, sinh tháng 10 năm 1934. Ông là một nhà văn và học giả đương đại Trung Quốc. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm "Tuổi trẻ muôn năm" và "Sự chuyển hóa của một con người đang sống". Các tác phẩm của ông phản ánh hành trình gian nan của người dân Trung Quốc trên con đường tiến lên. Tinh thần lạc quan và nhiệt huyết đã đưa ông trở thành một trong những nhà văn sung mãn và sáng tạo nhất trong văn học đương đại. Năm 2015, tiểu thuyết "Phong cảnh nơi đây" của ông đã giành được Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ chín.
Số 22 Tôn Lý
Tôn Lý, tên thật là Tôn Thục Huân, là người sáng lập "Trường phái Liên Trì". Trước khi được giải phóng, ông đã vẽ nên những bức chân dung văn học chj Hội nhà văn Tứ Xuyên. Khi 41 tuôi, ông giành giải thưởng Mo Thuunng, tỉnh Tứ Xuyên. Ông là một nhà văn đương đại nổi tiếng và là Chủ tịch Hội Nhà văn Tứ Xuyên. Năm 2000, khi mới 41 tuổi, Alai đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ năm cho tiểu thuyết "Bụi lắng", trở thành người chiến thắng Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn.
(còn nữa)
Dỗ Hoàng theo Tân Hoa Xã
Nhà văn Mặc Ngôn

Dao đức kinh (tiếp)

  •   11/08/2025 14:37:00
  •   Đã xem: 26
  •   Phản hồi: 0
CHƯƠNG 10
NĂNG VI
能 為
Hán văn:
載 營 魄 抱 一 能 無 離 乎? 專 氣 致 柔, 能 如 嬰 兒 乎? 滌 除 玄 覽, 能 無 疵 乎? 愛 民 治 國, 能 無 為 乎? 天 門 開 闔, 能 無 雌 乎? 明 白 四 達, 能 無 知 乎? 生 而 畜 之, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 長 而 不 宰, 是 謂 玄 德.
Phiên âm:
1. Tải doanh phách bão nhất năng vô ly hồ?
2. Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ?
3. Dịch trừ huyền lãm, năng vô tì hồ?
4. Ái dân trị quốc năng vô vi hồ?
5. Thiên môn khai hạp, năng vô thư hồ?
6. Minh bạch tứ đạt năng vô tri hồ?
7. Sinh nhi súc chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng chi bất tể, thị vị huyền đức.
Dịch nghĩa:
Năng vi (Làm được không?)
1. Có thể đem hồn phách ôm ấp lấy Đạo, không lìa xa chăng?
2. Có thể giữ cho nguyên khí không tán loạn, giữ vẹn thiên chân, hoàn toàn theo được đạo Trời, (định luật trời đất) như anh nhi chăng?
3. Có thể tẩy trừ được (trần cấu), giữ được cho gương lòng trong sáng không tì vết chăng?
4. Có thể yêu dân trị nước, mà vẫn vô vi chăng?
5. Cơ trời mở đóng, có thể thuận ứng như con mái chă
6. Có thể sáng suốt mà như người vô tri chăng?
7. Sinh dưỡng vạn vật; sống mà vẫn như không có; làm mà không cậy công; khiến cho lớn mà không đòi làm chủ, thế là đức sâu xa vậy.
Đỗ Hoàng dịch thơ
Vẫn giữ nguyên của ta, nguyên khi
Trấu rơm mài hêt bỉ gương thần
Vô vi trị nước yêu dân
Cơ trời thuận ứng muôn phân như không
Sáng suốt mà nghiệp mà lòng gây dựng
Dưỡng sinh tương ứng vĩnh hằng.
Tài dưỡng sinh ánh như băng
Khiêm cung công đức.sánh bằng cao xa

Phùng Ngọc Hoài

  •   10/08/2025 19:14:00
  •   Đã xem: 19
  •   Phản hồi: 0
Phùng Ngọc Hùng:
chuyện làng văn
Bàn về thơ
SỰ MẤT NGỦ CỦA LỬA
của Nguyễn Quang Thiều.
DẪN CHUYỆN
Khoảng năm 92-93 một anh bạn học nói với mỗ rằng có tập thơ Sự Mất Ngủ Của Lửa của Nguyễn Quang Thiều khá hay. Sau đó anh ấy viết 1 bài công phu đề cao tập thơ đăng TẠP CHÍ VĂN HỌC uy tín...
Biết rằng anh bạn rất hứng thú nhiệt tình quảng bá cái mới và lạ trong phong trào không khí "VH cởi trói" lúc này đang ở trên đỉnh trào lưu. Mỗ đi theo hướng cổ văn, ngoại văn nên không đồng cảm lắm với anh bạn. Vậy là cây bút Nguyễn Quang Thiều gia nhập làng văn có lẽ theo ảnh hưởng cuốn hút của cao trào. Về sau mỗ nói nửa đùa nửa thật với anh bạn rằng cậu có công chế tạo một nhà thơ.
Về sau mỗ đọc tập thơ đó thì cảm thấy thất vọng. Chỉ thấy từ ngữ lởm khởm bụi bặm lập dị. Câu cú lủng củng chẳng có thi vị gì. Có vẻ Thiều làm thơ kiểu dân túy cho hợp trend thời đại "đổi mới".
Bỗng nhiên gặp cây bút phê bình Đỗ Hoàng phê bình thưởng thức tập "Sự mất ngủ của lửa" với tựa đề:
“Vô lối Nguyễn Quang Thiều". Lược ý như sau:
Khi tập “Sự mất ngủ của lửa” được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng, ngay năm 1993, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết “Nguyễn Quang Thiều tự "dịch thơ" mình ra tiếng Việt” và phong cho ông là nhà “Khóc học”. Tôi nghĩ anh Hảo nói rất đúng mà chưa hết. Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt.
Đọc thử bài
"CÂU HỎI CUỐI NGÀY"
của Nguyễn Quang Thiều:
“Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày
Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên
Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu.
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào ?
Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quần áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia.
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào ?"
Quán Sứ - Hà Đông, 1991
ĐỖ HOÀNG BÌNH GIẢNG
Câu mở đầu không có gì gọi là câu thơ. Một câu nói đơn sơ như các ông, các bà quét rác ở các công ty Vệ sinh môi trường, sau ngày làm mệt nhọc vẫn thường nói. Mà nói hay hơn, thơ hơn:
“Ngày dài mưa nắng trên đường
Mong về có đọi cơm thương ở nhà”.
Tiếp theo 5 câu có tới 31 từ mà là 5 câu rất vô nghĩa, vô bổ không nói lên được điều gì:
“Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên”.
Tiếp đến 6 câu sau là những câu có ý nghĩ dục tính bậy bạ, ý nghĩ khiên cưỡng mang tính kích dâm cao:
“Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào ?”.
Những người con gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua có sao đâu. Họ làm đẹp cho phố phường đường làng có cuộc đời khởi sắc mà ông bà váy cồng lộn ngược, mò cua bắt ốc không có đôi dép mo cau mà đi thì sao? Tại sao lại nói “Như dao sắc phất vào tôi tứa máu”? Người ta cưỡi xe máy, một nét đẹp của con gái Việt Nam thời đổi mới nghìn đời mới có, sao mình lại có cái nhìn thù hận như vậy?
Đúng là điên rồ!
Ca dao nói:
“Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc áo hở lườn mới xinh!”
Bây giờ người đẹp mới mặc váy cưỡi xe máy phóng qua mà mình đã hồng hộc sôi máu lên như đỉa phải vôi? Anh lại còn “nấc“ lên như bị nghẹn. Việc chi mà anh ghen tức lồng lộn với cái đẹp như thế? Cái đẹp của thời đổi mới nước ta có gì phương hại đến thẫm mỹ, đến thuần phong mỹ tục đâu?
Người đẹp mặc thế là quá kín đáo, bây giờ họ còn mặc quần đùi lên tận bẹn cỡi xe máy nữa đấy. Chỉ những đám vua quan dâm dục vô độ mới căm thù cái đẹp:
“Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng”
(Ca dao)
Chưa hết, anh còn viết ra cái ảo tưởng rất bậy bạ, của đám cái bang, vô lương tri:
“Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào“.
Rằng anh làm sao lấy họ được. Anh Vua chúa sao mà lấy họ dễ dàng như thế. thứ gì anh thấy người đẹp mặc váy cưỡi xe máy đi trên phố thoáng qua mà đã đòi làm tình!
Tiếp đến là đoạn kể cảnh Hà Nội thời miền Bắc hòa bình mới lập lại tả cảnh các bà, các cô buôn vịt, buôn cá khô, buôn nước mắm đi trên tàu điện:
“Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quần áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia”.
Rồi anh lại lần nữa nổi máu Sở Khanh không phải lối:
“Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào”.
Thật là một ý nghĩ tà dâm rất bậy bạ!
Đến như Nguyễn Du chỉ mới nói, dù tên Mã Giám Sinh vô cùng mất dạy, bất lương, không còn luân thường đạo lý:
“Một cơn mưa gió nặng nề/Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến duyên”
Đó là đã có ba trăm lạng vàng nhé. Còn anh bô xu dính tíu sao anh có ý nghĩ hoang dâm vô độ ấy.
Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt. Tập “Sự mất ngủ của lửa” đầy hàng chục chữ khóc, riêng bài này đã hơn bốn chữ gần khóc: tôi nấc lên, tôi sặc khói, tôi sẽ ngủ, tôi nhói lên…
Người ta chẳng hiểu cơn cớ gì anh nấc, sặc, nhói, ngủ… ?
Hội Nhà Văn Việt Việt Nam thời ấy (1993) tặng giải thưởng cho Nguyễn Quang Thiều là có tội với văn chương nước Việt!
Hà Nội 14.12.2017
ĐỖ HOÀNG
(*) Trích trong “Sự mất ngủ của lửa” – NXB Lao động 1992
(còn tiếp)
Chú thích ảnh
Bìa thơ Nguyễn Quang Thiều 1992.

Thơ Vô ô đề

  •   09/08/2025 15:12:00
  •   Đã xem: 17
  •   Phản hồi: 0
Vô đề
Vỹ nhân công sưc còn lại
Càn khôn muôn thế rộng dài
Hòn đá bên đường thành bại
Mỉm cười tay trắng tài trai!
Đỗ Hoàng

Tào Tùng

  •   06/08/2025 09:47:00
  •   Đã xem: 17
  •   Phản hồi: 0
Kỷ Hợi tuế nghĩa là năm Kỷ Hợi. Năm Kỷ Hợi nói trong bài thơ của Tào Tùng là năm dương lịch 879, thời vua Hy Tông nhà Đường. Lúc nầy nhà Đường bên Tàu xảy ra loạn Hoàng Sào. Còn ở Việt Nam, theo Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ thì đây cũng là thời điểm mà Hào trưởng vùng Chu Diên (Hải Dương bây giờ) là Khúc Thừa Dụ, ông đã cùng dân chúng nổi dậy, chiếm giữ thành Đại La, thủ phủ của Tỉnh Hải Quận (tên gọi đất Việt thời Đường Hy Tông). Năm 880 Khúc Thừa Dụ tự xưng làm Tiết độ sứ Tỉnh Hải Quận, đặt nền móng cho việc kết thúc ngàn năm Bắc thuộc, thoát khỏi ách đô hộ của Trung Hoa.

Tào Tùng 曹松 người An Huy nhà Đường. Bài thơ Kỷ Hợi Tuế của ông như sau :

己亥歲(僖宗廣明元年)

澤國江山入戰圖,
生民何計樂樵蘇。
憑君莫話封侯事,
一將功成萬骨枯。


KỶ HỢI TUẾ
(Hy Tông - Quảng Minh nguyên niên)

Trạch quốc giang sơn nhập chiến đồ
Sinh dân hà kế lạc tiều tô
Bằng quân mạc thoại phong hầu sự
Nhất tướng công thành vạn cốt khô

Do bài thơ được viết vào năm Quảng Minh nguyên niên (năm 880), nên có một vài từ mang ngữ nghĩa cổ :

- “Trạch quốc” nghĩa là Vùng sông nước. Ngày xưa gọi, chỉ vùng đất Giang Nam (phía Nam sông Trường giang).

- “Tiều tô” nghĩa là Mót củi, Cắt cỏ. Theo liệt truyện Hoài Âm Hầu trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, có câu Tiều tô hậu thoán, sư bất túc bão (Mót củi cắt cỏ mà nấu ăn, quân lính không đủ no).

Tạm dịch nghĩa bài thơ :

NĂM KỶ HỢI
(Hy Tông, niên hiệu Quảng Minh năm thứ nhất)

Non nước Giang Nam đã rơi vào chiến loạn
Kế sinh nhai của dân đâu còn cảnh vui thú nhặt củi hái rau
Xin đừng nói chi chuyện phong hầu, thăng quan tiến chức
Một tướng được đề danh, trong khi đó ngoài chiến trường phơi vạn ngàn xương trắng

Nhà Đường bên Tàu do Đường Cao Tổ - Lý Uyên kiến lập vào năm 618. Đến năm 907 thì chấm dứt triều đại, khi mà các thế lực địa phương nhân loạn lạc đã không tuân phục triều đình, đã cát cứ địa phương mình, hình thành nên giai đoạn 5 triều đại, 10 nước (Ngũ đại Thập quốc) từ năm 907 đến 979 trong sử Trung Hoa.

Nhà Đường là triều đại cực thịnh về mọi mặt, nhưng cũng là triều đại hết đem binh tảo Bắc, chinh Đông, rồi lại chinh Tây. Loạn lạc trong nước cũng luôn xảy ra. Đời Đường Huyền Tông xảy ra loạn An Lộc Sơn, kéo dài từ năm 755 đến 763. Chiến trận ác liệt đã khiến vua cũng phải rời kinh đô, đem Dương Quý Phi chạy vào đất Thục lánh nạn. Người dân sống giữa binh đao, đầy cơ cực. Trong khi đó quyền thần, ngoại thích như Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung… đấu đá nhau, tạo nên các phe phái trong triều chỉ nhằm giành giật tư lợi, quyền lực, cầm quyền mà không vì quốc thái dân an. Thành thử người dân hiếm được có thời gian an lành, ngơi nghỉ. Ước mơ vui sống chỉ bằng việc mót củi, hái rau của họ thật nhỏ nhoi, nhưng cũng quả thật là to lớn.

Năm 875, trước áp chế của triều đình giành độc quyền bán muối, thương nhân bán muối người Sơn Đông là Hoàng Sào đã tập hợp người dân nổi dậy, thực hiện khí chất vốn có của ông :

Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng
Nhất trạo giang hồ tận địa duy

Nửa vai cung kiếm tung hoành trời đất / Một mái chèo đi khắp cả sông hồ. Cụ Nguyễn Du của ta đã mượn tứ nầy mà thảo nên câu thơ “Giang hồ quen thói vẫy vùng / Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” trong truyện Kiều.

Năm 879, binh Hoàng Sào tiến công Quảng Châu. Đây là bối cảnh ra đời bài thơ Kỷ Hợi Tuế của Tào Tùng.

Bài thơ đã nói lên mơ ước sống yên lành, nhỏ nhoi của người dân trong xã hội vốn đã cơ cực. Nhưng người dân cũng đã nhận chân ra khi lâm cảnh binh đao, họ là người trước tiên đứng trước đầu đạn mũi tên. Chiến đấu cho thế lực nào, đứng về phía triều đình, hay đứng về phía quân nổi dậy, họ cũng chỉ là người phải đụt pháo, xông tên. Đã từng quen với loạn lạc, binh đao, họ rõ rằng thế lực nào khi kết thúc cuộc chiến đều cũng chăm chăm những việc lo cho tư lợi, quyền lực của họ. “Bằng quân mạc thoại phong hầu sự”. Đã hiểu được thân phận của dân đen, của những kẻ khốn cùng, đã thấu hiểu sự đời, xin đừng nói là chiến đấu, lăn xả trước hàng quân để hòng được thăng quan tiến chức, nhận tước phong hầu.

Nếu được phong quan phong tướng, thì trước những khốc liệt của binh đao, ngồn ngộn mối cảm xúc trước hình ảnh những đồng đội phải nằm xuống, với cái nhìn nhân bản về cuộc sống… phải rõ rằng chức quan, hàm tướng nầy có được, chỉ một kẻ được nên danh, trong khi đó ngoài chiến trường hàng vạn ngàn xương trắng phơi khô. “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” là tiếng kêu thảng thốt của người Giang Nam vào năm Kỷ Hợi 879 trước loạn Hoàng Sào.

Cũng những tháng năm nầy, Khúc Thừa Dụ ở Giao Châu ta cũng làm cuộc binh biến giành quyền tự chủ cho đất nước. Văn thơ, sách sử của ta truyền lại không cho thấy tâm tình của dân tộc trước sự kiện đặt nền móng giành độc lập đó. Năm nhà Minh đánh chiếm Việt Nam, đền đài, sách vở… của người Việt đều bị phá hủy, đốt sạch, hoặc thu mang về Tàu, đã làm phai mờ dấu tích văn hóa của Việt Nam..

Bây giờ chỉ còn biết dựa vào chi tiết năm 906, vua nhà Đường phải chính thức công nhận, phong cho Khúc Thừa Dụ làm Tỉnh Hải Quận Tiết độ sứ. Điều nầy cho phép ta hình dung ra được nỗi vui mừng của người dân trước sự kiện người Việt ta làm chủ lấy ta. Và cũng hình dung ra được với tâm tình vốn cùng tộc Bách Việt với người Giang Nam, người Việt cũng có thể đã có chung cái nhìn “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” trong bài thơ Năm Kỷ Hợi của Tào Tùng. Cái nhìn nhân bản đối với sinh linh trước khói lửa binh đao.

Dao đức kinh

  •   30/07/2025 18:58:00
  •   Đã xem: 44
  •   Phản hồi: 0
CHƯƠNG 8
DỊ TÍNH
易 性
Hán văn:
上 善 若 水. 水 善 利 萬 物 而 不 爭, 居 眾 人 之 所 惡, 故 几 於 道. 居 善 地, 心 善 淵, 與 善 仁, 言 善 信, 政 善 治, 事 善 能, 動 善 時. 夫 唯 不 爭, 故 無 尤.
Phiên âm:
Thượng thiện nhược thủy.
Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư Đạo.
Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời.
Phù duy bất tranh, cố vô vưu.
Dịch nghĩa:
Bậc trọn lành giống như nước.
Nước khéo làm ích cho muôn loài mà không tranh giành, ở chỗ mọi người đều ghét, cho nên gần Đạo.
Ở thì lựa nơi chốn; tâm hồn thời thâm trầm sâu sắc; giao tiếp với người một mực nhân ái; nói năng thành tín; lâm chính thời trị bình; làm việc thời có khả năng; hoạt động cư xử hợp thời.
Chính vì không tranh, nên không ai chê trách oán thán.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo được chÍnh tròn đầy như nước
Làm có ích không vượt đua tranh
Ở thấp chẳng ai ham giành
Cho nên chính đạo mới thành công huân.
Ở nơi chốn thâm trầm sâu sắc
Giao tiếp người một bâc ái tôn
Tâm thành lâm chính xóm thôn
Trị bình hòa hơp hoạt không trong ngoài
Chính vì không ơn, không sai
Trên dưới trong ngoài chẳng ai oán than!

Vô lối thi tặc Nguyễn Quang Thiều

  •   29/07/2025 14:55:00
  •   Đã xem: 51
  •   Phản hồi: 0
NGUYỄN QUANG THIỀU NÊN BỎ VIẾT THƠ VÔ LỐI (THI TẶC)!
66 TUỔI TÂY, VỀ HƯU ĐI!
Đỗ Hoàng
Nguyễn Quang Thiều nên bỏ viết thơ Vô lối (Thi tặc), 66 tuổi Tây phải về hưu thôi1
Tôi nói điều thứ nhất cách đây lâu lắm rồi, từ thời tôi làm tạp chí Nhà văn gặp Thiều, Thiều cặn vặn: - “Sao anh Hoàng thù tôi đến thế!
Nói gần đây là buổi họp các nhà văn sinh hoạt ở Trung ương Hội Nhà văn Việt Nam bầu đại biểu đi dự Đâị hội Nhà văn khóa X.
Điều thứ hai nói trên mạng khi Thiều làm Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đưa in bài vở của đám Thi tặc tung tóe trên các báo Nhà nước chính thống. Có một số được Thiều cho tiền (Ngân sách) in tác phẩm “thi tặc” như Thi Hoàng, Mai Văn Phấn, Hoàng Vũ Thuật, Trần Hùng, Phạm Đương…
Nguyễn Quang Thiều là một một người dốt nát tiếng Việt, không biết làm thơ Việt, kiến thức rất lổ mổ, hóng hớt, học hành chắp vá, nhảy cóc từ thời bé nên viết như kẻ vô học, đậm chất văn nô, dâm dục bẩn thỉu, thác loạn, giờ lại cầm cương nẩy mực văn chương nước nhà (!)
Từ khi Thiều làm Chủ tịch Hội Nhà văn và Ban Thường vụ Hội Nhà văn chỉ đạo báo Văn nghệ thì Thiều cho in thơ Vô lối của Thiều của đám Thi tặc, số nào cũng có một cách bội thực!. Thiều vực dậy những đứa thi tặc chết rấp từ lâu như Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Mai Văn Phấn, Mai Quỳnh Nam, Hoàng Vũ Thuật, Phạm Đương, Đỗ Doãn Hoàng….in tác phẩm của họ tràn lan trên các mặt báo Nhà nước.
Số 36 + 37, báo Văn nghệ ngày 3-9- 2022 in Nguyễn Quang Thiều 5 bài, in Mai Văn Phán (thơ ba câu , 21 bài ) kin một trang báo Văn nghệ (ảnh kèm theo). Tờ báo Văn nghệ ấy bay vào đâu nhiễm trùng HIV chỗ ấy (!).
Xin trích một bài Thi tặc in số Tết năm 2023 của Thiều để chứng minh. Đó là bài Vô lối : NHỮNG Ô CỬA
Nguyên văn:
NHỮNG Ô CỬA
Nguyễn Quang Thiều
Mở ô cửa thứ nhất
Mùa Hạ đã vời xa
Mở ô cửa thứ hai
Thấy mùa thu vừa đến
Những con thuyền trên bến
Mơ gặp dòng sông xưa
Mở ô cửa thứ ba
Người tình từ kiếp trước
Về trong gió heo may
Hoa vàng vương lối cũ
Gọi vang miền hoang vắng
Mở thêm một ô cửa
Mẹ đã vào trăm năm
Và một ô cửa nữa
Cha đi trong mây vàng
Lòng ta ô cửa nhỏ
Mở mãi vào vu vơ
Và một ô cửa nữa
Ôi những người quanh ta
Thấy màu hoa cúc trắng
Nở như chưa bao giờ
Đỗ Hoàng : BÌNH GIẢNG
Mới đọc nghe có vẻ hay hay, đám nịnh bút có khoang vện, khoang vằn như : Văn Chinh, (xuất thân giáo viên cấp một miền núi), Nguyễn Đăng Điệp, Thiên Sơn, Hoàng Thụy Anh (Hoàng Thụy Anh thi tặc gia truyền, nịnh cũng gia truyền nốt, bài phê bình nào in trên báo Văn nghệ cũng ghi « theo lời nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, theo câu dịch tiếng Anh của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều…)…bò sát đất bẩm báo : « Thơ của Chủ tịch Hội Nhà văn là thơ thần ! Tuyệt vời cú mèo ! Tuyệt vời cú mèo ! Giải Nobel cho Việt Nam đến nơi rồi, đến nơi rồi !
Hội viên Hội Nhà văn kết nạp đến bây giờ chắc 1 500 người, tuyệt đại bộ phận xõa tóc hô to : « khâm phục, khẩu phục ! Khẩu phục , khẩu phục ! Anh chị em hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đập đầu tung hê Chủ tịch ! »
Phải một lần nữa xin lỗi độc giả : « Nó là cục cứt chó. Cả Vô lối thi tặc Nguyễn Quang Thiều là một cục cứt chó ! »
Lòng ta là ô cửa sổ, lòng ta là trăng, là trăng, lòng ta là cơ đồ đất nước….đã đượ các nhà thơ lớp trước đều ví von, so sánh như vậy.
« Cả lòng ta trăng
Là trăng
Ta nhả ra đây
Một nàng… »
(Hàn Mặc Tử)
« Lòng ta chung một cụ Hồ,
Lòng ta chung một thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam…. »
(Tố Hữu)
« Lòng ta ô cửa nhỏ »
(Nguyễn Quang Thiều)
Đã nói mãi mòn răng : « Nguyễn Quang Thiều không biết làm thơ » nên không biêt triển khai cái tứ mình tìm tòi được mà viết nói loăng quăng, lụn xui, lụn đụn như gà mắc tóc, dẫn đến nhiều sai trái trong câu chữ, lập luận !
Lòng tôi là ô cửa, thì ai mở ô cửa ? Ở đây rất nhiều lần mở :
« Mở ô cửa thứ nhất »
« Mở ô cửa thứ hai »
« Mở ô cửa thứ ba »
« Mở thêm ô cửa nữa »
« Và một ô cửa nữa »
Và một ô cửa nữa » (hai lần mở)
Thơ có thể nói những điều rất vô lý mà hợp lý :
« Hai ngày em không đến
Aanh không có hai ngày »
(Vĩnh Nguyên)
« Em đưa tiễn bước chân gìn giữ lắm
Ngọn cỏ dũng dằng dúng dắng ven đê
Thương mến ạ !
Và nhà thơ không rành mạch bao giờ ! »
(Nguyễn Duy)
Nhưng thơ ca có những câu chữ từ ngữ rất chính xác như trong toán học:
« Ôi Người Cha có đôi mắt mẹ hiền sao
Giọng của Người không phải sấm trên cao !
Thấm từng tiếng ấm vào long non nước…. »
(Tố Hữu )
Không thể viết « Ôi Người Cha một mắt mẹ hiền sao ! »
Nguyễn Quang Thiều « lòng tôi là ô cửa nhỏ » mà biết đi mở cửa sổ hàng vạn lần như thế là điều phi lý không hề có lý !
Đáng ra phải viết :
« Lòng ta là ô cửa
Ta tự mở lần nhất
Mùa Hạ đã vời xa
Ta tự mở lần hai
Thấy mùa thu vừa đến….. »
Nghe có lý hơn. Song, người đọc không thể hiểu vì sao, ở đâu mà mùa Hạ vời xa, mùa thu lại vừa đên ? Kỷ niệm riêng của anh, nỗi đau riêng của anh khi đưa lên cộng đồng thì phải được cộng đồng chấp nhận, cảm thông cái việc riêng mà cũng như là chung ấy. Đàng này anh nói gà, nói vịt, chẳng ai hiểu mùa hạ, mùa thu của anh tự đâu mất, tự đâu xuất hiện ?
Cái ô cửa của anh không còn là tấm lòng của anh mà thành cái cửa nhà mồ, mẹ , cha anh sập vào :
« Mở thêm một ô cửa
Mẹ đã thành trăm năm
Và một ô cửa nữa
Cha đi trong mây vàng ! …»
Cái ô cửa lòng anh” đã hóa thành nhà tang lễ 150 Phùng Hưng, Hà Nội, nhà tang lễ Trần Hưng Đạo, Viện Quân y 108! Trước hết nó là cái Hấm giết và chôn người , giết và chôn đầu tiên là người thân của anh!
Than ôi! Thơ với thẩn?
Hà Nội, tháng 7/2023
Đ - H
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt:
LÒNG TA Ô CỬA
Lòng ta ô cửa nhỏ
Lần đầu tự mở ra
Mùa Hạ vời vợi xa
Lần thứ hai ta mở
Thấy mùa thu vừa đến
Mơ gặp dòng sông xưa
Tự mở lần thứ ba
Người tình từ kiếp trước
Trong heo may lần bước
Lối cũ vương hoa vàng
Ai đi trong sương bạc
Miền hoang gọi vang vang
Lòng con là ô cửa
Đưa mẹ vào trăm năm
Lòng con là ô cửa
Tiễn cha lối mây vàng!
Lòng ta là ô cửa
Mở mãi thời âm vang !
Dần dần ô cửa mở
Ơi những người quanh ta
Thấy màu hoa cúc trắng
Nở như chưa bao giờ !
Hà Nội 7/2023
Đ - H
Tb : Mòi đối thoại ! Tel : 0913369652

Ngục trung nhật ký - thơ dịch

  •   22/07/2025 10:18:00
  •   Đã xem: 24
  •   Phản hồi: 0

民間賭博被官拉,
獄裡賭博可公開。
被拉賭犯常嗟悔,
何不先到這裡來。

Đổ
Dân gian đổ bác bị quan lạp,
Ngục lý đổ bác khả công khai.
Bị lạp đổ phạm thường ta hối,
Hà bất tiên đáo giá lý lai!
Dịch nghĩa
Ngoài dân đánh bạc thì bị quan bắt,
Trong tù đánh bạc có thể công khai;
Con bạc bị tù thường hối tiếc:
Sao không sớm vào quách chốn này!?
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ngoài đời đánh bạc quan bắt tội
Trong tù đánh bạc khá công khai
Con bạc bị tù thường hối tiếc
Biêt sớm vô ngay ở chốn này!

Ngục trung nhật ký (tiêp)

  •   20/07/2025 19:58:00
  •   Đã xem: 46
  •   Phản hồi: 0
世路難
走遍高山與峻岩,
那知平路更難堪。
高山遇虎終無恙,
平路逢人卻被監。

余原代表越南民,
擬到中華見要人。
無奈風波平地起,
送余入獄作嘉賓。

忠誠我本無心疚,
卻被嫌疑做漢奸。
處世原來非易易,
而今處世更難難。

Thế lộ nan
Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham,
Na tri bình lộ cánh nan kham.
Cao sơn ngộ hổ chung vô dạng,
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.

Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân,
Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân.
Vô nại phong ba bình địa khởi,
Tống dư nhập ngục tác gia tân.

Trung thành ngã bản vô tâm cứu,
Khước bị hiềm nghi tố Hán gian.
Xử thế nguyên lai phi dị dị,
Nhi kim xử thế cánh nan nan.
Dịch nghĩa
Đi khắp non cao và núi hiểm,
Nào ngờ đường phẳng lại khó qua;
Núi cao gặp hổ rút cục vẫn không việc gì,
Đường phẳng gặp người lại bị bắt!

Ta vốn là đại biểu của dân Việt Nam,
Định đến Trung Hoa gặp nhân vật trọng yếu;
Không dưng đất bằng nổi sóng gió,
Đưa ta vào làm “khách quý” trong tù.

Vốn trung thực thành thật, ta không có điều gì thẹn với lòng,
Thế mà bị tình nghi là Hán gian;
Việc xử thế vốn không phải là dễ,
Lúc này, xử thế càng khó khăn hơn.

Đỗ Hoàng dịch:
Đi khắp núi hiểm với non cao
Nào ngờ đường phẳng laị lao đao
Nui cao gặp hổ mà yên ổn
Bình địa gặp người bị nhốt lao!

Ta nguyên đại biểu dân Việt Nam
Đến với Trung Hoa việc luận bàn
Không nỡ đất bằng gây sóng gió
Được làm khách trọng ở nhà giam!

Trung thành chân thật lòng trong sáng.
Lại bị nghi ngờ vu Hán gian
Xử thế ở đời không phải đê
Lúc này xử thế quá gian nan!

Phu đường

  •   15/07/2025 16:37:00
  •   Đã xem: 41
  •   Phản hồi: 0
築路夫
餐風浴雨未曾休,
慘淡經營築路夫。
車馬行人來往者,
幾人感謝你功勞。


Trúc lộ phu
Xan phong dục vũ vị tằng hưu,
“Thảm đạm kinh doanh[1]” trúc lộ phu;
Xa mã hành nhân lai vãng giả,
Kỷ nhân cảm tạ nhĩ công lao?
Dịch nghĩa
Dãi gió dầm mưa chưa từng lúc nghỉ,
Người phu làm đường tận tuỵ với công việc;
Ngựa xe và khách bộ hành qua lại,
Mấy ai biết cảm tạ công lao của anh?
Chú thích:
[1]
Một thành ngữ Trung Quốc, ý nói dốc sức, mưu toan, tận tuỵ với công việc.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Một đời dãi gió với dầm sương.
Tận tụy tận tâm kiếp phu đường.
Ngựa xe, hành khách, người qua lại
Biết có ai người chút cảm thương?

Đỗ Hoàng dịch "Nguc trung nhật ký"

  •   14/07/2025 08:59:00
  •   Đã xem: 27
  •   Phản hồi: 0
Ngục trung nhật ký là tập thơ gồm các bài chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943 dưới dạng một quyển sổ tay nhỏ. Tác phẩm được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay tác phẩm đã được xuất bản nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật... Ngày 1-10-2012, thủ tướng đã ra quyết định công nhận đây là bảo vật quốc gia.
無題
身体在獄中,
精神在獄外。
欲成大事業,
精神更要大。

Vô đề
Thân thể tại ngục trung,
Tinh thần tại ngục ngoại.
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cánh yếu đại.
Dịch nghĩa
Thân thể ở trong ngục,
Tinh thần ở ngoài ngục;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.
Trong nguyên bản, bốn câu thơ này không có đầu đề, chép ở ngoài bìa tập Ngục trung nhật ký cùng hình vẽ hai tay bị xiềng, có lẽ được tác giả xem như lời đề từ cho toàn tập.
Đỗ Hoàng dịch:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn làm được việc lớn
Tinh thần phải lớn cao!

Thow Nguyên Binh Phuowng quá kém!

  •   13/07/2025 13:50:00
  •   Đã xem: 26
  •   Phản hồi: 0
Tập "Buổi câu hờ hững" của Nguyễn Bình Phương hết sức yếu kém, phi thơ ca






TẬP “BUỔI CÂU HỜ HỮNG” CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG ĐOẠT GIẢI THƯỞNG HỘI NHÀ VĂN HÀ NỘI HẾT SỨC YẾU KÉM – PHI THƠ CA

Đỗ Hoàng



Tập Buổi câu hờ hững gồm 35 bài, có 2 bài văn xuôi không ra văn xuôi, thơ không ra thơ, xin nói sau do Nhà xuất bản Văn học ấn hành tháng 9 năm 2011. Trong 33 bài đều không viết theo truyền thống từ cách cảm cách nghĩ và cách thể hiện. Nó là một thứ tù mù, rối rắm, đánh đố, tắc tỵ, hủ nút, sáo rỗng, đại ngôn, lủng củng, lởm khởm, khập khà khập khểnh, so sánh thì khệnh khạng, ví von thì khiêng cưỡng, ông nói gà bà nói vịt, bắt râu ông nọ chắp cằm bà kia, tiền hậu bất nhất, phi lô gic, cũ ky, cũ kỵ; khi thì thương mại (buôn bán), khi thì toán học, khi thì hóa học, khi thì vật lý, khi thì sinh vật học, khi thì Nôm, khi thì Hán chưa Việt hóa, khi thì bê nguyên xi tiếng Anh… Có nhiều bài nếu chuyển qua vè Việt còn kém vè Việt nhiều bậc; có nhiều bài như người nước ngoài học tiếng Việt 3 tiết rồi làm thơ Việt…


Nhà thơ Nguyễn Bình Phương (đầu tiên, trái qua)

Sau hậu chiến năm 1975, nhiều người sáng tác không bằng lòng với các khuynh hướng thơ trước minh như: thơ Mới, thơ chống Pháp, thơ chống Mỹ, thơ những người cùng thập kỷ, cùng thế hệ, họ quyết đi tìm một cách thể hiện cho khác người đi trước. Có người trước đây cũng làm theo thể thơ truyền thống nhưng họ vẫn quyết đoạn tuyệt thơ cũ để đổi mới thi ca; có người ngay từ đầu đã xa lánh các huynh hướng truyền thống, chối bỏ tất cả để tìm hướng đi cho mình.

Việc ấy thời nào cũng có. Đó cũng là điêu xảy ra đúng quy luật vận động của tư duy, của cuộc sống. Như tôi đã nhiều lần phát biểu: “Cuộc sống không đổi mới tiến lên lên thì sẽ bị ngưng trệ và đến mức bị tiêu diệt”. Trong khoa học, trong thi ca nghệ thuật, trong muôn loài cũng vậy. Nhưng mới như thế nào? (Xem “Vì sao tôi dịch thơ Việt ra thơ Việt” – Tạp chí Nhà văn năm 2009. Dịch thơ Việt (trích) – Báo Hà Nội mới chủ nhật năm 2010; Tạp chí Dặm nghìn đất Việt… đó là việc các nhà cách tân hay cách mạng phải hiểu rõ!

Đổi mới cũng phải có kế thừa và phát huy truyền thống thơ ca dân tộc và nhân loại. Muôn đời là như thế. Điều này những tác giả tự xưng là hậu hiện đại chối bỏ hoàn toàn. Nguyễn Bình Phương là một trong những đại biểu đó. Và xin mạn đàm về tập Buổi câu hờ hững.

Nguyễn Bình Phương trước đây tuân thủ các phép làm thơ truyền thống từ hình thức đến nội dung và có tập, có bài đọc được. Xem Vô lối Nguyễn Bình Phương – vannghecuocsong.com. Nhưng sau đó Nguyễn bình Phương quyết tâm đổi mới và không chấp nhận thơ truyền thống cũng từ hình thức đến nội dung.

Tính từ thập kỷ 80 đến nay, những người quyết tâm cách tân thơ Việt cũng đã 30 năm. 10 năm đã đủ để một khuynh hướng thơ, một trào lưu thơ thành công. Nhưng đã hơn 30 năm, tất cả các khuynh hướng từ nhóm đến tổ được nhiều tổ chức lăng xê mà đến nay nó vẫn không hề gây được tiếng vang gì mà cũng không gặt hái được thành quả gì trên văn đàn. Những cái được in ra được trao giải chỉ là những cái thử nghiệm chưa thành công. Không phải cuộc cách tân nào cũng thành công.

*

Tập Buổi câu hờ hững gồm 35 bài, có 2 bài văn xuôi không ra văn xuôi, thơ không ra thơ, xin nói sau do Nhà xuất bản Văn học ấn hành tháng 9 năm 2011. Trong 33 bài đều không viết theo truyền thống từ cách cảm cách nghĩ và cách thể hiện. Nó là một thứ tù mù, rối rắm, đánh đố, tắc tỵ, hủ nút, sáo rỗng, đại ngôn, lủng củng, lởm khởm, khập khà khập khểnh, so sánh thì khệnh khạng, ví von thì khiêng cưỡng, ông nói gà bà nói vịt, bắt râu ông nọ chắp cằm bà kia, tiền hậu bất nhất, phi lô gic, cũ ky, cũ kỵ; khi thì thương mại (buôn bán), khi thì toán học, khi thì hóa học, khi thì vật lý, khi thì sinh vật học, khi thì Nôm, khi thì Hán chưa Việt hóa, khi thì bê nguyên xi tiếng Anh… Có nhiều bài nếu chuyển qua vè Việt còn kém vè Việt nhiều bậc; có nhiều bài như người nước ngoài học tiếng Việt 3 tiết rồi làm thơ Việt…

Mở đầu tập sách là một bài rất buôn bán (thương mại) – Chào hàng. Nhiều người không am tường thơ ca thì tưởng rằng đây cuốn sách giáo khoa trường đại học Thương Mại (buôn bán) đóng trên Cầu Giấy dùng cho sinh viên học Khoa Makettin. Nếu nhìn tục một chút thì lầm tưởng cách chào ở các quán karaooke khi họ trương biển mời khách, hay các nhà nghỉ cò mồi làng chơi đến nghỉ … để vào xem hàng.

Đọc câu thứ nhất: Đây là lụa thì ai mà chẳng tin rằng có “gái đẹp” và đọc tiếp Nhễ nhễ mê man trong thân thể mê man thì ai mà không tin chốn này có gái mềm lữ và có hút thuốc phiện!

Sau màn chào hỏi, tác giả nhồi như nhồi ngỗng một lô một lốc thuật ngữ toán học mà các nhà toán học đọc lên cũng ngợp: cái tổng số, vô vàn, đây con số, bên lề dấu cộng, một phép nhân bay lượn, đây ngày lẻ, trong góc hẹp, ngày chẵn, một chú cún con, một ly cà phê, “số” không. 34 chữ thuộc thuật ngữ toán học đúng một trăm phần trăm(!)

Đây là một bài Vô lối viết khô khan, khô hơn ngói, vô cùng gượng gạo. Đến toán học là một môn khoa học tư duy khô khan cũng mượn vẻ đẹp vần điệu, tính nhạc của thơ ca để làm cho nó bay bướm. Xin dẫn chứng:

BÀI TOÁN TÍNH SỐ KHỈ ĐÀN

Họ nhà khỉ nhân khi nhàn rỗi
Rủ bạn bè mở hội liên hoan
Trên cây dưới đất hai đàn
Dưới thì nhảy múa, trên toàn hát ca.
Khách tới chơi đi ra vườn thấy
Phần tám bầy đem lấy bình phương,
Tiếng ca trầm bỗng du dương,
Có mười hai giọng mến thương dạt dào.
Khách vui thẻ tính xem sao,
Giữa rừng xanh đẹp có bao khỉ đàn?
(Đ- H sưu tầm)
Thế mà thơ ca lại đem vứt bỏ cái tinh túy của mình, biến câu chữ, hồn vía bài thơ như một cái xác không hồn.

Đọc kỹ câu sau nữa: Đây con số tinh anh ranh ma thì thấy tác giả sai cả kiến thức cơ bản trong tri thức, đời sống. Ai cũng biết hai chữ tinh anh là chỉ phần tốt đẹp của tâm linh, trí tuệ con người và cả thần linh. Thác là thể phách, còn là tinh anh (Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du). Làm sao phẩm chất đã là tinh anh mà còn ranh ma?

Đến bài Cắt tóc thì sống sượng, xơ cứng với những con chữ như khúc xương đẽo hết da thịt:
Tôi cắt tóc
Một người cực lạ
Rũ khăn choàng váng vất bước ra.

Trong bài tự Tự xông đât cũng viết trước gương của nhà thơ Lâm Huy Nhuận đầy hồn chữ, hồn người:
Giật mình đôi mắt trũng sâu,
Người trong gương ấy còn đau hơn mình.

Đọc Lâm Huy Nhuận thấy ngậm ngùi đau xót mãi cho kiếp mình, cho kiếp người.

Tập Buổi câu hờ hững thấy cái gì cũng không thật, cũng sống sượng, cũng giả. Hàng giả thứ thiệt. Giả đến mức viết về mình, về người yêu, về con, về gia đình bạn bè như mình là người ngoài cuộc.

Ta sinh ra cô đơn
Giờ cô đơn đã cũ
Ta trưởng thành bởi sợ hãi
Sợ hãi cũng cũ rồi
(Bài thơ cũ)

Cô đơn làm sao cũ, sợ hãi làm sao mà cũ. Nỗi đau luôn luôn mới kia mà! Chụp mũ hết chỗ nói!

Cụ Tú Xương bóc thật mình ta một cách chân thành nên hậu thế nhìn được bản ngã của. Cụ mới được hậu thế tôn vinh:

Vị Xuyên có Tú Xương
Dở dở lại ương
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường.

Con người của Buổi câu hờ hững là con người của vô tâm hờ hững, của lạnh lẽo tâm hồn. Ngay cả tình yêu đôi lứa là thứ tình quyết liệt nhất, đam mê nhất mà tạo hóa ban phát thì Nguyễn Bình Phương vẫn:

Và láng máng hình như mình từng yêu
Cát đã vơi lẹ làng yểu điệu
(Từ đồng hồ chờ trên máy tính)

Nên nhớ khi Lục Du khi ngoài 75 tuổi trở lại thăm Vườn liễu cũ vẫn nhớ một mối tình không thành của mình:

Thân này thành đất Cối Kê ấy,
Vẫn giữ trong tim một khối tình
(Bản dịch Đỗ Hoàng)

Cái vô tình ấy, cái lạnh lùng của Nguyễn Bình Phương càng thể hiện rõ khi viết về con :

E ò e, ò e tí toe ngo ngoe vò vẹ
(Chơi với con.)

Tôi đọc mà tưởng tác giả chơi với robot dog (chó máy) hoặc toy octopus (đồ chơi bạch tuộc cho trẻ con). Trẻ nghe e ò e, ò e tí toe, ngo ngoe, vò vẹ thì các cháu sẽ đái ra cả bỉm, vải ca linh hồn ông nội.
Chưa hết, ông bố còn hù tiếp như hù cọp như vậy.:
Lăn qua chữ nghĩa
Tôi rền vang tôi
Tôi đánh rơi ở nơi không tìm thấy
Rồi voi, hổ , báo, rùa vĩnh cửu…, hết thảy khuân ra hết để hô xung phong như ông đại đội trưởng ở chiến trường (dù xung phong làm cái chảo nấu ăn) để dọa con:

Tôi bị vướng vào thế giới ta bà
Con voi bé nhỏ, con voi kềnh càng, con báo lù lì, con rùa vĩnh cửu
Tôi xung phong làm cái chảo nấu ăn…
(Bài thơ đã dẫn)

Dọa từng ấy chắc con mình chắc chưa khiếp sợ, nên dọa tiếp để mai sau nó lớn lên nó theo bố làm binh nghiệp cho đặng dũng cảm:

Khuất trong góc nhà tôi có cả ta và giặc
Bánh xe màu lục, viên đạn vô hình
Khẩu súng ấy trắng bong như bột lọc
Tôi bắn gục thời gian không thèm tiếc…
(Bài đã dẫn)

Phim hành động, bạo lực của Mỹ ở Holoniut phải cầm sách đến đây mà học Nguyễn Bình Phương về cách dọa nạt trẻ con để nó trưởng thành tướng lĩnh(!)

Trong khi đó nhiều nhà thơ về con để lại trong lòng bạn đọc những tình cảm nồng hậu, thắm thiết về tình phụ tử:

…Con ngủ đi con, bố nằm bố quạt
Bố nghĩ bài thơ vừa viết ban chiều
Bố có con tâm hồn dịu mát
Mây có trời xanh, mây mịn đường thêu..
(Huy Cận)

Trong Buổi câu hờ hững có nhiều bài vô lối tuyên ngôn thơ nhưng đơn giản, gượng gùng, xơ cứng, tù mù và cũ kỹ:

Ta im lặng
Chim hót
Họ thì vỗ cánh bay
Ta viết
Chim bay đi
Họ thẩn thơ đậu xuống
Ta nhìn ta mai mái một làn sương
(Nhà thơ)

Cách đây gần 2 000 năm Lý Bạch đã nói điều này rồi mà nói bằng thơ:

ĐỘC TỌA KÍNH ĐÌNH SAN

Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
Tương khan lưỡng bất yêm
Duy hữu Kính Đình San

NGỒI MỘT MINH BÊN NÚI KÍNH ĐÌNH

Chim bầy cao bay vút
Mây lửng lơ một mình
Nhìn nhau không biết chán
Chỉ có núi Kính Đình!

(Đỗ Hoàng dịch)

Tôi đồ rằng tác giả Buổi câu hờ hững có thể bị tâm thần hoặc là bị chấn động thần kinh, tâm hồn bất định. Nhiều bài viết rất thiểu năng trí tuệ, giả đò (giả vờ): Buổi câu hờ hững, Phân chim, Chân dung khi trống trải, Khoảng giữa, Nói với em từ nơi trống trải, Hỏi…
Đặc biệt là bài Hỏi một bài hết sức giả đò :

Này cô em dáng hiền hiền xinh xinh
Bệnh viện là gì nhỉ?

Này cô em dáng hiền hiền xinh xinh
Bệnh nhân là gì nhỉ?

Kìa cô em dáng hiền hiền xinh xinh
Là bác sỹ hay là gì đấy nhỉ?

Ngạn ngữ quê tôi ( miền Trung) có noi: Giả đò đui dòm lồn!

Đúng như vậy!

Trong tập Buổi câu hờ hững đầy những lối nói kiểu cách, lởm khởm cũ như trái đất, cũ đến mức mà Tạng thư, Kinh Phật, Kinh Thánh còn không cũ hơn như: Trong phép màu khó hiểu, Đá xanh rêu với u huyền, Những áng bay ngọt lừ, Những luồng đạn căng lừ, Người yểu mệnh đứng bên lề dấu cộng, Tinh mơ luôn trở lại, Chứa những điều vằng vặc bên trong, Rạng đông nhen dưới gót chân Hời, Kìa vũ trụ thanh tân uyển chuyển, Lẩy bẩy chết dọc theo kim phút, Khóe miệng sương mù, Ngả từ thao thức vào hoang vắng… kể mãi cũng không hết những câu đại loại như thế!

Rồi rất nhiều triết lý vặt, lên gân, vô bổ: Tuồng như sống chỉ là rơi, Và hãy nhớ chúng ta không lay động…

Tiếp đến là lạm dụng âm Hán Việt chưa được Việt hóa bao nhiêu: Luyến ái, phù sinh, lạc thú, u huyền, hỏa xa, ngoạn mục, thanh tân… Rồi lại viết nguyên xi tiếng Anh trong câu tiếng Việt làm người đọc vô cùng khó chịu:

Lũ trẻ online câu hy vọng(!)

Nhiều người mỉa mai sao không viết hết cả câu tiếng Anh để thể hiện tác giả giỏi Englisch:
Childrens online sentence hope!

Hai bài như là văn xuôi Về một người thương binh hỏng mắt, Những cư dân vùng châu thổ sông Hồng, nhưng cùng không ra văn xuôi, nó là một thứ lưỡng cư, chấm phẩy lung tung, câu nọ xọ câu kia, nhiều đoạn tối mò, vô nghĩa. Ví dụ: - Anh bảo quê anh ở bên kia mùa hạ, tôi bắt gặp những rặng núi xanh và lau bạc. Chấm ở chữ hạ là đủ nghĩa tại sao lại phẩy ở đây? Tôi bắt gặp không ăn nhập gì với đoạn câu trước. Nhiều và nhiều lắm. Đến nỗi nhà văn Nguyễn Thiện Đạo nói với tôi: - Tôi đọc văn Nguyễn Bình Phương không biết ông ta viết gì (!)

Là người lính chuyên nghiệp nhưng trong tập sách Buổi câu hờ hững chỉ thấy thấp thoáng hai bài có “hương vị” lính đó là Trên đồi cao và Về một người thương binh hỏng mắt. Hai bài này người không ở lính vẫn viết được và viết hay hơn nhiều. Không thấy dáng đồng đội, tình quân dân ở đâu cả. Các nhà thơ thế hệ trước đã viết về đồng đội về tình quân dân cảm động:

Đồng đội ta là hớp nước uống chung
Là miếng cơm sẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia nhau đứng trong chiến hào chất hẹp
Chía nhau cuộc đời
Chia nhau cái chết!
(Đồng đội - Chính Hữu)

Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh Vệ quốc quân ơi!
Sao mà yêu anh thế!
(Cá nước – Tố Hữu)

Anh về cối lại vang lừng
Chim reo trên mái, gà mừng dưới sân
Anh về sáo lại ái ân
Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca
(Về làng- Hoàng Trung Thông)

Viết về người lính và không viết thì cũng không ai bắt. Nhưng nhà thơ của đất nước nào cũng phải thể hiện phẩm chất công dân của nước mình, nhất là những nhà thơ mặc áo lính. Mạc Ngôn là một dẫn chứng sinh động!

Nguyễn Bình Phương rất cố gắng tìm tòi cách tân nội dung, hình thức, ngôn từ biểu hiện nhằm làm cho thơ mình và thơ thế hệ có một nét khác biệt, mở đường cho cuộc đổi mới thơ ca của lớp nhà thơ sau thống nhất đất nước năm 1975., đó là điều đanghs trân trọng Nhưng tiếc thay nhà thơ không hiểu rằng: Cuộc cách tân nào, thậm chí cả cách mạng đều phải có kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc và nhân loại thì những cách tân, cách mạng ấy sẽ thành công lâu dài. Còn cuộc cách tân, cách mạng nào pha nát đạp quá khư thì sẽ thật bại. Nhãn tiền ấy ai cũng biết. Từ sau năm 1975 đến nay nhiều trào lưu tự xưng là hậu hiện đại hậu hậu hiện đại đều thất bại là vì thế!

Tập Buổi câu hờ hững rốt cuộc không có gì là mới, cha ông đã từng noi rồi:

Hà Nội ngày 5 tháng 11 năm 2012

Đ - H

Đạo đức kinh - chương 2

  •   05/07/2025 11:37:00
  •   Đã xem: 24
  •   Phản hồi: 0
CHƯƠNG 2
DƯỠNG THÂN
養 身
Hán văn:
天 下 皆 知 美 之 為 美, 斯 惡 已; 皆 知 善 之 為 善, 斯 不 善 已. 故 有 無 相 生, 難 易 相 成, 長 短 相 形, 高 下 相 傾, 音 聲 相 和, 前 後 相 隨. 是 以 聖 人 處 無 為 之 事, 行 不 言 之 教. 萬 物 作 焉 而 不 辭, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 功 成 而 弗 居. 夫 唯 弗 居, 是 以 不 去.
Phiên âm:
1. Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy.
2. Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo.
3. Vạn vật tác yên nhi bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị,công thành nhi phất cư.
4. Phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ.
Dịch nghĩa:
1. Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, thế là xấu vậy; đều biết tốt là tốt thế là không tốt vậy, bởi vì có không sinh ra nhau dễ khó thành tựu lẫn nhau, ngắn dài tạo thành lẫn nhau, trên dưới lộn lạo ra nhau, thanh âm hòa hợp với nhau, sau trước theo nhau.
2. Cho nên thánh nhân dùng Vô vi mà xử sự, dùng «vô ngôn» mà dạy dỗ.
3. Vạn vật hoạt động mà vẫn im lìm; sống động mà không (đòi quyền) sở hữu; lao tác mà không cậy công; công thành mà không lưu luyến.
4. Không lưu luyến nên mới không mất.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ở đời khen tuyệt vời cái đẹp
Cái xấu kia đã biết chen vào
Đời khen cái tốt thanh cao
Cái xấu len đến đã đến đào huyệt sâu
Không sinh, không diệt vì nhau
Cái trên,cái dưới, trước sau hòa đồng.
Thánh nhân vẫn cầu mong hòa hợp
Dúng vô vi cảm được vô ngôn
Công thành tất thảy vẹn tròn
Lặng im công sức vẫn còn mốt mai!

Nguyễn Quang Trung

  •   26/06/2025 14:02:00
  •   Đã xem: 28
  •   Phản hồi: 0
Nguyễn Quang Trung
Tôi buồn vì nhiều nhà thơ cổ xuý cho thơ văn xuôi. Thà là văn xuôi cho có thể có loại. Đằng này cứ như đưa "bò lạc"(cách nói trong hài Xuân Hinh) vào thơ. Ấy là thơ đã di vào tận cùng của cái sừng trâu, đi vào tử huyệt. Các nhà thơ văn xuôi đẫ bức tử thơ dưới ngọn cờ tung bay phấp phới dưới chiêu bài đổi mới. Anh nói đưa ra những nhà thơ phản thơ, phi thơ, ngợm hoá thơ mà tôi thấy buồn cho sự nghiệp văn chương nước nhà...

Thơ tự do. thơ vô lôi

  •   24/06/2025 14:47:00
  •   Đã xem: 27
  •   Phản hồi: 0
THƠ TỰ DO - VÔ LÔI THI TẶC (tiêp theo 2)
Đỗ Hoàng
Lằn ranh giữa Thơ Tự Do và Vô lối Thi tặc chỉ một sợi tóc nhỏ. Người ta bảo: “Làm thơ không vần như đi xếc trên giây, rất dễ thất bại!”
Đó là mới không vần, còn đã không vần lại còn viết dung tục, dâm loạn, bẩn thỉu, kiến thức sách vở, kiến thức đời nông cạn, ngu độn nữa thì chỉ có vứt vào hố xí ! Các kiểu viết của đám Vô lối Thi tặc đều vứt vào hố xí!
Thơ Tự Do:
Bạn tôi
trên thép gai ba tầng,
tay chưa rời báng súng
chân lưng chừng nửa bước xung phong!
(Chính Hữu)
Vô Lối Thi tặc:
Tôi anh lính phong tình
nhìn sương núi vờn quang thân súng
lòng côn cào vũ điệu giao long
(Nguyễn Bình Phương)
Như đã so sánh trước, đặt hai bài cạnh nhau, một bên là người tiên ở trên trời, một bên là con quỉ dâm tà hôi hám chui rúc trong hầm tối; một bên là ánh mặt mặt trời chói lòa, một bên hang rắn đen ngòm nhà thổ! So sánh là khập khiểng, nhưng quả vậy.
Chính Hữu viết về đồng đội, sự hy sinh của đồng chí như tạc bức tường kỳ vĩ của những anh hùng vô cùng thánh thượng. Còn Nguyễn Bình Phương viết tự thú quá dung tục, bẩn thỉu. Tự xưng mình là kẻ phong tình, lính phong tình, điều ấy hiếm xảy ra. Lý Hạ, Lý Thân bên Tàu lấy nhà thổ làm nhà, trai Thái Lan ngủ với điếm “cần tăng dân số” bị ăn ruỗng, khi đi tiều đái xòe như cái xoa tưới nước mà chưa dám nói mình là kẻ phong tình!
Rồi lính ngụy, lính Đại Hàn đem lậu giang mai làm cho gái miền Nam một thuở kinh hồn bạt vía chưa nhận phong tình, trăng hoa, lẳng lơ!
“Nếu mai đụng độ ta còn sống
Về ghé sông Mao phá phách chơi
Chia bớt nỗi sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một giờ vui »
(Nguyễn Bắc Sơn)
Kẻ phong tình chí có người đời xác nhận, và hình tượng trong sách vở. Mã Giam Sinh, Đông Joăng …
“Châng ngờ gã Mã Giám Sinh
Vẫn là một đứa phong tình đã quen
Quá chơi lại gặp hồi đen
Quen mùi ăn kiếm ở miền nguyệt hoa »
Đây là lần đầu tiên cõi Việt, một anh bộ đội cụ Hồ tự thú « Tôi là anh lính phong tình » !Tạp chí Nhà văn & Tác phẩm in bài này đã là sai lầm lớn. Không có quân đội nào, nước nào chấp nhận tên lính phong tình ở trong quân ngũ. Nhửng tên lính nhà thổ này phải tước quân tịch đuổi ra khỏi quân đội !
Tham khảo nhân loại làm thơ tự do - nhà Walt Whitman nước Mĩ! – Trường ca Lá cỏ - Bài hát về tôi (trích)
Xứ tự do cho thi nhân bộc bạch hết cái tôi. Cái tôi người ta vẫn trong sáng. Có đâu cai tôi như anh lính Nguyễn Bình Phương. Cái tôi thổ tả !
1 - Song of Myself
I celebrate myself, and sing myself,
And what I assume you shall assume,
For every atom belonging to me as good belongs to you.
I loafe and invite my soul,
I lean and loafe at my ease observing a spear of summer grass.
My tongue, every atom of my blood, form’d from this soil, this air,
Born here of parents born here from parents the same, and their parents the same,
I, now thirty-seven years old in perfect health begin,
Hoping to cease not till death.
Creeds and schools in abeyance,
Retiring back a while sufficed at what they are, but never forgotten,
I harbor for good or bad, I permit to speak at every hazard,
Nature without check with original energy.
Đỗ Hoàng dịch:
1 – Bài hát về tôi
Tôi tôn sùng tôi, ca hát chỉ về tôi.
Và những gì tôi làm, bạn thừa nhận
Vì mọi nguyên tử thuộc về tôi đều thuộc về bạn.
Tôi nhác nhớn, tôi gọi trái tim tôi
Tôi nghiêng người mệt mỏi nhìn ngọn cỏ mùa hè.
Lưỡi của tôi, mỗi nguyên tử trong máu của tôi, hình thành từ đất này, không khí này,
Sinh hạ từ cha mẹ ở đây, cha mẹ cũng sinh hạ ở đây, giống nhau, và cha mẹ họ cũng vậy,
Tôi, bây giờ 37 tuổi, cái tuổi dồi dào sức khỏe.
Hy vọng sẽ không dừng lại cho đến khi chết
Tín ngưỡng và trường học bị hủy bỏ,
Nghỉ hưu một thời gian là đủ, nhưng không bao giờ quên,
Tôi chấp nhận điều tốt, điều xấu, tôi cho phép nói trước mọi nguy hiểm,
Thiên nhiên không kiểm tra năng lượng ban đầu…
*
Từ nghin xưa Lý Bạch viêt tuyệt hay vê tình yêu. Tình yêu của người ta thanh sạch trên chín tầng trời, có đâu tình dục hiếp dâm, dơ nhớp như bọn vô lối thi tăc.
李白
寄遠
寄遠
美人在時花滿堂,
美人去後餘空床。
床中繡被卷不寢,
至今三載聞餘香。
香亦竟不滅,
人亦竟不來。
相思黃葉落,
白露濕青苔。
Ký viễn
Mỹ nhân tại thì hoa mãn đường,
Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng.
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm,
Chí kim tam tải văn dư hương.
Hương diệc cánh bất diệt,
Nhân diệc cánh bất lai.
Tương tư hoàng diệp lạc,
Bạch lộ thấp thanh đài.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
GỬI NƠI XA
Người đẹp còn đây, hoa đầy nhà
Người đẹp đi rồi, trơ giường không
Trên giường chăn gấm đã cuốn lại không ai nằm
Nay đã ba năm còn nghe mùi hương thơm
Hương không bay đi mất
Người cũng không trở về
Nhớ nhung lá vàng rụng
Sương trắng rơi ướt rêu xanh
Hà Nội 2023 – 2024
Đ - H
(*) Phụ lục : Bọn (詩賊 Thi tặc ) – giặc thơ là bọn lươn lẹo, xỏ xiên, gian xảo, ném lựu đạn, sáo rỗng, tà ngụy, ngụy ngôn, đại ngôn, kém học, bất tài, lưu manh, giả dôi, bản vị, háo danh, vụ lợi, nhỏ nhen, ích kỷ, thù vặt, cướp công, dâm ô, trụy lạc…phá nát thơ Việt, làm băng hoại tâm hồn dân tộc Việt.
Đám 詩賊 -Thi tặc gồm 27 tên trùm sò : 1 -Thanh Tâm Tuyền, 2– Lê Văn Ngăn, 3 – Nguyễn Quang Thiều, 4 – Nguyễn Khoa Điềm, 5 – Nguyễn Bình Phương, 6 –Trúc Thông, 7– Dư Thị Hoàn, 8 – Mai Văn Phấn, 9 – Trần Hùng, 10 – Đinh Thị Như Thúy, 11 – Hoàng Vũ Thuật, 12 – Phạm Đương, 13 – Phan Hoàng, 14 – Phan Huyền Thư, 15 – Phan Thị Vàng Anh, 16 – Văn Cầm Hải, 17 – Vi Thùy Linh, 18 – Thanh Tùng, 19 – Thi Hoàng , 20 - Nguyễn Phan Quế Mai, 21 – Hoàng Hưng, 22 – Tuyết Nga, 23 – Giáng Vân, 24 – Mã Giang Lân, 25 – Mai Quỳnh Nam, 26 – Từ Quốc Hoài, 27 – Đỗ Doãn Phương
Ảnh mạng: Chân dung Vô lối thi tặc!
Không có thông tin chi tiết để hiển thị

Tam kiệt Văn chương Viêt

  •   20/06/2025 17:00:00
  •   Đã xem: 30
  •   Phản hồi: 0
Tam kiệt Văn chương Xứ Việt
Nhà văn, nhà triết học - Paul Nguyễn Hoàng Đức
Người Việt có câu: có cứng mới đứng đầu gió, với vốn liếng văn hóa dạn dầy, dài rộng, sâu lắng, và thi ca kim cổ đông tây đồ sộ, lại mang một tầm nhìn lớn cho thơ, một tầm vóc hoành tráng cho chữ nghĩa, làm gì Đỗ Hoàng chẳng tự tin và dám tả xung hữu đột đối mặt với lực lượng làm thơ mậu dịch đông rinh ríc. Có một phát hiện mới của loài người rằng: sáng tạo là việc của cá nhân chứ không phải làm việc là sản phẩm của đám đông. Hàng nghìn, hàng vạn người làm việc cũng không thể được gọi là sáng tác mà đó chỉ là sản xuất. Chính thế văn thơ bao cấp nhiều khi chỉ là chỗ không người. tôi vừa chia sẻ sự cô lập của Đỗ Hoàng vừa buộc phải thán phục anh. Nếu không có tâm hồn chịu sóng gió cô lập trước đám đông vần vèo nhũn nhẽo thì làm sao có được một Đỗ Hoàng thơ ca hoành tráng như vậy, dám làm một cây bút hàng đầu phản tỉnh lại cuộc chiến “nồi da sáo thịt”?! Bái phục! Bái phục!
Về thơ, đặc biệt thơ phản chiến, trình độ thơ, tình yêu thơ, tài năng thơ, Đỗ Hoàng chắc chắn luôn ngồi chiếu một. Việc đó giờ đây là bất khả bác bỏ. Tôi đã bình bầu 3 người giỏi kiến thức thơ ở Việt Nam là Trần Mạnh Hảo, Đỗ Hoàng, Nguyễn Hưng Quốc từ lâu, nhưng cho đến nay chưa ai bác được! Theo truyền thống tư duy của Tây, anh không bác được, anh không đề cử ai hơn, nghĩa là anh buộc phải chấp nhận! Tuy 3 người đó, nhưng về sáng tác thơ thì Nguyễn Hưng Quốc lại không bằng 2 vị kia.

Các tin khác

Thích Minh Đạo vịnh

Hội sư quốc doanh không hiểu gì giáo ly Phật giao. Chúng nó chỉ v

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập59
  • Hôm nay10,486
  • Tháng hiện tại329,899
  • Tổng lượt truy cập542,413
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi