Tác giả Lý Âu Phàm

  •   26/08/2025 14:14:00
  •   Đã xem: 31
  •   Phản hồi: 0
iểu sử tác giả • • • • • •
Lý Âu Phàm (Leo Ou-fan Lee), sinh năm 1939 tại Hà Nam, tốt nghiệp Khoa Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Đài Loan và nhận bằng Tiến sĩ tại Đại học Harvard. Ông từng giảng dạy tại Đại học Chicago,(芝加哥)Đại học Indiana, (印第安納州)Đại học Princeton,(普林斯頓)Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông và Đại học Harvard. Hiện ông là Giáo sư Danh dự ngành Nghiên cứu Đông Á tại Đại học Harvard, Giáo sư Chủ nhiệm tại Đại học Trung Văn Hồng Kông, và là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc. Ông là tác giả của các tác phẩm "Tiếng thét từ Nhà Sắt", "Thượng Hải Hiện đại", "Mặt khác của Tây triều" và "Diễn văn từ Hố Cáo", cùng nhiều tác phẩm khác.
Lời tựa bản dịch tiếng Trung
Phần I: Bối cảnh
Chương 1: Sự xuất hiện của giới văn chương
Phần 2: Giới văn chương và hiện tượng văn nhân
Chương 3: Lâm Thư
Chương 4: Tô Mạn Thư
(Xem thêm)
Trích đoạn từ nguyên tác
(Tất cả)
Tôi sẽ tìm kiếm người bạn tâm giao duy nhất của mình trong biển người mênh mông; nếu tìm được, tôi sẽ gặp may; nếu không, đó là số phận của tôi, không gì hơn. (Xem nguyên tác)
— Trích từ trang 137
Khi Hồ Thích chỉ ra lỗi sai trong tiếng Đức của Dư Đại Phu, Dư Đại Phu trở nên chán nản và tức giận, thậm chí còn nghĩ đến việc tự tử. Từ đó, mâu thuẫn giữa hai phe phái bắt đầu. Tuy Dư Đại Phu không đủ can đảm nhảy xuống sông Hoàng Phố, nhưng ông đã viết một bài phản bác. (Xem văn bản gốc) (còn nữa)
Đỗ Hoàng theo Tân Hoa Xã.
Lão Tử

Lão Tử

  •   28/08/2025 14:21:00
  •   Đã xem: 31
  •   Phản hồi: 0
ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬLtg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!Đõ Hoàng CHƯƠNG 12KIỂM DỤC檢 欲Hán văn:五 色 令 人 目 盲. 五 音 令 人 耳 聾. 五 味 令 人 口 爽. 馳 騁 田 獵 令 人 心 發 狂. 難 得 之 貨, 令 人 行 妨. 是 以 聖 人 為 腹 不 為 目. 故 去 彼 取 此.Phiên âm:1. Ngũ sắc lịnh nhân mục manh..Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng.. Trì sính, điền liệp lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa, lịnh nhân hành phương.2. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục. Cố khứ bỉ thủ thử.Dịch nghĩa:1. Năm màu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của cải khó được, khiến người bị tai hại.2. Bởi vậy, thánh nhân vì bụng không vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.Đỗ Hoàng dịch thơ:Năm màu sắc làm cùng mù mắtNăm tiếng kêu người đặc điếc tai.Năm mùi lưỡi liếm lè dàiRuổi rong săn bắn người tài hóa điênCủa cải kho, người thêm bị hạiThánh nhân thường kinh hãi bụng mìnhThường tâm coi trọng mắt nhìnChọn hay loại bỏ phải tinh tận tường..

Nguc trung nhật ký

  •   30/08/2025 06:54:00
  •   Đã xem: 30
  •   Phản hồi: 0
學奕棋
閑坐無聊學奕棋,
千兵萬馬共驅馳。
進攻退守應神速,
高才疾足先得之。

眼光應大心應細,
堅決時時要進攻。
錯路雙車也沒用,
逢時一卒可成功。

雙方勢力本平均,
勝利終須屬一人。
攻守運籌無漏著,
才稱英勇大將軍。

Học dịch kỳ
Nhàn toạ vô liêu học dịch kỳ,
Thiên binh vạn mã cộng khu trì;
Tấn công thoái thủ ưng thần tốc,
Cao tài tật túc tiên đắc chi.

Nhãn quang ưng đại tâm ưng tế,
Kiên quyết thời thời yếu tấn công.
Thác lộ song xa dã một dụng,
Phùng thời nhất tốt khả thành công?

Song phương thế lực bản bình quân,
Thắng lợi chung tu thuộc nhất nhân;
Công thủ vận trù vô lậu trước,
Tài xưng anh dũng đại tướng quân.
Dịch nghĩa
Ngồi trong giam cấm buồn tênh, học đánh cờ,
Nghìn quân muôn ngựa cùng rong ruổi;
Tấn công, lui giữ đều phải thần tốc,
Tài cao, chân nhanh mới được nước trước.

Tầm nhìn phải rộng, suy nghĩ phải sâu,
Phải kiên quyết, luôn luôn tấn công;
Lạc nước, hai xe cũng thành vô dụng,
Gặp thời, một tốt có thể thành công.

Thế lực hai bên vốn ngang nhau,
Kết cục thắng lợi thuộc về một người;
Tính kế đánh hay giữ không sơ hở,
Mới xứng là bậc đại tướng anh dũng.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Trong tù buồn lắm học cờ chơi.
Muôn ngựa nghìn xe rong ruỗi hoài.
Tân công, thoái thủ rất nhanh ứng.
Tài lớn, trí nhanh mới thắng người.

Mắt nhìn phải rộng , tâm suy kỷ
Kiên quyết chẳng dừng thế tấn công
Lạc nước hai xe đều uổng phí
Đươc thời một tốt gặp thành công

Thế lưc hai bên rất cân trời
Thắng lợi thì nghiêng chỉ một người
Công thủ diệu kỳ lo liệu trước
Đại tướng hùng anh bậc tuyệt vời

Lão Tử

  •   30/08/2025 07:05:00
  •   Đã xem: 28
  •   Phản hồi: 0
CHƯƠNG 13
YẾM SỈ
厭 恥
Hán văn:
寵 辱 若 驚. (貴) 大 患 若身. 何 謂 寵 辱 若 驚. 寵 為 (上, 辱 為) 下. 得 之 若 驚, 失 之 若 驚. 何 謂 (貴) 大 患 若 身. 吾 所 以 有 大 患 者, 為 吾 有 身. 及 吾 無 身, 吾 有 何 患? 故 貴以 身 為 天 下, 若 可 寄 天 下. 愛 以 身 為 天 下, 若 可 托 天 下.
Phiên âm:
1. Sủng nhục nhược kinh. (Quí) đại hoạn nhược* thân.
2. Hà vị sủng nhục nhược* kinh. Sủng vi (thượng, nhục vi) hạ.. Đắc chi nhược* kinh, Thất chi nhược* kinh.
3. Hà vị (quí) đại hoạn nhược* thân. Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?
4. Cố quí dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả ký thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược* khả thác thiên hạ.
Dịch nghĩa:
1. Vinh, nhục cũng làm lo âu. Sở dĩ hoạn nạn là vì có thân.
2. Tại sao vinh, nhục đều làm lo âu? Vinh là ở ngôi cao, nhục là ở địa vị thấp. Được cũng lo, mất cũng lo. Vì thế nên nói: Vinh nhục đều lo.
3. Tại sao nói: «Hoạn nạn là vì có thân?» Ta sở dĩ phải lo âu nhiều, chính vì ta có thân. Nếu không có thân, ta đâu có lo !
4. Cho nên ai quí thiên hạ hơn thân mình, thì có thể đem thiên hạ giao phó cho, ai yêu thiên hạ hơn thân mình, thì có thể gửi gắm thiên hạ cho họ được.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Có vinh nhục đều thường lo lắng
Ngôi cao, hèn đều đáng âu lo
Mất thì hoạn nạn tẽn tò,
Vinh hoa cũng bị một bồ dao đâm!
Họa phúc là vì có thân
Không thân thì cũng chẳng cần điều chi.
Nên ai yêu quý chỉ vì thiên hạ
Thì nên đem tất cả trao cho.
Ai coi thiên hạ trời to
Giao thiên hạ hết chẳng lo việc gì!

Lão tử

  •   03/09/2025 07:40:00
  •   Đã xem: 28
  •   Phản hồi: 0
CHƯƠNG 12
KIỂM DỤC
檢 欲
Hán văn:
五 色 令 人 目 盲. 五 音 令 人 耳 聾. 五 味 令 人 口 爽. 馳 騁 田 獵 令 人 心 發 狂. 難 得 之 貨, 令 人 行 妨. 是 以 聖 人 為 腹 不 為 目. 故 去 彼 取 此.
Phiên âm:
1. Ngũ sắc lịnh nhân mục manh..Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng.. Trì sính, điền liệp lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa, lịnh nhân hành phương.
2. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục. Cố khứ bỉ thủ thử.
Dịch nghĩa:
1. Năm màu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của cải khó được, khiến người bị tai hại.
2. Bởi vậy, thánh nhân vì bụng không vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Năm màu sắc làm cùng mù mắt
Năm tiếng kêu người đặc điếc tai.
Năm mùi lưỡi liếm lè dài
Ruổi rong săn bắn người tài hóa điên
Của cải kho, người thêm bị hại
Thánh nhân thường kinh hãi bụng mình
Thường tâm coi trọng mắt nhìn
Chọn hay loại bỏ phải tinh tận tường..

Lão tử

  •   11/09/2025 07:45:00
  •   Đã xem: 23
  •   Phản hồi: 0
ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
CHƯƠNG 13
YẾM SỈ
厭 恥
Hán văn:
寵 辱 若 驚. (貴) 大 患 若身. 何 謂 寵 辱 若 驚. 寵 為 (上, 辱 為) 下. 得 之 若 驚, 失 之 若 驚. 何 謂 (貴) 大 患 若 身. 吾 所 以 有 大 患 者, 為 吾 有 身. 及 吾 無 身, 吾 有 何 患? 故 貴以 身 為 天 下, 若 可 寄 天 下. 愛 以 身 為 天 下, 若 可 托 天 下.
Phiên âm:
1. Sủng nhục nhược kinh. (Quí) đại hoạn nhược* thân.
2. Hà vị sủng nhục nhược* kinh. Sủng vi (thượng, nhục vi) hạ.. Đắc chi nhược* kinh, Thất chi nhược* kinh.
3. Hà vị (quí) đại hoạn nhược* thân. Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?
4. Cố quí dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả ký thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược* khả thác thiên hạ.
Dịch nghĩa:
1. Vinh, nhục cũng làm lo âu. Sở dĩ hoạn nạn là vì có thân.
2. Tại sao vinh, nhục đều làm lo âu? Vinh là ở ngôi cao, nhục là ở địa vị thấp. Được cũng lo, mất cũng lo. Vì thế nên nói: Vinh nhục đều lo.
3. Tại sao nói: «Hoạn nạn là vì có thân?» Ta sở dĩ phải lo âu nhiều, chính vì ta có thân. Nếu không có thân, ta đâu có lo !
4. Cho nên ai quí thiên hạ hơn thân mình, thì có thể đem thiên hạ giao phó cho, ai yêu thiên hạ hơn thân mình, thì có thể gửi gắm thiên hạ cho họ được.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Có vinh nhục đều thường lo lắng
Ngôi cao, hèn đều đáng âu lo
Mất thì hoạn nạn tẽn tò,
Vinh hoa cũng bị một bồ dao đâm!
Họa phúc là vì có thân
Không thân thì cũng chẳng cần điều chi.
Nên ai yêu quý chỉ vì thiên hạ
Thì nên đem tất cả trao cho.
Ai coi thiên hạ trời to
Giao thiên hạ hết chẳng lo việc gì!

Nguyễn Quang Thiều - tầm văn hóa thấp

  •   14/09/2025 09:20:00
  •   Đã xem: 39
  •   Phản hồi: 0
NGUYÊN QUANG THIỀU – HỌC HÀNH LỔ MỔ - TÀM VĂN HÓA QUẤ THÂP – KHÔNG NÊN LÀM CHỦ BÚT.Đỗ HoàngMấy ông công an khi đeo dao găm, súng lục, giày đính, kiếm mác, tua dãi trông rất hùng dũng;;nhưng khi viết lách thể hiện ý đồ, quan điểm thì lòi lổ hỏng kiên thức vô học rất trầm trọng! Nguyễn Quang Thiều là một người như thế! So với những người cùng thế hệ, Nguyễn Quang Thiều được Công ân cho học tiếng Anh dù là người Mễ Tây Cu Ba dạy. ‘Méo mó có hơn không” Nhưng phong văn hóa của Thiều rất lởm khởm. Thiều qui tập một dàn “vô lối – thi tặc ( 27 ) tên.phá nát thi ca tổ tiên! Thiều viêt:”Bạn phải luôn nghĩ rằng;”Ta sẽ lảm những điều mà trước ta chưa ai làm, ta sẽ làm sẽ làm ra những điều khều khác với những gì ta đã làm”. Đấy chinh là sự can đảm. Đấy chính là bản chât của sáng tạo.. Trong sáng tạo không bao giờ không bao giờ có khái niệm “đi theo’, “làm theo”. Sáng tạo thực sự luôn mang tinh thần độc lập, riêng biết và cô đơn.”Chúng ta kinh trọng và thậm chí tôn thờ Dante, Shakesre, Nguyễn Du như những vị thánh, nhưng đừng sợ hãi họ. Nếu các vỹ nhân làm ra những ngọn núi kỳ vỹ thì bạn hãy làm ra những viên sỏi.Những ngọn núi vỹ đại hơn những viên sỏi nhưng mỗi thứ đều mang vẻ đẹp riêng của mình. Đây chính là sự kỳ vỹ của đời sống và cũng là sự kỳ vỹ của nghệ thuật sáng tạo. Nếu Dante, Shakespere, Nguyễn Du hoàn thiện đên mức trở thành một bức trường thành mà bạn không tìm được lối đi thì sự vỹ đại của họ chính là sự tuyên cáo môt “cái chết” cho nghệ thuật. Nhưng kỳ lạ thay, khi ta nhìn thật sâu vào những tác phẩm vỹ đại của họ , ta lại thấy những cửa lớn rộng lớn đầy gợi mở, đầy cảm hứng và đầy khát khao mở ra cho ta. Đấy là những tác giả và những tác phẩm lớn.(Sáng tạo – Những bước chân của sự can đảm – Viêt &Đọc –chuyên đề mùa xuân năm 2024)Một đọan văn ngắn la lối, sáo rỗng, ba , xu đầy chất Tàu ô, nhiều sai lầm trong học thuật.Tàu ô; sự(事件) can đảm (勇敢) chinh sự(政治) , vị thánh ( 位 聖 ) sáng taọ( 創造), khái niệm (概念) , vỹ nhân (偉人) , kỳ vỹ (壯麗) , nghệ thuât (藝術) , trường thành (擴張) , hóan thiện , (完善) tuyên cáo (宣言), cảm hứng(靈感), khat khao (慾望), tác giả(作者), tác phảm (作品), kỳ lạ (奇怪的). Kiểu viêt của đứa rất kém Lê Quý Đôn nói: ‘người tài giỏi hơn hêt mọi người, mọi thời cũng không chối bỏ dời trước” Trong Tâm lý học sáng taọ, có hiện thực, tưởng tượng mới sáng tạọ.(Từ trưc quan sinh dộng đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thưc tiễn). Có cái đạp bánh gỗ mới cócái xe đạp bánh cao su., co se sim sơn mới có honda,Sh,có sam 1, mới có sam2…có chữ la tinh mới có cho Thiều làm vô lối, tắc tỵ…Với tầm nghĩ quá ngắn như vậy nên Thiều đưa Vi Thùy Linh lên tầm “sư hào” in 7 bài thơ trong Viết & Đocxin trích”số Chuyên dề mùa xuân năm 2024”j tiễn)“Rút ngắn nhất về mình.ViLi là người hiếu triKhông ngừng học học và say mê nghệ thuậtNghệ thuât là nghịp thường hăngY nghĩ và liên tưởngKhi giặt, phơi, gấp đỗKhi tăm đêm để được đăm trong nước lâu hơn khi con ngủKhi đọc sach nghĩ về quyền lưc 24 chữ.Tứng ký tự ghép nhau, tách – nốiĐôc thúc tôi….”Nâng thơ Thi Hoàng lên tầm “Sư Đậu Phụ” của Thiều“Dây phơi nhà ai, chiếc nịt vu thơm lừng , nhìn đã thấy no nê” Lão già 83 tuổi (sinh 1943)Mà mới thấy nịt vú con gái phơi nhà hàng xóm cường dương như thanh niên trẻ khỏe. Bài in trên báo Văn nghệ năm 2923!(còn nữafKỳ sau: “Chúng ta đi qua thiên đường vơi đôi măt mù lòa”
A D H 1

Nguyễn Quang Thiều , kỳ 5

  •   18/09/2025 15:03:00
  •   Đã xem: 29
  •   Phản hồi: 0
Ky 5: NGUYỄN QUANG THIỀU – TÀM VĂN HÓA QUÁ THẤP - KHÔNG ĐỦ TẦM LÀM CHỦ BÚT VĂN CHƯƠNG
Đỗ Hoàng
Có một số anh công an khi mặc săc phục, đi giày đinh, đeo tua dãi trông rât hùng dũng nhưng khi viết lách thể hiện quan điểm học thuật thì lộ rõ những lỗ hỏng vô hoc rất tai hại!
Nguyễn Quang Thiều là một anh như thế! So với những người cùng thế hệ, Nguyễn Quang Thiều được Công an cho học tiếng Anh ở Cu Ba - dù là người Mễ Tây Cơ dạy. Méo mó co hơn không. Bài viết của Thiều đầy rẫy Hán tự , phá vỡ cái đẹp của văn chương cha ông! Thiều qui tập một dàn “vô lối – thi tặc ( 27 ) tên làm hỏngthi ca tổ tiên!
Năm cái lời tựa đọc qua, bài nào cũng giọng điệu la lối, ôm đồm, sáo rỗng, ba voi không ngọt bát xáo, lại dùng nhiều Han tự xơ cứng cũ mèm!
Bạn đọc xem “Hãy ngước măt lên dũ chỉ một lần”.Đên nổi cái lời nói đầu một tập sách cũng không biêt viêt. Nói quàng, nói xiên!
“Trong thời hiện đại mà chúng ta đang sống, nổi hoài nghi lớn nhất luôn luôn thường trực trong tôi là hoài nghi về sự tồn tại niềm vui.Có chăng lừa mị chúng ta đã đượcnếm trải chín của niềm vui trong khi cuôc sống của chúng ta luôn luôn bất toàn. Chúng ta luôn kiếm tìm , kiếm tìm bằng cả trái tim chân thành nhất,để hưởng đươc niềm vui đươc sông trong cuộc đời này. Nhưng những gì chúng ta tìm thấy chỉ là lớp áo choàng (đôi khi đã thay ra) của niềm vui.. Và tất cả những gì mà chúng ta mơ hồ đạt tới niềm vui đang đầy đoa, lừa mị chúng ta nhiều nhất. Thực tế như vậy nguy hiểm vô cùng đối với ý thức sống của chúng ta. Chúng ta đang cố tạọ dựng nó , gọi tên nó và nhiều lúc cưỡng bức nó. Sự ảo tưởng về niềm vui đang rỗng chính tâm hồn của con người như một đàn mối rời bỏ chiếc tổ ấm áp của mình chỉ vì những cơn mưa tưởng tượng. Dường như những trân mưa niềm vui còn chưa đến. Trong ảo tưởng niềm vui, con người luôn luôn có nguy cơ hư hỏng nhiều hơn. Sự ngạo mạn và ngu ngôc thường đươcsinh ra trong trạng thái ấy. Đồng thời nỗi sợ hãi, nỗi cô đơn và khát vọng vượt qua nỗi sợ hãi, cô đơn ấy bị đánh mất. Khi con người rơi vào nỗi đau đớn tinh thần họng và tuyệt vọng về chính đời sống của mình, khi mà con người dứt hêt mọi sợi dây ràng buộc của thiên nhiên, của đời sống, khi ấycon người cần đến Cái Đẹp hơn mọi nhu cầu khác.” – “Hãy ngước mắt lên dù chỉ một lần”( Viêt&Đoc chuyên đề mùa đông 2023)
Một đoạn văn dài ông Thiều không nói gì đến “ngước mắt lên dù chỉ một lần”, ông đang ba hoa về hoài nghi niềm vui”. Cái gì cũng có thể hoài nghi, chứ thớ gì niềm vui! Nhất là niềm vui trong cái chú nghĩa xã hội không tưởng bời cái học thuyết không tưởng! Nhưng trong cái không tưởng ấy thì cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trên quê ông là có thật. hàng triệu người bần cố là có thật.Hàng triệu người thoát vọng nô lệ ngoại bang là có thật. Niềm vui của hàng triệu người bần cố là có thât! Niềm vui ấy được khẳng định chứ không phải hoài nghi! Ông Nguyễn Quang Thiều đã phản lại cha ông cúả ông, phản lại chủ thuyêt của j sự cứu rỗi.
Mãi gần hết bài ông Thiều mới nói;”Có ngườ hỏi tôi về người đàn bà trong bài thoe Cái Đẹp ở tập Sự mất ngủ của lửa có y nghĩa gì .Trong bài thơ ấy cảnh con bò kéo chiêc xe đá trên đường gió lạnh. Sau xe là người đần ông cúi mặt đẩy xe. Cả con bò và người đàn ông kia đã nguyền rủa con đường gió lanh và nguyền rủa nhau. Trong khi chỉ có người đàn bà ngồi trên thùng xa đã lấy khăn che bớt khuôn mặt đẹp của mình.Con người, con bò và chiêc đá nặng nề chính là thế giới của chúng ta. Thê giới ây luôn luôn có sự ngự trị của Cái Đẹp. Người đàn bà đẹp là sự ngự trị. ấy.Nếu con người kia ngước lên dù chỉ một làn thôi thì anh ta nhận ra cái Đẹp. Anh sẽ nhạn đươc sự cứu rỗi.” Kiều làm vô lôi – thi tăc của Nguyễn Quang Thiều để thế kỷ sau giải nghĩa mới rò ý tác giả (!). Cung như bài “Những người đàn bà gánh nướs sông” người ta hỏi đư cá thiêng vào có nghĩa gì? Thiều trả lời :”Đó là thời cơ may mắn”
Muốn làm triết học nhưng kiến thức lổ mổ, các khái niêm triết học mù mờ, diễn đạt lủng ca, lủng củng dẫn đên nhiều sai lầm nghiêm trọng tổn hại đên danh dự bàn thân, danh dự gia đình, cha ông, dòng tộc, đất nước, các tổ chức chinh đảng.
Với kiến thức lổ mổ, chắp vá, ít hoc Nguyễn Quang Thiều không nên làm chủ bút!
Đoạn văn đầy Tàu ô như : Hiện đai (現代),hoài nghi (難以置信),thường trưcj (永恆的) tồn tại (存在),bất toàn (不完善),chân thành nhất (最真誠地), tất cả (全部),đạt tời (抵達),đầy đọa (折磨),ma mị(幽靈般的), (thưctế (現實),lừa mị (欺騙), nguy hiểm (危險), vô cùng (極為),tưởng tượng (想像),x bưcchinh (主要的),cưỡng bức (被迫),ảo tưởng (錯覺),hư hỏng (損壞的), ngạo mạn (傲慢的),ngu ngôc (愚蠢的),
thiên nhiên (自然),đồng thời ( 同時地)….
Đ - H
Kỳ 6 :Thông điệp của những ngọn gió

Nguyễn quang Thiều kỳ 7

  •   21/09/2025 19:57:00
  •   Đã xem: 25
  •   Phản hồi: 0
Kỳ 7: NGUYỄN QUANG THIỀU – TẦM VĂN HÓA QUÁ THẤP – KHÔNG NÊN LÀM CHÚ BÚT.
Đỗ Hoàng
Thông diệp của những gọn gió
(Lời tựa Viết & Đọc chuyên đề mùa xuân 2023)
Đọc đến năm, bảy cái lời tựa đầu sách của Nguyễn Quang Thiều (Ở đây ghi là Thư biên tập)thì mọi người quá thất vọng cáí kiến thức lổ mổ, kém nát, luôn luôn kêu gào, sáo rồng, ngoắng lên của Thiều! Đúng là dốt hay nói chữ, nào là tự do, kỳ vỹ, chóí lòa, thiên đường, thông điệp quyền uy, bí mật, hiện diện, ma mị, cưỡng bức,nếm trải, trái chín,giai điệu, ký diệu, hùng vỹ,vô song…nhan nhản từ Hán chưa Việt hóa!
“Chúng ta những ngọn gió thức dậy từ những nơi mà các ngươi không bao giờ biết được. Và các ngươi cũng không thể nào biết được nơi chốn chúng ta sẽ đến. Đấy vừa là quyền uy vừa là bí mật của chúng ta. Chỉ khi chúng ta tràn qua các người thì các ngươi thì các người mới biết sự hiện diện của chúng ta. Mọi nổ lực săn tìm của các người đều bất lực. Chúng ta vừa lướt mình trên các người vừa cất tiếng về Tự do.
Chúng ta bay lượn trên bầu trời kỳ vỹ và lướt trên đất đai bất tận từ ban mai đến đêm tối. Chúng ta không thuộc quyền sở hữu cuả bất kỳ ai nhưng hiện diện trong mọi ngõ ngách của đời sống này, tham dự vào đời sống cua mọi con người. Chúng ta làm cho cái cây bất động đã chết trở nên quyến rủ và kiêu hãnh. Các người hãy ngước mắt nhìn lên những vòm lá. Chúng ta đang ngự trị ở đó. Chúng ta đang làm cho những chiếc lá bị phủ đầy bụi thức dậy và ngân vang như những tiếng chuông vàng. Chúng ta làm cho những cái cây yêu hèn và biết lớn lên và sợ hãi phải cúi đầu. Chúng ta làm cho những cái cây có ý chí và biết lớn lên trong bão táp và trở thành những cái cây bền vững và kỳ vỹ ..."
Toàn sáo rỗng, hô khẩu hiệu... dạy dỗ người ta bằng nhưng chữ xơ cứng trong sách Hấn học. Lập luận sai trái Nguyễn Quang Thiều không hiểu gì vê địa lý, sinh vật, vật lý....Quá kém nát!
A D H 1

Phu Trạm Ỉnasara

  •   22/09/2025 14:28:00
  •   Đã xem: 20
  •   Phản hồi: 0
VÔ LỐI PHÚ TRẠM IN RA SA RA VIẾT CHO AI ĐỌC
Đỗ Hoàng
Trong các chuyên luận trước tôi đã viết có nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số, họ là những nhà thơ song ngữ tài danh như Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn…thế hệ kế tiếp Lương Định, Dương Thuấn, Mai Liễu…đã góp phần làm rạng rỡ văn học nước nhà. Trong cộng đồng 54 dân tộc của Việt Nam lấy tiếng nói, chữ viết, chữ ,,quốc ngữ,, của người Việt, tộc người đa số làm chính. Các nước trên thế giới, như Trung Quốc, Nga, Anh, Mĩ…cũng vậy. Trung Quốc quốc ngữ là tiếng Hán, Nga thì tiếng Nga, Anh thì tiếng Anh…Các nhà thơ dân tộc thiểu số như Lão Xá ,Trung Quốc, Raxun Gamzatop ,Nga, đều thông thạo quốc ngữ của mình và họ có nhiều tác phẩm rất nổi tiếng.

Phú Trạm Inrasara dân tộc thiểu số Chăm. Người Chăm thuộc nhóm chủng tộc Austronesia (người Nam Đảo) có nguồn gốc Đông Nam Á.
Người Chăm hay người Champa (Chăm Pa) (tiếng Chăm: Urang Campa), còn gọi là người Chàm, người Chiêm, người Chiêm Thành, người Hời... hiện cư ngụ chủ yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Đến thời vua Minh Mạng, vương quốc Chăm pa đã bị xóa sổ; thời Pháp thuộc còn lưu lại Bảo tàng Chăm ở Đà Nẵng. Dân số người Chăm tại Việt Nam theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là 178.948 người, tương đương dân số một phường trung bình ở thành phố.
Hàng nghìn, hàng trăm năm qua, cộng đồng dân tộc thiểu sống trong cõi Việt họ nắm vững tiếng phổ thông ,, tiếng Việt,, như tiếng mẹ đẻ. Riêng Phú Trạm Inrasara tiếng Việt làm thơ rất kém. Tôi có lần khảo sát tiếng Việt của Inrasara thì thấy ông ta trình độ chỉ lớp 1, lớp 2 trường làng. Ông ta làm thơ tiếng Việt rất nhăng cuội, lộn xà lộn xộn, rồi đưa lẫn tiếng Hán, tiếng Anh, các dấu toán học vào trong bài thơ như một mớ bòng bong. Phú Trạm Inrasara là loại đại biểu số I thơ vô lối.
Báo Văn nghệ bộ mới do những người thơ vô lối cầm chịch nên số 19 Phú Trạm Inrasara được in một chùm 2 bài. Bài thứ nhất là ,,Tam khúc Orchid Island Taiwan,, ; bài thứ 2 ,, 3 Đoản thi trái đất,,.
Phú Trạm Inrasara đã dốt chữ Việt lại sính dùng mấy chữ tiếng Hán và mấy chữ tiếng Anh học thời phổ thông pha trộn vào trong bài thơ vô lối để ,,khoe ,, mình có văn hóa cao. Bài thơ nào cũng thế, tập thơ nào cũng thế.
CON ĐƯỜNG VỠ
Người cư ngụ dưới căn nhà tồi tàn
trước ngọn đèn tồi tàn, người suy tưởng
về sự thống khổ bần hàn trong thế gới bần cùng
giàu sang là nẻo đường rừng người đi buổi sớm
Con đường khép lại và mở ra dưới sức nặng bàn chân
Xát mòn vẹt đau để vui mở ngọn
cưu mang gót giày nhục nhằn cho mầm nắng trồi lên
Con đường rừng nhạt và chìm vào ẩn mật
kiên nhẫn chờ đợi bước chân thế hệ chưa hình thành
bất chợt chiều nay tôi thấy con đường vỡ
đang nhìn tôi trong tiếng nói không lời
In trong tạp chí Thơ số 1&2 – 2012)
Một bài ngắn 11 dòng, In ra sa ra đã dùng đến 20 chữ Hán chưa Việt hóa ! Rất kém.
居 cư ở, cư trú; 寓 ngụ 1. nhờ cậy 2. nói bóng gió; 摧殘 tồi tàn : tồi tàn, hư hỏng, đổ nát; 推想 suy tưởng , như suy tư 推思. 推思 suy tư : nghĩ ngợi. 推奬 suy tưởng :đề cao mà khen thưởng;丩cưu : bò lan, quấn quýt ( nói về loại dây leo ). 忙 mang : bận rộn, bề bộn; 辱 nhục :1. nhục, xấu hổ 2. làm nhục 3. chịu khuất; 隱密 ẩn mật 1. Dấu kín.Che dấu kín đáo. 堅忍 kiên nhẫn - Vững lòng nhẫn nại, Bền vững chiu đựng; 世繫 thế hệ 1. Liên hệ dòng dõi của một gia tộc trải qua các đời. 2. Liên hệ dòng dõi giữa các tông phái kế thừa nhau.
形成 hình thành hình thành, lập nên, tạo thành
Chùm thơ của Phú Trạm Inrasara in tên báo Văn nghệ bộ mới cũng dở dơi, dở chuột. Một tí chữ Hán, một tí chữ Anh, một nhóm chữ Việt không ra làm sao, có ý khoe mẽ. Bài đầu là
Tam khúc Orchid Island Taiwan, Tam khúc là chữ Hán =三 曲=
Nghĩa là ba đoạn.
Con cháu nhắc lời cụ Hồ vạn lần là ,, chữ ta có thì dùng chữ ta, khi nào chữ ta không có, ta mới mượn chữ chữ nước ngoài,,. Ta có chữ ,, ba đoạn thơ,, đàng hoàng nhưng Phú Trạm Insarara không dùng mà dùng ,,tam khúc,, cho ra vẻ ta đây cũng chú ,,khách,, Tàu Ô.
,,3 Đoản thi trái đất,,. Đoản thi là chữ Hán = 短詩 =
Chữ Việt nghĩa là ba đoạn thơ ngắn. Sao lại không dùng tiếng Việt. Phú Trạm Inrasara đang làm thơ tiếng Việt mà.
Tiếp đến ông ta dùng chữ Anh lởm cởm. Làm thơ tiếng Việt mà dùng tiếng Anh để viết thì ông nội Phú Trạm Insarara cũng đếch biết mô tê răng rứa nói chi đến người đọc bình thường. Chắc đám vô lối cho in bài này đọc được. Đây cũng là sự lòe bạn đọc một cÁch ngu dốt, quê kệch. Tiếng Việt có sao không viết thẳng ra ,, Ba đọan thơ về đảo hoa lan Đài Loan,, mà viết chuột không ra chuột, dơi không ra dơi thế này ,,Tam khúc Orchid Island Taiwan,,.
Khúc một là một thông báo lịch sử, địa lý sơ sài không có một tỉ ti nào gọi là có chất thơ, dù là chất thơ vô lối, mà nói đến quốc gia nào cũng được
[1] Sông núi dời đổi
triều đại chuyển đổi
quốc gia biến đổi
lòng người bấp bênh thay đổi không lường ,
duy rác hạt nhân là vĩnh cửu
Khúc này nói cho nước Lào, Căm pu chia, Cu ba, Nga, Mĩ, Anh, Pháp …được tất.. Một khổ vô lối như thông báo sử, địa mà tác giả lạm dùng đến 11 chữ Hán.
朝代 triều đại = Đời vua — Khoảng thời gian của một dòng vua trị vì ; chuyển = quay vòng, chuyển, đổi ; 国家 quốc gia= nhà nước, quốc gia, đất nước ; 变 biến 1. thay đổi, biến đổi 2. trờ thành, biến thành 3. bán lấy tiền
4. biến cố, rối loạn ; 量lường 1. đong, đo 2. bao dung 3. khả năng, dung lượng ; 唯 duy chỉ có ; 害 hạt = hại, hại vô cùng ; 因 nhân 1. nguyên nhân 2. nhân tiện 3. tuỳ theo 4. phép toán nhân ; 永久 vĩnh cửu = vĩnh cửu, vĩnh viễn, lâu dài, mãi mãi
[2] Và họ hiện đại hóa chúng tôi
và họ tạo thêm nhiều, nhiều hơn nữa
nhu cầu mới lạ cho ngày thường của chúng tôi
[nhu cầu chưa bao giờ cần]
và họ mang cố gái của chúng tôi đi mất
và họ chở thứ rác lạ về
cùng với rác lạ
bệnh lạ về
nỗi lo lắng lạ về
và ở lại…

Khổ này như thông báo tổ chở rác của chị em công nhân môi trường làm vệ sinh đường phố mỗi ngày, Nó không dính dáng gì đến hòn quốc đảo hoa lan Đài Loan cả.
[3]
Và chúng tôi trôi giạt về hoang đảo xa hơn
và chúng tôi chạy lên dốc núi cao, cao hơn nữa
và tôi thấy một mình giữa đường phố xa lạ
và tôi thấy đời tổ tiên tôi đang ở góc bảo tàng
và tôi thầy
đời tôi
sắp bảo tàng…,,
Ngắm nhìn hòn đảo hoa lan Đài Loan, anh liên tưởng đến thân phận dân tộc Chăm của anh, bản thân anh, hẩm hiu mạt hạng, nhưng kể lể lạnh lùng một cách vô cảm, không một chút rung động, không để lại một dòng đồng cảm xót thương những tộc người man di mọi rợ bị xóa sổ trong lịch sử, bị nhồi trấu nằm trong nhà bảo tàng như chuồng bò.
Bài thứ hai trong chùm thơ của Phú Trạm Inrasara là ,,3 Đoản thi trái đất,, viết về tai nạn Tchernobyl ,,Checnoo bin,, bên Ucraian ; tỉnh bị đại hồng thủy Fukushima Nhật bản và đảo Haiti. Như ,,Ba khúc về đảo hoa lan Đài Loan,,, ,,3 Đoản thi trái đất,, viết cho ba địa danh nào trên trái đất cũng đươc.
Ngôi nà trống trong thành phố trống
thành phố vừa bị bỏ lại
cái bàn trống trog ngôi nhà trống
tờ giấy và cây bút bỏ trước chiếc ghế trống
ký ức một gia đình bị đánh mất, chắc thế
cũng có thể là những câu thơ
bỏ quên
[1] Tchernobyl
Những câu tổ dân phố thông báo hàng ngày ở các nơi bị dịch covis 19 . Câu thông báo của người ta còn đầy chất thông tin, thiết thực, giúp cho công an, phường đội, tự vệ biết giải quyết kịp thời sự cố xảy ra ở địa phương hơn các câu gọi là thơ của Phú Trạm Inrasara.
Những chiếc ô tô
những ngôi nhà và những biệt thự
một khu cư xá đầy nhóc người ;; rồi
một thị trấn.
trôi
như đồ chơi của bọn trẻ con
trong bàn tay bà mẹ thiên nhiên giận dữ,,
[2] Fukushima

Đây không phải là những câu thơ mà những câu nói bộ khi xem ti vi chiều cảnh đại lụt ở tỉnh Fukushima, Nhật bản.

Số phận một dân tộc
số phận một nền văn minh
số phận một vùng đất
sắp bị trôi vào cuộc chơi
ngu ngốc,,
[3] Haiti
Haiti (phát âm /ˈheɪtiː/; tiếng Pháp Haïti, phát âm: [a.iti]; tiếng Haiti: Ayiti), tên chính thức Cộng hòa Haiti (Tiếng Pháp: République d'Haïti)); (Tiếng Haiti: Repiblik Ayiti) (Tiếng Việt: Cộng hòa Ha-i-ti[6]), là một quốc gia ở vùng biển Ca-ri-bê nói tiếng Creole Haiti- và tiếng Pháp. Cùng với Cộng hòa Dominicana, quốc gia này nằm ở đảo Hispaniola, trong quần đảo Đại Antilles. Ayiti (vùng đất núi cao) đã là tên Taíno hay Amerindian bản địa của phía tây núi non của hòn đảo. Điểm cao nhất quốc gia này là Pic la Selle, với độ cao 2.680 mét (8.793 ft). Tổng diện tích là 27.750 km² và thủ đô là Port-au-Prince.
Vị trí dân tộc, ngôn ngữ và lịch sử của Haiti độc đáo vì nhiều lý do. Đây là quốc gia độc lập đầu tiên ở Mỹ Latin, quốc gia do người da đen độc lập phi thực dân hóa đầu tiên trên thế giới, là quốc gia duy nhất mà sự độc lập một phần là nhờ cuộc nổi loạn nô lệ. Dù có mối liên hệ văn hóa với các láng giềng Hispano-Caribbe, Haiti là quốc gia độc lập chủ yếu sử dụng Pháp ngữ ở châu Mỹ, và là một trong hai quốc gia (cùng với Canada) với tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức.
Quốc gia Haiti (Pháp: État d'Haïti, Haiti: Leta an Ayiti) là tên gọi của quốc gia ở miền bắc Haiti. Quốc gia này được tạo ra vào ngày 17 tháng 10 năm 1806 sau khi lật đổ Đế quốc Haiti từ sau vụ ám sát Hoàng đế Jacques I. Quốc gia Haiti miền bắc nằm dưới sự cai trị của Henri Christophe lúc đầu là Trưởng quan Chính phủ Lâm thời Haiti từ ngày 17 tháng 10 năm 1806 cho đến ngày 17 tháng 2 năm 1807 khi ông trở thành Tổng thống Quốc gia Haiti. Hiến pháp năm 1807 dành cho Quốc gia Haiti đã biến chức vụ tổng thống thành vị trí suốt đời với quyền được bổ nhiệm người kế nhiệm mình. Ngày 28 tháng 3 năm 1811, Tổng thống Henri đã tự xưng là Vua Henry I, do đó giải thể Quốc gia Haiti và lập nên Vương quốc Haiti.,,
Quốc gia Haiti như thế mà tác giả viết quá sơ sài thua một cái tin trênbáo và đặt cho một vùng đất nào cũng được.
Phú Trạm Inraara tỏ ra ngông nghênh, chơi trội, ta phải viết cho ngang tầm trái đất, nhưng gã như con châu chấu lên cầm xà ich lái xe ngựa. Chưa đi bước nào xe ngựa đã chổng bánh lên trời. Rốt cuộc ,, Tam khúc Orchid Island Taiwan,, ; 3 Đoản thi trái đất,, hiện nguyên hình con ngáo ộp vô lối chết tươm xác thối như cứt chó.
Đã ngu độn, dốt nát tiếng Việt không khiêm tốn làm ra vẻ ta đây viết như thằng hề bôi son phấn đầy mặt quỷ.
Bài 1 thì ghi Tam khúc, bài 2 thì đề số 3 Đoản thi, câu thì xuống dòng tùy tiện,
đặt dấu ngoặc ,, ;;,, ngớ ngẩn.
,, một khu cư xá đầy nhóc người ;; rồi
một thị trấn.
trôi,,…

o

Không chỉ Phú Trạm Inrasara mà cả đám vô lối Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phú Trạm Inrasara,Nguyễn Khoa Điềm, Mai Văn Phấn, Phan Hoàng, Phạm Đương, Trần Hùng, Dư Thị Hoàn, Mã Giang Lân, Mai Quỳnh Nam, Từ Quốc Hoài, Hoàng Vũ Thuật, Hoàng Hưng, Đỗ Doãn Phương, Đinh Thị Như Thúy,Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Trúc Thông, Thi Hoàng, Thanh Tùng…rất ngu độn tiếng Việt, ba que xỏ lá, ném lựu đạn, trí trá, gian manh…đã tàn phá thơ dân tộc một cách nguy hại trầm trọng.
Chùm gọi là thơ của Phú Trạm Inrasara chỉ có bọn vô lối thưởng ngoạn với nhau, dân tộc Việt không ai chấp nhận loại này.
Hà Nội , ngày 1O/11/221
Đ H

Đạo đức kinh (tiếp)

  •   25/09/2025 14:51:00
  •   Đã xem: 17
  •   Phản hồi: 0
CHƯƠNG 14
TÁN HUYỀN
贊 玄
Hán văn:
視 之 不 見, 名 曰 夷. 聽 之 不 聞, 名 曰 希. 搏 之 不 得, 名 曰 微. 此 三 者 不 可 致 詰. 故 混 而 為 一. 其 上 不 皎, 其下 不 昧, 繩 繩 不 可 名, 復 歸 於 無 物. 是 謂 無 狀 之 狀, 無 物 之 象. 是 謂 惚 恍, 迎 之 不 見 其 首. 隨 之 不 見 其 後. 執 古 之 道, 以 御 今 之 有. 能 知 古 始, 是 謂 道 紀.
Phiên âm:
1. Thị chi bất kiến, danh viết Di. Thính chi bất văn, danh viết Hi. Bác chi bất đắc, danh viết Vi. Thử tam giả bất khả trí cật.. Cố hỗn nhi vi nhất.
2. Kỳ thượng bất kiểu..Kỳ hạ bất muội. Thằng thằng bất khả danh, phục qui ư vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng. Thị vị bất hốt hoảng, nghinh chi bất kiến kỳ thủ. Tùy chi bất kiến kỳ hậu.
3. Chấp cổ chi đạo, dĩ ngự kim chi hữu. Năng tri cổ thủy, Thị vị đạo kỷ.
Dịch nghĩa:
1. Nhìn không thấy, gọi là Di. Nghe không thấy, gọi là Hi. Nắm không được, gọi là Vi. Ba điều ấy không thể suy cứu đến cùng. Cho nên hợp lại làm một.
2. Trên nó không sáng. Dưới nó không mờ. Miên man dằng dặc mà không thể đặt tên. Rồi lại trở về chỗ không có gì. Đó là trạng thái của cái không trạng thái. Hình tượng của cái không có vật chất. Cái có hoảng hốt, đón trước không thấy đầu, theo sau không thấy đuôi.
3. Giữ cái Đạo xưa để trị chuyện nay; biết cái đầu mối của thời xưa, ấy là nắm được giềng mối đạo.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ba diều gọi Di, Hi, Vi
Ba điều âý chẳng thể truy đến cùng.
Cho nên goi một tên chung
Trên không sáng, dưới mông lung, lờ mờ
Không đặt tên, miền mơ dằng dặc
Rồi trỏ về ản tắc vô danh
Đó là trạng thái mong manh
Trước sau không thấy hữu hình đầu đuôi
Giềng mối nào tìm nơi gỡ rói
Cái Đạo nầy nối tới ngày nay

Lão tử (tiếp )

  •   28/09/2025 14:48:00
  •   Đã xem: 17
  •   Phản hồi: 0
ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
CHƯƠNG 14
TÁN HUYỀN
贊 玄
Hán văn:
視 之 不 見, 名 曰 夷. 聽 之 不 聞, 名 曰 希. 搏 之 不 得, 名 曰 微. 此 三 者 不 可 致 詰. 故 混 而 為 一. 其 上 不 皎, 其下 不 昧, 繩 繩 不 可 名, 復 歸 於 無 物. 是 謂 無 狀 之 狀, 無 物 之 象. 是 謂 惚 恍, 迎 之 不 見 其 首. 隨 之 不 見 其 後. 執 古 之 道, 以 御 今 之 有. 能 知 古 始, 是 謂 道 紀.
Phiên âm:
1. Thị chi bất kiến, danh viết Di. Thính chi bất văn, danh viết Hi. Bác chi bất đắc, danh viết Vi. Thử tam giả bất khả trí cật.. Cố hỗn nhi vi nhất.
2. Kỳ thượng bất kiểu..Kỳ hạ bất muội. Thằng thằng bất khả danh, phục qui ư vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng. Thị vị bất hốt hoảng, nghinh chi bất kiến kỳ thủ. Tùy chi bất kiến kỳ hậu.
3. Chấp cổ chi đạo, dĩ ngự kim chi hữu. Năng tri cổ thủy, Thị vị đạo kỷ.
Dịch nghĩa:
1. Nhìn không thấy, gọi là Di. Nghe không thấy, gọi là Hi. Nắm không được, gọi là Vi. Ba điều ấy không thể suy cứu đến cùng. Cho nên hợp lại làm một.
2. Trên nó không sáng. Dưới nó không mờ. Miên man dằng dặc mà không thể đặt tên. Rồi lại trở về chỗ không có gì. Đó là trạng thái của cái không trạng thái. Hình tượng của cái không có vật chất. Cái có hoảng hốt, đón trước không thấy đầu, theo sau không thấy đuôi.
3. Giữ cái Đạo xưa để trị chuyện nay; biết cái đầu mối của thời xưa, ấy là nắm được giềng mối đạo.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ba diều gọi Di, Hi, Vi
Ba điều âý chẳng thể truy đến cùng.
Cho nên goi một tên chung
Trên không sáng, dưới mông lung, lờ mờ
Không đặt tên, miền mơ dằng dặc
Rồi trỏ về ản tắc vô danh
Đó là trạng thái mong manh
Trước sau không thấy hữu hình đầu đuôi
Giềng mối nào tìm nơi gỡ rói
Cái Đạo nầy nối tới ngày nay

Vô lối - thi tặc Nguyễn Quang Thiều

  •   04/10/2025 14:19:00
  •   Đã xem: 14
  •   Phản hồi: 0
VÔ LỐI - THI TẶC NGUYỄN QUANG THIỀU 1
(Bài do tác giả gửi CBTT)
Đỗ Hoàng
Vô lối là một loại viết có từ thập kỷ 60 thế kỷ trước và bùng phát nhiều nhất từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến hôm nay. Nó càng bùng phát hơn nữa khi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 trào giải cho tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều và vừa rồi (năm 2011 - 2012), Hội Nhà văn Việt Nam lại tiếp tục trao giải cho cả 4 tập của các tác giả Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Định Thị Như Thúy, kiểu viết như Nguyễn Quang Thiều nối dài.
Điển hình của Vô lối là triệt tiêu một trăm phần vần điệu, xóa bỏ cách nghĩ, cách cảm của ông cha và thơ ca truyền thống dân tộc và thế giới, tắc tỵ, rắc rối, tù mù, dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống, nhạt nhẽo, đánh đố mình, đánh đố người đọc, dung tục, tình dục bệnh hoạn, sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, tuỳ hứng…
Vô lối có một đặc điểm nữa là không thể đọc nổi vài ba dòng.
Nguyễn Quang Thiều cũng là một trong những đại biểu của Vô lối ấy vừa được các báo chí chính thống, các vụ viện chính thống, các học giả, nhà phê bình, giáo sư đại học, cánh hẩu viết bài lắng xê, ca ngợi hết lời. Họ coi đó là sự là “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân”, Thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn từ mẫu gốc” (Tạp chí Nhà văn số 6 - 2012); “Hộp đen” Nguyễn Quang Thiều – Báo Văn nghệ số 17 + 18 tháng 4 – 2012...
Cách tân tức là làm mới không chỉ ở thơ ca mà trong cuộc sống muôn loài cũng phải luôn luôn đổi mới để phát triển tồn tại. Thế hệ sau tiến bộ hơn thế hệ trước thì muôn loài, muôn vật, xã hội mới phát triển, không thì chỉ dừng lại và đi đến triệt tiêu!
Nhưng làm mới như thế nào? Tôi đã nhiều lần nói về việc làm mới. Làm mới – cách tân chứ không phải cách mạng. Đến như cách mạng lật đổ hoàn toàn quá khứ mà người vẫn còn giữ gìn và tiếp thu những ưu tú của đời trước để lại, huống hồ cách tân - làm mới, phải có kế thừa và phát huy cái hay, cái đẹp của dân tộc, của nhân loại. Nhà bác học Lê Quý Đôn nói: “Người tài giỏi hơn hết một thời, cũng không được phá bỏ đời trước”
Những người tìm tòi đổi mới thơ ca là đáng trân trọng. Nhưng lấy cớ tìm tòi đối mới để phá bỏ, đạp đổ những chuẩn mực, những tinh hoa của cha ông từ muôn đời để lại là một ý nghĩ, hành động điên rồ.
Hàn Mặc Tử có nói: “Vẫn biết thơ ca phải tân kỳ (mới và lạ), song thơ ta là thơ quốc âm, người phương Đông chuộng nỗi đau thâm trầm, nỗi buồn kín đáo. Ta phải thể hiện cái tinh thần phương Đông ấy.”
Nhưng những người viết hôm nay và nhất Nguyễn Quang Thiều không theo tiêu chí ấy mà đi tìm một cách viết rất chi là Vô lối.
Nguyễn Quang Thiều cố tìm một cách nói, cách lập ngôn như việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” – (Hỏa đích bất thụy sự), đã thể hiện cách ấy. Đọc thấy lạ tai, không theo cách nói cách viết thuần Việt, nó như là cách viết của Tây, nhưng Tây người ta không viết thế. Câu thơ, câu văn của Tây dài nhưng phải chính xác, không thừa chữ, không thừa ý và phải thuần chủng ngôn ngữ. Đằng này Nguyễn Quang Thiều cố tạo ra cách viết lạ nhưng lại vừa dùng chữ nước ngoài, vừa không theo cách cảm cách nghĩ của dân tộc. Cách này cũng đã có người trước Nguyễn Quang Thiều viết như “Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai” (Liên khúc những bài thơ tình thời cách xa – Thanh Tâm Tuyền)
Chữ sự nguyên là chữ Hán đã tương đối Việt hóa. Nó có ba nghĩa : 1- việc, 2 - làm việc, 3 - thờ. Không hiểu sự mất ngủ của lửa ở đây là việc, làm việc hay là thờ? Suy đoán trong bài hiểu theo nghĩa Hán “Hỏa đích bất thụy sự” thì có thể là việc. Dịch ra là “Việc mất ngủ của lửa” chắc là đúng ý tác giả!
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Hồ Chí Minh)
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Xuân Thủy dịch)
Thời Nguyễn Đình Chiểu, cũng là thời Hán học đang thịnh hành, cụ Đồ Chiểu còn đi thi tú tài Hán học, thế nhưng thơ Cụ, văn tế, phú của Cụ thì rất Việt hóa.
Việc cấy, việc cày việc bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cớ mắt chưa từng ngó
(Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc )
Nếu viết như Nguyễn Quang Thiều và Thanh Tâm Tuyền là phải:
Sự cấy, sự cày, sự bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cờ mắt chưa từng ngó
Lại bàn về mất ngủ. Mất ngủ chỉ một trạng thái tâm lý của con người do lao lực, do nghĩ ngợi đau khổ nhiều, thần kinh yếu, do chấn động thân kinh, do chấn thương sọ não …nên dẫn đến mất ngủ. Nói chung nó là một trạng thái bệnh lý nhiều hơn. Còn người khỏe mạnh, thần kinh vững vàng thì khó có thể mất ngủ.
Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
(Hồ Chí Minh)
Người khỏe mạnh, cứng rắn, người ta chưa ngủ hoặc người ta không ngủ để lo quốc gia đại sự, chứ họ không bị chứng bệnh mất ngủ!
Vì vậy việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” vừa không Việt hóa, vừa thừa chữ, thừa lời, vừa không ổn trong nhận thức. Có thể đặt theo cách thuần Việt “Lửa mất ngủ” hoặc “Lửa thức”…
Cách đặt tựa đề, đặt câu này Nguyễn Quang Thiều lặp đi lặp lại ở nhiều bài khác như: “Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi” (Tiếng vọng) – In trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập một, tháng 1 năm 2011.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều đa phần dài dòng văn tự. Viết ngắn viết dài tùy theo cảm xúc, suy nghĩ, tùy theo mức độ tình cảm của tác giả. Cái đáng viết dài thì viết dài, cái đáng viết ngắn thì viết ngắn. Có cái không đáng ba dòng tác giả lại kéo ra tràng giang đại hải
“Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi”
(Những người đàn bà gánh nước sông)
Hay:
“Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được giàn dụa nước mưa sông. “ (Sông Đáy)
Nên nhớ rằng “ Đoản thi tối hảo phá” (Thơ ngắn có sức mạnh vô biên). Ngay phương Tây cũng có nói phải cô níc (viết ngắn).
Bác Hồ cũng đã từng nói: “Bác ít có thi giờ xem văn nghệ, nhưng khi xem thì thấy nó dài dòng, dây cà ra dây muống, hình như người viết cố viết dài ra để lấy nhuận bút. Rồi lại sính dùng chữ nước ngoài. Chữ ta có thì nên dùng chữ ta, chữ ta không có mới mượn chữ nước ngoài – theo “Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt – Sửa đổi lề lối làm việc)
Có nhiều bài viết vừa dài, vừa lập luận thừa thải. Điển hình là bài “Những người đàn bà gánh nước sông” (đã trích dẫn ở trên). Ví dụ câu:
"Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy”. Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy, thì cần gì phải kể đến từng chặng một thời gian như vậy. Kể thế sao cho hết. Nếu kể thế thì phải viết cho đủ: Đã một năm, đã hai năm, đã ba năm… đã và đã, thì đến bao giờ mới kể xong. Viết chỉ ngắn gọn là “nửa đời tôi thấy” thì vừa đầy đủ, vừa chính xác. Còn có những người, họ chỉ sống 50 tuổi , 40 tuổi, 30 tuổi thì sao?
Mỉa mai thay bài này đã được chọn in trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX(!)
Cách nghĩ và cách viết không chính xác, viết lấy được của Nguyễn Quang Thiều còn nhiều nhiều. Như bài “Trong quán rượu rắn”. Người ngồi trong quán rượu rắn, chắc là không uống rượu nên tỉnh bơ, như uống nước chai lave “Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ/ Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng”. Người đọc tưởng tác giả đang đi dạo rừng thu bạch dương ở bên Nga!
“Những con rắn bị thủy táng trong rượu". “Thủy táng” là chôn nước. Táng - nguyên chữ Hán là chôn, vùi đã tương đối Việt hóa. Khi người chết, nhất là người thân, người ta dùng chữ táng cho nhẹ đi, đỡ đau hơn nếu dùng chữ Việt là chôn hoặc vùi. Từ cổ đến nay có nhiều cách táng: thổ táng, hỏa táng, thủy táng, mộc táng, điểu táng, thạch táng, cẩu táng, điện táng… “Những con rắn bị thủy táng trong rượu” – Tức là những con rắn chôn nước trong rượu. Thật ra rượu là nước có nồng độ men cao, cũng như nước biển có nồng độ muối cao mà thồi. Những người đi biển khi chết được đem bỏ xuống biền và nói như cách nói của Nguyễn Quang Thiều: “Những con người bị thủy táng trong biển”. Nó vô lý và buồn cười, đau xót biết bao cho cách lập câu, cách viết như thế này.
Cha ông ta đã có cách nói rất hay khi đem bỏ thảo quả và động vật quý làm thuốc vào rượu và gọi là “ngâm rượu”: táo ngâm rượu, cam ngâm rượu, lê, mận ngâm rượu, bìm bịp ngâm rượu, rắn độc ngâm rượu… Nếu nói cho có hình ảnh mượn chữ Hán thì có thể nói “những con rắn bị đem tửu táng”!
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều rất kém thi pháp (nghệ thuật thơ), lạm dụng nhiều chữ nhiều từ như : khóc, vỹ đại, lạm dụng từ Hán Việt chưa được Việt hóa…
Những con cá thiêng quay mặt khóc
………
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
(Những người đàn bà gánh nước sông – đã dẫn).
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quì xuống vốc cát ấp vào mặt
Tôi khóc.
(Sông Đáy)
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo gọi Nguyễn Quang Thiều là “nhà khóc học” thật không sai!
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
(Trong quán rượu rắn)
Cha ông ta có những phép tu từ rất diệu nghệ, người ta không hề nói đến một chữ khóc mà đời nào nghe cũng rưng rưng:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi!
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn
Hay:
Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả mẹ chín chìu ruột đau!
(Ca dao)
Bạn về chẳng có chi đưa
Có hai lọn nếp mà chưa lặt lòn!…
(Ca dao)
Rồi mùa toóc rạ rơm khô
Bạn về quê bạn biết mô mà tìm
(Ca dao)
Ở đây Nguyễn Quang Thiều và nhiều người viết khác dùng vô thiên lũng chữ “ khóc”, người ta gọi là các “nhà khóc học” mà chẳng làm một ai mủi lòng! Thật là tại hại!
Nguyễn Quang Thiều hay viết về quê hương mình, vùng làng Chùa, sông Đáy là xứ Đoài xưa nhưng không hề thầy bóng dáng “Xứa Đoài mây trắng” ở đâu, không thấy áo lụa Hà Đông ở đâu, không thấy Hà Tây quê lụa ở đâu? Một miền cội nguồn dân ca Bắc Bộ, một miền hát xoan, ghẹobiến mất trong cách viết của Nguyễn Quang Thiều!
Mà Xứ Đoài không chỉ người con của xứ sở ấy máu thịt mà cả dân tộc, thậm chí cả châu Á, châu Âu cũng có trong hồn của họ.
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuy khoắt thổi đêm trăng
(Quang Dũng)
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt nhớ
Bởi vì em mặc áo lụa Đông
( Nguyên Sa)
Bóng chiếc thoi đưa, ánh mắt long lanh, trời đất Hà Tây quê em dệt lụa
Mây trắng Ba Vì…hồn thơ Nguyễn Trãi
(Hà Tây quê lụa – Nhật Lai)
Một lần trò chuyện với nhà văn Trung Quốc Trịnh Bá Nông nguyên Tổng biên tập báo Văn Nghệ Trung Quốc tại Bắc Kinh, ông nói: “Ở việt Nam tôi yêu thích nhất là Ca dao và Quan họ Bắc Ninh”. Trong khi đó các nhà thơ, nhạc sỹ nước mình đi tìm con cáo lông đen (ý của Gam zatop) ở đâu đâu.
Viết ngắn, viết giản dị mới khó. Đông Tây, kim cố gì cha ông cũng đã dạy
Rien n’est plus dificille que d’ecrire ficille - Không có gì khó bằng viết dễ hiểu – Châm ngôn Pháp. "Công phu thâm xứ thi bình dị" - Thơ hay nhất là thơ dễ hiểu – Lục Dụ đời Tống, Trung Quốc.
Điển hình cho sự dài dòng văn tự, tắc tỵ lố bịch, quái dị của Nguyễn Quang Thiều là bài “Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ”.
(Trích)
"Người hướng dẫn : Được dệt thủ công bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
"Người mua : Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm"…
Kịch không ra kịch, đối thoại không ra đối thoại, tế không phải tế, cáo không phải cáo, điếu văn cũng không ra điều văn, kể chuyện học sinh cũng không ra kể chuyện học sinh, nhật ký cũng không phải nhật ký, hát ru bà, hát ru ông cũng không phải… Nó là một thứ ba đầu sáu tay, quái thai văn chương. Thế rồi nó lại còn dung tục: “Một bà già đi tiểu 5 lần nói: “Mẹ đau lắm!”. Trong bệnh viện khoa dưỡng lão, các bác sỹ ghi bệnh án còn sạch sẽ hơn nhiều cái gọi là thơ này!
Thơ hậu hiện đại có thể lược bỏ vần điệu, coi nhẹ vần điệu nhưng ý tứ phải sâu sắc, hình ảnh phải mới lạ, độc đáo, tình cảm phải dạt dào rung động người đọc mới chấp nhận:
Thời gian ơi, xin hãy đừng trôi nữa
Đó là lời khẩn cầu
Của những kẻ đang yêu
Tại sao các vị lại không khẩn cầu ngược lại
Tình yêu hãy ở bên các người mãi mãi
Còn thời gian thì:
Cứ kệ nó trôi đi…
(Thời gian và tình yêu – Ion Milos – Nhà thơ Thụy Điển – Thơ hậu hiện đại – Phạm Viết Đào dịch)
Hay:
Người đẹp
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
(Dân ca Dáy)
Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết- nhìn người đẹp lại không muốn chết nữa
Ơ! Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!
(Lò Ngân Sủn)
hay:
Hôm qua sáu giờ năm mươi phút
Đồng chí Lê nin từ trần
Năm này chứng kiến một lần
Điều bất hạnh trăm năm không thấy nửa
Ngày ngày muôn thuở
Sẽ là truyền thuyết đau thương
Tin kinh hoàng
Sắt thép bất tiếng kêu than
Sóng nức nở trên những người cộng sản
Sức nặng đè ghê gớm
Không lê nổi chân đi
Biết thế nào đây và làm gì nữa!
Nhà hát lớn trôi trên đường phố
Nỗi buồn như một cỗ xe tang
Nỗi vui bò như ốc như sên
Nỗi buồn chạy như điên như dại
Không ánh mặt trời
Không ánh băng sang dọi
Tất cả đã rắc một lớp tuyết đen
Sàng qua báo chí
Tin ập tới
Người công nhân trước máy
Như một chén lệ đổ xuống bàn dụng cụ
Trẻ nhỏ bỗng nghiêm trang như các cụ già
Các cụ già khóc như trẻ nhỏ!...
(Trường ca Vladimia Ilích Lê nin – Maiacop xki – Trần Dần dịch)
Hay:
Sầm phu tử
Đan Khâu sinh
Tương tiến tửu
Bôi mạc đình
Thỉnh quân ca nhất khúc
Vị ngã khuynh nhĩ thinh
Chung cổ soạn ngọc bất túc quý
Đã nguyện trường túy bất nguyện tinh
Cổ lai thánh hiền giai tỉnh mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Tương tiến tửu – Lý Bạch)
Sầm Phu tử
Đan Khâu sinh
Sắp mời rượu
Đừng có sai
Mời anh ca một khúc
Vì tôi nghe mầy bài
Rượu tiệc ngon giữa trống chiêng nào có đáng quý
Không muốn tình cứ say sưa mãi hoài
Xưa nay thánh hiền có ai tên tuổi
Chỉ kẻ uống rượu là lưu danh muôn đời
(Sắp mời rượu – Đỗ Hoàng dịch)
Nói vậy, chứ tiếng Việt lược bỏ hoàn toàn vần điệu rất dễ chuốc lấy thất bại thảm hại. Vì tiếng Việt hoặc tiểng phương Đông là xỉ âm – phát ra từ răng, phần nhiều một âm tiết, không như tiếng các Âu – Mỹ - đa âm tiết, một từ nói đã có tính nhạc trong đó ví dụ như bữa ăn sáng (phiên âm): bờ rét phát, đẹp - bui ti phul (Anh ), đẹp - kờrát xvưi (Nga)…
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và một số nhà thơ, người làm thơ khác cũng có công cố gắng tìm tòi, đấy là điều đáng trân trọng. Nhưng theo quan điểm và cách thưởng thức, thẩm định của tôi thi những gì họ viết ra không phải thi ca, văn chương. Họ hoàn toàn thật bại một trăm phần trăm.
Người viết ra loại Vô lối thật đáng trách, người tung hô, in ấn lăng xê càng đáng trách hơn, tố chức nào đó trao tặng giải thưởng, khuyến khích cổ vũ thì đáng trách vô cùng. Những người này nếu được đề bạt quản lý cầm cương nảy mực nền văn nghệ nước nhà thì văn chương Việt đi đến đâu? Nhãn tiền ấy mọi người đã rõ!
Hà nội ngày 1 – 6 -2012
Đ.H.

Phan Hoàng phải theo đí trâu

  •   04/10/2025 14:24:00
  •   Đã xem: 21
  •   Phản hồi: 0
PHAN HOÀNG CHO THEO ĐÍT TRÂU 2
Đỗ Hoàng
Ltg: Gần thế kỷ qua, bọn thơ Vô lối hoành hành tác oai, tác quái trên cõi Việt. Chúng là loại thi tặc – giặc thơ – phá hoại thi ca tổ tiên. Từ thằng thủy tổ Thanh Tâm Tuyền , phó thủy tổ Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Hoàng, Trần Hùng, In ra sa ra, Mai Quỳnh Nam, Mã Giang Lân, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Vũ Thuật, Mai Văn Phấn, Tuyết Nga, Văn Cầm Hải, Trúc Thông, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Phan Thị Vàng Anh, Từ Quốc Hoài, Đinh Thị Như Thúy, Đỗ Doãn Phương, Thi Hoàng, Hoàng Hưng… đến đám hậu sinh, đám chíp hôi … tác phẩm của chúng cả nội dung và hình thức không đem đến điều gì mới mẻ cho văn chương mà lại phá hoại văn chương Việt! Phan Hoàng là một tên như thế: giả dối, sáo, sến, viết về mẹ mà cũng đóng kịch, nhạt nhẽo, gượng gạo…đầy chất Tàu ô!
Nguyên bản:
Phan Hoàng
TIẾNG THỞ MẸ NHỌC NHẰN
(Văn nghệ số28 /9/7/2022)
Thẫn thờ đêm tiếng thở mẹ nhọc nhằn
tiếng cánh cò rã rời trăm năm âm thầm mưa nắng
tiếng kết tủa buồn vui đời sông chạm biển về nguồn
Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh
gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức
như con bò đi hoang trở về hít thở mùi chuồng quen thuộc
cúi đầu tạ lỗi nghĩa trọng tình thâm
đêm đêm canh giữ tiếng thở mẹ nhọc nhằn
lòng nặng trĩu ngọn núi tuyết đông suy tư nhức nhói
Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca
đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất
gió rón rén ép mình hơi ấm se thắt sinh thành
nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm
rơi theo tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo
Ước gì ngọn gió ta như mầm non mới cựa mình trong lòng đất
và cơ thể mẹ là ngôi vườn thanh xuân ấm áp tiếng hoang sơ.
BÌNH GIẢNG:
Tôi đã nhiều lần nói: - Đọc đám thơ Vô lối – thi tặc – giặc thơ như đi hội nghị sang trọng mà dẫm phải cứt người! Khó chịu, tởm lợm! Thật ra không nên đọc nhưng vì văn chương, vì thơ nước nhà phải đọc, phải bình bởi bọn thi tặc cầm chịch văn nghệ mậu dịch tác oai, tác quái trên thi đàn nên tôi lại động bút.
Bọn thi tặc chuyên làm “vô lối – ( thơ không vần). Bọn chúng không biết là thơ không vần nhân loại và cha ông ta làm từ thuở khai thiên lập địa. Ngay khi ngồi trên ghế nhà trường các thầy đã nói làm thơ không vần như đi xiếc trên dây, rất dễ thất bại. Trí tuệ lớn, trái tim lớn mới có bài đứng lại, còn bọn “chấu cẩu” (chó) làm sao thành công!
Phan Hoàng là tay trong đám Vô lối – thi tặc – giặc thơ ấy viết loăng quăng, uốn éo, làm bộ, làm tịch, dùng đầy Hán tự… thế mà chúng lăng xê hết lượt này đến lượt khác trên các báo mậu dịch chính thống. Tay này có đi bệnh viện lắp phải trái tim chó hay không sao mà viết như robot?
…“Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh
gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức
như con bò đi hoang trở về hít thở mùi chuồng quen thuộc
cúi đầu tạ lỗi nghĩa trọng tình thâm
đêm đêm canh giữ tiếng thở mẹ nhọc nhằn
lòng nặng trĩu ngọn núi tuyết đông suy tư nhức nhói”…
Đọc khổ này thấy lợm mửa của một thằng kịch hề giả dối!
…“Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh…”
Câu cũ như trái đất, vô bổ, không có chút tình nào,giả vòe, giả vịt…
Câu tiếp lại còn cũ hơn, lại làm bộ làm tịch hơn:
“gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức”
Câu cú nặng nề, lặp đi lặp lại!
Khổ tiếp cũng viết ỏn ẻn, sáo rồng:
…”Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca
đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất
gió rón rén ép mình hơi ấm se thắt sinh thành
nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm
rơi theo tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo…”
Toàn giọng điệu giả dối, không trái tim người!
Đây là bài vô lối làm xiếc chữ về Mẹ, chứ có tình mẫu tử gì đâu!
Thơ viết mề mẹ in chật trái đất, toàn bài hay, chứ có như bài này của Phan Hoàng.
Nông phu thì có:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn”
Hay:
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng mem cơm tấm lưỡi lừa cá xương
Người có chữ:
Du tử ngâm -遊子吟 - Mạnh Giao - 孟郊
遊子吟
慈母手中線, 遊子身上衣;
臨行密密縫, 意恐遲遲歸。
誰言寸草心, 報得三春輝?
Du tử ngâm
Từ mẫu thủ trung tuyến
Du tử thân thượng y
Lâm hành mật mật phùng
Ý khủng trì trì quy
Thùy ngôn thốn thảo tâm
Báo đắc tam xuân huy.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa
Sợi chỉ trong tay mẹ hiền,
Nay đang ở trên áo người đi xa.
Lúc mới lên đường, mẹ khâu kỹ càng,
Có ý sợ con chậm trễ trở về.
Ai dám nói rằng tấm lòng của một tấc cỏ,
Lại có thể báo đáp được ánh nắng của ba xuân?
Đỗ Hoàng dịch thơ:
KHÚC NGÂM CỦA CON ĐI XA
Mẹ hiền khâu sợi chỉ
Trên áo con đi xa
Lên đường mẹ khâu kỹ
Sợ con chậm về nhà
Ai dám một tấc cỏ
Báo đáp ba xuân qua!
Phan Hoàng cũng như bọn giặc thơ đềuTàu hóa, dùng tràn lan âm Hán Việt chưa được Việt hóa! Nhiều bài trước Phan Hoàng đã dùng hàng chục âm Hán Việt, bài này dùng trên 30 chữ (36 chữ). Một thứ Tàu ô!
1, kết tủa -結瑣
2,bôn ba - 奔波
3,phiêu bạt -漂犮
4,hư danh - 虛名
5,độc thoại-獨話
6,ký ức, ký ức记忆
7, thân thuộc 親屬
8,tạ lỗi 謝誄
9, nghĩa trọng 義重
10, tình thâm 情深
11, côn trùng 昆蟲
12, mê mãi 迷買
13,sinh thành 生成
14, dự báo 預報
15,thế gian 世間
16, thanh xuân 青春
17, hoang sơ 荒初
18, đông 冬
19, xuân 春
Bài phê bình trước,tôi đã nói Phan Hoàng nên rèo bò (theo đít trâu) Bài này nhắc lại – chữ nghĩa kiều Phan Hoàng và bọn “thi tặc – giặc thơ” nên cho theo đít trâu suốt đời. Chúng không được bén mảng đến Văn chươngoàng (dân ba xạo) !
Hà Nội tháng 7/2022
Đ - H

Dấu chân qua trngr cỏ...

  •   15/10/2025 20:46:00
  •   Đã xem: 13
  •   Phản hồi: 0
Đỗ Hoàng: “Dấu chân qua trảng cỏ” của Thanh Thảo- Dở, kém toàn diện
Thứ Ba, 6 tháng 1, 2015
Nhà thơ Thanh Thảo tham gia chiến cuộc kháng chiến chống Mỹ với tư cách dân sự. Ông xếp sau Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm… Ông được cưng nựng và lăng xê khá đều đặn trên văn đàn chính thống. Để có cái nhìn khách quan công bằng chúng tôi xin đăng bài viết của nhà thơ, nhà phê binh hậu hiện đại Đỗ Hoàng về bài thơ DẤU CHÂN QUA TRẢNG CỎ của nhà thơ Thanh Thảo.
Thông tin cá nhân: (VanDanVietNet)
Tác giả nhà thơ Đỗ Hoàng
Địa chỉ: Hoàng Mai - Hà Nội
ĐT: 0913369652
Email: donguyenhn@yahoo.com
______
DẤU CHÂN QUA TRẢNG CỎ CỦA THANH THẢO- DỞ KÉM TOÀN DIỆN
Đỗ Hoàng
Nguyên bản:
Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lói mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhòe?
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân nho nhỏ không lời không tên
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần ai đi xa
Những gì gửi lại chỉ là dấu chân
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường
(Nhà thơ Thanh Thảo)
Nhà thơ Thanh Thảo tham gia chiến cuộc kháng chiến chống Mỹ với tư cách dân sự. Ông xếp sau Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm… Ông được cưng nựng và lăng xê khá đều đặn tên văn đàn chính thống.
Để khỏi mất thì giờ của độc giả, tôi đi thẳng vào phân tích nhận xét luôn bài này. Đây là một bài thơ dở, yếu kém toàn diện từ nội dung cho đến nghệ thuật ngôn từ.
Tuy viết cổ động tuyên truyền, nhưng Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân còn khắc họa phần nào người chiến sỹ Giải phóng quân:
Không cần nghỉ lái trăm cây số nữ
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
(Tiếu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
Máu tin anh phun theo lửa đạn cầu vồn
(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Nhà thơ Thanh Thảo không được như vậy. Hai bài được lăng xê nhiều nhất Dấu chân qua trảng cỏ và Bài ca ống cống là hai bài thơ làm nhem nhuốc hình ảnh người lính chiến thắng của phe được cuộc!
Viết về thảo nguyên có bào nhiêu câu thơ hay thơ đẹp truyền lại từ ngàn năm nay:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Thơ cổ Trung Quốc)
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
Thanh Thảo có nhiều câu dở dưới mức trung bình:
Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Anh dân sự, bưu tá giao liên trong thơ Thanh Thảo giữa chiến trường sao cô quanh, trơ trọi “tôi thích thất thểu” như một gã cái bang thua bạc thời nay trong các chiếu bạc ở Campuchia vậy!
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Chiếc bòng đựng nhiều nhất chỉ bộ áo quần bà ba là cùng hoặc nữa là hai bơ gạo(!)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, bên ta phải đối đầu với với đế quốc hùng mạnh, giàu nhất thế giới mà chi một anh Vệ túm như vậy làm sao mà đánh đấm, mà chiến thắng !)
Hình ảnh người lính ra trận từ cổ chí kim, phương Đông hay phương Tây đều là những hình ảnh đẹp, kiêu hùng sang trọng, có thực trong cuộc đời. Có thế mới làm nên chiến thắng:
“Trượng phu thiên lý chí mã cách
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
Tiện từ khuê khốn tùng chinh chiến
Tây phong minh tiêu xuất Vị kiều”
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn)
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã từ đeo bức chiến bào
Thét roi Cầu Vị ào ào gió thu
(Đoàn Thị Điểm dịch)
Trai anh hùng nấm mồ da ngựa
Coi chết chóc nhẹ tựa tơ hồng
Theo quân xa biệt khuê phòng
Vung roi Cầu Vị, bềnh bồng gió Tây
(Đỗ Hoàng dịch)
Thân dũng sỹ không thua sức vóc
Sóng đục lờ sóng đục ngày đêm
Kìa quân giặc đến bờ bên
Mài con dao sắc ở trên đá này
Như cha con dạn dày chiến trận
Suốt một đời lận đận binh đao
À ơi, con ngủ cho lâu
Mai sau khôn lớn mẹ cho diệt thù!
(Bài ca Cô dắc – Bằng Việt dịch)
Còn cái anh giao liên cái bang của Thanh Thảo:
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn có nhòe?
Đi không nổi nữa thì đòi làm được cái gì (!)
Các hình ảnh được Thanh Thảo chọn làm đặc trưng trong bài thơ là những hình ảnh hạ cấp không tiêu biểu. Anh chiến sỹ giao liên thuộc dạng cái bang (ăn mày), con chim két thuộc loài mồng két trên đồng trảng là loại hạ điểu kêu choe chóe chứ chẳng linh điểu cất lên tiếng vang chin tầng mây. Loại cỏ voi là loại cỏ ngoại lai nhập đầu thời Mỹ vào miền Nam, cũng là loại hạ thảo, bần tiện không phải linh thảo.
Tất cả đều ở trên cái đồng không mông quạnh lạnh lẽo trơ trọi, rách nát, hèn kém!
Bài thơ lục bát chỉ 24 câu mà Thanh Thảo dùng nhiều vần thông khiên cưỡng và đầy lỗi vận, lỗi vần (10 lỗi):
Những gì gửi lại chỉ là dấu chân
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Hay:
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Hay:
Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Hay:
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhòe?
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Kết bài thơ là tai hại nhất là hỏng toàn bộ bài thơ:
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường.
Sao nhà thơ Thanh Thảo lại xui dại con cháu vào chỗ chết như vậy? Thời chiến tranh chống Mỹ có bom nổ chậm đều có bảng cảnh báo – warning để cho người đi sau nhằm tránh hướng khác chứ không lao vào chỗ chết. Ngay em bé trong phim Chim vành khuyên biết mình hô to mình sẽ bị giặc giết nhưng em vẫn kêu lên cho mọi người tránh giặc: “Đò giặc đừng qua! Đò giặc đừng qua!”. Sao nhà thơ xui như xui trẻ con ăn cứt ca (gà) như vậy nhỉ?
Cho người sau biết đường ra chiến trường
Đáng ra phải viết:
Cho người sau biết tránh xa chiến trường chứ?
Bởi vì dù chính nghĩa hay phi nghĩa vào chiến trường đánh nhau là vào chỗ chết. Ngày cả ra đi cũng đã vào chốn bụi bờ, là chết một ít:
C’ est toujours le deuil d’un voeu
Le dernier vers d’un poème
Partir, c’est mourir un peu
(Rondel de L’adieu – Edmond Harau court 1858 -1942 - France)
Để tang mãi những câu cầu khẩn
Lời cuối cùng vẫn ánh tình thơ
Đi là chết chốn bụi bờ
(Đỗ Hoàng dịch)
Nếu biết học tiền nhân một chút thì có thể viết khổ kết bài thơ trên có sức khái quát hơn, nâng tầm thơ lên hơn:
“Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý
Hảo thu ngô cốt Chướng giang biên”
(Tả thiên chí Lam Quan thị diệt tôn Trương – Hàn Dũ)
Biết cháu từ xa vào có ý
Nhặt nắm xương ta bến Chướng này!
(Bị giáng chức bị đổi đi xa đến ải Lam viết cho cháu là Trương – Hàn Dũ – Đỗ Hoàng dịch thơ (*)
Kết- DẤU CHÂN QUA TRẢNG CỎ:
Vẫn còn nhắc tận sau xa
Nhớ vào gom nhặt thịt da, xương tàn
Đưa về đặt những nghĩa trang
Nhớ thời nước Việt cơ hàn giết nhau!
----
(*) Tham khảo: Hàn Dũ
----
TẢ THIÊN CHÍ LAM QUAN THỊ DIỆT TÔN TRƯƠNG
(Hàn Dũ)
Nhất phong triêu tấu cửu trùng thiên
Tịch biếm Triều Châu lộ bát thiên
Bản vị thánh triều trừ tệ chính
Khẳng trương suy hủ tích tàn iên
Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại
Tuyết ủng Lam Sơn mã bất tiền
Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý
Hảo thu ngô cốt Chướng giang biên.
BỊ GIÁNG CHỨC ĐÀY ĐI XA ĐẾN ẢI LAM VIẾT CHO CHÁU LÀ TRƯƠNG
Sớm gửi Cứu trùng lời thẳng ngay
Chiều Triều nghìn dặm lệnh đi đày
Thành tâm lo nước giúp vua sáng
Tận dạ vì dân sá thân gầy
Mây che Tần Lĩnh quê mờ mịt
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khói bay
Biết cháu từ xa vào có ý
Nhặt nắm xương ta bến Chướng này!
(Đỗ Hoàng dịch thơ)
Hà Nội, ngày 04.01 2015
Đỗ Hoàng
Sửa chữa nâng cao Dấu chân qua trảng cỏ
Đặt tựa đề:
QUA TRẢNG CỎ
Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn sợi chỉ dọc ngang
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lối mòn cảnh báo đường ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn đã lì!
Chiếc bòng – trái đất đương thì
Mà đi bùng biển mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân cho đất, cho đời có tên
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần ai đi xa
Những gì gửi lại chỉ là dấu chân
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải ngút ngàn mắt ta
Vẫn còn gửi tới sau xa
Cho người sau biết tránh xa chiến trường!
Đoạn kết có thể viết như thế này:
Vẫn còn nhắc nhở sau xa
Xin vào nhặt chút thịt da xương tàn
Đem về táng ở nghĩa trang
Nhớ thời nước Việt cơ hàn giết nhau!
Hà Nội, ngày 04.01.2015
Đỗ Hoàng

Phạm Thành ...

  •   15/10/2025 20:48:00
  •   Đã xem: 11
  •   Phản hồi: 0
Ý kiến của Phạm Thành:
- Đọc "Tiếng vọng "của Nguyễn Quang Thiều cũng như "Con chim chào mào"của Mai Văn Phấn nó trúc trắc, trục trặc chẳng có gì là thơ, chỉ thấy những bế tắc của đời sống thế mà lại đưa vào sách giáo khoa. Ở đây phải trách ban biên tập sách chưa có đủ tầm hiểu và cảm nhận về thơ thì phải
Cũng bài "Đi học" của Hoàng Minh Chính viết khi anh ấy mới 15 tuổi mà sao rung cảm thế "Hôm qua em tới trường /mẹ dắt tay từng bước /hôm nay mẹ lên nương /một mình em tới lớp... "đọc thấy mê mẩn ngay, nhập tâm ngày
Thơ Nguyễn khoa Đièm

Thơ Nguyễn khoa Đièm

  •   15/10/2025 20:55:00
  •   Đã xem: 13
  •   Phản hồi: 0
Đỗ Hoàng
Cảm xúc giả tạo
Bình giảng
Tháng Chạp ở Hồng Trường
Nguyên bản:
Tháng Chạp Ở Hồng Trường
Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm
Những viên đá đứng theo chiều nhân loại
Và tuyết bay như năm tháng bay qua
Tháng chạp, ở Hồng Trường, tôi trở lại
Nghe ngân chuông trên tháp Xpat-xkai-a...
Chào ngọn tháp mới lần đầu gặp mặt
Mà tiếng chuông đã vang biết bao lần
Trong tâm tư, những ngày trăn trở nhất
ở miền Nam bùn máu dưới bàn chân
"Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian"
Lời chuông nhắc-lời Lênin kêu gọi
Ôi có phải khi miền Nam thắng lợi
Chinh chúng ta đang đi suốt bài ca
Ba phần tư thế kỷ sắp đi qua
Những bão táp và ngọn trào cách mạng
Chiếc đồng hồ vàng như vành hào quang tỏa sáng
Cho những ai biết sống ngẩng cao đầu
Mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu
Tôi đã hát trong buổi mình kết nạp
Tôi nhớ bạn bè phút giây sống chết
Nhớ quê hương cuộc sống mới bắt đầu
Nghe chuông ngân trên tháp Xpat-xkai-a
Tháng chạp, ở Hồng Trường, tôi trở lại
Và tuyết bay như năm tháng bay qua...
Maxcơca, 12-1975
Hồi trước, Matxcơva hơn cả thiên đường, nên được đi Nga, học tập ở Nga là vinh dự của một đời người! Học sinh, sinh viên đấu tranh trong vùng tạm bị chiếm miền Nam ra Bắc mới được ưu tiên tham quan nước Nga. Nguyễn Khoa Điềm là một trong số đó.
Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu biết viết thơ khi về báo Chiến Thắng – báo của Khu ủy Trị - Thiên – Huế do tổng biên tập Nguyễn Cúc bảo lãnh rút Điềm từ trại lao động A cơi về Khu bộ. Điềm ở trong lao Thừa Phủ can gián nhiều tội: giẫm cớ Tổ quốc, xé ảnh Bác Hồ, chào cờ ba que, khai nhiều cơ sở cách mạng, bị chi bộ nhà tù tẩy chay. Điềm ra tù là nhờ quân giải phóng tết nguyên tiêu năm 1968 phá lao, người có công là đại đội trưởng hai đại đội Nguyễn Phúc Thanh đã đưa tù giao cho Cách mạng (Nguyễn Phúc Thanh sau này là Trung tưởng, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 2, nguyên Chủ nhiêm Tổng cục Hậu cần, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội…). Điềm là người có văn bằng Đại học, là của hiếm trên núi thời đó nên cấp trên chiếu cố và bỏ qua nhiều lỗi lầm trong tù. Điềm đoái công chuộc tội nên ra sức viết thơ ca ngợi Cách mạng. Hồi ấy, thơ truyện “từ miền Nam gửi ra” quý hơn cả vàng nên thơ Điềm được in trang trọng trên các báo lớn, ở miền Bắc như: Văn nghệ, Nhân dân, Tác phẩm mới, Tổ quốc, Đại đoàn kết. Chất lượng thì miễn bàn vì “dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ, hơn nghin trang giấy luận văn chương”. Thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng có tiếng trong nhà trường. Không có ai có con mắt tinh đời để nhận ra thơ Điềm là loại ba voi không ngọt bát xáo, ồn ào, lấp lững, giả vờ, lên gân, sáo sượng, khô khan, điệu đàng, biểu tượng hai mặt….Loại thơ “vờ vịt”
“Thơ vờ vịt Nguyễn Khoa Điềm
Nên đem tất cả búa liềm lại phang!”
(Chân dung 810 Văn sĩ việt đương đại – Đỗ Hoàng)”
Bài “Tháng chạp ở Hồng Trường là một bài như thế.
Khổ một và cả bài thơ là khổ viết rất sáo mòn, xơ cứng “những viên đá đứng theo chiều nhân loại”, chung chung, cũ rích : “và tuyết bay như năm tháng bay qua” và nịnh tiếng chuông tháp Mười trên tháp Xpat-xkai-a
“Tháng chạp, ở Hồng Trường, tôi trở lại
Nghe ngân chuông trên tháp Xpat-xkai-a...”
nhưng không phải lối !
Không cần đến Hồng Trường, viết như Nguyễn Khoa Điềm, người ở nhà nằm xem ti vi cũng viết được , có khi viết hay hơn:
“Đá xếp đá máu mồ hôi nhân loại
Tuyết bay, tuyết bay thanh sạch trời xa
Thàng chạp cội nguồn , Hồng Trường tôi trở lại
Tiếng chuông tháng Mười ngân chuông trên tháp Xpat-xkai-a”
Khổ thứ hai tù mù, lập lững, không ai biết những ngày trăn trở nhất là trăn trở cái gì? Trăn trở vì chi bộ nhà tù Lao Thừa Phủ cô lập, hay trăn trở bị đưa đi lao đông cải tạo ở trại A Cơi? Chả biết lý do gì cả?. Rồi câu “ ở miền Nam bùn máu dưới bàn chân” cũng là cau sáo mòn, cũ ríc…
"Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian"
Lời chuông nhắc - lời Lênin kêu gọi
Ôi có phải khi miền Nam thắng lợi
Chinh chúng ta đang đi suốt bài ca
Ba phần tư thế kỷ sắp đi qua
Những bão táp và ngọn trào cách mạng
Chiếc đồng hồ vàng như vành hào quang tỏa sáng
Cho những ai biết sống ngẩng cao đầu
Khổ thứ 3 và khổ thứ tư là đại ngôn sáo rỗng “ba tấc đến giời như không”. “Chiếc đồng hồ vàng, ánh hào quang tỏa sáng, Cho những ai biết sống ngẩng cao đầu”
Tiếp khổ 5, gần cuôi:
“Mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu
Tôi đã hát trong buổi mình kết nạp
Tôi nhớ bạn bè phút giây sống chết
Nhớ quê hương cuộc sống mới bắt đầu”
Là khổ thơ gian manh, giả dối. . “Quốc tế ca”, người bình thường cũng thuộc, nhưng “mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu” là nước mắt cá sấu rưng rưng. “ Tôi đã hát trong buổi đầu kết nạp”. Kết nạp cái gì? Hội hè nào Đoàn thể nào? Đảng nào? Nó phải rõ ra chứ. Thơ thì không cần chính xác hai cộng hai bằng bốn
nhưng “kết nạp” vào cái gì thì phải rõ ràng!
Nhà thơ Chế Lan Viên rất rõ ràng:
“Giã mẹ ra đi kháng chiến bốn phương trời
Kết nạp Đảng, bỗng quay về quê mẹ!
Có phải quê hương gọi ta về đấy nhỉ?
Dặn dò ta, khuyên nhủ ta thêm
Trong buổi đầu, ta theo Đảng đi lên
Ngày vào Đảng đất trời như đổi khác
Những vật vô tri cũng làm rưng nước mắt
Đá sỏi cây cằn, sao bỗng thấy thiêng liêng?
Giọng nói quen nghe, màu đất quen nhìn
Bỗng chan chứa trăm điều chưa nói hết!
Tôi cúi đầu nghe, dặt dìu, tha thiết
Cây cỏ trời mây, kẻ mất người còn
Trong mơ hồ, trăm tiếng của quê hương”…
….
Tôi đứng trước Đảng kỳ, rưng mắt lệ
Phút mơ ước, sao thiếu hình bóng mẹ?
Giặc bao vây ngăn lối chặn đường
Thiếu cả gia đình ngay giữa đất quê hương!
Mẹ ơi! mẹ không là đồng chí
Nhưng Đảng kỳ đây chính là của mẹ
Đời khổ đau mẹ đứng dưới cờ này
Mẹ đói nghèo, hàng ngũ bên con đây
Mẹ xem, con mặc áo nâu sồng xưa mẹ mặc
Mai con hát khúc bình dân xưa mẹ hát
Đảng mến yêu, có phải mẹ giới thiệu con vào? »…
(Kết nạp Đảng trên quê mẹ - Chế Lan Viên)
Chế Lan Viên nói việc mình vào Đảng rất đúng đắn, chính xác, « kết nạp Đảng bỗng uay về quê Mẹ ». Nguyễn Khoa Điềm chưa một ngày vào Đảng (Cộng sản) nên lập lững, mập mờ, giả dối đánh lận con đen « tôi rưng rưng trong buổi đầu kết nạp », người ta tưởng Điềm kết nạp Đảng (Cộng sản ) thật. Và Điềm lừa cho được đến hôm nay khi người chuẩn bị trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho Điềm năm 2021 ( !)
Vì sao Nguyễn Khoa Điềm mập mờ, bưng bít như vậy ? Vì hồi này những người như Nguyễn Cúc đang Giám đốc đài truyền hình Huế, Nguyễn Đức Đạo đang Bí thư Đảng bộ Đài truyền hình Huế, (Nguyễn Đứinh Tâm , Trưởng Ban tổ chức tỉnh ủy, Hồ Như Ý, giám đốc Đài phát thanh Bình Trị Thiên, Bảy khiêm, giám đốc công an Binyhf Trị Thiên…. Điềm không dám viết « Tôi rưng rưng trong buổi đầu kết nạp Đảng » được !
Bài « Tháng chạp ở Hồng Trường » là một bài viết giả dối , lưu manh của Nguyễn Khoa Điềm, một tên ngụy tạo Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam luồn sâu leo cao làm đến Ủy viên Bộ Chính trị (Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa) của Đảng này , nhân dân cần loại bỏ nó ra khỏi tâm thức ! Rất nguy hại ! Rất nguy hại !
Hà Nội ngày 26 tháng 5 năm 2021
Đ - H

VÔ LỐI - THI TẶC NGUYỄN KHOA ĐIỀM

  •   15/10/2025 20:59:00
  •   Đã xem: 10
  •   Phản hồi: 0
VÔ LỐI - THI TẶC NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Đỗ Hoàng
Tập Cõi Lặng của Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm do Nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2007.
Tập có 56 bài, 9 bài thơ viết theo hình thức truyền thống (có bài lỗi vận – Tắm bến Hà Khê, Đọc thơ tứ tuyệt của Đỗ Mục, Người nằm bên Hồ Tây...), 44 bài viết theo “tân hình thức”, không vần không điệu, tức là Vô lối, 3 bài theo thể hiện đại – thơ tự do.
Nhiều người tìm đọc vì sự tò mò là chính.
Họ xem ông nhà thơ làm quan to tột đỉnh khi hồi hưu có như những ông quan xưa hồi hưu, có khác gì thường dân đang quằn quại khổ đau dưới một sự toàn trị không. Hoá ra ông “quan to” hồi hưu lại hậm hực, ấm ức, tiếc rẻ, khẩu khí có khi còn quá đáng hơn cả dân thường, bài Vô lối sau:
“Bây giờ là lúc có thể chia tay với điện thoại để bàn, cạc vi- dít, nắm đấm mi – crô.
Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường...
...Anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ...”
(Bây giờ là lúc).
Ông quan to, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không dấu sự nuối tiếc, bực bội, cả căm tức khi mình bị buộc về hưu giữa chừng, đang lúc kiếm ra nhiều bỗng lộc. Tiếc không thay đổi được thời gian, thời gian đã đóng đinh lên thân thể; hối không làm được như gã quan Tàu trước đây đổi 83 tuổi ra 38 tuổi để tại vị nhiều thập kỷ nữa, để hốt vàng, hốt bạc. Bao nhiêu cái tiếc, bao nhiêu cái tức, cái căm.
(Nghĩ về mất chức mà đau
Từ nay thôi hết xe tàu vi vo
(Vè cụ Thượng mất chức – Dân gian)
Làm quan đời nay nó hái ra toàn ngọc tạ vàng tấn, chứ không phải chỉ ba đấu gạo như tri huyện, nhà thơ Đào Tiềm xưa, và 40 đô la/tháng như Phó tổng thống, nhà thơ Bungari , Đimi trô va... nên các quan khát chức, khát quyền điên dại, oán trách đồng liêu hảm hại, oán trách tạo hoá phôi pha tuổi tác. Sự hồi hưu ở quê là một sự đi đày, chứ không phải là từ quan về vui thú điền viên như quan xưa:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Mà:
“Tóc trắng như thời gian thích chữ lên trán
Đày anh về quê
Không thể chạy trốn số phận”
(Nhặt ghi)
Và như vậy hoá ra những bài thơ viết về quê hương, cố quận như: Làng Phao Võng, Cánh đồng buổi chiều, Thành phố sớm xuân, Viết cuối năm, Về quê đón tết... đều giả hết!
Nguyễn Khoa Điềm không dấu mình nỗi đam mê quyền lực, đam mê làm quan đến nỗi Huế và Hà Nội thời giao thông hiện đại, xe con đời mới to chỉ đỉ 7 tiếng đồng hồ là đến nhà mà để lỡ cả mùa thu, lỡ cả mùa đông. Lỡ cả mùa thu, lỡ cả mùa đông không phải lo dân chống bão lụt, chống hạn hán, lo cầm quân đánh giặc ngoài biên thuỳ, mà lỡ cả mùa thu, lỡ cả mùa đông là cấm mạng, chặn tường lửa, cấm tư tưởng dân chủ, cấm những người” nhìn ra bốn phương rực rỡ văn minh, tức tối nước nhà cam đường hủ bại” lỡ vì:
“Đã lâu anh chưa về Huế
Hẹn vào thu rồi lỡ cả mùa đông
Anh mải mê trên đường hoạn lộ
Ngảnh về quê hư ảo một vầng trăng”
(Viết cuối năm)
Vì đam mê làm quan, đam mê quyền lực nên ông quan Nguyễn Khoa Điềm không dấu một thủ đoạn chính trị nào để đạt quyền chức:
“Nhiều khi đá đá dạy ta mềm mỏng”
(Hy vọng)
Đến đây chúng ta nhớ tích cũ tay quan Lưu Sử Đức cũng bên Tàu. (Làm quan thì phải học Tàu).
Ông bố muốn con làm quan to nên ra tình huống như nền giáo dục tiên tiến các nước hay ra tình huống cho sinh viên thực hành.
Ông bố nói:
- Nếu quan trên mắng mỏ nhổ nước bọt vào mặt con thì con phải làm sao?
Lưu Sử Đức thành thực trả lời:
- Con im lặng và sẽ lấy khăn lau đi!
Ông bố giật nảy mình như đỉa phải vôi:
- Không được! Không được! Hỏng hết bánh kẹo! Hỏng hết bánh kẹo! Cứ để vậy, cứ để vậy, cho nó tự khô!
Nếu Lưu Sử Đức sồng lại thì phải đến học ông quan “mềm mỏng” Việt Nam Nguyễn Khoa Điềm thêm mấy chiêu nữa!
Vì đam mê quyền lực, vì súng đẻ ra chính quyền (Mao Trạch Đông) nên tình thương con người trong thơ Nguyễn Khoa Điềm nhạt nhẽo, sống sượng, sáo rỗng, vô tình, không thật một chút nào. Những câu đại ngôn sau vừa kém thi pháp, vừa kém nhân đạo:
“Người ơi, tôi yêu người tha thiết
Tôi sống với người, chết vì người”
(Cõi lặng)
Nhiều nhà thơ ở Huế bình và chê Cõi Lặng là tình cảm vờ vịt. Thật không sai chút nào!
Nhiều bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm viết theo kiểu Vô lối dưới vè như: Anh đợi, Ngồi với cây long não nhà bạn, Hoa quỳ vàng...
“Vứt hết sách vở
Hai tay bụi trần
Núi cao anh trèo
Sông sâu anh lội...
(Anh đợi)
Cõi lặng có nhiều bài thua cả những bài ở các tập thơ trước như bài Tháng tư:
“ Tháng tư lá xà cừ xào xạc mặt đường
Dãy tường cổ nảy những chùm lá mới
Hà Nội thì thầm nghìn tuổi
Mừng Đảng qua một mùa đại hội”
(Tháng tư)
“Tháng tư dông chuyển bồn chồn
Hạt mưa vây ấm, nỗi buồn cách xa
Phía em, phía của quê nhà
Trắng là tóc mẹ, xanh là áo em!”
(Đất ngoại ô)
Trong Cõi Lặng Nguyễn Khoa Điềm lạm dụng từ Hán Việt chưa Việt hoá như: Vô ngôn, Hoạn lộ, Hư tự...
“Bao giờ, nơi nào anh đọc được mình
Qua nỗi đau nhân loại
Vô ngôn
Hư tự”
(Những quyển sách)
Khách quan mà nói thì những bài thơ mà Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết theo thể thơ truyền thống khá hơn một chút, có thơ hơn một chút không phải như các bài ôp lối hủ nút, lởm khởm như: Mưa thu, Bạn thơ, Người nằm bên Hồ Tây, Lên núi thăm chùa...”
“Ta ngồi như cội trúc
Gội mưa thu bốn bề
Nghĩ mình không lỗi hẹn
Với người đang xa quê
Chỉ mong em trở lại
Kịp hái chùm tóc tiên
Cắm lên bình lam ngọc
Mừng một ngày lãng quên”
(Mưa thu)
Cõi lặng là một tập sách yếu kém dưới mức trung bình.
Hà Nội ngày 1-2 – 2012
Đỗ Hoàng
(*) Nhà xuất bản Văn học năm 2007
DỊCH VÔ LỐI CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Nguyên bản:
CÕI LẶNG (*)
Cõi lặng. Anh soi thấy mặt mình
Với nỗi buồn trong sạch
Cõi lặng. Không tiếng động nào khác
Người ơi, tôi yêu người tha thiết
Tôi sống vì người, chết vì người
Cõi lặng. Tôi vượt qua ghềnh thác
Đến những miền trong xanh...
Ngày 17.1.2003
--
(*) In trong tập Cõi Lặng – NXB Văn học năm 2007
Viết liền văn xuôi:
CÕI LẶNG
Cõi lặng. Anh soi thấy mặt mình với nỗi buồn trong sạch. Cõi lặng, không một tiếng động nào khác - Tiếng đập trái tim anh. Người ơi, tôi yêu người tha thiết. Tôi sống với người, chết vì người. Cõi lặng, tôi vượt qua ghềnh thác đến những miền trong xanh.
Nhận xét:
Đây là điển hình cho loại Vô lối đang thịnh hành. Nó tù mù, tờ mờ, chuột không ra chuột dơi không ra dơi. Nếu gọi là thơ thì là một sự xúc phạm rất lớn với thi ca!
Khi chuyển những bài Vô lối qua cách viết kiểu văn xuôi mới biết các bài Vô lối ấy thì thấy nó kệch cỡm, bệnh hoạn biết nhường nào. Đúng là một quái thai của văn chương.
Đấy là mới nhìn hình thức biểu hiện, chứ soi vào ý tứ, câu chữ và tu từ ( hay là thi pháp) thì không biết gọi chúng là gì!
Riêng hai câu đại ngôn “Người ơi, tôi yêu người tha thiết/ Tôi sống vì người, chết vì người” thì giống như con sói hú lên: “Cừu ơi, ta yêu Cừu tha thiết/ Ta sống vì Cừu, ta chết vì Cừu!”
Dịch sang thơ Việt:
Đỗ Hoàng dịch:
CÕI LẶNG
Cõi lặng, anh soi thật mình
Nỗi buồn trong sạch, trắng trinh giữa trời.
Cõi lặng, không tiếng nào rơi,
Tiếng tim anh đập muôn đời nào yên!
Yêu người tha thiết, thiêng liêng,
Nguyện cùng sống chết, đảo điên vì người!
Cõi lặng, ghềnh thác vượt rồi,
Đến miền trong sạch, tuyệt vời xanh trong!
Hà Nội ngày 29 - 1 – 2012
Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên bản
ANH ĐỢI (*)
Đến sớm một ngày
Vượt trước thôi đường
Cao hơn thói thường
Anh đợi
Đánh đổ một đời
Cuối đất cùng trời
Anh đợi
Anh tìm em
Từ cõi hư vô
Đến phiên chợ trời
Âm dương xanh thẳm
Thương nhớ bồi hồi
Anh đợi
Vứt hết sách vở
Hai tay bụi trần
Núi cao anh trèo
Sông sâu anh lội
Anh đi tìm em
Mây chiều bạc tóc
Thương nhớ lao lung
Một thời trận mạc
Một thời cấy trồng
Anh là hạt thóc
Em là cánh đồng
Gieo bao thương nhớ
Vẫn còn mênh mông
Còn chăng điều tốt
Trong cuộc đời này?
Còn bao nông mặn
Em dành hai ta?
Ngàn năm, trăm năm
Anh mong, anh đợi
Một ngày xuôi tay
Đường xa để lại
Anh còn ngoái lại
Những lời hôm qua:
Anh đợi!
Ngày 27 – 9 -2006
Nhà thơ Vũ Quần Phương có bài Đợi
“Anh đứng một giờ
Đất lạ thành quen”
Một sự phát giác từ hiện thực, rất hay, ai cũng biết nhưng không ai nói được. Bài Anh đợi của Nguyễn Khoa Điềm vô duyên hết chỗ nói. Nó vừa quê, vừa cổ lỗ sỉ, không có phát hiện gì mới, lại dưới cả vè thì độc giả làm sao chấp nhập được!
Đỗ Hoàng Tạm dịch qua vè truyền thống người Việt:
VÈ ANH ĐỢI
Vè vẻ, vè ve
Nghe vè anh đợi.
Đến sớm một ngày
Không thì trời tối.
Vượt trước thôi đường
Cao hơn thói thường
Anh chờ, anh đợi
Anh tìm, tìm em
Từ cõi hư vô
Đến phiên chợ trời
Âm dương sáng tối
Thương nhớ bồi hồi
Anh chờ, anh đợi.
Vở sách trôi nổi
Hai tay bụi trần
Núi cao anh lần
Sông sâu anh lội
Anh đi tìm em
Mây chiều tóc rối
Thương nhớ lao lung
Chiến trường lạc lối
Một thời cấy trồng
Anh hạt thóc thối
Em là cánh đồng
Gieo bao thương nhớ
Vẫn còn mênh mông!
Còn chăng điều tốt,
Trong cuốc đời này?
Còn bao nồng mặn
Dành ta, ai hay?
Ngàn năm, ngàn năm
Anh mong, anh đợi
Một ngày xuôi tay.
Đường xa để lại
Anh ngoái lần này,
Những lời hôm qua!
Vẫn còn chói lọi!
Vè vẻ, vè ve
Nghe vè anh đợi!
Hà Nội ngày 29 – 1 - 2012
Ngyễn Khoa Điềm
Nguyên bản:
NGỒI VỚI CÂY LONG NÃO NHÀ BẠN
Ngồi với tôi mỏi mê
Anh quay vào bếp
Xong nồi lục đục
Mỗi âm thanh dễ nhận ra
Củi – diêm - nước mắm
Và những gì gian khó
Không âm thanh
Tôi một mình
Một nình với cây long não
Cây long não già mà lá trẻ
Như ta giữa cuộc đời này
Cây long não lặng im
Cây long não trịu trần
Năm tháng bên nhau
Nhận lấy phấn bụi bặm
Trả ta hương lành
Và một chút gì sâu xa
Không rõ nữa nữa
Bây giờ cây tiếp chuyện tôi
Gác một chân lên hè phố
Chúng tôi nói về anh
Những trang chứa biết đến của một người cầm bút...
Bên cầu Phủ Cam, tháng 5 năm 1982
Đỗ Hoàng dịch:
VỚI BẠN
Ngồi với tôi mỏi mê
Anh lại quay vào bếp
Tiếng song nồi, nhôm thép
Âm thanh dễ nhận ra
Nước mắm, muối, diêm, cà...
Vì những gì gian khó
Chắng có một âm thanh!
Còn tôi chỉ một manh
Một mình với long não
Long não già lá trẻ
Như ta cuộc đời này.
Cây long não lặng im
Một thân hình trần trụi
Năm tháng ta bên nhau
Nhận lấy phần bậm bụi
Trả cho ta hương lành
Chút sâu xa vời vợi
Mà không còn rõ nữa.
Bây giờ cây tiếp tôi
Gác chân lên hè phố
Chúng tôi nói về anh
Trang sách còn viết dở!...
Hà Nội ngày 29- 1 – 2012
Nhà thơ Đỗ Hoàng
Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên bản:
HOA QUỲ VÀNG
Thông đã mọc nghìn năm
Thành phố trăm năm
Anh đến một ngày
Đà Lạt trẻ
Mà anh thì quá tuổi
Hoa quỳ vàng
Lặng im bên cửa
Hoa quỳ vàng
Ái ngại
Nở chờ anh
Đã sang thu?
Là hạ?
Vẫn là đông?
Không cao thấp
Sao chập chùng
Ẩn hiện
Hoa quỳ vàng
Nghiêng nghiêng
Cánh mỏng
Hồn cao nguyên
Nương náu đến bao dung
Em thanh xuân
Anh quá đỗi
Ngại ngùng với sương gió
Đượm buồm từng tấc cỏ
Đà Lạt
Anh có gì
Để nhớ
Sao âm thầm lưu luyến
Tôi muôn xưa
Hoa quỳ vàng
Em chợt đến
Sau mưa
Để chợt héo
Trước ngày đông
Tháng giá
Anh chợt đến
Và chợt về
Xa lạ
Chợt trăm năm
Một khoảnh khắc
Giao mùa
Hoa quỳ vàng
Hoa quỳ nở
Như mưa.
Ngày 22 .1. 1993
Nhận xét:
Một ông trên 70 tuổi mang danh nhà thơ, giữ trọng trách quốc gia mà viết như thế này thì hoạ là điên loạn.
Dịch dễ hiểu:
HOA QUỲ VÀNG
Thông đã nghìn năm
Phố thị trăm năm
Anh đến một ngày
Ơi! Đà Lạt trẻ.
Anh thì quá thể
Mà hoa quỳ vàng
Lặng im bên cửa
Là hoa quỳ vàng
Chút gì ái ngại
Nở chờ anh sang!
Là đã tới thu?
Hay là đang hạ?
Hay vẫn là đông
Mịt mùng sương giá.
Không cao, không thấp
Mà sao vẫn chập chùng!
Mờ mờ ẩn hiện
Ơi, hoa quỳ vàng
Nghiêng nghiêng cánh mỏng
Hớp hồn cao nguyên
Chút gì nương náu
Bao dung nhân duyên!
Em mãi thanh xuân
Anh thì quá đỗi
Ngại ngùng sương núi
Tấc có đượm buồm
Đà Lạt tơ vương.
Anh có gì nhớ
Mà sao âm thầm
Mà sao lưu luyến
Tới buồn muôn xưa!
Ơi hoa quỳ vàng
Và em chợt đến
Sau mưa mặn nồng
Và để chợt héo
Tháng giá ngày đông
Và anh chợt đến
V à lại chợt về
Xa lạ buồn không!
Bất chợt trăm năm
Trong một khoảnh khắc
Trời đất giao mùa
Hoa quỳ vàng nở
Rỡ ràng như mưa...
Hà Nội ngày 29 – 1- 2012
Đỗ Hoàng
Nhận xét:
Bài này kém đến mức không muốn bàn nữa! Chí nguy! Chí nguy!
Hà Nội ngày 29- 1 – 2012
Đỗ Hoàng
lối này. Em đây chọn lối này.
Nước nào dịch loại Thi tặc

Nước nào dịch loại Thi tặc

  •   18/10/2025 15:07:00
  •   Đã xem: 6
  •   Phản hồi: 0
Nước nào dịch loại Thi tăc, vô lối?
Từ kẻ 83 tuổi (Thi Hoàng), 68 tuổi (Nguyễn Quang Thiều), 60 tuổi (Nguyễn Bình Phương), 70 tuổi (Mai Văn Phấn) …viết rất vô học, vô văn hóa, phàm phu, tục tỉu, bẩn hơn nhà thổ, công cụ làm thơ, lục súc: chố , mèo
NGUYỄN QUANG THIỀU
(Thi tặc, vô lối bị bệnh đại thị dâm nặng)
Câu hỏi cuối ngày

Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày

Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên

Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào

Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.
Quán sứ - Hà Đông, 1991
Bài thơ viết lúc 10h13 – Tay đại thị dâm – bệnh hoạn
Không có lý do gì cho sự ra đời của một bài thơ
Nhưng bài thơ đã bắt đầu viết
Bằng chữ đầu của một cái tên
Thường tuyệt vọng khi đi qua nơi này

Một ô cửa rụt rè mở
Và một tiếng rạn vỡ đâu đấy
Trên da thịt không ướp lạnh của H

H ngủ muộn. 10h13 phút chưa dậy.
Những sự sống trôi qua chiếc giường.
Những cái chết trôi qua chiếc giường.
Và H nhìn thấy trong giấc ngủ
Một tấm thân đàn ông nóng rừng rực
Trôi qua chiếc giường và dừng lại
ở một khoảng trên đầu

Lúc 10h13 một người đàn bà khác
Khoả thân trong một chiếc giường
Đặt ở giữa thành phố
Bên một cái chết mặc trang phục đại lễ

MAI VĂN PHẤN
Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc

Tháng ngày gương lược về đâu
Chân trời để xoã một màu cỏ non

Các cô nằm lại trên cồn
Những chùm bồ kết khô giòn trong cây

Khăn thêu những dấu tay gày
Thành mây Đồng Lộc bay bay trắng trời

Người ơi, tôi lại gặp người
Hơi bom còn thổi rụng rời cát khô

Nhang này quặn nỗi đau xưa
Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn.


Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ
Pha xong ấm trà
Quay ra
Ông khách không còn ở đó
Gọi điện thoại
Người nhà bảo ông mất đã bảy năm
Nhầm lẫn

Nhà mình
Mọi sự đảo lộn
Không nhớ bức chân dung hạ xuống bao giờ
Đâu rồi chiếc đồng hồ chạy bằng dây cót?
Bộ ấm chén giả cổ ai cho?

Ghé sang hàng xóm
Thử hỏi mấy loại thực phẩm
Loại tăng giá
Loại còn giữ giá.

Trong nhà
Trà vẫn nóng
Đẩy chén nước về phía ông khách đã ngồi.

Luồng tử khí cao chừng một mét sáu dựng đứng trước mặt
Chốc lại cúi gập.
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
(Tệ hơn Sỏ Khanh & Mã Giám Sinh)
Tôi anh lính phong tình ,
Nhìn sương nuí vờn quanh thân súng
Lồng cồn cào vũ điệu giao long
Bọn thi tăc, vô lối viết như thời tiền sử, vô học, vô văn hóa lúc nào cũng khoe, 30, 40 nước trên thế giới trong đó có Mỹ, Cô lôm bia, Thụy Điển (1) . Ứng cử giải Nobel Đỗ Hoàng

Các tin khác

VănNhà thơ Triệu Lam Châu gửi nhà thơ Đỗ Hoàng (*)

Hơn một năm trước, tôi có đọc dịch thơ Việt ra thơ Việt của anh.đăng trên tạp chí Nầ văn thòi anh Nguyễn Trác làm Tổng biên tập

Thăm dò ý kiến

Bạn biết gì về NukeViet 4?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập12
  • Hôm nay55
  • Tháng hiện tại1,321
  • Tổng lượt truy cập833,554
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi