Đạo đưc kinh

  •   30/07/2025 07:13:00
  •   Đã xem: 32
  •   Phản hồi: 0
CHƯƠNG 7
THAO QUANG
韜 光
Hán văn:
天 長 地 久. 天 地 所 以 能 長 且 久 者, 以 其 不 自 生, 故 能 長 生. 是以 聖 人 後 其 身 而 身 先, 外 其 身 而 身 存. 非 以 其 無 私 耶? 故 能 成 其 私.
Phiên âm:
1. Thiên trường, địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kỳ bất tự sinh, cố năng trường sinh.
2. Thị dĩ thánh nhân, hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn.
3. Phi dĩ kỳ vô tư da? Cố năng thành kỳ tư.
Dịch nghĩa:
Trời dài, đất lâu. Trời đất sở dĩ dài lâu chính vì không sống cho mình, vì thế nên trường sinh.
Vì vậy thánh nhân để thân ra sau mà thân ở trước; để thân ra ngoài mà thân còn.
Phải chăng vì không riêng tây, nên vẫn thành được cái riêng tây?
Đỗ Hoàng dịch thơ::
Thiên trường địa cửu không dừng
Cho thiên hạ không ngừng phát sinh.
Thánh nhân bâc thần tình
Thân ra sau mà hiển linh mãi còn.
Phải không vương bận núi non
Công thành mãi mãi vẫn tròn riêng tây!

Đạo đức kinh

  •   04/08/2025 10:53:00
  •   Đã xem: 25
  •   Phản hồi: 0
CHƯƠNG 9
VẬN DI
運 夷
Hán văn:
持 而 盈 之, 不 如 其 已. 揣 而 銳 之, 不 可 長 保. 金 玉 滿 堂, 莫 之 能 守. 富 貴 而 驕, 自 遺 其 咎. 功 成 名 遂, 身 退, 天 之 道.
Phiên âm:
1. Trì nhi doanh chi bất như kỳ dĩ.
2. Sủy nhi nhuệ chi bất khả trường bảo.
3. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ.
4. Phú quí nhi kiêu, tự di kỳ cữu.
5. Công thành, danh toại, thân thiên chi đạo.
Dịch nghĩa:
1. Giữ mà làm cho đầy mãi, không bằng dừng lại.
2. Mài cho nhọn, cho sắc không giữ được lâu.
3. Vàng ngọc đầy nhà, chẳng thể giữ được.
4. Giàu sang mà kiêu căng, sẽ tự vời tai họa.
5. Thành công, thành danh rồi thời nên lui thân, ấy là đạo Trời.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Làm đầy mãi , không bằng dừng lai
Nhọn săc sao giữ mãi đươc lâu
Cũng như vàng ngọc, nhà lầu
Kiêu căng tất sụp bùn sâu ai ngờ
Thành công rồi nên nên ngơ với ngác
Thành công rồi an lạc đạo Trời!
Thành danh nên biết nghỉ ngơi
Dễ thành bâc thánh trên đời không ngoa.

Dao đức kinh (tiếp)

  •   11/08/2025 14:37:00
  •   Đã xem: 20
  •   Phản hồi: 0
CHƯƠNG 10
NĂNG VI
能 為
Hán văn:
載 營 魄 抱 一 能 無 離 乎? 專 氣 致 柔, 能 如 嬰 兒 乎? 滌 除 玄 覽, 能 無 疵 乎? 愛 民 治 國, 能 無 為 乎? 天 門 開 闔, 能 無 雌 乎? 明 白 四 達, 能 無 知 乎? 生 而 畜 之, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 長 而 不 宰, 是 謂 玄 德.
Phiên âm:
1. Tải doanh phách bão nhất năng vô ly hồ?
2. Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ?
3. Dịch trừ huyền lãm, năng vô tì hồ?
4. Ái dân trị quốc năng vô vi hồ?
5. Thiên môn khai hạp, năng vô thư hồ?
6. Minh bạch tứ đạt năng vô tri hồ?
7. Sinh nhi súc chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng chi bất tể, thị vị huyền đức.
Dịch nghĩa:
Năng vi (Làm được không?)
1. Có thể đem hồn phách ôm ấp lấy Đạo, không lìa xa chăng?
2. Có thể giữ cho nguyên khí không tán loạn, giữ vẹn thiên chân, hoàn toàn theo được đạo Trời, (định luật trời đất) như anh nhi chăng?
3. Có thể tẩy trừ được (trần cấu), giữ được cho gương lòng trong sáng không tì vết chăng?
4. Có thể yêu dân trị nước, mà vẫn vô vi chăng?
5. Cơ trời mở đóng, có thể thuận ứng như con mái chă
6. Có thể sáng suốt mà như người vô tri chăng?
7. Sinh dưỡng vạn vật; sống mà vẫn như không có; làm mà không cậy công; khiến cho lớn mà không đòi làm chủ, thế là đức sâu xa vậy.
Đỗ Hoàng dịch thơ
Vẫn giữ nguyên của ta, nguyên khi
Trấu rơm mài hêt bỉ gương thần
Vô vi trị nước yêu dân
Cơ trời thuận ứng muôn phân như không
Sáng suốt mà nghiệp mà lòng gây dựng
Dưỡng sinh tương ứng vĩnh hằng.
Tài dưỡng sinh ánh như băng
Khiêm cung công đức.sánh bằng cao xa

50 nhfvawn Trung Quốc

  •   11/08/2025 14:41:00
  •   Đã xem: 26
  •   Phản hồi: 0
op 50 Nhà văn Trung Quốc Hiện đại và Đương đại!
Số 50 Trương Vĩ
Trương Vĩ, sinh tháng 11 năm 1956, quê ở Long Khẩu, tỉnh Sơn Đông. Ông là một nhà văn đương đại nổi tiếng và hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn Sơn Đông. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Thuyền Cổ", "Truyện ngụ ngôn tháng Chín" và "Cao nguyên".
Số 49 Thiết Ninh
Thiết Ninh, sinh năm 1957, là một nhà văn đương đại và hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc và Hội Nhà văn Hà Bắc. Các tác phẩm chính của bà bao gồm "Cổng Hoa Hồng", "Thành phố không mưa", "Người tắm sông", "Đống rơm", "Ôi, Hương Tuyết" và "Phụ nữ mang thai và bò". Tập tiểu luận "Đêm Trắng Của Phụ Nữ" của bà đã giành Giải thưởng Văn học Lỗ Tấn đầu tiên tại Trung Quốc, và truyện ngắn "Mãi Mãi Xa Cách" của bà đã giành Giải thưởng Văn học Lỗ Tấn lần thứ hai.
Số 48 Tam Mao
Tam Mao, tên thật là Trần Mậu Bình, sinh ra tại Chu Sơn, tỉnh Chiết Giang, từ năm 1943 đến năm 1991. Bà đã viết hơn mười tập tiểu luận và tiểu thuyết, bao gồm "Chuyện Từ Sa Mạc", "Con Lạc Đà Khóc", "Mùa Mưa Sẽ Không Bao Giờ Trở Lại", "Đêm Dịu Nhẹ", "Mơ Bao Nhiêu Hoa Rơi", "Nhìn Từ Phía Sau" và "Em Yêu". Văn xuôi của Tam Mao khai thác nhiều chủ đề, nhiều trong số đó thấm đẫm những cảm xúc kỳ lạ. Văn phong của bà giản dị, lãng mạn và quyến rũ một cách độc đáo, thể hiện tình yêu của bà đối với nhân loại, cuộc sống, tự do và thiên nhiên.
Số 47 Trương Kiệt
Trương Kiệt, sinh năm 1937 tại Bắc Kinh, là nhà văn hạng nhất toàn quốc, một nhà văn có những đóng góp đặc biệt được Quốc vụ viện ghi nhận, hội viên Hội Nhà văn Trung Quốc và Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Bắc Kinh. Các tác phẩm của Trương Kiệt, tập trung vào chủ đề "nhân văn" và "tình yêu", thường gây tranh cãi trong giới văn chương. Bà không ngừng mở rộng biểu đạt nghệ thuật, khai thác tâm hồn con người với cảm xúc mãnh liệt, thể hiện những tác phẩm tinh tế, sâu sắc và tao nhã. Tiểu thuyết "Cánh Nặng" của bà đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ hai. Tiểu thuyết "Vô Ngôn" của ông đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ sáu. Ông là nhà văn duy nhất giành được hai Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn.
Số 46 A Thành
A Thành, sinh năm 1949 tại Bắc Kinh, tên thật là Chung A Thành. Tác phẩm tiêu biểu của ông là "Vua Cờ" và ông đã viết kịch bản cho "Phù Dung Trấn". Ông là một đại diện tiêu biểu của dòng tiểu thuyết đương đại tìm về cội nguồn, với những tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa truyền thống Trung Hoa.
Số 45 Hàn Thiếu Cung
Hàn Thiếu Cung, được biết đến với các bút danh như Thiếu Cung và Người Lái đò, quê ở Trường Sa, Hồ Nam. Ông là một nhân vật chủ chốt trong việc thúc đẩy "văn học tìm gốc" vào năm 1985, xuất bản "Văn học cội nguồn" và đề xuất khẩu hiệu "tìm gốc". Các tác phẩm đáng chú ý nhất của ông bao gồm "Bố Bố" và "Mã Kiều Từ điển", thể hiện xu hướng khai thác sức mạnh từ chiều sâu của lịch sử và văn hóa dân tộc, thấm đẫm những hàm ý triết học sâu sắc, và có tác động đáng kể đến giới văn học.
Số 44 Lưu Chấn Vân
Lưu Chấn Vân sinh tháng 5 năm 1958 tại huyện Diên Tân, tỉnh Hà Nam. "Một câu đáng giá vạn câu" đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ 8. Phong cách tự sự của tiểu thuyết gợi nhớ đến những cuốn nhật ký hoang dã của triều đại nhà Minh và nhà Thanh, với ngôn từ súc tích và sự hài hước sống động. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Một Đống Lông Vũ", "Tên Tôi Là Lưu Dược Tiến" và "Một Câu Nói Đáng Giá Ngàn Người".
Vị trí thứ 43: Vương Thước
Vương Thước, một nhà văn và biên kịch nổi tiếng, bắt đầu viết văn vào năm 1978 và đã xuất bản các tiểu thuyết như "Chơi Cho Cảm Giác Mạnh", "Chết Sau Cơn Nghiện", "Những Loài Thú Dữ" và "Trông Đẹp". Những tiểu thuyết và thơ đầu tay của ông dựa trên trải nghiệm lớn lên trong doanh trại quân đội. Những tiểu thuyết sau này của ông phát triển một phong cách độc đáo, đặc trưng bởi những lời thoại dễ hiểu nhưng sống động và lối kể chuyện dí dỏm, châm biếm, chế giễu lối diễn ngôn độc đoán và lập trường tinh hoa của giới trí thức. Sau đó, ông bước vào lĩnh vực điện ảnh và truyền hình, đạt được thành công với loạt phim truyền hình "Khát Vọng" và "Chuyện Ban Biên Tập".
Giải 42: Trương Thành Chí
Trương Thành Chí sinh năm 1948 tại Bắc Kinh. Ông đã giành Giải thưởng Truyện ngắn Quốc gia lần thứ Nhất, Giải thưởng Tiểu thuyết Xuất sắc Quốc gia lần thứ Hai và thứ Ba, và Giải thưởng Sáng tác Văn học Dân tộc thiểu số Quốc gia. Ông đã xuất bản hơn 30 cuốn sách. Trong những năm 1980 và 1990, ông được biết đến với "khí chất duy tâm". Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm các tập truyện ngắn "Hắc Mã" và "Bắc Giang" và tiểu thuyết "Đồng Cỏ Vàng". Trương Thành Chí sở hữu một phong cách thẩm mỹ độc lập, phóng khoáng, trang nghiêm, sâu sắc, lạnh lùng và nồng nàn.
Giải 41: Thư Đình
Thư Đình, tên thật là Cung Bội Ngọc, sinh năm 1952. Quê bà ở Tuyền Châu, Phúc Kiến. Bà là một nữ thi sĩ đương đại và là đại diện của trường phái Thơ Mộng. "Đến Cây Sồi" là một tác phẩm tiêu biểu của trường phái Thơ Mộng, và bà ngang hàng với Bối Dao và Cố Thành. Tuy nhiên, trên thực tế, thơ bà gần gũi hơn với những nhà thơ sâu sắc và truyền thống hơn của thế hệ trước. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Chiếc thuyền buồm", "Hoa diên vĩ biết hát" và "Hoa thủy tổ".
Số 40: Cổ Thành
Cổ Thành, một nhân vật hàng đầu của Thơ Mộng, được biết đến như một nhà thơ lãng mạn theo chủ nghĩa duy linh đương đại. Những bài thơ đầu tay của ông mang phong cách ngây thơ, trẻ thơ và tâm trạng mơ mộng, sử dụng ngôn ngữ trực giác và ấn tượng để ca ngợi cuộc sống tuổi trẻ như trong truyện cổ tích. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Một thế hệ", "Mắt đen", "Anh Tử" và "Trăng ban ngày".
Số 39: Đinh Linh
Đinh Linh (tháng 10 năm 1904 - tháng 3 năm 1986) quê ở Lâm Lý, tỉnh Hồ Nam. Bà là một nhà văn và nhà hoạt động xã hội đương đại nổi tiếng của Trung Quốc. "Nhật ký của Tiểu thư Sophia" và "Mặt trời chiếu trên sông Tang Can" là những tác phẩm tiêu biểu của bà, và bà đã được trao Giải thưởng Stalin về Văn học và Nghệ thuật.
Số 38: Mục Đan
Mục Đan (1918-1977), tên thật là Tra Lương Chính, là một nhà thơ yêu nước và dịch giả nổi tiếng. Từ những năm 1980, nhiều chuyên gia văn học hiện đại đã coi ông là nhân vật hàng đầu của thơ ca hiện đại. Mục Đan đã kết hợp chủ nghĩa hiện đại Tây Âu với thơ ca truyền thống Trung Quốc, tạo nên một phong cách giàu tính biểu tượng và suy tư tâm linh. Ông là một nhà thơ tiêu biểu của "Trường phái thơ Cửu Diệp". Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Cuộc viễn chinh", "Tuyển tập thơ Mục Đan" và "Lá cờ".
Số 37 Bính Tân
Bính Tân, tên thật là Tạ Uyển Anh, là một nhà thơ, nhà văn, dịch giả và nhà văn thiếu nhi nổi tiếng. Bà từng là Chủ tịch Danh dự của Ủy ban Trung ương Liên đoàn Dân chủ Trung Quốc, Phó Chủ tịch Liên đoàn Văn học Nghệ thuật Trung Quốc, và Chủ tịch Danh dự kiêm Cố vấn của Hội Nhà văn Trung Quốc. Cuộc đời của Bính Tân gắn liền với những biến động của thế kỷ, và bà đã miệt mài sáng tác trong suốt bảy mươi lăm năm. Bà là một trong những người sáng lập Phong trào Văn học Mới. Bà là người tiên phong cho nhiều phong cách văn học được gọi là "Phong cách Băng Tâm" và có những đóng góp to lớn trong việc hiện đại hóa văn học. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Những vì sao", "Nước suối" và "Thư gửi độc giả trẻ".
Số 36: Tô Đồng
Tô Đồng, quê ở Tô Châu, tỉnh Giang Tô, là nhà văn chuyên nghiệp thường trú tại Chi hội Nhà văn Trung Quốc tại Giang Tô. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Hồng phấn", "Vợ chồng phi tần", "Bờ sông", "Lúa gạo", "Sự nghiệp triều đình" và "Chim hoàng yến". Truyện ngắn "Vợ chồng phi tần" của ông đã được chuyển thể thành phim "Đèn lồng đỏ treo cao" của Trương Nghệ Mưu, đạt được nhiều thành công cả trong nước lẫn quốc tế. Tiểu thuyết "Chim sẻ vàng" của ông đã giành được Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ 9.
Giải 35: Trương Hành Thủy
Trương Hành Thủy, 1895-1967, là một nhà văn nổi tiếng của thể loại tiểu thuyết chương hồi và là đại diện của trường phái Vịt trời và Bướm. Ông được tôn sùng là "bậc thầy của tiểu thuyết chương hồi" và là "bậc thầy văn học đại chúng" đầu tiên trong lịch sử văn học hiện đại. Các tác phẩm của ông có cốt truyện phức tạp và bố cục chặt chẽ, có cấu trúc tốt, kết hợp giữa tiểu thuyết chương hồi truyền thống của Trung Quốc với kỹ thuật mới của tiểu thuyết phương Tây. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Thời đại hoàng kim", "Nước mắt và tiếng cười" và "Xuân thu thời nhà Minh".
Giải 34: Trần Trung Thực
Trần Trung Thực là một nhà văn đương đại nổi tiếng của Trung Quốc và là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc. "Bạch Lộc Nguyên" là tác phẩm tiêu biểu của ông. Năm 1997, "Bạch Lộc Nguyên" đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ tư.
Giải 33: Quách Mạt Nhược
Quách Mạt Nhược, 1892-1978, quê ở Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, là một nhà văn, nhà viết kịch, nhà thơ, sử gia và nhà cổ tự học nổi tiếng. Ông là người sáng lập ra thơ ca hiện đại Trung Quốc. Tập thơ tiêu biểu của ông, "Nữ thần", đã thoát khỏi những ràng buộc của thơ ca truyền thống Trung Quốc, phản ánh trọn vẹn tinh thần của Phong trào Ngũ Tứ. Nó đã tiên phong cho một thế hệ phong cách thơ mới trong lịch sử văn học Trung Quốc và là đại diện tiêu biểu của thơ ca lãng mạn đương đại. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Nữ thần" và "Tôi là Thiên khuyển".
Giải 32: Lương Sĩ Khâu
Lương Sĩ Khâu, tháng 1 năm 1903 - tháng 11 năm 1987, sinh ra tại Bắc Kinh. Ông là một nhà tiểu luận, học giả, nhà phê bình văn học và dịch giả nổi tiếng của Trung Quốc, và là chuyên gia đầu tiên của Trung Quốc về Shakespeare. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm "Tiểu luận từ Yashe".
Giải 31: Triệu Thụ Lý
Triệu Thụ Lý, 1906-1970, quê ở huyện Tần Thủy, tỉnh Sơn Tây, là một tiểu thuyết gia hiện đại và Nghệ sĩ Nhân dân nổi tiếng. Tiểu thuyết của ông thường lấy bối cảnh nông thôn miền Bắc Trung Quốc, phản ánh những thay đổi trong xã hội nông thôn, những xung đột và đấu tranh nội bộ, đồng thời khắc họa nhiều nhân vật nông thôn đa dạng. Ông là người sáng lập "Trường phái Sơn Diệu Đan". Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Tiểu Nhị Hắc Kết Hôn" và "Tam Lý Loan".
Số 30: Lâm Ngữ Đường
Lâm Ngữ Đường là một trong những cộng tác viên chính của "Yusi" (Những Sợi Tơ Lụa) từ năm 1895 đến năm 1976. Năm 1932, ông biên tập tạp chí "Luận Ngữ" xuất bản nửa kỳ. Năm 1935, ông thành lập "Yuzhou Feng", chuyên viết về tự sự với phong cách thư thái, trở thành một nhân vật chủ chốt của "Luận Ngữ phái". Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Khoảnh Khắc Bắc Kinh", "Gió và Hạc", và "Đất Nước và Nhân Dân".
Số 29: Văn Nhất Đa (Wen Yiduo)
Văn Nhất Đa (11/1899 - 7/1946) là một nhà yêu nước vĩ đại của Trung Quốc hiện đại, một chiến sĩ dân chủ kiên cường, một trong những lãnh tụ đầu tiên của Đồng Minh Dân Chủ Trung Quốc, một nhà thơ, một học giả và một chiến sĩ dân chủ. Ông là một nhà thơ tiêu biểu của trường phái Trăng Lưỡi Liềm. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm "Ngọn nến đỏ" và "Nước chết".
Số 28: Lục Dao
Lục Dao (1949-1992) là một nhà văn Trung Quốc đương đại. Sinh ra trong một gia đình nông dân nhiều thế hệ ở miền bắc Thiểm Tây, kiệt tác "Thế giới bình thường" của ông, với sự hùng tráng và chất sử thi, mang đến một cái nhìn toàn cảnh về những thay đổi sâu sắc trong đời sống xã hội, tư tưởng và cảm xúc của người dân ở thành thị và nông thôn Trung Quốc thời kỳ cải cách. Tác phẩm đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ ba.
Số 27: Tiểu Hồng
Tiểu Hồng là một nữ nhà văn Trung Quốc hiện đại nổi tiếng. Các tác phẩm tiêu biểu của bà bao gồm "Cánh đồng sinh tử", "Cuộc sống cô độc", "Hạt cát", "Mã Bá Lạc" và "Hồ Lan truyện". Trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc hiện đại, những tác phẩm như "Cánh đồng sinh tử" và "Hồ Lan truyện" đã nuôi dưỡng và tạo nên một phong cách văn học độc đáo mang phong cách Tiêu Hồng - phong cách văn xuôi của tiểu thuyết Trung Quốc hiện đại. Ý nghĩa của nó nằm ở việc "thu hẹp khoảng cách giữa văn học hiện đại và văn học truyền thống về mặt ý thức thẩm mỹ".
Số 26: Bạch Hiền Dũng
Bạch Hiền Dũng, sinh tháng 7 năm 1937, là một nhà văn đương đại nổi tiếng của Đài Loan. Ông là con trai của Bạch Sùng Hy, một vị tướng cấp cao của Quốc Dân Đảng. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Người Đài Bắc", "Mộng trong vườn" và "Người New York".
Số 25: Dư Quang Trung
Dư Quang Trung sinh tháng 10 năm 1928 tại Nam Kinh. Năm 1953, ông đồng sáng lập Hội Thơ "Ngôi sao xanh" cùng với Tần Tử Hào, Chung Định Văn và những người khác. Ngôn ngữ văn chương của Dư Quang Trung phức tạp và luôn biến đổi, nỗ lực rèn luyện một loại thuốc tiên "trong lò lửa chữ Hán". Về mặt thơ ca, Dư Quang Trung được coi là một "người đa thê trong nghệ thuật". Phong cách của ông rất đa dạng: những bài thơ thể hiện khát vọng và lý tưởng thường hùng tráng và vang dội, trong khi những bài thơ khắc họa nỗi nhớ nhà và tình yêu thường tinh tế và êm dịu. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm "Nỗi nhớ nhà", "Lông vũ xanh", "Chợ đêm trên thiên đường" và "Bạch ngọc khổ qua".
Số 24: Ai Thanh
Ai Thanh, quê ở Kim Hoa, tỉnh Chiết Giang, là một nhà thơ hiện đại Trung Quốc. Ông được coi là một trong những nhân vật hàng đầu của thơ ca Trung Quốc hiện đại. Các tác phẩm chính của ông bao gồm "Đại Anh Hà - Bà vú của tôi", "Bài ca trở về" và "Hóa thạch cá". Trước giải phóng, Ai Thanh đã sử dụng lối viết sâu sắc, nồng nhiệt và phóng khoáng để nguyền rủa bóng tối và ca ngợi ánh sáng. Sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ông ca ngợi nhân dân, ca ngợi ánh sáng và suy ngẫm về cuộc sống. Ai Thanh nổi tiếng với những bài hát mang đậm tính nghệ thuật cá nhân, thể hiện thẩm mỹ thơ ca của ông về "sự giản dị, thuần khiết, tập trung và sáng suốt".
Số 23 Vương Mạnh
Vương Mạnh, quê ở Nam Bì, tỉnh Hà Bắc, sinh tháng 10 năm 1934. Ông là một nhà văn và học giả đương đại Trung Quốc. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm "Tuổi trẻ muôn năm" và "Sự chuyển hóa của một con người đang sống". Các tác phẩm của ông phản ánh hành trình gian nan của người dân Trung Quốc trên con đường tiến lên. Tinh thần lạc quan và nhiệt huyết đã đưa ông trở thành một trong những nhà văn sung mãn và sáng tạo nhất trong văn học đương đại. Năm 2015, tiểu thuyết "Phong cảnh nơi đây" của ông đã giành được Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ chín.
Số 22 Tôn Lý
Tôn Lý, tên thật là Tôn Thục Huân, là người sáng lập "Trường phái Liên Trì". Trước khi được giải phóng, ông đã vẽ nên những bức chân dung văn học chj Hội nhà văn Tứ Xuyên. Khi 41 tuôi, ông giành giải thưởng Mo Thuunng, tỉnh Tứ Xuyên. Ông là một nhà văn đương đại nổi tiếng và là Chủ tịch Hội Nhà văn Tứ Xuyên. Năm 2000, khi mới 41 tuổi, Alai đã giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ năm cho tiểu thuyết "Bụi lắng", trở thành người chiến thắng Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn.
(còn nữa)
Dỗ Hoàng theo Tân Hoa Xã
Nhà văn Mặc Ngôn

Do truong

  •   12/08/2025 08:22:00
  •   Đã xem: 14
  •   Phản hồi: 0
Ý kiến của Ngô Hiền:
- "Nếu không đọc những bài phản biện thơ của Đỗ Hoàng thì tôi vẫn nghĩ mấy ông chủ tịch hội Nhà Vãn như Nguyễn Quang Thiều và đội ngũ lãnh đạo Văn hóa văn nghệ nuóc nhà cũng xập xệ đại loại như lãnh đạo các ngành khác. Nghĩa là nó cũng gồm phần lớn là những kẻ cơ hội, vụ lợi, bất tài, dối trên lừa dưới…nhưng ít ra nó cũng có chút kiến thưc của ngành nó phụ trách. Đằng này mấy ông chùm Nhà Thơ mà chẳng có tí gì gọi là thơ cả. Thơ gì mà ghê tởm như bãi mửa của người say. Không thể ngửi được, mà ông ấy dịch ra đó là mùi của lửa hay “sự mất ngủ của lửa”???
Thậm chí tôi còn chẳng hiểu ông ấy định nói gì, thì trẻ con và những người lao động hiểu sao nổi. Vậy các ông ấy viết cho ai? Viết để làm gì?
Tôi đề nghị ông Đỗ Hoàng đứng ra làm cuộc cách mạng tẩy chay cái lối thơ ca bệnh hoạn, di tật ấy đi, lấy lại sự trong sáng của ngôn ngữ nói chung và thơ ca nói riêng. Đã thế lại còn bê vào sách giáo khoa cho con trẻ. Cứ đà này,
Tôi e rằng không lâu nữa, thế hệ trẻ Việt Nam sẽ không nói với nhau bằng ngôn ngữ loài người nưa đâu!"

Lõ Tấn đứng đầu

  •   12/08/2025 14:53:00
  •   Đã xem: 13
  •   Phản hồi: 0
Lỗ Tấn đứng đầu và Giả Bình Ao đứng thứ sáu trong "60 nhà văn vĩ đại nhất thế kỷ". Cơ sở cho điều này là gì?
Bài viết của Đoàn Hồng Cương
Việc tóm tắt những thành tựu văn học trong một khoảng thời gian cụ thể và xếp hạng các nhà văn theo thứ hạng vốn rất khó khăn.
Thứ nhất, văn học thuộc về khoa học nhân văn, và giá trị thực tiễn của nó thấp hơn đáng kể so với khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Không giống như khoa học xã hội, nó có thể mang lại lợi ích trực tiếp cho nhân loại và tạo ra kết quả tức thời. Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội có nhiều điểm chung, cho phép nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, văn học thì không thể. Xét về mặt biểu đạt sáng tạo, văn học là một hình thức biểu đạt siêu hình và mang tính cá nhân, đề cao tính độc đáo cá nhân và các hình thức biểu đạt đa dạng. Tác động của văn học đối với người đọc không phải là vật chất, mà là sự nuôi dưỡng và hoàn thiện về mặt tinh thần.
Thứ hai, không có tiêu chuẩn cố định nào cho việc diễn giải văn học. Cùng một tác phẩm văn học có thể được hiểu theo những cách khác nhau bởi các đối tượng độc giả khác nhau, thường giống như "một ngàn Hamlet". Mỗi độc giả, do nền tảng văn hóa, trình độ nhận thức, kinh nghiệm sống, hiểu biết sâu sắc và cách tiếp cận khác nhau, có thể đưa ra nhiều cách diễn giải khác nhau. Việc diễn giải văn học luôn là vấn đề quan điểm cá nhân, và điều này là bình thường.
Vì vậy, nếu một nhóm nhà văn được tập hợp lại để xếp hạng và đánh giá ai mạnh hơn ai yếu hơn, chắc chắn sẽ gây ra tranh cãi.
Hơn một thập kỷ trước, một nhà xuất bản ở Bắc Kinh đã không tiếc công sức và nhân lực, mời bốn chuyên gia văn học—Bạch Diệp, Trần Quân Đào, Nghê Bội Canh và Hạ Thiếu Quân—làm người lên kế hoạch chính. Họ cũng mời hơn 20 nhà phê bình văn học, giáo sư, nhà văn và nhà thơ, bao gồm Lôi Đạt, Hồng Tự Thành, Tạ Miên, Trình Quang Vĩ, Dương Khuôn Hàn và Trương Quýnh. Họ đã thành lập một nhóm 25 người được gọi là "Ủy ban Tuyển chọn Chuyên gia Văn học Nổi tiếng Trung Quốc Hiện đại và Đương đại" và tổ chức một cuộc tuyển chọn mang tên "60 Nhà văn của Thế kỷ". Bằng cách chấm điểm cho mỗi nhà văn, họ đã chọn ra 60 cây đại thụ văn học Trung Quốc của thế kỷ 20.
Đánh giá của chuyên gia và độc giả mỗi bên chiếm 50%. Sau khi kết quả được công bố, nhiều người tỏ ra hoài nghi, gây ra tranh cãi dai dẳng trong và ngoài giới văn chương.

Tuy nhiên, xét theo tiêu chí tuyển chọn, chúng tương đối công bằng và khách quan, và uy tín của chúng là không thể bàn cãi.
Tuyển chọn sơ bộ bao gồm 100 nhà văn đương đại và hiện đại có ảnh hưởng, từ sáu bậc thầy vĩ đại của văn học hiện đại—Lỗ, Quách, Mao, Bá và Tào—đến các nhà thơ như Văn Nhất Đao, Từ Chí Mặc, Ngải Tình, Tàng Khả Giai, Cổ Thành, Hải Tử, Bối Đao và Thư Đình, cũng như các nhà văn đương đại như Trần Trung Thực, Lỗ Nghiêu, Giả Bình Ao, Mạc Ngôn và Dư Hoa, và các tiểu thuyết gia võ hiệp như Kim Dung, Cổ Long và Lương Vũ Sinh. Có thể nói rằng các nhà văn thuộc mọi thể loại văn học đều có cơ hội được xem xét.
Ban giám khảo đã chọn từ một đến bốn tác phẩm tiêu biểu của mỗi tác giả và chấm điểm dựa trên giá trị văn học và ảnh hưởng của chúng. Sau đó, hội đồng trao phần đánh giá cuối cùng cho độc giả, những người sẽ chấm điểm các tác phẩm dựa trên mức độ yêu thích, khả năng đọc hiểu và chất lượng văn chương. Cuối cùng, điểm số cuối cùng được tính bằng cách cộng điểm của chuyên gia và độc giả, rồi chia đôi. Điểm số cuối cùng này là cơ sở duy nhất để xếp hạng các tác giả.
Cuối cùng, nhà văn Lỗ Tấn (1881-1936) đã giành vị trí đầu tiên một cách thuyết phục, nhận được điểm tuyệt đối 100 từ cả đánh giá của chuyên gia và độc giả, trở thành người chiến thắng duy nhất ở cả hai hạng mục.
Các vị trí từ 2 đến 10 là Trương Ái Linh (1920-1995), Thẩm Tùng Văn (1902-1988), Lão Xá (1899-1966), Mao Thuẫn (1896-1981), Giả Bình Ao (đương đại), Bá Tiến (1904-2005), Tào Vũ (1910-1996), Tiền Trung Thư (1910-1998), và Dư Hoa (đương đại).
Năm nhà văn khác nhận được điểm tuyệt đối từ các chuyên gia: Trương Ái Linh, Thẩm Tùng Văn, Mao Đôn, Tào Vũ và Vương Tăng Kỳ (1920-1997). Điểm đánh giá của độc giả Vương Tăng Kỳ chỉ đạt 76, khiến thứ hạng chung của ông tụt xuống vị trí thứ 11.
Tranh cãi xoay quanh danh sách này bắt nguồn từ năm điểm sau: lập luận chính là một số nhà văn được xếp hạng quá cao hoặc quá thấp, không tương xứng với sức mạnh và danh tiếng của họ.
Đầu tiên, top 10 bao gồm Giả Bình Ao (xếp thứ 6) và Dư Hoa (xếp thứ 10). Nhiều độc giả cho rằng hai nhà văn đương đại này được xếp hạng quá cao. Đặc biệt, thứ hạng của Giả Bình Ao cao hơn đáng ngạc nhiên so với các đại văn hào như Ba Kim, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược (1892-1978), và Tiền Trung Thư, và cao hơn nhiều so với các bậc thầy văn chương như Chu Tử Thanh (1898-1948), Dư Đại Phu (1896-1945), Đái Vọng Thư (1905-1950), Tôn Lệ (1903-2002), Ngải Thanh (1910-1996), Triệu Thục Ly (1906-1970), Lương Sĩ Thu (1903-1987), và Lưu Thanh (1916-1978). Thứ hạng của Dư Hoa cũng cao hơn nhiều bậc thầy văn chương khác.
Thứ hai, Quách Mạt Nhược ít nhất là một trong "Lục đại danh tác" của văn học hiện đại, chỉ xếp sau Lỗ Tấn, nhưng ông lại xếp thứ 33 trong danh sách này, một sự tính toán sai lầm nghiêm trọng.
Thứ ba, Kim Dung (1924-2018) được xếp hạng 15, nhưng với tư cách là một tiểu thuyết gia võ hiệp hoạt động ngoài giới văn học chính thống, thứ hạng của ông có phần bị đánh giá quá cao.
Thứ tư, danh sách này thường đánh giá thấp các nhà thơ để thiên vị các tiểu thuyết gia. Nhà thơ được xếp hạng cao nhất, Từ Chí Mặc (1897-1931), chỉ xếp hạng 12.
Thứ năm, thứ hạng 2 của Trương Ái Linh đáng để giới văn chương suy ngẫm.
Thứ sáu, thứ hạng 12 của Mạc Ngôn bị một số độc giả cho là hơi thấp.
Tiếp theo, chúng ta hãy cùng phân tích từng tác phẩm gây tranh cãi này.
Các tác phẩm của Giả Bình Ao gửi dự thi là "Phục Tụ", "Cao Lão Trang" và "Phi Độ". Trong số 25 thành viên hội đồng chuyên môn, có 24 người đã bình chọn cho ông. Điều này có nghĩa là, ngoài Lỗ Tấn, Trương Ái Linh, Thẩm Tùng Văn, Mao Đôn, Tào Ngu và Vương Tăng Kỳ, tất cả đều đạt điểm tuyệt đối, Giả Bình Ao nhận được đánh giá cao nhất từ chuyên gia, đây là lý do chính khiến ông xếp thứ sáu.
Hơn nữa, Giả Bình Ao là một nhà văn đương đại, gần gũi với cuộc sống của chúng ta. Tiểu thuyết của ông chủ yếu tập trung vào đề tài nông thôn, và văn học nông thôn được đông đảo độc giả Trung Quốc đón nhận và ủng hộ mạnh mẽ. Do đó, Giả Bình Ao có lợi thế về lượng độc giả, góp phần vào thứ hạng chung của ông.
Thứ hạng cao của Dư Hoa cũng xuất phát từ những lý do tương tự.

Thành tựu văn học của Quách Mạt Nhược chủ yếu được thể hiện qua thơ ca. Các tác phẩm của ông nổi tiếng với chất trữ tình cao cả, và ông thường ca ngợi hình ảnh vĩ đại và hoàn hảo. Các tiêu chuẩn thẩm mỹ hiện đại không khuyến khích phong cách thơ này, đây là lý do chính khiến Quách Mạt Nhược xếp hạng thấp.
Thứ hạng của Kim Dung chủ yếu được nâng lên nhờ độc giả, với số điểm 98, chỉ đứng sau Lỗ Tấn (100 điểm) và Tiền Trọng Thư (99 điểm). Điều này chứng tỏ độc giả có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng tác phẩm của một nhà văn. Tương tự như Kim Dung, nhà văn đương đại Lỗ Diệu (1949-1992) cũng dựa vào sự ủng hộ của độc giả để đạt được thứ hạng cao.
Lý do chính khiến các nhà thơ thường xếp hạng thấp là vì thơ chủ yếu mang tính trữ tình, ít từ và phạm vi hạn chế. So với tiểu thuyết, thơ thiếu chiều sâu, bề rộng và chiều sâu biểu đạt. Thứ hạng chung của các nhà thơ bị hạ thấp bởi chủ đề, chứ không phải bởi sức mạnh của họ.
Việc Trương Ái Linh xếp thứ hai cho thấy một chân lý: chỉ những tác phẩm thu hút cả giới thượng lưu lẫn đại chúng mới thực sự hay. Cả giới chuyên môn lẫn độc giả đều trân trọng những tác phẩm thu hút cả giới thượng lưu lẫn đại chúng, và họ sẽ dành nhiều lời khen ngợi cho chúng.
Mạc Ngôn, đồng hạng 12 với Từ Chí Mặc, xếp thứ 12, và với nhiều nhà văn lớn được công nhận đứng sau ông, đây là một thứ hạng đáng nể. Tuy nhiên, sau khi Mạc Ngôn giành giải Nobel Văn học năm 2012, danh tiếng và sức ảnh hưởng của ông đã tăng vọt. Nhiều độc giả đương đại tin rằng Mạc Ngôn có thể dễ dàng lọt vào top 5, hoặc ít nhất là không thua kém nhà văn cùng thời Giả Bình Ao.
Quan điểm này thực sự đúng. Xét về giá trị nghệ thuật và sức ảnh hưởng của các tác phẩm, tôi tin Mạc Ngôn có đủ khả năng làm được điều đó.
Tác giả: Bình luận Văn hóa Hồng Hồ Anh Cương | 23/05/2020
Đỗ Hoàng theo Nhân dân nhật báo

Ý kieenss cuẩ Ngô Hiền

  •   12/08/2025 14:55:00
  •   Đã xem: 13
  •   Phản hồi: 0
Ý kiến của Ngô Hiền: - "Nếu không đọc những bài phản biện thơ của Đỗ Hoàng thì tôi vẫn nghĩ mấy ông chủ tịch hội Nhà Vãn như Nguyễn Quang Thiều và đội ngũ lãnh đạo Văn hóa văn nghệ nuóc nhà cũng xập xệ đại loại như lãnh đạo các ngành khác. Nghĩa là nó cũng gồm phần lớn là những kẻ cơ hội, vụ lợi, bất tài, dối trên lừa dưới…nhưng ít ra nó cũng có chút kiến thưc của ngành nó phụ trách. Đằng này mấy ông chùm Nhà Thơ mà chẳng có tí gì gọi là thơ cả. Thơ gì mà ghê tởm như bãi mửa của người say. Không thể ngửi được, mà ông ấy dịch ra đó là mùi của lửa hay “sự mất ngủ của lửa”???Thậm chí tôi còn chẳng hiểu ông ấy định nói gì, thì trẻ con và những người lao động hiểu sao nổi. Vậy các ông ấy viết cho ai? Viết để làm gì?Tôi đề nghị ông Đỗ Hoàng đứng ra làm cuộc cách mạng tẩy chay cái lối thơ ca bệnh hoạn, di tật ấy đi, lấy lại sự trong sáng của ngôn ngữ nói chung và thơ ca nói riêng. Đã thế lại còn bê vào sách giáo khoa cho con trẻ. Cứ đà này,Tôi e rằng không lâu nữa, thế hệ trẻ Việt Nam sẽ không nói với nhau bằng ngôn ngữ loài người nưa đâu!"

Mao Trạch Đông

  •   12/08/2025 20:44:00
  •   Đã xem: 14
  •   Phản hồi: 0
Mao Trạch Đông
Thời đại: Hiện đại
(26 tháng 12 năm 1893 – 9 tháng 9 năm 1976), tự là Nhuận Chi (ban đầu là Ung Chi, sau đổi thành Nhuận Chi), bút danh là Tử Nhân. Quê ở Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam. Là một nhà lãnh đạo của nhân dân Trung Quốc, một người theo chủ nghĩa Marx, một nhà cách mạng vô sản vĩ đại, một chiến lược gia và nhà lý luận, ông là người sáng lập và lãnh đạo chính của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quân Giải phóng Nhân dân và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đồng thời là một nhà thơ và nhà thư pháp. Từ năm 1949 đến năm 1976, Mao Trạch Đông giữ chức vụ lãnh đạo tối cao của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Những đóng góp của ông cho sự phát triển của chủ nghĩa Marx-Lenin, lý luận quân sự và nền tảng lý luận của Đảng Cộng sản được gọi là Tư tưởng Mao Trạch Đông. Vì Mao Trạch Đông nắm giữ hầu hết các chức vụ quan trọng, ông còn được gọi một cách kính trọng là "Chủ tịch Mao". Mao Trạch Đông được coi là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử thế giới hiện đại và tạp chí Time đã vinh danh ông là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20.

Tàu Thần Châu 20 (tiếp)

  •   13/08/2025 20:37:00
  •   Đã xem: 14
  •   Phản hồi: 0
Phi hành đoàn Thần Châu 20 ra mắt; Chỉ huy Trần Đông bày tỏ sự tin tưởng vào đội ngũ.
(Tin thêm)
Bài viết của Lâm Chí Dĩnh
Ngày 23 tháng 4, phi hành đoàn Thần Châu 20 gồm Trần Đông, Trần Trung Thụy và Vương Kiệt đã có buổi gặp gỡ với giới truyền thông Trung Quốc và quốc tế tại Trung tâm Phóng Vệ tinh Tửu Tuyền.
Ba thành viên của phi hành đoàn lần lượt là một phi công và một kỹ sư. Chỉ huy Trần Đông bày tỏ sự tin tưởng vào đội ngũ, nói rằng họ có thể làm được mọi việc khi cùng nhau; nhưng
Trần Đông bày tỏ hy vọng sẽ tích lũy thêm kinh nghiệm và đột phá thông qua chuyến bay. Anh cho biết sẽ dốc toàn lực, dẫn dắt phi hành đoàn hoàn thành nhiệm vụ được giao và dũng cảm tiến vào vũ trụ bao la.
Trần Đông cho biết phi hành đoàn Thần Châu 20 đã trải qua khóa huấn luyện đồng đội chuyên sâu, có sự hiểu biết sâu sắc và mối quan hệ gắn kết chặt chẽ. Đội ngũ đã thể hiện cả kỹ năng điều khiển chính xác và tư duy nhanh nhạy của phi công, cũng như phương pháp tiếp cận nghiêm ngặt và nền tảng lý thuyết vững chắc của các kỹ sư. Cả ba người đều siêng năng, kiên cường, tỉ mỉ và đoàn kết, đóng góp trí tuệ và sức mạnh của mình cho sứ mệnh. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào đội ngũ của chúng tôi: cùng nhau, chúng tôi có thể hợp nhất nguồn lực; tách ra, mỗi người chúng tôi có thể hoàn thành nhiệm vụ và tự lập. Trần Đông, phi hành gia của sứ mệnh bay vũ trụ có người lái Thần Châu 20.
Trần Trung Thụy, cựu phi công chiến đấu, cho biết sự phát triển của ngành hàng không vũ trụ mang lại cho anh niềm tự hào to lớn. Anh cảm thấy may mắn khi có thể kết nối chặt chẽ giấc mơ cá nhân của mình với Giấc mơ Trung Hoa và giấc mơ không gian. "Với trái tim rộng mở, đôi chân vững vàng, chúng ta theo đuổi ước mơ vươn tới thiên đường và sống trọn vẹn tuổi trẻ." Trần Trọng Duệ, phi hành gia của sứ mệnh du hành vũ trụ có người lái Thần Châu 20
Vương Kiệt phát biểu rằng khi ước mơ cá nhân giao thoa và kết nối với sự phát triển của quốc gia, và khi phấn đấu vì chúng, mọi nỗ lực đều tỏa sáng rực rỡ, góp phần xây dựng một cường quốc vũ trụ. Phi hành gia Vương Kiệt của sứ mệnh du hành vũ trụ có người lái Thần Châu 20Buổi họp báo về sứ mệnh du hành vũ trụ có người lái Thần Châu 20 thông báo rằng sứ mệnh du hành vũ trụ có người lái Thần Châu 20 dự kiến sẽ được phóng lúc 17:17 thứ Năm, ngày 24. Phi hành đoàn Thần Châu 20 bao gồm Trần Đông, Trần Trọng Duệ và Vương Kiệt, với Trần Đông làm chỉ huy.
Phi hành đoàn bao gồm hai phi công và một kỹ sư bay. Trần Đông sẽ trở thành phi hành gia đầu tiên trong nhóm thứ hai bay ba lần. Trần Trung Thụy và Vương Kiệt đều thuộc khóa ba và sẽ sớm thực hiện chuyến bay đầu tiên.
Phi hàna nhà phi hành: đoàn Thần Châu 20 sẽ ở lại vũ trụ trong sáu tháng và dự kiến trở về Trái Đất vào cuối tháng 10.
Đỗ Hoàng theo Tân Hoa Xã
Ảnh: Ba nhà du hành tàu Thần Châu - Trần Đông Trần Trung Thụy, Vương Kiệt

Đạo đức kinh (tiếp)

  •   15/08/2025 08:03:00
  •   Đã xem: 13
  •   Phản hồi: 0
ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi
CHƯƠNG 11
VÔ DỤNG
無 用
Hán văn:
三 十 輻 共 一 轂. 當 其 無, 有 車 之 用. 埏 埴 以 為 器. 當 其 無, 有 器 之 用. 鑿 戶 牖 以 為 室. 當 其 無, 有 室 之 用. 故 有 之 以 為 利, 無 之 以 為 用.
Phiên âm:
1. Tam thập phúc,cộng nhất cốc.Đương kỳ vô, hữu xa chi dụng.
2. Duyên thực dĩ vi khí. Đương kỳ vô, hữu khí chi dụng.
3. Tạc hộ dũ dĩ vi thất. Đương kỳ vô, hữu thất chi dụng.
4. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng.
Dịch nghĩa:
1. Ba chục căm, hợp lại một bầu. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của xe.
2. Nhào đất để làm chén bát. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của chén bát.
3. Đục cửa lớn, cửa sổ để làm nhà; nhờ có chỗ trống không, mới có cái dùng của nhà.
4. Cho nên lấy cái «có» để làm cái lợi, lấy cái «không» để làm cái dụng.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ba chục cân mới ra một đấu
Nơi trống không chỗ bấu càng xe
Nhào đât bát chén vôi ve
Chỗ không ra có bát be để dùng
Cử lớn nhỏ cùng chung ngôi vị
Nhờ trông không nên thế ngôi nhà
Lấy cái có để làm ra
Từ không biến hóa tài ba vật dùng.
Đõ Hoàng

Đạo đức kinh (tiếp)

  •   16/08/2025 07:16:00
  •   Đã xem: 11
  •   Phản hồi: 0
ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
KIỂM DỤC
檢 欲
Hán văn:
五 色 令 人 目 盲. 五 音 令 人 耳 聾. 五 味 令 人 口 爽. 馳 騁 田 獵 令 人 心 發 狂. 難 得 之 貨, 令 人 行 妨. 是 以 聖 人 為 腹 不 為 目. 故 去 彼 取 此.
Phiên âm:
1. Ngũ sắc lịnh nhân mục manh..Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng.. Trì sính, điền liệp lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa, lịnh nhân hành phương.
2. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục. Cố khứ bỉ thủ thử.
Dịch nghĩa:
1. Năm màu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của cải khó được, khiến người bị tai hại.
2. Bởi vậy, thánh nhân vì bụng không vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Năm màu sắc làm cùng mù mắt
Năm tiếng kêu người đặc điếc tai.
Năm mùi lưỡi liếm lè dài
Ruổi rong săn bắn người tài hóa điên
Của cải kho, người thêm bị hại
Thánh nhân thường kinh hãi bụng mình
Thường tâm coi trọng mắt nhìn
Chọn hay loại bỏ phải tinh tận tường..

Dạo đưc kinh (tiếp)

  •   17/08/2025 20:22:00
  •   Đã xem: 13
  •   Phản hồi: 0
ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
CHƯƠNG 11
VÔ DỤNG
無 用
Hán văn:
三 十 輻 共 一 轂. 當 其 無, 有 車 之 用. 埏 埴 以 為 器. 當 其 無, 有 器 之 用. 鑿 戶 牖 以 為 室. 當 其 無, 有 室 之 用. 故 有 之 以 為 利, 無 之 以 為 用.
Phiên âm:
1. Tam thập phúc,cộng nhất cốc.Đương kỳ vô, hữu xa chi dụng.
2. Duyên thực dĩ vi khí. Đương kỳ vô, hữu khí chi dụng.
3. Tạc hộ dũ dĩ vi thất. Đương kỳ vô, hữu thất chi dụng.
4. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng.
Dịch nghĩa:
1. Ba chục căm, hợp lại một bầu. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của xe.
2. Nhào đất để làm chén bát. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của chén bát.
3. Đục cửa lớn, cửa sổ để làm nhà; nhờ có chỗ trống không, mới có cái dùng của nhà.
4. Cho nên lấy cái «có» để làm cái lợi, lấy cái «không» để làm cái dụng.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ba chục cân mới ra một đấu
Nơi trống không chỗ bấu càng xe
Nhào đât bát chén vôi ve
Chỗ không ra có bát be để dùng
Cử lớn nhỏ cùng chung ngôi vị
Nhờ trông không nên thế ngôi nhà
Lấy cái có để làm ra
Từ không biến hóa tài ba vật dùng.

Mai dâm Trung Hoa cũ

  •   18/08/2025 07:49:00
  •   Đã xem: 15
  •   Phản hồi: 0
Lịch sử tối giản về mại dâm ở Trung Quốc cổ đại
Gái mại dâm, hay gái mại dâm, là một phần của xã hội Trung Quốc cổ đại trong hàng ngàn năm. Họ chính thức biến mất khỏi lịch sử chỉ sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Do những tác động tiêu cực của nghề này đối với xã hội, người hiện đại rất kín tiếng về nó. Hơn nữa, việc xóa bỏ nghề này trong xã hội hiện đại đã dẫn đến việc thiếu hiểu biết về bản chất thực sự của nó.
Khi miêu tả nghề này trong văn học, điện ảnh và truyền hình hiện đại, thường có hai thái cực. Một là đánh đồng mại dâm với gái mại dâm và hạ thấp giá trị của họ. Hai là đánh đồng tất cả gái mại dâm với những kỹ nữ nổi tiếng như Lý Thi Thi và Tô Tiểu Hiểu, miêu tả họ là những "người có học thức" tài năng. Trên thực tế, cả hai cách hiểu này đều không đầy đủ về nghề này.
Không khó để hiểu được những nét chung của nghề này. Cũng có rất nhiều sách nghiên cứu về nghề mại dâm. Ví dụ, "Lịch sử kỹ nữ Trung Quốc" của Vương Thuận Nữ và "Kỹ nữ và trí thức" của Saito Shigeru đã có những nghiên cứu chi tiết về nghề này. Ngoài ra, còn có những tiểu thuyết miêu tả cụ thể cuộc sống của những người hành nghề mại dâm, chẳng hạn như "Hoa Thượng Hải" của Hàn Bang Khánh, cũng có thể cung cấp cho độc giả một góc nhìn để quan sát "mặt tiền và mặt hậu" của nghề này. Bài viết ngắn này nhằm mục đích giới thiệu về nghề mại dâm thời xưa một cách ngắn gọn nhất có thể, không mang nội dung khiêu dâm, tục tĩu. Để công chúng hiện đại có cái nhìn khách quan hơn về nó.
Từ "kỹ nữ" xuất hiện muộn hơn nhiều so với nghề mại dâm. Theo các tài liệu hiện có, có thể suy ra rằng nghề mại dâm đã xuất hiện muộn nhất vào thời Xuân Thu, nhưng vào thời điểm đó, nghề này không được gọi là kỹ nữ.
Kỹ nữ không tồn tại trong "Thuyết văn" của Từ Thận thời Đông Hán. Tuy nhiên, có hai từ khác rất liên quan trong "Thuyết văn" là "changji" [1]. Lời giải thích của Từ Thận về "changji" (changji) rất đơn giản: "chang" nghĩa là "ca sĩ" và "ji" nghĩa là "người (nhảy múa) điêu luyện". Điều này cho thấy changji không chủ yếu phân biệt giới tính. Hơn nữa, nghề nghiệp chính của họ không phải là phục vụ tình dục, mà là biểu diễn nghệ thuật.
Tuy nhiên, trong xã hội cổ đại, những người biểu diễn changji có địa vị xã hội rất thấp, gần giống như nô lệ, và hầu hết đều thiếu tự do cá nhân. Do đó, nếu những người biểu diễn này lọt vào mắt xanh của giai cấp thống trị, họ thường được kỳ vọng sẽ cung cấp dịch vụ tình dục. Xã hội cổ đại mang tính gia trưởng, và giai cấp thống trị chủ yếu là nam giới. Do đó, phụ nữ thường là người cung cấp cho những người đàn ông này các buổi biểu diễn nghệ thuật, và do đó, cung cấp dịch vụ tình dục (mặc dù giai cấp thống trị có hành vi khêu gợi tình dục không phải là hiếm ở Trung Quốc cổ đại). Do đó, "changji" dần dần phát triển thành "proxy", với chữ "woman" được gắn vào. Khi tên gọi phát triển, nghề này ngày càng mất đi bản chất nghệ thuật và tập trung hơn vào việc cung cấp dịch vụ tình dục. Mãi đến thời nhà Minh, những người hành nghề mại dâm chỉ cung cấp dịch vụ tình dục, không tham gia biểu diễn nghệ thuật, cũng được gọi là gái mại dâm.
Tuy nhiên, ngay cả trước khi gái mại dâm và thậm chí cả gái mại dâm xuất hiện, nghề này đã tồn tại. Khi đó nó được gọi là gì? Văn bản sớm nhất được biết đến xác định nó là "nữ nhạc sĩ", sự kết hợp giữa phụ nữ và âm nhạc. Trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, giới quý tộc thường có nữ nhạc sĩ - nô lệ biểu diễn âm nhạc cho chính họ hoặc khách của họ, và họ sẽ cung cấp dịch vụ tình dục nếu khách yêu cầu các dịch vụ khác.
Điều này cho thấy rằng trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, gái mại dâm ở tầng lớp thượng lưu thực hiện cả biểu diễn nghệ thuật và dịch vụ tình dục. Điều này khác với quan niệm sau này cho rằng gái mại dâm chỉ tham gia vào dịch vụ tình dục, và khía cạnh âm nhạc thậm chí còn vượt trội hơn khía cạnh tình dục. Tuy nhiên, điều kiện sống của gái mại dâm vào cuối thời nhà Thanh và Trung Hoa Dân Quốc cũng cho thấy gái mại dâm phục vụ tầng lớp thống trị thượng lưu được yêu cầu phải có năng khiếu nghệ thuật. Tuy nhiên, gái mại dâm phục vụ đàn ông thuộc tầng lớp thấp hơn thường không yêu cầu năng khiếu này. Nguyên nhân là do tầng lớp thấp sống trong cảnh nghèo đói và thiếu tiền để theo đuổi thú vui nghệ thuật. Họ thường tìm đến gái mại dâm chỉ để thỏa mãn những ham muốn bị dồn nén. (Phụ nữ, vốn là một "nguồn lực" thời xưa, được phân bổ cực kỳ không đồng đều, khiến nhiều đàn ông thuộc tầng lớp thấp khó tìm được bạn đời.) Vậy nên, vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc, bên cạnh những "nữ nhạc công" phục vụ giới quý tộc, liệu có gái mại dâm phục vụ tầng lớp thấp và chỉ đơn giản là cung cấp dịch vụ tình dục không? Có chứ. Vua Câu Tiễn nước Việt từng tập hợp các "góa phụ" trong vương quốc lên núi Nộ Độ để phục vụ tình dục cho binh lính của mình. Đây có lẽ là trường hợp sớm nhất được ghi nhận về việc gái mại dâm cung cấp dịch vụ tình dục cho tầng lớp thấp mà không cần biểu diễn nghệ thuật.
Khổng Tử từng nói: "Cần phải chỉnh đốn lại tên gọi". Ý tưởng là để đảm bảo "tên gọi phù hợp với thực tế". Với sự xuất hiện của thuật ngữ "gái mại dâm", nghề mại dâm cũng trải qua một sự phân hóa. "Gái mại dâm" dần dần được dùng để chỉ những người hành nghề mại dâm chỉ cung cấp dịch vụ tình dục mà không cần biểu diễn nghệ thuật, trong khi "gái mại dâm" trở thành một nghề "giải trí văn hóa" với hoạt động chính là tiếp khách uống rượu, trò chuyện, ca hát nhảy múa, thảo luận văn chương, và thậm chí có thể lựa chọn quan hệ tình dục với khách hàng. Do đó, những nhân vật như Tiết Đào, Lý Thi Thi và Tô Tiểu Hiểu ở Trung Quốc cổ đại được coi là những gái mại dâm nổi tiếng, chứ không phải là "gái mại dâm nổi tiếng".
Tất nhiên, giống như tất cả các nghề đều có tên gọi chính thức và không chính thức, nghề mại dâm cũng có rất nhiều tên gọi không chính thức. Do những tác động tiêu cực của nó đối với xã hội (phá vỡ hôn nhân, phá vỡ phong tục và làm suy yếu đạo đức), những tên gọi không chính thức của nghề này thường mang hàm ý miệt thị. Ví dụ: "gà" đồng âm với "ji", nhưng lại dùng một loài động vật để biểu thị sự khinh miệt. "con đĩ" (bitch) xuất hiện vào khoảng thời nhà Minh, ám chỉ một người phụ nữ sống xa nhà và không có ai nương tựa. Gái mại dâm được coi là những người phụ nữ bị đuổi khỏi nhà. "Yaojie'er" (chị lò nung) xuất hiện vào khoảng thời nhà Thanh. Có hai cách giải thích: một là gái mại dâm hạng thấp sống trong những lò nung đổ nát, hai là bất kỳ ai cũng có thể tiếp cận bộ phận sinh dục của họ, tương tự như những lò nung đổ nát.
Ngoài ra, các khu vực và thời kỳ khác nhau đã đặt ra những tên gọi cụ thể khác cho gái mại dâm. Ví dụ, gái mại dâm hạng cao ở Thượng Hải thời Trung Hoa Dân Quốc được gọi là "shuyu", "cishi" và "xiaoshu", và nếu không được xác định cẩn thận, rất khó để biết họ có phải là gái mại dâm hay không. Ở Hồng Kông, gái mại dâm tiếp khách tại nhà riêng được gọi là "loufeng" và gái mại dâm chào mời khách trên phố được gọi là "liuying". Ở Đài Loan, Trung Quốc, có "fanjumei" và ở Trung Quốc đại lục, có "jiejie".
Nguồn gốc
Gần như không thể xác minh và trả lời lịch sử của nghề mại dâm ở Trung Quốc, bởi vì nghề này xuất hiện sớm hơn nhiều so với sự xuất hiện của chữ viết.
Trong lịch sử sơ khai của loài người, đã có tục thờ cúng sinh sản. Do đó, nhiều nền văn minh đã có hành vi tình dục trong các nghi lễ tôn giáo bí ẩn ban đầu của họ. Ví dụ, những phụ nữ trẻ ở Babylon cổ đại phải đến đền thờ Militia vào một ngày nhất định trong năm và quan hệ tình dục với những người đàn ông quỳ xuống thờ phụng cô như nữ thần Militia. Đây là một nghi lễ thay thế thần linh bằng con người[2]. Trong xã hội nguyên thủy sơ khai của Nhật Bản, cũng có một nghi lễ tôn giáo nguyên thủy, trong đó các phù thủy yêu cầu thần linh nhập vào cơ thể mình và sau đó quan hệ tình dục với đàn ông[3]. Ông Vương Thuận Nữ gọi hành vi này là "gái mại dâm phù thủy". Nếu chúng ta định nghĩa đây là một loại mại dâm, thì nguồn gốc của mại dâm có thể bắt nguồn từ thời kỳ nguyên thủy của loài người.
Một sự thật tương đối rõ ràng là mại dâm đã tồn tại trong thời kỳ nô lệ. Nếu chúng ta quan sát các bộ lạc nguyên thủy hiện có, chúng ta sẽ thấy hiện tượng sử dụng phụ nữ trẻ trong số nô lệ làm nô lệ tình dục rất phổ biến trong các bộ lạc này. Trong lịch sử nước ta, nguồn gốc của mại dâm có thể bắt nguồn từ thời cổ đại. Ví dụ, trong thời kỳ Tam Hoàng huyền thoại, có một kỹ nữ tên là "Hồng Nhai", được các thế hệ sau tôn sùng là "tổ tiên" của các kỹ viện. Trong phần miêu tả về ao rượu và rừng thịt của vua Chu trong "Sử ký: Ân thư"[4], vua Chu đã "triệu" những mỹ nữ đến và đi tùy ý, nên có lẽ họ cũng có một số đặc điểm của kỹ viện. Những ghi chép rõ ràng hơn về kỹ viện nằm trong "Hàn Phi Tử" và "Chiến Quốc Sách". Cả hai cuốn sách đều đề cập rằng khi Quản Trọng làm tể tướng nước Tề Hoàng Cung, ông đã cho lập nên các "kỹ viện nữ" đầy mỹ nữ để phục vụ các quan lại và sứ thần các nước. Thu nhập từ việc tiêu dùng của quý tộc ở đó cũng có thể làm giàu cho ngân khố quốc gia. Có thể thấy rằng "Nô Lô" về cơ bản giống với kỹ viện của các thế hệ sau, với bản chất là mua bán. Ngoài ra, "Sử ký: Gia đình Khổng Tử" còn ghi lại rằng khi Khổng Tử nắm quyền ở Lỗ, Tề sợ Lỗ sẽ giàu có và quyền lực nên đã đặc biệt chọn 80 nhạc công nữ để gửi đến vua Lỗ. Vua Lỗ say mê phụ nữ và không còn quan tâm đến việc triều chính nữa. Khổng Tử đã từ chức trong sự thất vọng. Trong ghi chép này, các nhạc công nữ của Tề không chỉ làm việc ở Nữ Lộc mà còn có thể bị cho đi theo ý muốn, điều này cũng chứng tỏ rằng họ không có quyền tự do và quyền lực cá nhân như những gái mại dâm. Ngoài ra, theo ghi chép của "Tuyệt Nguyệt Thư", khi Câu Tiễn khôi phục đất nước, để khích lệ binh lính, ông đã tập hợp các góa phụ trong nước tại một nơi gọi là Độc Phục Sơn để binh lính hưởng thụ. Điều này khá giống với tình trạng phụ nữ giải khuây của quân xâm lược Nhật Bản sau này. Từ những điều trên, có thể thấy rằng ít nhất là vào thời Xuân Thu, mại dâm đã tồn tại rộng rãi ở Trung Quốc, nhưng vào thời điểm đó, hình thức mại dâm chủ yếu là mại dâm do triều đình quản lý dành cho giới quý tộc và mại dâm do quân đội quản lý. Việc mại dâm dân gian có ra đời vào thời điểm này hay không, và liệu chúng có hợp pháp hay không, hiện tại vẫn chưa thể xác minh.
Phân loại
Thực tế, mại dâm ở Trung Quốc cổ đại được phân loại. Mỗi loại phục vụ một nhóm người cụ thể. Nó không giống như những gì được mô tả trong phim ảnh và truyền hình hiện đại, nơi bất kỳ ai cũng có thể gặp một "kỹ nữ nổi tiếng" hoặc gái mại dâm có thể tự do lựa chọn và tiếp khách. Trong lịch sử, có khoảng sáu loại gái mại dâm: mại dâm cung đình, mại dâm gia đình, mại dâm trại, mại dâm quan chức, mại dâm thường dân và mại dâm bí mật.
Trinh nữ cung đình
Đúng như tên gọi, họ là gái mại dâm trong cung điện. Nhiều người tin rằng hoàng đế có tam cung lục viện nên không cần đến "kỹ nữ", nhưng thực tế không phải vậy.
Trước hết, số lượng "vợ và phi tần" mang tước hiệu chính thức của các hoàng đế thuộc các triều đại khác nhau đã được ấn định, chẳng hạn như một hoàng hậu ở nhà Thanh, một phi tần, hai phi tần quý tộc, bốn phi tần và sáu phi tần.Tuy nhiên, một số hoàng đế có ham muốn tình dục vô độ, nên cần phải lập kỹ nữ trong cung.
Thứ hai, về mặt lý thuyết, phi tần của hoàng đế cũng là tầng lớp thống trị trong cung điện. Nếu có biểu diễn, yến tiệc và các nghi lễ trong cung điện, kỹ nữ vẫn cần thiết để phục vụ.
Vậy, vì cung điện cần kỹ nữ, vậy kỹ nữ này đến từ đâu? Trong lịch sử, nguồn kỹ nữ chính trong cung điện là vợ và con gái của các quan đại thần phạm tội, vợ và con gái của tù binh chiến tranh ở biên giới, và phụ nữ bị các nước cống nạp. Có ghi chép trong sử sách nhà Hán rằng vua nước Oa đã cống nạp cho hoàng đế bằng nô lệ nam và nữ[9], và một số nô lệ cống nạp này đã trở thành kỹ nữ trong cung điện.
Kỹ nữ trong cung chủ yếu phục vụ nhu cầu giải trí của hoàng đế như biểu diễn, ca hát và nhảy múa, nhưng đôi khi cũng phục vụ tình dục. Nếu được hoàng đế sủng ái nhờ phục vụ tình dục, hoặc nếu họ mang thai, họ có thể thay đổi số phận và trở thành phi tần hoặc phi tần có địa vị chính thức của hoàng đế, nhưng những trường hợp như vậy rất hiếm. Một ví dụ điển hình là Lý Thị của Hán Vũ Đế. Bà vốn là em gái của Lý Diên Niên, một nhạc công trong cung, đồng thời cũng là một kỹ nữ trong cung. Sau này, Lý Diên Niên tiến cử em gái mình với Hán Vũ Đế và soạn một bản nhạc tặng bà: "Phương Bắc có một mỹ nhân, độc lập vô song. Một ánh mắt của nàng có thể áp đảo cả thành, một ánh mắt của nàng có thể áp đảo cả nước. Chẳng lẽ hoàng thượng không biết nàng có thể áp đảo cả thành lẫn nước sao? Một mỹ nhân như vậy khó tìm lại được." Thành ngữ "áp đảo cả thành lẫn nước" xuất phát từ đây. Vì vậy, Hán Vũ Đế đã triệu tập em gái của Lý Diên Niên. Đúng như dự đoán, nàng vừa xinh đẹp vừa tài giỏi, nên được chàng hết mực cưng chiều. Em gái của Lý Diên Niên trở thành Lý phu nhân.
Thiếu nữ trong cung
Thời xưa, các nhà nho đều có cung nữ trong nhà. Họ được dùng để biểu diễn, chiêu đãi rượu, và làm hầu bàn trong các buổi yến tiệc và các hoạt động giải trí. Một ví dụ nổi tiếng hơn là Điêu Thuyền trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa. Điêu Thuyền ban đầu là cung nữ của Thừa tướng Vương Doãn. Khi Đổng Trác và Lữ Bố đến thăm, họ sẽ biểu diễn các điệu múa để khuấy động không khí và làm vui lòng cả chủ lẫn khách. Tất nhiên, nếu chủ nhà muốn làm vui lòng khách hơn nữa, ông ta cũng có thể gả cung nữ cho khách. Trong tiểu thuyết, Vương Doãn đã khéo léo dùng chiêu "gả" Điêu Thuyền để khiến Đổng Trác và Lữ Bố xa lánh. Ngoài ra, mẹ của Tần Thủy Hoàng, Triệu Cơ, cũng là cung nữ của Lữ Bất Vi. Theo "Sử ký", khi Lã Bất Vi chiêu đãi thái tử Dịch Nhân nước Tần, ông đã mời kỹ nữ Triệu Cơ nhảy múa để chiêu đãi. Dịch Nhân say mê nàng và cầu hôn. Lã Bất Vi không muốn gả nàng, nhưng xét đến việc ông đã dành phần lớn tài sản của gia đình cho Dịch Nhân, một "hàng hiếm", thì việc lấy một kỹ nữ để làm mất lòng Dịch Nhân là một tổn thất lớn. Vì vậy, ông đành phải miễn cưỡng gả Triệu Cơ cho Dịch Nhân. Sự việc này cũng trở thành nguồn gốc của những suy đoán về cha ruột của Tần Thủy Hoàng. Các thi sĩ và học giả thời Đường và Tống mà chúng ta biết đến cũng có nghề mại dâm. Ví dụ, Phạm Túc và Tiểu Mạn trong "Miệng anh đào của Phạm Túc, eo liễu của Tiểu Mạn" của Bạch Cư Dị đều là kỹ nữ của Bạch Cư Dị. Bức tranh nổi tiếng "Đêm yến của Hàn Hy Tái" cũng có nhiều phụ nữ biểu diễn âm nhạc và vũ đạo, có thể là phi tần của Hàn Hy Tái.
Các học giả và thương gia giàu có thời Trung Quốc cổ đại có truyền thống nuôi thê thiếp.
Trinh nữ là những gái mại dâm được nuôi trong các doanh trại quân đội. Họ chủ yếu được cung cấp cho các sĩ quan cấp cao để mua vui và giải trí, và cho binh lính cấp thấp thỏa mãn ham muốn tình dục.
Trinh nữ phục vụ ba mục đích: thứ nhất, cho phép các sĩ quan cấp cao thỏa mãn những thú vui xa hoa và phóng túng trong doanh trại; thứ hai, cho phép binh lính cấp thấp thỏa mãn ham muốn tình dục, do đó ngăn chặn những tác động tiêu cực đến an ninh địa phương và sự lây lan của các bệnh lây truyền qua đường tình dục; và thứ ba, thu nhập từ mại dâm cung cấp thêm "nguồn thu" cho quân đội.
Các ghi chép về mại dâm quân đội có từ thời Xuân Thu (chẳng hạn như núi Đỗ Phủ ở Câu Tiễn, vua Việt đã đề cập ở trên). Số lượng mại dâm đạt đến đỉnh điểm vào thời nhà Đường, khi các thống đốc quân sự nắm giữ quyền lực lớn. Sau khi địa vị quân sự suy yếu vào thời nhà Tống, số lượng của họ bắt đầu giảm dần. Tuy nhiên, phong tục này vẫn tồn tại cho đến thời hiện đại, và ngay cả Đài Loan cũng duy trì chế độ này trong một thời gian. Độc giả quan tâm có thể xem bộ phim "Thiên Đường Quân Đội", kể về hệ thống mại dâm quân sự do Quốc Dân Đảng thực hiện sau khi rút lui về Đài Loan và cuộc sống của các nhân vật liên quan.
Trinh nữ
Trinh nữ là những nhà thổ do chính phủ quản lý. Như đã đề cập trước đó, vợ và con gái của tội phạm, tù binh và nô lệ cũng bị bắt làm nô lệ vào thời cổ đại. Những người xuất chúng nhất trong số này có thể trở thành gái mại dâm trong cung điện, nhưng phần lớn trở thành gái mại dâm chính thức. Họ cung cấp dịch vụ tại các nhà thổ do chính phủ quản lý. Tất nhiên, thu nhập của nhà thổ thuộc về chính phủ.
Giao Phương Tứ (Giao Phương Tứ) thời nhà Đường chịu trách nhiệm quản lý các nhà thổ chính thức. Theo ghi chép trong "Đông Kinh Mạnh Hóa Lộ" và "Vũ Lâm Cửu Sử", các nhà thổ chính thức chủ yếu phục vụ cho các chức sắc. Những gái mại dâm nổi tiếng trong lịch sử, chẳng hạn như Lý Thi Thi, là gái mại dâm chính thức. Ghi chép cho thấy gái mại dâm chính thức làm việc vào những ngày cố định, chẳng hạn như ngày mùng 5, 15, 25 hàng tháng, hoặc ngày 10 hàng tháng. Khi khách đến nhà thổ, khách có thể yêu cầu một gái mại dâm trực ban đi cùng. Việc này được gọi là "chỉ hoa thẻ"; khách cũng có thể trực tiếp yêu cầu người phụ trách (mẹ kế) sắp xếp một tấm thiệp ngẫu nhiên. Chỉ đến ngày 15 tháng Giêng âm lịch, tất cả gái mại dâm mới "đi làm" cùng nhau và đội hoa mai trên đầu để thu hút khách hàng bên ngoài nhà thổ. Tuy nhiên, những gái mại dâm cao cấp nổi tiếng sẽ không ra ngoài. Do đó, người ta ước tính rằng công chúng thời đó hiếm khi nhìn thấy những gái mại dâm nổi tiếng như Lý Thi Thi. Từ những ghi chép trên, chúng ta có thể thấy rằng vào thời điểm đó, gái mại dâm chính thức có ngày nghỉ, và gái mại dâm càng nổi tiếng thì càng có nhiều ngày nghỉ. Điều này cũng có thể là do giá của mỗi đơn hàng cho gái mại dâm nổi tiếng đủ cao, nên họ có nhiều quyền nghỉ ngơi hơn. Những gái mại dâm cao cấp không chỉ có quyền nghỉ ngơi mà còn có quyền lựa chọn khách hàng của riêng mình và quyền lựa chọn bán thân hay chỉ bán kỹ năng mà không bán thân. Vì vậy, quá trình Tống Giang gặp Lý Thi Thi trong "Thủy Hử" phức tạp đến vậy. Tôi nghĩ lý do là vì Lý Thi Thi chỉ làm việc vài ngày, mà dù có làm việc thì người thường cũng hiếm khi thấy mặt. Mặc dù kỹ nữ quan lại chủ yếu phục vụ quan lại cấp cao, nhưng giữa triều Minh đã có một thời gian ngắn cấm quan lại đến nhà thổ và ở lại nhà thổ. Điều này xuất phát từ quan điểm của kiểm duyệt viên rằng việc quan lại lui tới nhà thổ không chỉ làm chậm trễ công việc mà còn nuôi dưỡng tham nhũng. Tuy nhiên, lệnh cấm này không kéo dài lâu, chỉ còn mang tính hình thức. Kết quả là, đến cuối triều Minh, quan lại tiếp xúc với kỹ nữ không chỉ công khai mà đôi khi còn trở thành huyền thoại. Ví dụ như câu chuyện về người phụ nữ tài sắc Lưu Như Thi và Tiền Thiên Dực.
Đỗ Hoàng theo Bách khoa mở.

Thần Châu 20

  •   18/08/2025 15:22:00
  •   Đã xem: 11
  •   Phản hồi: 0
Phi hành đoàn Thần Châu 19 đã xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên kể từ khi trở về từ vũ trụ.
Đăng ngày: 09/07/2025 Nguồn: Mạng lưới Kỹ thuật Không gian Có người lái Trung Quốc
Chiều ngày 9 tháng 7 năm 2025, Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phi hành gia Trung Quốc đã tổ chức họp báo cho phi hành đoàn Thần Châu 19 tại Thành phố Hàng không Vũ trụ Bắc Kinh. Sự kiện này đánh dấu lần đầu tiên các phi hành gia Thái Húc Triết, Tống Linh Đông và Vương Hạo Trạch chính thức xuất hiện trước công chúng và truyền thông sau hơn hai tháng trở về. Họ đã chia sẻ những kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc từ sứ mệnh không gian kéo dài 183 ngày của mình.
Thai Húc Triết, chỉ huy của cả hai sứ mệnh Thần Châu 14 và Thần Châu 19, đã chứng kiến và tham gia vào quá trình chuyển đổi của trạm vũ trụ từ giai đoạn xây dựng sang vận hành và phát triển. Ông tuyên bố: "Mỗi sứ mệnh không chỉ đơn thuần là sự lặp lại của sứ mệnh trước, mà là một bước nhảy vọt liên tục lên một tầm cao mới." Trong thời gian ở trên quỹ đạo, phi hành đoàn đã tham gia 88 dự án thử nghiệm bao gồm khoa học sự sống vũ trụ, vật lý vi trọng lực cơ bản và y học hàng không vũ trụ, sản xuất thành công 102 mẫu thử nghiệm thuộc hơn 13 loại. Ngoài ra, họ còn hoàn thành thử nghiệm và kiểm chứng trên quỹ đạo robot kiểm tra đường ống của trạm vũ trụ, thử nghiệm nhận thức trọng lượng vật thể, đánh giá khả năng kiểm tra trạng thái cảm xúc và thay thế mẫu thử nghiệm.
Tống Linh Đông đã lập nhiều kỷ lục trong các hoạt động ngoài vũ trụ của sứ mệnh Thần Châu 19: hoạt động ngoài vũ trụ đầu tiên của anh đã phá kỷ lục thế giới về thời lượng hoạt động ngoài vũ trụ duy nhất là chín giờ, và anh đã hoàn thành tổng cộng năm hoạt động ngoài vũ trụ trong hai nhiệm vụ, trở thành phi hành gia Trung Quốc có nhiều hoạt động ngoài vũ trụ nhất vào thời điểm đó. Anh nhấn mạnh: "Mỗi hoạt động ngoài vũ trụ thành công đều là kết quả của sự đoàn kết của phi hành đoàn và nỗ lực phối hợp của cả mặt đất và trạm vũ trụ. Điều này cũng chứng minh đầy đủ độ tin cậy của bộ đồ phi hành gia ngoài vũ trụ và niềm tin của Trung Quốc vào công nghệ vũ trụ của mình."
Thảo luận về sự cố kẹt bất ngờ của bộ chuyển đổi tải trọng ngoài tàu trong quá trình vận hành ngoài tàu, Cai Xozhe nhớ lại rằng, mặc dù phải đối mặt với những thách thức như hạn chế về thời gian và chưa quen thuộc với thiết bị ngoài tàu, phi hành đoàn vẫn giữ được bình tĩnh sau khi huấn luyện qua cuộc gọi video từ mặt đất lên vũ trụ. Sau khi đánh giá tình trạng thiết bị sau vận hành ngoài tàu và liên lạc với đội hỗ trợ mặt đất, họ đã xử lý tình huống thành công. Khi tiếng vỗ tay nồng nhiệt của đội hỗ trợ mặt đất vang vọng qua tai nghe, anh cảm thấy vô cùng "tự hào về vai trò dẫn đầu và giá trị mà các phi hành gia đóng góp trong các chuyến bay vũ trụ có người lái". Là phi hành gia đầu tiên của Trung Quốc sinh ra vào những năm 1990 thực hiện một nhiệm vụ ngoài tàu, Song Lingdong xúc động nói: "Khoảnh khắc cánh cửa mở ra chính là lúc giấc mơ thành hiện thực". Anh tin rằng với sự phát triển mạnh mẽ của các chuyến bay vũ trụ có người lái, thế hệ trẻ, với sự giúp đỡ và hướng dẫn của những người đi trước cùng sự hỗ trợ của tất cả các phi hành gia, đã gánh vác trách nhiệm của thế hệ mình. "Sứ mệnh của thế hệ chúng ta là những người sinh ra trong thập niên 1990 thực hiện các sứ mệnh ngoài vũ trụ, và khoảnh khắc này cuối cùng cũng sẽ đến."
Tống Linh Đông đã thực hiện thử nghiệm đầu tiên trồng khoai lang trên quỹ đạo, và cây đã phát triển tốt. Trước khi trở về, anh đã thu thập và mang mẫu về theo hướng dẫn trên mặt đất, cung cấp dữ liệu quan trọng để xác minh tính khả thi của khoai lang như một nguồn thực phẩm cho các chuyến bay vũ trụ dài hạn.
Vương Hạo Trạch, nữ phi hành gia đầu tiên thực hiện sứ mệnh không gian, đã truyền năng lượng mới cho phi hành đoàn bằng kỹ năng vận hành tỉ mỉ, tư duy khoa học và thái độ nhẹ nhàng. "Trong mỗi thao tác, tôi đều tự nhủ phải chậm lại để đảm bảo an toàn và tỉ mỉ để thành công. Trong không gian, để làm tốt công việc, phải tập trung và kiên nhẫn." Vương Hạo Trạch hoàn thành mỗi nhiệm vụ một cách tự tin. Cô nói: "Được đóng góp nhiều hơn cho khám phá khoa học và để thế giới thấy được nhiều hơn sự tài giỏi của phụ nữ khiến mọi nỗ lực của tôi trở nên ý nghĩa hơn."
"Tôi chắc chắn sẽ thắp thêm nhiều ngọn đuốc để soi sáng không gian sâu thẳm, đơn giản vì trên bầu trời đầy sao xa xôi ấy, chính là giấc mơ cả đời của tôi." Tại buổi gặp mặt, Vương Hạo Trạch cũng chia sẻ bài thơ gốc "Theo đuổi giấc mơ trên dòng sông đầy sao" của mình, thể hiện tình yêu bền bỉ của ông dành cho ngành công nghiệp vũ trụ.
Sau khi trở về, phi hành đoàn Thần Châu 19 đã hoàn tất mọi thủ tục cần thiết để cách ly, hồi phục và phục hồi sức khỏe, đồng thời bước vào giai đoạn quan sát hồi phục. Hiện tại, dưới sự chăm sóc và giám sát chặt chẽ của đội ngũ hỗ trợ khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phi hành gia Trung Quốc, phi hành đoàn Thần Châu 19 đang trong tình trạng thể chất và tinh thần tốt, với tất cả các xét nghiệm y tế đều bình thường. Sức mạnh cơ bắp, sức bền và chức năng tim phổi liên quan đến luyện tập của họ về cơ bản đã trở lại mức trước khi bay. Sau khi hoàn tất mọi thủ tục hồi phục và trải qua các đánh giá sức khỏe, ba phi hành gia sẽ tiếp tục luyện tập bình thường.
Bài viết của Chiêm Khang, Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phi hành gia Trung Quốc
(Biên tập: Hảo Doanh)

Mại dâm cổ Trung Quốc

  •   19/08/2025 08:02:00
  •   Đã xem: 11
  •   Phản hồi: 0
MẠI DÂM CỔ TRUNG HOA (tiếp theo)
Ghi chép sớm nhất về gái mại dâm trong lịch sử Trung Quốc là hệ thống mại dâm chính thức do Quản Trọng thiết lập vào thời Xuân Thu, được thể chế hóa dưới thời Hán Vũ Đế. Trần Đông Nguyên tin rằng sự tồn tại của gái mại dâm ở Trung Quốc thực sự bắt đầu từ các cung đình, gái mại dâm quân đội, gái mại dâm quan chức[a], gái mại dâm nội địa và gái mại dâm dân sự tùy theo địa vị của họ. Họ phụ thuộc vào các nhà thổ hoặc các cơ sở cao cấp và không có quyền tự do cá nhân. Hầu hết họ là tội phạm, thân nhân của tội phạm, kẻ buôn người hoặc tù binh chiến tranh. Gái mại dâm có địa vị xã hội thấp, và việc đưa người thân là nữ của các quan lại hoặc kẻ thù đi làm gái mại dâm cũng là một hình phạt được vua chúa sử dụng
Ở Trung Quốc cổ đại, từ "gái mại dâm" ban đầu là "changji", ban đầu dùng để chỉ các diễn viên nữ trong các buổi biểu diễn ca múa. "Sách thuyết giải tự" của Từ Thận có chữ "chang" nhưng không có chữ "chang". Từ "chang" lần đầu tiên xuất hiện trong "Yu Pian" của Cổ Diệp Vương thời Lương.
Thời cổ đại
Mặc Tử/Phi Nguyệt Thương
Người ta tin rằng kỹ nữ Hồng Nhai thời Tam Hoàng là những kỹ nữ được ghi chép sớm nhất. Người ta nói rằng dưới thời vua Hạ Kiệt, ông có gần 30.000 nhạc nữ[3]. Tuy nhiên, theo sử sách chính thống, nguồn gốc của mại dâm được cho là từ các phù thủy[5] thời Thương[4]. Vào thời đó, họ là những phù thủy mại dâm[6][7]. Họ bị người thời đó lên án và tin rằng họ có thể gây ra "xu hướng dâm dục" hoặc "xu hướng phù thủy". Nhà Thương cũng đặt ra luật lệ và hình phạt cho những xu hướng này.
Nhà Chu
Vào đầu thời Xuân Thu, thừa tướng nước Tề là Quản Trọng đã lập ra "Nữ Lỗ". "Đổng Châu Sách" ghi lại: "Trong cung điện của Tề Hoàn Công nước Tề có bảy chợ gái và 700 nhà chứa gái". Phần tiếp theo của Bộ sưu tập Kiến Hồ ghi lại: "Khi Quản Tử cai trị nước Tề, ông đã lập ra bảy trăm nhà chứa gái và thu tiền họ chi cho mại dâm để bổ sung cho chi tiêu của nhà nước. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của tập tục dùng phấn hoa làm tiền."
Ngũ Nguyệt Xuân Thu chép: "Vua Câu Tiễn nước Việt đã cử các góa phụ lên núi để tiếp đãi binh lính đang lo lắng và đau khổ." Nhạc Quyết Thư ghi: "Núi Đỗ Phủ được xây dựng khi Câu Tiễn chuẩn bị tấn công nước Ngô. Ông đã đưa các góa phụ lên núi để phục vụ như những chiến binh tận tụy của mình, nhưng họ vẫn chưa hoàn toàn tận tụy. Các diễn giải sau này cho rằng Câu Tiễn đã sử dụng điều này để tiếp đãi binh lính của mình."
Sử ký Đại Sử: Truyện Thương Nhân. Sử ký Hán Vũ Đế ghi lại: "Trịnh Cơ, một người phụ nữ nước Triệu, ăn mặc rất đẹp. Bà chơi đàn tranh, xắn tay áo dài, đi giày nhọn. Với đôi mắt và trái tim, bà sẵn sàng đi hàng ngàn dặm, bất kể tuổi tác, để tìm kiếm sự giàu sang và thịnh vượng."
Nhà Hán
Trịnh Tông Thông, trích dẫn "Nguồn gốc vạn vật", viết: "Hán Vũ Đế ban đầu thuê gái mại dâm trong trại để phục vụ binh lính không có vợ. Xem "Sử ký Hán Vũ Đế không chính thức."
Mã Dung thời Đông Hán "có rất nhiều nhạc cụ xa hoa trong nhà. Ông thường ngồi trong một sảnh cao, phía trước có rèm voan, dạy học trò, phía sau có nhạc công nữ." Ông được gọi là "Giang Chương sư."
Nam Bắc Triều
Nam Sử ghi lại rằng Hoàng đế Tề bị phế truất "mỗi đêm đều mở hậu sảnh và mở tiệc trong trại."
Triều Đường
Nam Tân Thư chép rằng Lý Diệu, vị quan thái thú của Xá, rất quan tâm đến các ghi chép về rượu của Mai Xuyên và Xá Châu. Ông thậm chí còn nhận nuôi một kỹ nữ tên là Thiều Quang. Vào ngày bị cách chức, ông đã hẹn với nước Ngô để chăm sóc cô ta. Trước khi đi, ông đã uống rượu với cô ta, lòng tràn ngập nỗi buồn. Có một bài thơ rằng: "Bao năm cai quản quận, ta đã tận hưởng cuộc sống, học cách chiến đấu và hỏi ý kiến của những kẻ say rượu. Hôm nay, trước khi đi, ta phải sắp xếp mọi việc, và ta sẽ nhận được viên ngọc Mai Xuyên." Ngô đáp: "Ta mỗi ngày đều tận hưởng, phong thái tao nhã của ta không gì sánh bằng. Tuổi trẻ của ta đã mất, và giờ ta đã có viên ngọc trong lòng bàn tay."
Sách Nam Tân Thư ghi chép rằng một vị quan nhà Đường có con trai với một kỹ nữ trong trại: "Trương Bác Thương, thái thú Cẩm Châu, nuôi một kỹ nữ trong trại. Trương Sơ Thực sinh được một người con trai tên là Nhân Quý, được ông nhận làm con nuôi. Họ sống giữa vùng Giang Hoài. Sau khi Bác Thương mất, Nhân Quý trở về Trường An, được phong là Giang Hoài Lang Quân."
Trích "Trung Vũ Kế Văn" của Cung Minh Trí thời nhà Tống ghi lại: "Khi Lê Thiên (Bạch Cư Dị) làm thái thú, có lần dẫn Dung Mạn, Trương Chi và mười kỹ nữ khác đi chơi đêm ở chùa Hổ Sơn ở Tây Hồ. Ông đã viết một bài thơ về chuyến đi này. Điều này cho thấy chính quyền quận thời đó khá thoải mái, các quan lại rất khoan dung. Nếu điều này xảy ra ngày nay (ám chỉ thời nhà Tống), chắc chắn sẽ bị coi là phạm tội!"
Đỗ Phủ viết "Hai bài thơ về việc tháp tùng quý tử thưởng ngoạn tiết trời mát mẻ ở Trương Bát Câu cùng kỹ nữ, gặp mưa chiều"; Lý Bạch viết "Thu về săn, đêm về, uống rượu, xem kỹ nữ ở Đông lâu Đan Phủ".
Khai Nguyên Thiên Bảo Y Sĩ của Vương Nhân Vũ ghi lại: "Trường An có một Bình Khang phường, nơi gái mại dâm sống. Trai tráng kinh thành tụ tập ở đó, hàng năm các sĩ tử Kim Sử mới đến thăm, mang theo giấy đỏ và danh nhân. Người thời đó gọi nơi này là chốn bồng lai tiên cảnh."
Đường Y Sĩ viết: "Có một người đàn ông họ Lý. Chú của ông ta, họ Lỗ, là một Đạo sĩ. Ông mời Lý đến nhà và nói rằng muốn tìm một kỹ nữ giỏi chơi đàn tranh. Ông ta nhờ cô gái rót rượu. Trên đàn tranh có khắc chữ đỏ: 'Phân biệt cây sông trên mây, nhận biết thuyền về trên trời'". Sau đó, ông kết hôn với con gái của Lục Trường Nguyên, người mà ông đã gặp ở nhà họ Lục. Nàng quả thực là một người chơi đàn cổ tranh giỏi, và dòng chữ đỏ rất rõ ràng. Lý kể lại những chuyện đã qua, và người phụ nữ nói: 'Tôi từng mơ thấy mình bị một vị tiên quan truy đuổi, đúng như tôi đã mô tả.'
Triều đại nhà Tống
Phụ Trác Mạn Lục nói: "Ngày nay, khi các nhà thơ viết về phụ nữ, họ thường dùng ca múa để giải trí. Hoàng đế Lương Nguyên đã viết trong bài thơ "Kỹ nữ đáp lệnh": "Tiếng hát trong trẻo vang vọng theo tiếng suối, và những bóng người nhảy múa hiện ra trong ao." Lưu Tiểu Xước đã viết trong bài thơ "Ngắm kỹ nữ": "Nàng Yến giỏi múa, nàng Trịnh thích hát trong trẻo." Tháng Hai năm Gia Du thứ nhất, Âu Dương Tu trở về từ sứ mệnh Khiết Đan. Trên đường đi qua châu Đại Minh, Giả Trường Triều đã ra đón ông. "Trước đó, Công tước đã dặn kỹ nữ soạn thơ để mời mọi người uống rượu, nhưng Các kỹ nữ chỉ gật đầu. Sau đó, ông sai các kỹ nữ vào đại sảnh để báo cáo về bữa tiệc, nhưng họ cũng chỉ gật đầu. Công tước ngạc nhiên và nghĩ rằng họ là người nông thôn. Sau bữa tiệc, các kỹ nữ nhảy múa và ca hát để ăn mừng sự kiện này. Vĩnh Thúc cầm chén của mình lắng nghe, và ông luôn rót đầy nó. Công tước lại ngạc nhiên và triệu tập họ đến để hỏi về bữa tiệc. Các kỹ nữ hát thơ của ông. [8] Đông Pha Chí Lâm ghi lại rằng khi Tô Thức làm quan địa phương ở Tiền Đường, "một kỹ nữ có biệt danh là Hồ Cửu Vĩ đã nộp đơn xin miễn đăng ký chính thức. Đông Pha phán, 'Năm ngày sau, kỹ nữ sẽ được tự do; Hồ Cửu Vĩ sẽ được tự do trở thành một người phụ nữ tốt.' Một kỹ nữ khác cũng yêu cầu được miễn đăng ký chính thức theo quy tắc. Đông Pha phán, 'Ý định thúc đẩy nền văn minh phương Nam của ngươi là đáng khen ngợi, nhưng mong muốn hỗ trợ người dân phương Bắc của ngươi là không thể chấp nận được. Yêu cầu của ngươi không được chấp nhận.'
"Cổ Hiện Từ Luận" của Dương Hi ghi lại: "Khi Tô Thức làm thái thú Tiền Đường, ông có một kỹ nữ tên là Tú Lan. Nàng vốn thông minh, giỏi quyết đoán. Trên hồ có yến tiệc, một nhóm kỹ nữ tụ tập. Sau khi yến tiệc kết thúc, chỉ có Tú Lan là chưa đến. Nàng đến sau một hồi chờ đợi. Khi được hỏi tại sao, nàng trả lời rằng đã buộc tóc, tắm rửa xong và ngủ thiếp đi. Đột nhiên, nàng nghe thấy tiếng gõ cửa gấp gáp. Nàng đứng dậy hỏi, thì ra là nhạc trưởng thúc giục nàng đến. Sao nàng dám lơ là? Nàng nói thật. Tử Triển đã tha thứ cho nàng, nhưng một thị nữ vì nàng đến muộn nên cứ tra hỏi mãi. Lúc đó, hoa lựu đang nở rộ, Tú Lan bẻ một cành đưa cho thị nữ, thị nữ càng thêm tức giận. Tú Lan lau nước mắt, không nói gì. Tử Chiêm bèn soạn một bài hát "Tết mát mẻ" và bảo ông hát theo, khiến cho người hầu kia nguôi giận.
Vương Thiệu cách chức Phó Cơ Mật Viện và bổ nhiệm Bộ Lễ làm Thái thú Ngạc Châu. Một hôm, tại một bữa tiệc, một kỹ nữ chơi nhạc. Đêm đến, một vị khách tên là Trương Cơ say xỉn và cố gắng giữ kỹ nữ lại. Khi cô ta từ chối tiến lên, ông ta đột nhiên ôm chầm lấy cô ta. Kỹ nữ khóc lóc và than phiền với Thiệu. Tất cả khách khứa đều thất vọng. Thiệu chậm rãi nói: "Ngươi cố gắng tiếp đãi khách, nhưng ngươi đã phá hỏng niềm vui của họ." Ông ta sai người mang một chiếc cốc lớn đến để trừng phạt kỹ nữ. Sau đó, vẻ mặt ông ta vẫn không thay đổi, vẫn nói chuyện và cười đùa như thường lệ. Ông ta cũng là một người đàn ông có phẩm chất tốt.
Trong "Tĩnh Khang Ký" của Vương Phủ có chép: "Sau vườn có một chợ hoa, cao như núi, giữa có bốn lối đi, giống như kỹ viện của người thường." "Kinh Mộng" chép: "Từ thời Trùng Quan, kỹ viện trong kinh thành... ca sĩ Lý Thi Thi, Từ Phân Hi, Phùng Ân Nô, Tôn Tam Tư và nhiều người khác là những người giỏi nhất."
Trong “Lịch sử tiếng cười cổ đại và hiện đại” của Phùng Mộng Long có một câu chuyện cười về việc “không gần gũi gái mại dâm”: “Hai vị Trình đại sư (tức Trình Hạo và Trình Nghị, hai nhà nho theo trường phái Tân Nho giáo) đến dự yến tiệc của các sĩ phu và quan lại, và có gái mại dâm hầu rượu. Dịch Xuyên (Trình Hạo) đứng dậy phủi quần áo. Minh Đạo (Trình Hạo) vui vẻ rời đi. Ngày hôm sau, Dịch Xuyên đến xưởng vẽ của Minh Đạo, vẫn còn bực bội. Minh Đạo nói: “Hôm qua, bàn của ta có gái mại dâm, nhưng ta không để ý. Hôm nay, xưởng vẽ của ta không có gái mại dâm, nhưng ngươi lại có.”
“Giấc mộng Nam Tống” của Ngô Tử Mục ghi lại rằng: “Vào thời Thiệu Hưng, Dương Dịch Trung, vì nhiều binh lính đóng quân ở đó đến từ Tây Bắc, nên đã lập ra các nhà hát trong và ngoài thành, chiêu mộ gái mại dâm và nhạc công cho binh lính giải trí. Giờ đây, thanh niên nhà quý tộc đang gây ra hỗn loạn và phá hoại, thậm chí còn tồi tệ hơn ở Biên Độ. Hàng Châu có không dưới mười bảy rạp hát, cả trong lẫn ngoài thành phố."
Sách "Sử ký nhà Tống", vào năm Thiên Thánh thứ nhất của Hoàng đế Tống Nhân Tông, có chép: "Một sắc lệnh của triều đình ra lệnh thả nữ công nhân trong các xưởng may và sản xuất cũng như phụ nữ làm việc trong các xưởng ở miền Bắc và miền Nam. Họ được tự do làm bất cứ điều gì họ muốn."
Lưu Dũng tự xưng là "Lưu Tam Biện, người đã đến với gái mại dâm theo lệnh của triều đình."
"Tạp chí Yến Bắc" của Lục Hữu Nhân, Tập 2, ghi lại rằng Phạm Thành Đạt đã tặng Khương Khuê một bài Thanh Y Tiểu Hồng. Khương Khuê đã viết trong một bài thơ: "Lời thơ mới của ta là quyến rũ nhất; Tiểu Hồng hát khe khẽ trong khi ta thổi sáo."
Trong văn bia "Văn bia Trương Cung, một vị quan cao cấp trong triều đình, và một mật thất chỉ huy", tập 38 của Vị Nam tập truyện của Lỗ Du, có ghi chép rằng Trương Cẩn "đã mua một kỹ nữ ở trại Lâm An và đưa cô ta về nhà, sau đó muốn bỏ rơi vợ con..."
"Tây Hồ Du Ký" ghi lại rằng một cô gái hát rong đã bị chủ nhân của mình giết chết dã man vì khen ngợi hai chàng trai trẻ đẹp trai. (Giả) Tư Đạo sống trên hồ. Một ngày nọ, ông đang dựa vào một tòa tháp và ngắm cảnh, cùng với các kỹ nữ của mình. Hai đạo sĩ, tay cầm quạt lông, đi vào bờ trên một chiếc thuyền nhỏ. Một trong số các kỹ nữ thốt lên: "Thật là những chàng trai trẻ đẹp trai!" Tư Đạo nói: "Nếu ngươi muốn cưới họ, ta sẽ giữ ngươi lại và chấp nhận hôn ước." Kỹ nữ mỉm cười nhưng không nói gì. Một lúc sau, có người mang một chiếc hộp đến và triệu tập các kỹ nữ, nói: "Ta vừa mới nhận lời đính hôn với một kỹ nữ." Chàng mở hộp ra và nhìn thấy đầu của những kỹ nữ. Các kỹ nữ rùng mình.
Triều Nguyên: Marco Polo kể rằng tại kinh đô Đại Đô (nay là Bắc Kinh) của triều Nguyên, "tất cả gái mại dâm đều sống ngoài thành, chứ không phải trong thành... Có hơn 20.000 người, tất cả đều có thể tự nuôi sống bản thân bằng chính mái tóc của mình, điều này cho ta thấy được dân số ở đó" (Marco Polo du ký, Phùng Thành Quân dịch, Nhà xuất bản Nhà sách Thượng Hải, 2001, trang 358). Hàng Châu, vốn là kinh đô của Nam Tống và là thành phố lớn nhất ở Giang Nam, là nơi có "gái mại dâm, nhà thổ và quán rượu" (Nguyên Điện Chương, tập 57, "Mười chín điều cấm của Bộ Tư pháp, Cấm bạo chúa, và Ba vụ án về Tuyên bố của Zhahuerdai"). Marco Polo đặc biệt đề cập đến gái mại dâm ở đó, nói rằng: "Có rất nhiều gái mại dâm mà tôi không dám mô tả. Họ không chỉ được tìm thấy ở những nơi những người này thường sống gần chợ, mà còn có mặt ở khắp thành phố. Quần áo của họ sáng màu rực rỡ, mùi hương nồng nàn, họ có nhiều người hầu, nhà cửa đẹp đẽ. Họ giỏi lừa gạt người khác, lời nói và cách ứng xử của họ đều rất hợp với lòng người. Người nước ngoài vừa đặt chân đến nơi của họ, họ lập tức bị mê hoặc. Vì vậy, khi họ trở về, họ luôn nói rằng họ đã đến tòa thị chính và rất mong muốn được quay lại đó. (Marco Polo du ký, trang 359). Triều đại nhà Minh Vào thời nhà Minh, bầu không khí xã hội thối nát và triều đình đánh thuế gái mại dâm. Trong Wuzazu của Tạ Chiêu Triết nói, "Ngày nay, gái mại dâm ở khắp mọi nơi trên thế giới. Ở các thành phố lớn, thường có hàng nghìn người. Họ cũng có thể được tìm thấy ở các thị trấn và làng mạc xa xôi. Họ dành cả ngày ở bậc cửa, bán nụ cười và mại dâm để kiếm sống. Cuộc sống của họ thật đáng thương! Các quan lại triều đình ở kinh đô thu thuế họ, gọi họ là "tiền mỹ phẩm". Những người dưới quyền quản lý của các châu huyện được coi là gái mại dâm, phải tuân lệnh. Cả nhà Đường và nhà Tống đều sử dụng gái mại dâm làm bạn nhậu chính thức, và điều này vẫn tiếp diễn trong những năm đầu của nền Cộng hòa. Vào đầu triều đại Tuyên Đức, một lệnh cấm đã được ban hành, nhưng những người ở nhà trong giới quý tộc thì được miễn. Do đó, mặc dù họ đã biến mất khỏi các tòa án công cộng, nhưng họ thường được tìm thấy ở nông thôn. Cũng có những người không liên quan đến chính phủ nhưng hành nghề mại dâm tại nhà, thường được gọi là 'người làm tổ riêng', và số lượng của họ vô số!
"Meipu Yutan" nói: "Gần đây, phong tục thời đó rất phóng túng, cả nam lẫn nữ đều vô liêm sỉ. Bên ngoài hoàng thành, các kỹ viện mọc lên như nấm, tràn ngập âm nhạc và ca hát. Những người dân thường chật vật kiếm sống thường dụ dỗ một số cô gái ăn mày và lập nên các kỹ viện riêng, được gọi là kỹ viện. Họ thường có một cửa sổ trời trong phòng và hai hoặc ba lỗ nhỏ khoét trên tường hướng ra đường. Những cô gái ăn mày sẽ ăn mặc chỉnh tề, ngồi khoả thân bên trong, vừa ngâm thơ vừa làm những động tác khiêu dâm. Những chàng trai trẻ nhà Phù Lượng đi ngang qua, nhìn qua lỗ hổng. Không cưỡng lại được, họ gõ cửa bước vào. Một hàng dài những cô gái ăn mày khỏa thân tiến đến, những ai phù hợp sẽ trả bảy đồng tiền, rồi nắm tay nhau lên giường, một lát sau rời đi.
Triều Thanh
Năm Ung Chính thứ bảy (1729), Giả Phương Tự được đổi tên thành Hòa Thịnh Tự, và tất cả nhạc công từ khắp các vùng đều bị xóa tên khỏi danh sách thường dân.
Dưới triều đại của Hoàng đế Càn Long, một chỉ dụ được ban hành nêu rõ: "Bốn điều ác này là cướp của, giết người, làm bị thương chân tay, phá nhà cửa, và hủy hoại đạo đức của người dân. Không có gì hại người tốt hơn những điều này."
Bình Xuân Lộ Yên Đài nói: "Vào thời Gia Khánh và Đạo Quang, sáu phố cấm ngặt; trai hát rong khắp nơi, và các quan văn Bình Khang không dám ở đó. Các sĩ tử và quan lại cũng sợ những chuyện bất ngờ, nên không muốn gần gũi với gái mại dâm." "Trước thời Đạo Quang, kinh thành coi trọng gái mại dâm nhất, và rất ít nhà thổ."
Kinh Hoa Xuân Mộng Lộ: "Vào giữa thời Quang Tự của nhà Thanh, trào lưu trai hát rong và gái mại dâm rất thịnh hành, và các sĩ tử và quan lại trong triều đều xấu hổ vì có gái mại dâm." Khi Thạch Hồng Bảo, người Hàng Châu, đến Phúc Kiến, chứng kiến cảnh phụ nữ Phúc Châu hành nghề mại dâm trên thuyền: "Ở Nam Đài có một loại thuyền, mái che bằng ván. Trước sau đều có cửa, trái phải đều có cửa sổ, giữa thuyền có giường có bàn. Ba năm kỹ nữ xinh đẹp đi cùng đón khách, qua lại giữa sông Hồng Đường và cửa sông. Thuyền này gọi là thuyền nằm. Quan lại, thương nhân giàu có đều được mời đến đón tiếp, tiễn khách. Đèn đỏ rượu xanh, trúc tươi, lụa trắng, những khúc ca mộng mơ. Nó đẹp mê hồn như Loạn Thiên ở Quảng Đông, Hồng Các ở Chiết Giang."
Thanh Bạch Lôi Triều ghi chép: "Ở Gia Ứng Khúc Bộ, Triều Châu, một nửa là con gái nhà Tanka... Khi một cô gái sinh ra, tùy theo nhan sắc mà được giữ lại để dùng, hoặc bán cho thuyền bên cạnh. Cha mẹ và anh em trai thường đến thăm. Khi lớn lên, cô bé sẽ được mặc áo lụa và thổi sáo. Dường như đây là một phong tục khiến cô bé không thể tránh khỏi việc trở thành gái mại dâm." .Nguyên Mai nói: "Suốt hai ngàn năm, mại dâm là một tập tục mà không một bậc quân vương hay đức quan nào có thể cấm đoán. Cũng như các nhà sư, Đạo sĩ và chùa chiền, nó vẫn lan tràn khắp cả nước và là một cách tốt để tiếp đãi những người nhàn rỗi."
"Thời Hàm Phong, mại dâm rất thịnh hành. Trong những ngõ hẻm như Yên Chi Thạch Đầu, nhà nào cũng treo đèn lồng bằng vải gấm và treo thiệp đỏ trước cửa. Mỗi buổi chiều, xe ngựa và khách khứa tấp nập đến, tiếng người gọi rượu tiễn khách vang lên inh ỏi suốt đêm. Các sĩ tử và quan lại đã quen với điều đó và không còn thấy lạ lẫm nữa."
Đỗ Hoàng theo Wikipedia, bách khoa toàn thư mở

Dẹp mại dam thời xưa - Trung Hoa.

  •   20/08/2025 18:58:00
  •   Đã xem: 13
  •   Phản hồi: 0
Tiết lộ bí mật về Chiến dịch Chống Khiêu dâm thời Trung Quốc cổ đại
Khang Hy ra lệnh chém đầu những kẻ cầm đầu
Phương Lưu,
Việc trấn áp và cấm đoán mại dâm hiện nay thường được gọi là "chống khiêu dâm". Vậy, chiến dịch này được thực hiện như thế nào ở Trung Quốc cổ đại?
Vào thời Xuân Thu năm 645 TCN, một nhóm gái mại dâm nổi lên ở nước Tề. Quản Trọng, khi đó là một quan chức cấp cao, đã thành lập "Nội Lục" (Nội Lỗ) trong cung điện của Tề Hoàn Công, nơi có tới 700 gái mại dâm cùng một lúc. Nội Lục, còn được gọi là "Nữ Lục", là những nhà thổ do triều đình quản lý, ra đời trước "nhà thổ quốc doanh" do Solon thành lập ở phương Tây nửa thế kỷ.
Quản Trọng thành lập các nhà thổ để tăng thu ngân sách trung ương của nước Tề và "cung cấp chi tiêu cho nhà nước". Tuy nhiên, những gái mại dâm này ngay lập tức vấp phải nhiều tranh cãi. "Chiến lược của Chiến Quốc: Chiến lược của triều đại Đông Chu" ghi lại: "Tề Hoàn Công có bảy khu chợ trong cung điện và bảy trăm phòng nội, bị dân chúng lên án." "Lệnh lên án" ám chỉ sự phản đối các kỹ viện, và đây được cho là tiếng nói đầu tiên ở Trung Quốc kêu gọi "cấm mại dâm".
Mặc dù chính sách "ngành công nghiệp tình dục" của Quản Trọng vấp phải sự phản đối của công chúng, nhưng nó vẫn phát triển mạnh mẽ. Sau thời Tần và thời Hán, "chế độ nhạc gia" và "chế độ quan mại dâm" dần dần hình thành, cùng với sự xuất hiện của cái gọi là văn hóa kỹ viện.
Mặc dù văn hóa kỹ viện đã trở thành một phần độc đáo của văn hóa dân gian Trung Quốc cổ đại, nhưng những lời kêu gọi cấm mại dâm của các triều đại vẫn không bao giờ ngừng lại. Đặc biệt, trong số những người dân thường, tầng lớp thấp rất căm ghét hệ thống kỹ viện, và mại dâm cùng việc gạ gẫm mại dâm bị coi là đáng khinh bỉ. Những từ ngữ thô tục như "con hoang" và "gái hư" thường được dùng để nguyền rủa cả nam lẫn nữ tham gia mại dâm, định hướng đạo đức xã hội. Trên thực tế, đây là một "lệnh cấm mại dâm về mặt đạo đức".
Tống Nhân Tông quy định rằng các quan chức "không được đến nhà thổ".
Lệnh cấm mại dâm về mặt đạo đức này không phải là một biện pháp dựa trên chính sách, và do đó không có nhiều tác động. Để đáp lại những lời kêu gọi cấm mại dâm, triều đình xưa thường ban hành các chính sách hạn chế mại dâm và mại dâm nhằm thanh lọc môi trường xã hội, điều chỉnh các chuẩn mực đạo đức và quản lý hành vi của quan chức. Những hạn chế này có thể được coi là "lệnh cấm mại dâm hợp pháp" của Trung Quốc cổ đại.
Ở Trung Quốc cổ đại, "lệnh cấm mại dâm hợp pháp" thường là một "cuộc đàn áp khiêu dâm" có điều kiện. Mô hình sinh tồn của gái mại dâm ở Trung Quốc cổ đại rất phức tạp, bao gồm gái mại dâm cung đình, gái mại dâm quan chức, gái mại dâm quân đội, gái mại dâm nội địa, gái mại dâm tư nhân và gái mại dâm bí mật. Những gái mại dâm này ban đầu xuất phát từ nô lệ và tù binh chiến tranh, sau đó chủ yếu bao gồm phụ nữ góa chồng, con gái của tội phạm (quan lại), và phụ nữ bán mình. Tuy nhiên, hầu như mọi triều đại đều cấm "ép buộc phụ nữ có phẩm chất tốt vào nghề mại dâm", thực hiện các cơ chế kiểm soát tiếp cận để ngăn chặn sự suy thoái đạo đức xã hội nói chung. Ví dụ, luật nhà Minh quy định rằng "bất kỳ gái mại dâm hoặc người mua dâm nào mua con cái của người tốt làm gái mại dâm sẽ bị phạt 100 roi".
Đồng thời, hành vi tình dục của những người mua dâm, hay còn gọi là khách hàng, cũng bị hạn chế, với những hạn chế nghiêm ngặt nhất được áp dụng đối với các quan chức có trách nhiệm xã hội. Ví dụ, dưới thời nhà Tống, các quan chức bị cấm đến thăm gái mại dâm. Hoàng đế Triệu Trinh (Tống Nhân Tông) đã quy định rằng các quan chức phụ trách hệ thống tư pháp hình sự, bao gồm cả Chánh án, bị cấm gạ gẫm gái mại dâm. Điều này được gọi là "không được đến với gái mại dâm để mua vui".
Bốn mươi hoặc năm mươi năm sau, Hoàng đế Triệu Húc (Tống Thần Tông) đã mở rộng lệnh cấm này để bao gồm tất cả các quan chức giám sát, chứ không chỉ riêng Chánh án. Tuy nhiên, có một ngoại lệ: một ngày trong 365 ngày được phép "nghỉ ngơi" - sinh nhật của Triệu Húc, được gọi là "Ngày Thánh". Bài thơ đương đại, "Đêm nay, bệ hạ không cần ngủ; xuân vẫn còn đây trước khi chuông sáng reo", mô tả đêm của "Ngày Thánh" này.
Trong tất cả các triều đại Trung Hoa cổ đại, nhà Đường có ngành công nghiệp tình dục phát triển nhất và trình độ của gái mại dâm cao nhất. Chính quyền nhà Đường đã thiết lập hệ thống mại dâm chính thức, hợp pháp hóa tư cách của gái mại dâm và biến mại dâm thành một ngành công nghiệp hợp pháp.
Đồng thời, chính quyền nhà Đường đã thành lập một cơ quan hành chính chuyên trách, "Giáo phường", để giám sát gái mại dâm hoạt động trong kinh đô. Tất cả những người hành nghề đều được yêu cầu đăng ký và trải qua "đào tạo nghề" trước khi tuyển dụng. Những người có giọng hát hay được đào tạo thành gái hát, những người có năng khiếu âm nhạc trở thành nhạc sĩ, những người có vóc dáng đẹp trở thành vũ nữ, những người có tửu lượng tốt trở thành gái uống rượu, v.v. Do đó, hình ảnh kỹ nữ thường xuyên xuất hiện trong các tác phẩm của các nhà thơ thời Đường.
Minh Huyền Tông ra lệnh
Bãi bỏ "trinh nữ"
Chế độ mại dâm chính thức của nhà Đường đã có tác động sâu sắc đến các thế hệ sau. Mãi đến thời nhà Minh, chế độ này mới bị bãi bỏ, đánh dấu một xu hướng mới trong phong trào chống mại dâm ở Trung Quốc cổ đại.
Thực tế, nhà Minh không hề cấm mại dâm ngay từ đầu. Chu Nguyên Chương, vị hoàng đế khai quốc của nhà Minh, vốn là một nhà sư, không những không cấm mà còn tích cực thúc đẩy nó. Dựa trên chế độ mại dâm chính thức của nhà Đường và nhà Tống, nhà Minh đã nâng cấp Giao Phương thành Giao Phương Tứ, trực thuộc Bộ Lễ, phụ trách giáo dục và ngoại giao.
Theo "Thành Thành Thi Luận" của Giang Minh Thư từ thời nhà Minh, Chu Nguyên Chương đã xây dựng 14 nhà hàng cao cấp, bao gồm Thanh Nham và Đan Phần, dọc theo sông Nội và Ngoại Tần Hoài ở khu vực quanh cửa Cúc Bảo (nay là cửa Trung Hoa), phía nam Nam Kinh. Khu vực này được biết đến với tên gọi "khu đèn đỏ" của triều Minh, "Tầng thứ mười bốn của Hoa Nhạc Xuân Phong" dọc theo sông Tần Hoài. Những nhà hàng này từng là "nhà thổ chính thức". Do thiếu gái mại dâm trước khi mở cửa, Chu Nguyên Chương đã ra lệnh tuyển dụng những phụ nữ có kinh nghiệm từ khắp cả nước, thúc giục họ vào nghề càng nhanh càng tốt. Với sự thăng tiến của chính quyền và các quan chức đi đầu, việc tiêu thụ tình dục thực sự đã thúc đẩy "nhu cầu nội địa" vào đầu triều Minh. Gái mại dâm là không thể thiếu trong các buổi họp mặt riêng tư, và "gái ba bạn" được phép tham gia các bữa tiệc chính thức.
Sự gia tăng nhanh chóng của gái mại dâm chính thức đã dẫn đến nhiều vấn đề, và nhu cầu của công chúng về việc cấm mại dâm ngày càng tăng cao. Chắt của Chu Nguyên Chương, Chu Chiêm Cơ (Hoàng đế Huyền Tông của triều Minh), đã ra lệnh bãi bỏ mại dâm chính thức và nghiêm cấm các quan chức đến các khu đèn đỏ. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của phong trào "cấm mại dâm" vào thời nhà Minh.
Hành động của Chu Chiêm Cơ là một sự kiện quan trọng trong lịch sử chiến dịch chống mại dâm của Trung Quốc. Nhưng mỗi chính sách đều có biện pháp đối phó. Tuy không có gái mại dâm chính thức, nhưng vẫn có gái mại dâm tư nhân. Một số người đàn ông giàu có, không bị ảnh hưởng bởi "lệnh cấm mại dâm", vẫn nuôi gái mại dâm trong nhà. Cùng với sự suy giảm của gái mại dâm chính thức, gái mại dâm tư nhân lại gia tăng, đặc biệt là một số lượng lớn được gọi là "ổ mại dâm tư nhân".
Chu Chiêm Cơ chỉ trị vì 11 năm và qua đời ở tuổi 38. Sau đó, các quy định về mại dâm được nới lỏng. Vào cuối thời nhà Minh, hai bên bờ sông Tần Hoài, nay là Nam Kinh, rải rác các nhà thổ và nhà hàng, và nhiều thuyền du ngoạn được sử dụng làm tụ điểm mại dâm di động, biến nơi đây thành trung tâm công nghiệp tình dục của cả nước. "Bản Kiều Tạp bút", do Dư Hoài thời nhà Thanh viết, là một ghi chép chân thực về đời sống tình dục của các học giả, sinh viên và quan lại tại các khu đèn đỏ thời bấy giờ. Cái gọi là "Tám mỹ nhân Tần Hoài" là tám gái mại dâm sống dọc theo sông Tần Hoài, tất cả đều xuất hiện vào cuối triều Minh và đầu triều Thanh.
Hoàng đế Khang Hy của nhà Thanh đã ban hành một sắc lệnh.
Những người chịu trách nhiệm "liên kết mở nhà thổ" sẽ bị xử tử.
So với triều Minh, lệnh cấm mại dâm của nhà Thanh thậm chí còn nghiêm ngặt hơn, mặc dù chúng cũng được thay đổi nhiều lần. Vào đầu triều Thanh, theo chế độ nhà Minh, Văn phòng Giao Phương được thành lập tại kinh đô. Tuy nhiên, Hoàng đế Thuận Trị đã hai lần sa thải các nữ nhạc công của Giao Phương, đào tạo 48 hoạn quan để thay thế gái mại dâm cho các sự kiện trong cung. Vào năm thứ tám của triều đại Thuận Trị (năm 1651), triều đình ra lệnh chấm dứt hoạt động của các nữ nhạc công Giao Phương và bắt đầu lệnh cấm mại dâm, phát động "chiến dịch bài trừ mại dâm" của nhà Thanh từ trên xuống dưới. Vào năm thứ mười sáu của triều đại Thuận Trị (1659 SCN), các nữ nhạc công bị bãi bỏ trực tiếp.
Hoàng đế Khang Hy kế thừa chính sách cấm mại dâm của triều đại Thuận Trị, và tiếp tục thực hiện vào năm thứ 12 (1673). Các điều luật được ban hành vào năm thứ 19 (1680) đã quy định rõ ràng: "Bất kỳ ai mở nhà thổ để dụ dỗ phụ nữ và trẻ em sẽ bị xử tử như một kẻ độc thân, và những người theo sau sẽ bị đày đến Hắc Long Giang và các nơi khác để làm nô lệ cho lính mặc áo giáp."
Hoàng đế Gia Khánh tiếp tục tăng cường hình phạt đối với mại dâm. Bộ luật Thanh sửa đổi, được ban hành vào năm thứ 16 (1811), quy định: "Nếu phát hiện ổ mại dâm trong hoặc ngoài kinh thành, và nếu nhà thổ được thành lập và hoạt động trong thời gian dài, ngoài hình phạt thông thường đối với người vi phạm, chủ nhà cho thuê nhà sẽ bị phạt 80 roi và một tháng tù giam cho lần vi phạm đầu tiên..."
Lệnh cấm mại dâm của nhà Thanh có thể được mô tả là một "lệnh cấm hợp pháp" thực sự. Chiến dịch "chống mại dâm" của triều đình được công khai rộng rãi và trong một thời gian đã khá hiệu quả. Ví dụ, ở Dương Châu, khi đó là "thành phố đèn đỏ" nổi tiếng toàn quốc, những người hành nghề mại dâm vô cùng lo lắng. Kể từ thời Tùy và Đường, ngành công nghiệp mại dâm ở Dương Châu đã phát triển mạnh mẽ. Bất chấp sự đàn áp của chính quyền triều đình đối với mại dâm, mại dâm vẫn là một vấn nạn dai dẳng. Các loại hình mại dâm bí mật như "sào huyệt tư nhân", "cổng bán nguyệt", "Dương Tân" và "gái lái đò" vẫn tiếp tục hoạt động. Những người hành nghề mại dâm này đã nắm rõ tình hình cuộc đàn áp, và khi tin tức lan truyền, họ đã "biến mất hàng loạt". Trong lời tựa của "Dương Châu Cổ Xứ Từ", học giả đầu thời Thanh Ngô Khởi đã viết: "Mỗi khi có lệnh cấm, họ đều bỏ chạy để bảo toàn mạng sống, không ai biết tung tích."
Trong tất cả các triều đại Trung Hoa cổ đại, triều đại nhà Thanh có lệnh cấm mại dâm rõ ràng nhất, nhưng họ không thực sự ngăn chặn nó, và mại dâm vẫn hoành hành trong dân chúng. Đặc biệt sau khi Hoàng đế Hàm Phong, Ý Chuẩn, lên ngôi, mại dâm lại bùng phát ở Bắc Kinh. "Lệnh cấm mại dâm" chỉ còn trên danh nghĩa. Khi thời đại phong kiến sắp kết thúc, ngành công nghiệp tình dục do Quản Trọng khởi xướng đã trải qua một thời kỳ hưng thịnh hiếm hoi. Vào thời điểm đó, vô số "khu đèn đỏ" với quy mô khác nhau đã xuất hiện trên khắp đất nước, chẳng hạn như "Bát Đại Hồ Đồng" ở Bắc Kinh và Thượng Hải, khi đó được gọi là "Mười dặm ngoại quốc". Thượng Hải đã trở thành "thủ đô tình dục" của thế giới. Vào đêm trước ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949, vẫn còn hơn 800 nhà thổ được đăng ký tại Thượng Hải.
Tại sao ngành công nghiệp tình dục lại phát triển mạnh mẽ trở lại vào cuối triều đại nhà Thanh? Thứ nhất, sau khi các cường quốc phương Tây mở cửa Trung Quốc, nền kinh tế thương mại đã kích thích ngành công nghiệp tình dục, vốn đã tồn tại từ lâu. Thứ hai, hoàng đế là người đi đầu trong việc tìm kiếm khoái lạc. Hoàng đế Đồng Trị thích "du ngoạn lãng mạn" và thường xuyên cải trang đến các nhà thổ. Tin đồn rằng ông qua đời vì bệnh hoa liễu (bệnh hoa liễu) không phải là không có cơ sở. Quan trọng nhất, chính sách chống mại dâm của chính quyền nhà Thanh bắt đầu nới lỏng, một thực tế mà các sử gia gọi là "nới lỏng lệnh cấm". Nhiều chính quyền địa phương đã áp dụng "thuế hoa", trên thực tế là công nhận tính hợp pháp của người hành nghề mại dâm.
Ở Trung Quốc cổ đại, việc cấm mại dâm luôn bị vướng vào tình thế tiến thoái lưỡng nan này. Mãi cho đến khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, lệnh cấm mới trở thành hiện thực.
Đỗ Hoàng theo Bách khoa từ điển mở

Dạo đức kinh (tiếp)

  •   21/08/2025 07:35:00
  •   Đã xem: 10
  •   Phản hồi: 0
CHƯƠNG 11
VÔ DỤNG
無 用
Hán văn:
三 十 輻 共 一 轂. 當 其 無, 有 車 之 用. 埏 埴 以 為 器. 當 其 無, 有 器 之 用. 鑿 戶 牖 以 為 室. 當 其 無, 有 室 之 用. 故 有 之 以 為 利, 無 之 以 為 用.
Phiên âm:
1. Tam thập phúc,cộng nhất cốc.Đương kỳ vô, hữu xa chi dụng.
2. Duyên thực dĩ vi khí. Đương kỳ vô, hữu khí chi dụng.
3. Tạc hộ dũ dĩ vi thất. Đương kỳ vô, hữu thất chi dụng.
4. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng.
Dịch nghĩa:
1. Ba chục căm, hợp lại một bầu. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của xe.
2. Nhào đất để làm chén bát. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của chén bát.
3. Đục cửa lớn, cửa sổ để làm nhà; nhờ có chỗ trống không, mới có cái dùng của nhà.
4. Cho nên lấy cái «có» để làm cái lợi, lấy cái «không» để làm cái dụng.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ba chục cân mới ra một đấu
Nơi trống không chỗ bấu càng xe
Nhào đât bát chén vôi ve
Chỗ không ra có bát be để dùng
Cử lớn nhỏ cùng chung ngôi vị
Nhờ trông không nên thế ngôi nhà
Lấy cái có để làm ra
Từ không biến hóa tài ba vật dùng.

10 kỹ nữ vĩ đại Trung Hoa thời cũ!

  •   21/08/2025 16:47:00
  •   Đã xem: 12
  •   Phản hồi: 0
Mười kỹ nữ nổi tiếng nhất lịch sử Trung Quốc:
Lý Thi Thi hạng ba, Trần Viên Viên hạng năm
Tóm tắt: Hàng ngàn năm lịch sử Trung Quốc đã sản sinh ra vô số anh hùng, và phụ nữ cũng không hề kém cạnh nam giới. Những người phụ nữ anh hùng này thật đáng ngưỡng mộ. Những kỹ nữ nổi tiếng đã phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng với thân hình gầy gò, họ đã chiến đấu với số phận một cách dữ dội nhất.
Giải nhất: Tô Tiểu Tiêu, người Tiền Đường thời Nam Tề.
Tô Tiểu Tiêu bẩm sinh xinh đẹp và đa tài. Tuy nhiên, do khó khăn về tài chính, bà đã sa vào con đường mại dâm, kiếm sống bằng nghề ca hát và trở thành một kỹ nữ lừng danh trong thời Lục Đại và Nam Tề. Giới văn nhân sau này đã dành nhiều lời khen ngợi cho bà. Tuy một số người có vẻ phù phiếm, nhưng cũng có nhiều người uyên bác, chẳng hạn như Bạch Cư Dị. Giới văn nhân và thi sĩ đến thăm Tiền Đường thường đến viếng mộ Tô Tiểu Tiêu, một nhân vật thậm chí còn lớn tuổi hơn cả Tô Đông Pha và Nhạc Phi. Các thế hệ sau, dù vô tình hay hữu ý, thường đặt cô gái này lên hàng đầu trong những bài thơ về Tây Hồ: "Hoa nở trước cửa nhà Tô Tiểu Tiêu, người phụ nữ pha rượu bên bờ Tô Cung", "Những cây liễu mềm mại của nhà họ Tô vẫn giữ nguyên vẻ quyến rũ, những cây thông cao vút bên mộ Nhạc Phi cũng chất chứa lòng trung thành". Tô Tiểu Tiêu là kỹ nữ duy nhất được lưu danh bất hủ trong lịch sử tình ái Trung Quốc, nhưng thật bi thảm, bà đã qua đời ở tuổi 19.
Lý do: Là một huyền thoại trong giới kỹ nữ nổi tiếng, bà là một nhân vật văn chương, là kỹ nữ được giới văn nhân ngưỡng mộ nhất trong lịch sử, không ai sánh bằng.
Giải nhì: Tiết Đào, người Tây An thời nhà Đường.
Sở hữu nhan sắc nổi bật và trí tuệ sắc sảo, Tiết Đào đã biết làm thơ từ năm tám tuổi, am hiểu sâu sắc về âm nhạc và sở hữu vô số tài năng, mang lại cho bà danh tiếng lẫy lừng. Mất cha từ nhỏ, Tiết Đào, vì khó khăn trong cuộc sống, đã được triệu tập vào Mạc phủ. Bà được tuyển vào đội nhạc công và bắt đầu phục vụ rượu, sáng tác thơ và chiêu đãi khách tại các tụ điểm giải trí, được mệnh danh là "thi nhân". Nhờ tài năng và sức hút của mình, bà đã thoát khỏi địa vị thấp kém này và trở thành một nữ học giả được kính trọng. Bà đã xây dựng mối quan hệ thân thiết với nhiều nam nhân thời Đường, bao gồm Vệ Cao, Ngô Nguyên Hành, Lý Đức Vũ, Nguyên Chấn và Bạch Cư Dị, bao gồm các tiết độ sứ và tể tướng quyền lực, cũng như các nhà thơ lớn.
Một trong Tứ đại mỹ nữ của Thục, một trong Tứ đại thi nhân của nhà Đường, và là một nữ hiệu đính viên trong Phủ Nguyên soái.
Giải ba: Lý Thi Thi, người gốc Khai Phong thời Bắc Tống.
Lý Thi Thi là người có tài năng xuất chúng, giỏi văn chương và ca hát, nổi tiếng khắp kinh đô Biện Lương. Câu chuyện về Lý Thi Thi, Hoàng đế Tống Huy Tông, quan văn Chu Bang Nhan, và quan văn Giả Nghị là một trong những câu chuyện thú vị nhất trong giới quan lại. Chu Bang Nhan, vì ghen tị với hoàng đế, đã viết một bài thơ, dẫn đến việc được thăng chức đột ngột, trong khi Giả Nghị, vì ghen tị, đã viết một bài thơ, dẫn đến việc bị giáng chức. Người phụ nữ huyền thoại này, tuy không có sự tận tụy bảo vệ đất nước và nhân dân như Lương Hồng Ngọc, nhưng lại được lòng dân như Tô Tiểu Hiểu, hay nỗi buồn như Đổng Tiểu Uyển, lại có tài năng và sức hút không kém.
Sắc đẹp và tài năng của bà đã chinh phục cả hoàng đế, quan văn lẫn quan văn.
Giải tư: Lương Hồng Ngọc, người gốc Trì Châu thời nhà Tống
Sinh vào năm đầu tiên triều đại Sùng Ninh của Hoàng đế Huy Tông, cha bà là một quân nhân. Ông bị đánh bại và bị xử tử trong chiến dịch chống lại Phương Lạp, bỏ lại Hồng Ngọc làm kỹ nữ trong doanh trại Kinh Khẩu. Bà sở hữu tài năng thư pháp và năng lực siêu nhiên, có thể giương cung bắn cung uy lực. Tại một buổi yến tiệc ở Kinh Khẩu, bà gặp vị tướng lỗi lạc Hàn Thế Trung, hai người nảy sinh tình cảm và nhanh chóng trở thành một cặp. Sau khi nhà Bắc Tống sụp đổ, quân Tấn tiếp tục tiến về phía nam và chạm trán với quân của Hàn Thế Trung tại Kinh Khẩu. Lương Hồng Ngọc, rạng rỡ và anh hùng, khoác trên mình bộ đồ đỏ, vung trống trận Kim Sơn, và với lực lượng nhỏ hơn quân địch gấp mười lần, bà đã đánh bại Tấn Võ Thuật và cầm chân quân Tấn tại Hoàng Thiên Đang trong bốn mươi tám ngày, tạo nên danh tiếng khắp Trung Quốc và thậm chí cả nước ngoài. Sau này, trong các cuộc Bắc phạt do Hàn Thế Trung, Nhạc Phi và Lưu Tuấn chỉ huy, Lương Hồng Ngọc đã dẫn đầu một đội quân nữ binh, nhiều lần đánh bại quân Tấn và lập nên những chiến công hiển hách. Đây chính là nguồn gốc của câu nói "Nữ nhi đồng chí" (大大大大).
Lý do: Chiến đấu với quân Tấn bằng cả sức mạnh dân sự lẫn quân sự.
Giải năm: Trần Nguyên Viên, một phụ nữ thời Minh đến từ Thường Châu. Mỹ nhân tuyệt thế này, sinh ra bên bờ sông Tần Hoài, đã gây ra một cuộc nổi loạn, lật đổ một vị hoàng đế, thay đổi một vị vua hùng mạnh, và thậm chí cả những chiến binh anh hùng thời bấy giờ cũng ra trận vì nàng. Ngô Tam Quế thốt lên: "Nếu một người đàn ông không thể bảo vệ vợ mình, thì sống còn ý nghĩa gì?" Sau đó, ông đích thân mở cổng thành cho quân Thanh tiến vào, bắt đầu một thiên anh hùng ca về cuộc chiến giành người phụ nữ xinh đẹp. Ông dẫn đầu một đội quân trăm ngàn người truy đuổi không ngừng nghỉ Lý Tự Thành, quyết tâm giành lại người mình yêu. Tuy nhiên, khi nghe tin Trần Viên Viên đã an toàn ở kinh thành, ông lập tức dừng cuộc truy đuổi và tập trung vào việc chào đón người đẹp. Ông ra lệnh dựng một chiếc lầu đầy màu sắc trước doanh trại chính, với cờ xí, sáo trúc và trống trải dài ba mươi dặm. Chính ông, trong bộ quân phục chỉnh tề, đã đích thân cưỡi ngựa ra đón nàng. Buổi lễ long trọng như chào đón một vị hoàng đế đến. Lý do: Sắc đẹp của nàng thật ngoạn mục, và lịch sử đã thay đổi vì nàng.
Giải sáu: Lưu Như Thị, người Gia Hưng thời nhà Minh.
Năm mười tuổi, bà bị bán vào kỹ viện do gia đình khó khăn về tài chính. Những kỹ năng thiết yếu cho cuộc sống của một kỹ nữ đã đánh dấu sự khởi đầu của cuộc đời bà. Tài năng, sắc đẹp, cùng với thơ ca và hội họa xuất chúng đã mang lại cho bà danh tiếng. Mặc dù là một kỹ nữ, Lưu Như Thị vô cùng căm ghét cuộc sống của một kẻ lừa đảo tầm thường. Tính cách kiên quyết và quyết đoán của bà đã ăn sâu vào cuộc đời đầy sóng gió của bà. Bị bán vào kỹ viện từ khi còn nhỏ, Lưu Như Thị đã trải qua một cuộc sống khó khăn. Bà từng được một vị quan nội các chuộc làm thiếp, nhưng suýt chết dưới tay "Hòa Đông Sư" hung dữ và ghen tuông trong nhà ông ta. Sau khi chồng bà là Tiền Thiên Nhất qua đời, người phụ nữ trung hậu và chính trực này đã tự tử.
Lý do: Cống hiến cho lòng yêu nước, một người phụ nữ tài năng của thời đại, và là thủ lĩnh của Bát Mỹ Nhân Tần Hoài.
Giải bảy: Đổng Tiểu Uyển, người Tô Châu thời nhà Minh
Đổng Tiểu Uyển, một kỹ nữ được mệnh danh là một trong "Tám mỹ nhân Tần Hoài", sinh ra trong kỹ viện, trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, nhưng lại sở hữu nhan sắc và sức hút siêu phàm.
Trí tuệ và tài năng phi thường của nàng đã chinh phục vô số nam nữ. Với sự giúp đỡ của kỹ nữ lừng danh Lưu Như Thị, Mao Bì Giang đã cứu vớt Đổng Tiểu Uyển và cưới nàng làm vợ. Sau khi cải đạo, Đổng Tiểu Uyển, nổi tiếng với sự chu đáo, thấu hiểu, tôn trọng và vâng lời, cùng với tài năng thư pháp, hội họa và ẩm thực xuất chúng, đã chiếm được tình cảm của các bậc trưởng bối trong gia tộc họ Mao.
Lý do: Người sáng tạo ra Đông Đường và Đông Nhu, được mệnh danh là "phi tần vĩ đại nhất mọi thời đại".
Giải tám: Lý Tương Quân, người Tô Châu thời nhà Minh
Lý Sinh ra trong một gia đình kỹ nữ, Tương Quân chịu đựng sự kỳ thị và sỉ nhục, nhưng nàng khác với những kỹ nữ bình thường chỉ biết ca hát cho vui. Bà sở hữu những lý tưởng cao đẹp, sự hiểu biết sâu sắc về công lý và lòng dũng cảm trước quyền lực. Bà dám tố cáo sự tham nhũng và hành vi sai trái của Tể tướng và các quan chức cấp cao khác, chống lại sự áp bức của kẻ mạnh. Bà kiên định trong tình yêu, căm ghét cái ác, và dám cả yêu lẫn ghét. Bà là hiện thân của một người phụ nữ tiến bộ tiêu biểu, chịu đựng áp bức và sỉ nhục, nhưng vẫn trung thành với tình yêu, giữ vững lập trường, phá vỡ truyền thống và vượt lên trên những lý tưởng trần tục.
Lý do: Thành thạo các loại nhạc cụ dây, đàn tỳ bà, âm nhạc và thơ ca, bà là một người phụ nữ kiên quyết, nhưng lại sở hữu một trái tim nhân hậu và tinh thần hào hiệp.
Vị trí thứ chín: Sai Kim Hoa, người An Huy thời nhà Thanh.
Tên của Hàn Kim Hoa là... Một trong những kỹ nữ nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc, Sai Kim Hoa, được biết đến với những chuyến du lịch đến Đức, Áo, Nga và Hà Lan, được coi là một kỹ nữ kiểu phương Tây. Cuộc đời bà đầy rẫy những câu chuyện về hôn nhân và tình yêu (bà kết hôn ba lần và sống ẩn dật ba lần), một khung cảnh đầy rẫy những huyền thoại. Bà vươn lên từ một kỹ nữ gợi cảm đến phi tần của một học giả hàng đầu, vợ của một quan lại triều đình, và cuối cùng là một kỹ nữ lừng danh, trải qua vô vàn thăng trầm. Là một người tình cũ, Sai Jinhua đã thúc giục Waldersee thực thi kỷ luật, kiềm chế sự trụy lạc và cướp bóc của binh lính, cứu mạng và tài sản của người dân Bắc Kinh và duy trì mức độ an ninh công cộng cao.
Lý do: Hy sinh sắc đẹp để cứu người, và nói được nhiều thứ tiếng.
Vị trí thứ 10: Tiêu Phụng Hiền, Tiền Đường thời nhà Minh Tiêu Phụng Hiền sinh ra trong một gia đình sĩ quan quân đội Mãn Châu đang suy tàn. Sau khi cha bà qua đời, mẹ bà, một phi tần, đã bị mẹ cả ngược đãi, buộc bà phải rời khỏi nhà họ Chu cùng với bà. Không lâu sau, mẹ bà qua đời vì bệnh, và được một vú nuôi tên Trương nhận nuôi dưỡng, bà đổi họ thành Trương và đặt tên là Phong Vân. Thiếu cơm ăn áo mặc, bà học hát với một nghệ sĩ họ Hồ rồi đến Nam Kinh ca hát kiếm sống, lấy nghệ danh là "Tiêu Phụng Hiền". Sau đó, bà kiếm sống bằng nghề hát cho khách trong đoàn Vân Cơ của đường Thiểm Tây, một trong Bát Đại Hồ Đồng nổi tiếng. Tài năng, nhan sắc và tài năng nghệ thuật của bà đã gây dựng danh tiếng rộng rãi ở kinh đô, khiến bà trở thành một kỹ nữ lừng danh trong những năm đầu của Trung Hoa Dân Quốc.
Lý do: Giúp Thái Ngạc thoát khỏi Viên Thế Khải và góp phần vào thành công của Cách mạng lần thứ hai.
Dỗ Hoàng theo Danh cầm, kỹ nữ

Đạo đưc kinh

  •   24/08/2025 14:05:00
  •   Đã xem: 10
  •   Phản hồi: 0
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
CHƯƠNG 12
KIỂM DỤC
檢 欲
Hán văn:
五 色 令 人 目 盲. 五 音 令 人 耳 聾. 五 味 令 人 口 爽. 馳 騁 田 獵 令 人 心 發 狂. 難 得 之 貨, 令 人 行 妨. 是 以 聖 人 為 腹 不 為 目. 故 去 彼 取 此.
Phiên âm:
1. Ngũ sắc lịnh nhân mục manh..Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng.. Trì sính, điền liệp lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa, lịnh nhân hành phương.
2. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục. Cố khứ bỉ thủ thử.
Dịch nghĩa:
1. Năm màu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của cải khó được, khiến người bị tai hại.
2. Bởi vậy, thánh nhân vì bụng không vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Năm màu sắc làm cùng mù mắt
Năm tiếng kêu người đặc điếc tai.
Năm mùi lưỡi liếm lè dài
Ruổi rong săn bắn người tài hóa điên
Của cải kho, người thêm bị hại
Thánh nhân thường kinh hãi bụng mình
Thường tâm coi trọng mắt nhìn
Chọn hay loại bỏ phải tinh tận tường..

Các tin khác

Chân Dung văn Nghệ Sỹ -TRẦN DẠ TỪ - THUỞ LÀM THƠ YÊU EM

TRần Dạ Từ là nhà thơ ở Việt Nam Công Hòa

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập6
  • Hôm nay1,412
  • Tháng hiện tại1,412
  • Tổng lượt truy cập213,926
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi