Tầm văn hóa tháp...

 07:38 29/06/2025

TẦM VĂN HÓA THÂP – NGUYỄN QUANG THIỀU KHÔNG NÊN LÀM CHỦ BÚT VĂN CHƯƠNG
Đỗ Hoàng
Viết kém nhất trong “Chuyên đề Viêt & Đọc” là Nguyễn Quang Thiều! Không có tầm văn hóa viết lời “Tựa”, Không có tầm văn hóa viết văn xuôi, không có tầm sáng tác thơ, không có tầm gì hết !
Câu hỏi cuối ngay
Nguyên Quang Thiều
Thiêu viêt như thế này mà gọi là “thơ”

Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày

Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên

Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào

Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.
Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng năm 1993!
Sau dó Thiều “xáo trộn văn chương với chả cá”. Đưa tất cả làm thơ hết Mấy eng ả văn xuôi viết văn xuôi như mắm thôi bị mưa như Nguyễn Nhật Ánh, Bichs Ngân, Thùy Dương…in hàng loạt trên Viết & Đọc
“Thơ” Bích Ngân (5 bài)
(trich) Ở cự ly gàn
Tôi chờ từng giọt cà phê
nhỏ xuống lòng chiếc ly sứ
trong tiếng nhạc của trăm năm trước
trong nỗi dau của ngàn năm trước
dặc sánh như giọt đăng tôi uống
mỗi ngày…”
(còn nữa)

Vụ Hậu pháo!

 15:31 28/06/2025

"Vụ án Hậu Pháo là lời cảnh tỉnh cuối cùng. Không chỉ là trừng phạt một cá nhân, mà là khoảnh khắc soi chiếu cả một thời kỳ. Nếu hệ thống không thay đổi tận gốc, nếu quyền lực không bị ràng buộc bởi minh bạch và trách nhiệm, thì sau Hậu Pháo sẽ là ai? Và bao nhiêu người dân thường nữa sẽ tiếp tục khóc thầm, bị tước đoạt đất đai, phải rời bỏ ruộng vườn để nhường chỗ cho những “siêu đô thị” mà họ không bao giờ có thể sống trong đó? Lịch sử từng có những lời hứa. Nhưng lời hứa không nuôi được dân. Chỉ có công lý thực sự mới giữ được lòng tin."

Nhin lại Tư lực Văn đoàn

 15:28 28/06/2025

NHÌN LẠI “ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN”
Đỗ Hoàng
Ba anh em Nhât Linh, Tú Mỡ, Xuan Diệu, 1 hoai sĩ nữa thành ngọn núi Tự lực Văn Doàn sngg danh hạu thế. Không bôn tôt , năm dỏ. mang ó tơi, càng giàu , càng tốt dể có tiên trả tiền nhà tin, trả nhuận bút (nêu co)
Tự Lực văn đoàn
Tự Lực văn đoàn là tổ chức văn học mang tính hội đoàn, một nhóm nhà văn đã tạo nên một trường phái văn học, một phong trào cách tân văn học Việt Nam hiện đại, khởi đầu là một tổ chức văn bút do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam khởi xướng vào năm 1932, nhưng đến thứ sáu ngày 2 tháng 3 năm 1934 mới chính thức trình diện.
Nhà sáng lập: Nhất Linh, Khái Hưng
Ngày thành lập: 2 tháng 3, 1934
Chủ soái: Nhất Linh
Màu sắc chính thức: Đỏ, trắng, đen
Trụ sở chính: Số 80, phố Quán Thánh, Hà Nội, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương
Ý thức hệ: Khai sáng, bình dân, lãng mạn, cấp tiến, bài phong kiến, bài Nho giáo
Nhóm văn chương Tự lực văn đoàn sơ khai gồm 7 người đó là: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, Xuân Diệu
Tự lực Văn đoàn - Trăm năm nhìn lạ i
Sự ra đời của Tự lực Văn đoàn và Thơ Mới đã tạo nên một trường phái, một phong trào cách tân văn học, đồng thời là một phong trào cách tân văn hóa, cải cách xã hội, đại diện cho khuynh hướng lãng mạn, sự phát triển theo hướng hiện đại hóa của văn học Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945.
* Dòng họ nổi danh và 3 nhà văn sáng lập Tự lực Văn đoàn (Kỳ 3): Những tên tuổi sống mãi của văn đàn Việt Nam
Cùng với đó, văn đoàn này cũng sáng tạo ra hai nhân vật biếm họa độc đáo, trăm năm qua vẫn là “siêu sao” gồm: Lý Toét và Xã Xệ.
Dấu ấn dòng tiểu thuyết lãng mạn, luận đề
Dù chính thức ra mắt vào ngày 2/3/1934 nhưng Tự lực Văn đoàn được Nhất Linh khởi xướng từ năm 1932. Hiện vẫn còn những tranh cãi về danh sách các thành viên tham gia Tự lực Văn đoàn, tuy nhiên trong di cảo về Đời làm báo, Nhất Linh xác định văn đoàn có 7 “thất tinh” (7 ngôi sao) gồm: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Ðạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) và Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu).
Cơ quan ngôn luận chủ yếu của Tự lực Văn đoàn là hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay. Cùng với đó là Nhà xuất bản Đời Nay. Dù nhân lực ít nhưng Tự lực Văn đoàn đã làm công việc của hai cơ quan xuất bản: vừa làm báo vừa in sách của nhóm, lại cho in thuê kiếm lời.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, chưa có văn đoàn và nhóm tác giả nào được nghiên cứu, viết bài nhiều như Tự lực Văn đoàn. Những năm qua, nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà phê bình cả hai miền Nam Bắc đã bỏ công sức tìm hiểu, đánh giá về phong trào văn học này trên nhiều chiều cạnh, giác độ khác nhau. Có nhiều công trình được nghiên cứu công phu.
Ví dụ như sau hơn 50 năm nghiền ngẫm và gần 30 năm thu thập, bổ sung tư liệu, năm 2007, GS. Hà Minh Ðức mới cho ra mắt bạn đọc công trình khảo cứu về hiện tượng văn học kỳ thú và phức tạp nhất đầu thế kỷ XX: Tự lực Văn đoàn. Kết quả hàng trăm công trình nghiên cứu, bài viết, luận án, luận văn... đã ra đời làm rõ thêm những đóng góp và hạn chế của văn đàn.
Ảnh bìa báo Ngày Nay.Ảnh bìa báo Ngày Nay.
Tự lực Văn đoàn xuất hiện vào lúc mà văn học Việt Nam vừa trải qua 30 năm đầu thế kỷ XX - những năm văn học mang tính chất giao thời, trong đó nền văn học dân tộc chuyển dần từ mô hình văn học Đông Á trung đại truyền thống sang mô hình văn học hiện đại, gần gũi với dạng thức của các nền văn học trong thế giới hiện đại.
Hệ thống thể loại của mô hình văn học cũ lấy văn - thơ - phú - lục làm cơ sở. Hệ thống thể loại của mô hình văn học mới dựa trên các thể: thơ, kịch nói, văn xuôi tiểu thuyết, tiểu luận phê bình. Chính hoạt động văn học của Tự lực Văn đoàn sẽ góp phần đẩy tới sự toàn thắng của mô hình văn học mới.
Dù có nhiều cách đánh giá khác nhau về trào lưu văn học này thì Tự lực Văn đoàn trước sau vẫn có vị trí là bước khởi đầu, là một trong những cơ sở quan trọng xây dựng lên lâu đài văn học Việt Nam hiện đại.
Trong Từ điển văn học (bộ mới), GS. Nguyễn Huệ Chi khẳng định: “Trong lĩnh vực văn học, đóng góp của Tự lực Văn đoàn có vai trò đáng kể. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam hiện đại thực sự hình thành và ghi được những thành tựu cơ bản nhất thông qua hoạt động của văn đoàn này. Phải bắt đầu từ đây, thơ và tiểu thuyết mới đi vào thế giới bên trong nhân vật, giúp người đọc khám phá trực diện vẻ đẹp của cái “tôi” và tạo ra cách đọc “phản tỉnh”, tức là nhìn sâu vào cõi lòng mình.
Về hình thức, tiểu thuyết của văn đoàn đã vượt ra khỏi phạm trù văn học “giao thời”, có cấu trúc mới mẻ, trong đó quy luật tâm lý thay cho lối trần thuật một giọng của người kể chuyện. Câu văn trong văn xuôi đã trở nên trong sáng, chuẩn mực, giàu khả năng biểu cảm tuy có lúc còn đơn điệu. Cùng với việc đào sâu tâm lý nhân vật, thiên nhiên cũng trở thành một đối tượng thẩm mỹ...”.
Nhất Linh - vị chủ soái của Tự lực Văn đoàn được khen là có con mắt tinh đời khi giao “nhiệm vụ” cho các thành viên của văn đoàn. Ông khuyến khích Khái Hưng chuyển từ lối viết luận thuyết trên các báo: Văn học tạp chí, Duy tân (dưới bút danh Bán Than) sang viết tiểu thuyết. Tú Mỡ được Nhất Linh gợi ý chuyên làm thơ trào phúng.
Trọng Lang được ông cổ vũ đi hẳn vào phóng sự, còn Thế Lữ dưới con mắt Nhất Linh phải là người mở đầu cho “Thơ Mới”... Sau này, mỗi thành viên của văn đoàn nghiễm nhiên đóng vai trò “ông tổ” của cái hình thức sáng tác mà Nhất Linh đã phó cho mình cầm trịch.
Không ai có thể tranh ngôi vị cây bút tiểu thuyết tài danh của Khái Hưng. Nói đến giọng thơ trào phúng sau Tú Xương, người ta phải kể đến Tú Mỡ. Thạch Lam nổi tiếng với những kiệt tác truyện ngắn trữ tình. Nhiều bạn bè, kể cả người trong gia đình đều nói sách Thạch Lam bán ế nhất nhưng văn của ông viết hay nhất trong Tự lực Văn đoàn. Thế Lữ được cả làng “Thơ Mới” thừa nhận là chủ soái thi đàn và Xuân Diệu - người tiếp bước Thế Lữ đem lại sự toàn thắng cho “Thơ Mới”.
Dù khi đó báo chí “trăm hoa đua nở” và văn giới đương thời có nhiều nhóm phái, người ta vẫn phải thừa nhận rằng Tự lực Văn đoàn có một uy tín nổi bật. Hầu như ít có nhà văn nào đương thời lại không một lần đưa đăng tác phẩm mình trên các ấn phẩm của Tự lực Văn đoàn. Dù bất đồng quan điểm nhưng Vũ Trọng Phụng đã từng in cuốn Cạm bẫy người ở Nhà xuất bản Đời Nay (1933).
Xung quanh Tự lực Văn đoàn dần dần tập hợp lại một loạt văn nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa. Đó là các nhà văn, nhà thơ Trọng Lang, Đoàn Phú Tứ, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Huy Cận...; là các hoạ sĩ: Nhất Sách, Trần Bình Lộc, Trần Quang Trân, Le Mur Nguyễn Cát Tường, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí...; các kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp...
Trong tôn chỉ 10 điều của mình, ngoài mục đích tự lực, làm giàu thêm văn sản trong nước, thì Tự lực Văn đoàn chống lại những thói tục phong kiến lạc hậu, cổ vũ cho những tư tưởng xã hội tiến bộ, cổ vũ cho tự do cá nhân...
“Tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn” là tên gọi xác định về một thiên tiểu thuyết có luận đề, tức là một câu chuyện hư cấu với những nhân vật và cốt truyện hư cấu, nhằm thể hiện một hoặc một vài tư tưởng xã hội, nhân sinh của tác giả. So với truyện truyền kỳ, truyện Nôm, truyện chương hồi, thì đây là một cơ cấu nghệ thuật khác, được tạo dựng theo mô hình tiểu thuyết châu Âu, cụ thể là Pháp.
Các tiểu thuyết gia Tự lực Văn đoàn đã đem chất liệu đời sống Việt Nam, ngôn từ Việt Nam đan dệt, dân tộc hóa nó đi để nó có thể được tiếp nhận bởi công chúng Việt Nam và họ đã thành công trên hướng này.
Tính hiện đại của tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn được thể hiện ở sự đoạn tuyệt với những điển tích sáo ngữ, những câu văn biền ngẫu, những câu văn với lối ngữ pháp dài dòng trước đó để mở ra một loại hình câu văn xuôi mới, gọn gàng, giản dị, dễ hiểu và có khả năng diễn đạt những tư tưởng, tình cảm của con người.
Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934), Tiêu Sơn tráng sĩ (1934), Gia đình (1936), Thoát ly (1937), Thừa tự (1938) của Khái Hưng; Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1937) của Nhất Linh; Con đường sáng (1938) của Hoàng Đạo... đã gây được dư luận về các vấn đề xã hội và văn học.
Tại Hội thảo Phong trào Thơ Mới và văn xuôi Tự lực Văn đoàn - 80 năm nhìn lại, PGS-TS. Trần Hữu Tá kết luận Tự lực Văn đoàn đã: “Hoàn tất quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc chỉ trong hơn một thập kỷ (1930-1945), đưa văn học nước ta từ quỹ đạo văn học trung đại hòa nhập chung dòng chảy của văn học thế giới hiện đại”.
Tiên phong trong phong trào Thơ Mới
Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 gồm có Thơ Mới và văn xuôi lãng mạn. Ngày 10/3/1932, bài thơ Tình già của Phan Khôi ra mắt bạn đọc trên báo Phụ nữ Tân văn số 122 cùng với bài giới thiệu mang tên: Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ đã có tiếng vang mạnh mẽ, được xem là bài thơ mở đầu cho phong trào Thơ Mới.
Ngay sau đó, cuộc tranh luận giữa lối thơ mới và thơ cũ diễn ra vô cùng gay gắt. Mãi đến năm 1941, cuộc tranh chấp mới chấm dứt do sự thắng thế của lối thơ mới, khép lại mấy trăm năm thống lĩnh của thơ Đường. Một thời kỳ vàng son mới của văn học Việt Nam đã diễn ra với tên gọi quen thuộc là phong trào Thơ Mới.
Khi phong trào thơ mới nổ ra từ báo chí trong Nam rồi nhanh chóng lan ra báo chí ngoài Bắc và trở nên rầm rộ trên báo chí cả nước, Tự lực Văn đoàn đã nhập cuộc. Tờ Phong Hóa của nhóm đăng nhiều ý kiến bênh vực thơ mới, nhiều sáng tác thơ mới của Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú Tứ, Huy Thông...
Từ trong các thành viên Tự lực Văn đoàn xuất hiện những tác giả tiêu biểu của thơ mới, cũng đồng thời là những nhà thơ tiêu biểu của thơ Việt thế kỷ XX: Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ.
Khuynh hướng chung của thời kỳ Thơ Mới những năm 1932-1945 là khuynh hướng lãng mạn, là lý tưởng thẩm mỹ cái “tôi” của tác giả. Cảm hứng sáng tác “gắn liền với ý thức cá nhân”. Thơ Mới là thơ của cái “tôi”, một cái “tôi” chưa bao giờ được biết đến trong thơ cổ điển. Cái “tôi” bấy giờ không làm việc “tải đạo” nữa mà vượt lên những công thức ước lệ, khuôn khổ định sẵn.
Đến giai đoạn 1930-1945, với lớp nhà văn Tây học trẻ tuổi, cái “tôi” cá nhân mới thực sự được thể hiện sâu sắc. Chủ nghĩa lãng mạn do đó phát triển thành trào lưu rầm rộ với đầy đủ đặc trưng của nó trên các thể loại: thơ, truyện ngắn, bút ký, tùy bút.
Trong sự tác động của Tự lực Văn đoàn đến phong trào thơ mới, phải kể vai trò nổi bật của Thế Lữ. Dưới bút danh Lê Ta trên Phong Hóa và Ngày Nay, Thế Lữ thường xuyên điểm bình các sáng tác thơ đương thời, khuyến khích hoặc phê phán những tác giả, tác phẩm cụ thể.
Chính Thế Lữ đã giới thiệu, khẳng định tài năng thơ của Xuân Diệu. Tiếp đó Xuân Diệu giới thiệu với làng thơ khuôn mặt sáng tạo của người bạn thơ thân thiết của ông là Huy Cận. Huy Cận lại gây ảnh hưởng đến một số bạn học ở Huế, trong số đó có Tế Hanh...
Biếm họa ông De Beaumont đem tiền đi dự đấu xảo San Francisco.
Biếm họa ông De Beaumont đem tiền đi dự đấu xảo San Francisco.
Thuở ấy, Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là người làm cho người ta chú ý đến Thơ Mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy vào tương lai của Thơ Mới. Thế Lữ xuất hiện được Hoài Thanh đánh giá rất cao trong Thi nhân Việt Nam: “Ðộ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam”. Thơ Thế Lữ tiêu biểu cho tiếng nói của cái tôi trong Thơ Mới thời kì đầu. Thế Lữ nói đúng cái tôi trong thơ mới khi kêu gọi yêu đi, yêu mãi bạn lòng ơi. Khi ấy, ông được Khái Hưng ca ngợi là Lamartine của Việt Nam”.
Từ 1935 đến 1945, nhà xuất bản Đời Nay của Tự lực Văn đoàn đứng tên cho in 8 tập thơ: Giòng nước ngược (1943) của Tú Mỡ, Mấy vần thơ của Thế Lữ (1935), Thơ thơ (1938) của Xuân Diệu, Lửa thiêng (1940) của Huy Cận, Mấy vần thơ (tập mới, 1941) của Thế Lữ, Bức tranh quê (1941) của Anh Thơ, Mây (1943) của Vũ Hoàng Chương, và Hoa niên (1945) của Tế Hanh. Danh mục này cho thấy sự tinh tường trong việc chọn in thơ của nhà Đời Nay, thường do Thế Lữ, Xuân Diệu, Thạch Lam đảm nhiệm.
Theo Thi nhân Việt Nam, trong thời kì 1936-1939, thời kì này xuất hiện nhà thơ Xuân Diệu trường hợp mới nhất trong các nhà thơ mới. Xuân Diệu xuất hiện chiếm hẳn dịa vị độc tôn trên thi đàn. Tiếng thơ của Xuân Diệu như luồng gió mát thổi tâm hồn trẻ: Xuân Diệu là nhà thơ đầu tiên của Việt Nam đã áp dụng thuyết hiện sinh vào thi ca.
Biếm họa Lý Toét và Xã Xệ
Tự lực Văn đoàn chủ trương cải cách xã hội, vận động hiện đại hóa đời sống xứ sở, tuyên truyền cho văn minh, cho đô thị hóa, Âu hóa. Họ dùng các loại hình nghệ thuật như văn, thơ, hí họa, ảnh thời sự, truyện cười... để đả phá tàn dư lạc hậu trong xã hội, thúc đẩy xây dựng đời sống mới. Họ luôn luôn tìm tòi sáng tạo nhiều nghệ thuật làm báo để hấp dẫn bạn đọc.
Trên báo Ngày Nay, các chuyên mục đã thực sự gây chú ý của bạn đọc như: Vấn đề thuộc địa, Người và việc, Trông và tìm... Ngoài ra còn các tiểu mục như: Xã giao, Phụ nữ, Trào phúng cười nửa miệng và Lượm lặt. Lại còn cả Điểm sách, Điểm thơ, Tin thơ.
Dí dỏm nhất là mục Tập tranh vân đẩu. Hoàng Đạo đã các bài viết ngắn, sắc lạnh mà hóm hỉnh, sâu cay, đả kích các nhân vật trong xã hội thượng lưu bấy giờ như nghị viên Ngô Trọng Trí, Phạm Kim Bảng, Bùi Trọng Ngà, Nguyễn Đình Cung, Tô Văn Lượng, cho đến ông Phủ Hàm, dân biểu Phạm Huy Lục đến các ký giả Bùi Xuân Học, Phạm Bá Khánh... Họ vừa quan liêu, hợm hĩnh, ba hoa, nịnh hót bề trên và thiếu nhân cách, lại lên mặt dạy đời.
Đặc biệt, Tự lực Văn đoàn đã sáng tạo ra bộ ba Bang Bạnh, Lý Toét và Xã Xệ. 3 nhân vật biếm họa thuộc giới chức dịch nhà quê đã làm mưa làm gió trên mặt báo hơn 10 năm trời. Những mẩu chuyện quanh họ đã biếm trích xã hội Đông Dương, không từ bất cứ đẳng cấp nào. Sau khi kết thúc trên mặt báo, hình tượng Lý Toét - Xã Xệ lại được tái hiện trong các loại hình sân khấu như chèo, tuồng, cải lương, thoại kịch, thậm chí đi vào thi phú. Biếm họa Lý Toét và Xã Xệ còn được đăng trên các trang bìa báo Pháp Indochine, George Pisier... và được chế thành nhạc hài Lý Toét.
Biếm họa Lý Toét biếu quan Tây con gà mái.Biếm họa Lý Toét biếu quan Tây con gà mái.
Về hành trạng, Lý Toét (có tên như vậy là bởi mắt toét) là một ông lý trưởng cao gầy, búi tó củ hành, râu ria lởm chởm, mặt mày khắc khổ, mồm rộng tới mang tai, đầu đội khăn xếp, áo dài, tay luôn cầm ô, đôi giày chuyên cắp nách vì sợ mòn, đi đứng cứ lom khom vì tuổi tác hoặc vì ươn hèn. Toét ta thường cố làm vẻ đạo mạo, nhưng lại là kẻ vô cùng lém lỉnh, khi lỡm quan trên, lúc xỏ người dưới, đặc biệt rất thích chửi “ông Tây”, “thói Tây”.
Còn Xã Xệ lùn tịt, béo tròn, đầu trọc lốc như quả táo, với độc một sợi tóc, má phính, mỏ dẩu. Y là hạng người vô học rỗi nghề, ngây ngô, kệch cỡm nhưng thỉnh thoảng diện vest đàng hoàng, ưa làm sang như người Tây. Tuy chức danh có vẻ ngang hàng Lý Toét nhưng lại vô thực vì chỉ là mua cho oai với làng nước.
Bang Bạnh là nhân vật hiếm khi xuất hiện trên báo nhất, có thể vì đặc điểm kém hoạt kê và bị độc giả ghét nhất.
Về cha đẻ của hai nhân vật Lý Toét và Xã Xệ còn những nghi vấn tuy nhiên hình ảnh Lý Toét lúc đầu do Nhất Linh sáng tạo từ tháng 6/1931, khi chưa có Phong Hóa. Nhất Linh chính thức đưa Lý Toét lên Phong Hóa từ số 15 (phát hành ngày 29/9/32), được các họa sĩ đặc biệt là Nguyễn Gia Trí chấm phá thêm, trở thành một trong những nhân vật sáng chói của Tự lực Văn đoàn, biểu hiệu tất cả phong cách hài hước và bi đát trong hý họa của Phong Hóa, Ngày Nay.
Tranh không những ngộ nghĩnh về hình, mà phần lời cũng rất “đắt” và luôn gây nên cái cười bất ngờ cho nên ai cũng thích, xem một lần là nhớ ngay... Đó chính là sức sống mãnh liệt của Lý Toét - Xã Xệ. Như hình ảnh châm biếm sau, nhân dịp chính phủ Đông Dương bỏ ra 2 triệu bạc và phái ông De Beaumont đem tiền đi dự đấu xảo San Francisco, Lý Toét lấy ô kéo chân ông Tây lại, Xã Xệ đứng sau kéo áo Lý Toét: “Thôi! Ông đẹp giai và sang trọng thế, thì ông đi đấu xảo một mình cũng đủ chán rồi. Còn túi tiền ông để lại cho chúng tôi ăn gạo, chúng tôi đói lắm”.
Hay bức tranh hài hước thâm thúy, sâu xa: Ngày Tết, Lý Toét đem quà đến biếu quan Tây và nói: “Nghe nói biểu hiệu của mẫu quốc là con gà sống, nên chúng tôi đem đến tết cụ lớn con gà mái cho có đôi”.
Ở đây Nguyễn Gia Trí chơi chữ: Con gà sống ở xứ Gaule là một trong những biểu hiệu thiêng liêng của dân tộc Pháp. Còn con gái mái, đối với người Pháp có ngụ ý xấu là phụ nữ làm nghề mại dâm, gà móng đỏ. Lý Toét ngụ ý: “Mèo mả gà đồng”, mẫu quốc là con gà Tây, gà tồ, chỉ xứng với gái điếm. Vì xỏ xiên trực diện như thế nên báo Phong Hóa bị đóng cửa.
Hay những bức biếm họa đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự như: Lý Toét đứng trước đội binh vàng mã sắp đốt, nói với Xã Xệ: “Bác Xã ạ, ở âm phủ thì nước ta mạnh nhất, không nước nào bằng”.
Hoặc bức tranh Người Annam mình kinh doanh vẽ một chiếc xe khách loại 25 chỗ ngồi nhưng hành khách bị ấn vào mọi chỗ trong, trên nóc xe, chả khác gì hiện tượng các nhà xe nhồi khách hiện nay.
Sau có rất nhiều tờ báo khác khắp Bắc, Trung, Nam thoải mái bắt chước vẽ cặp bài trùng này, vì đơn giản có Lý Toét và Xã Xệ trên mặt báo thì báo bán chạy. Thậm chí, hai nhân vật biếm họa Lý Toét Xã Xệ từ mặt báo lại đi vào trào phúng dân gian. Đến nay, chưa có nhân vật biếm họa nào qua mặt được hai “siêu sao” này.
“Mỗi văn nghệ sĩ là vũ trụ tinh hoa của đất nước!”
Thơ
Khai Hưng;
“Đời tôi ôm một khối tình
Tình trong giây lát mà thành thiên thâu
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà ai gieo thảm như hầu không hay!
Hỡi ơi người cũ ta nay
Sao ta thui thủi dêm ngày chiếc thân…”
Hà Nội trước thềm thế kỷ XXI
Đ – H
Nay chẳng dược ra hội, nhóm nào.,”Trăm năm cô đơn trùm mặt lạnh”

Học tiêng bản mường

 14:45 27/06/2025

Đỗ Hoàng

HỌC TIẾNG BẢN MƯỜNG

thầy miệt xuôi
lên miệt núi
đi qua trăm ngọn đèo
đi qua trăm ngọn suối
đến bản mường
học chữ bản mường thêm!

những âm thanh ngân lên
như tiếng mài gươm loảng xoảng
những âm thanh ngân lên
như lời hò hẹn
mùa sim vê
mùa hội đầu xuân!

tả rơ ve – tìm rau nấu canh
vil - tên làng, tên bản
cha pôồng – ăn sắn
cha đôi – ăn cơm
xà niệt – khẩu súng trường.

nghe một lần cái tai còn lạ
nghe nhiều lân, quen thân.

đi hết núi để tìm ngữ nghĩa
lên miệt cao hiểu nếp rú rừng

muốn làm thầy giáo giỏi trên nương
biết làm trò học chữ!
năm 1976

Tàm văn hóa tháp ---Nguyễn Qung Thiều

 14:43 27/06/2025

NGUYỄN QUANG THIỀU KHÔNG ĐỦ TẦM LÀM CHỦ BÚT CHƯƠNG
Đỗ Hoàng
So với những người cùng thế hệ, Nguyễn Quang Thiều được Công ân cho học tiếng Anh dù là người Mễ Tây Có dạy. ‘Méo mó có hơn không” Nhưng phong văn hóa của Thiều rất thấp , không thẩm mỹ đươc cái hay, cái đẹp của văn chương cha ông! Thiều qui tập một dàn “vô lối – thi tặc ( 27 ) tên.phá nát thi ca tổ tiên! Thiều lập cái trà hình Viết & Đọc để in bài vở cho nhóm, cánh hữu.
Thiều viêt:”Bạn phải luôn nghi rằng;”Ta sẽ lảm những điều mà trước ta chưa ai làm,ta sẽ làm ra những điều khác với những gì ta đã làm”. Đấy chính lâ sự can đảm. Đấy chính là bản chât của sáng tạo.. Trong sáng tạo không bao giờ không bao giờ co khái niệm “đi theo’, “làm theo”. Sáng tạo thực sự luôn mang tinh thần độc lập, riêng biết và cô đơn.”
Kiểu viêt của đứa vô học. Lê Quý Đôn nói: ‘người tài giỏi hơn hêt mọi người cũng không chối bỏ người trước” Trong Tâm lý học, có hiện thực, tưởng tượng mới sáng tạọ. Có cai xe dạp bánh gỗ mới co cái xe đạp bánh cao su., co sim sơn mới có honda,Sh,có sam 1, mới có sam2…có chữ la tinh mới có cho Thiều làm vô lối, tắc tỵ…
Với tầm nghĩ quá ngắn như vậy nên Thiều đưa Vi Thùy Linh lên tầm “sư hào” in 7 bài thơ trong Viết & Đocxin trích”số Chuyên dề mùa xuân năm 2024
“Rút ngắn nhất về mình.
ViLi là người hiếu tri
Không ngừng học học và say mê nghệ thuật
Nghệ thuạt là nghịp thường hăng
Y nghĩ và liên tưởng
Khi giặt, phơi, gấp đỗ
Khi tăm đêm để được đăm trong nước lâu hơn khi con ngủ
Khi đọc sach nghĩ về quyền lưc 24 chữ.
Tứng ký tự ghép nhau, tách – nối
Đôc thúc tôi….”
Nâng thơ Thi Hoàng lên tầm “Đậu Phụ” của Thiều
“Dây phơi nhà ai, chiếc nịt vu thơm lừng , nhìn đã thấy no nê” Lão già 83 tuổi (sinh 1943)
Mà mới thấy nịt vú con gái phơi nhà hàng xóm cường dương như thanh niên trẻ khỏe. Bài in trên báo Văn nghệ năm 2923!
(còn nữa)

Người Việt làm thư trowngr Hải quân Mỹ

 07:13 27/06/2025

TỪ CẬU BÉ TỊ NẠN CỘNG SẢN ĐẾN THỨ TRƯỞNG HẢI QUÂN HOA KỲ – CÂU CHUYỆN CỦA ÔNG HÙNG CAO
Ngày 26 tháng 6 năm 2025, Thượng viện Hoa Kỳ chính thức phê chuẩn ông Hùng Cao – một người Mỹ gốc Việt – làm Thứ trưởng Hải quân Hoa Kỳ. Đây là một vị trí cực kỳ quan trọng, chỉ đứng sau Bộ trưởng Hải quân. Cả nước Mỹ có hàng trăm ngàn quân nhân thuộc lực lượng Hải quân, và từ nay, họ sẽ có một người lãnh đạo cấp cao mang dòng máu Việt Nam.
Ai là ông Hùng Cao?
Ông Hùng Cao sinh năm 1971 tại Sài Gòn, trong một gia đình có cha từng là Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, cả gia đình ông phải bỏ nước ra đi, sang tị nạn tại Hoa Kỳ. Lúc đó, ông mới chỉ là một cậu bé 4 tuổi, còn quá nhỏ để hiểu vì sao mình phải rời bỏ quê hương, nhưng ký ức về những ngày tháng chạy loạn, sống đời tị nạn đã in sâu vào tâm trí ông.
Lớn lên tại Mỹ, ông theo học tại Học viện Hải quân – một trong những trường quân sự danh giá nhất nước Mỹ – và tốt nghiệp năm 1996. Sau đó, ông tiếp tục lấy bằng Thạc sĩ ngành Vật lý tại Học viện Sau đại học của Hải quân.
25 năm phục vụ không ngơi nghỉ
Ông Hùng Cao phục vụ trong quân đội suốt 25 năm. Ông từng tham gia nhiều chiến dịch quân sự tại những nơi nguy hiểm như Iraq, Afghanistan, Somalia… Ông không chỉ là một sĩ quan giỏi về chuyên môn, mà còn là người luôn nghĩ đến trách nhiệm và danh dự. Sau khi về hưu với cấp bậc đại tá vào năm 2021, ông vẫn tiếp tục phục vụ đất nước dưới hình thức khác – đó là bước vào chính trường.
Năm 2024, ông ra tranh cử vào Thượng viện Hoa Kỳ. Dù không giành chiến thắng, nhưng ông đã để lại ấn tượng mạnh vì lập trường vững vàng, tinh thần thẳng thắn và tình yêu nước nồng nàn.
Tháng 2 năm 2025, Tổng thống Donald J. Trump đã đề cử ông vào vị trí Thứ trưởng Hải quân. Và đến ngày 26 tháng 6, sau khi trải qua phiên điều trần tại Ủy ban Quân vụ Thượng viện, ông chính thức được phê chuẩn, trở thành người gốc Việt đầu tiên giữ chức vụ này.
Tấm gương cho bao thế hệ người Việt
Điều khiến người ta kính trọng ông Hùng Cao không chỉ là vì ông thành công, mà vì ông chưa bao giờ quên cội nguồn. Ông thường chia sẻ rằng những ký ức tuổi thơ về Việt Nam, về mất mát và đau thương trong ngày 30 tháng 4, đã hun đúc trong ông một tinh thần sắt đá – rằng nếu nước Việt không còn tự do để mình phục vụ, thì ông sẽ hết lòng phục vụ nước Mỹ – nơi đã cưu mang gia đình ông.
Ông Hùng Cao từng nói:
“Tôi lớn lên với nỗi đau mất nước. Và tôi không bao giờ muốn thấy nước Mỹ đi theo con đường của Việt Nam ngày ấy. Vì vậy, tôi sẽ làm tất cả để bảo vệ tự do cho thế hệ con cháu mai sau.”
Câu chuyện của ông Hùng Cao là minh chứng sống cho giấc mơ Mỹ – nơi một cậu bé tị nạn cộng sản có thể vươn lên trở thành lãnh đạo cao cấp của quân đội Hoa Kỳ. Nhưng hơn hết, đây là một lời nhắc nhở cho chúng ta – những người Việt sống xa quê – rằng nếu giữ được tinh thần dấn thân, trung thực và biết ơn, thì ta vẫn có thể làm rạng danh dân tộc, dù đi bất cứ nơi đâu.
Xin chúc mừng ông Hùng Cao – một người Việt chân chính, một chiến sĩ của tự do, và là niềm tự hào của cộng đồng ngư

Ham hố chưc danh

 07:10 27/06/2025

Bàn về con Đực!
Con đưc ham nhảy con cái là ưu điểm chọn giống. Con đực có ưu điểm này rât khôn. Thường sông tách đàn (như dào hang, nấp chỗ kín, đi lẻ...Con vật cap cao như người, thú thì chọn nui non, hang hốc ẩn mình như thầỳ tu, thầy cúng...để dẫn dụ con cái.... Nguyễn Lập viết truyện Đò ơi bị la ó cũng noi lên bnr tính cua con vật này!
ẢI QUA PHẢN BIỆN KÍN VÀ CHỈ CẦN 6 NGÀY SAU BẢO VỆ CẤP CƠ SỞ ĐÃ CÓ LUị la ó
Trong bản Giải trình với Bộ GD&ĐT của Trường Đại học Luật HN về nghiên cứu sinh (NCS) Vương Tấn Việt (Thượng tọa ThíchuyễnChân Quang) (xem ảnh) có nêu:
-Ngày 26 tháng 9 năm 2021: Đã bảo vệ cấp đơn vị chuyên môn (cấp cơ sở) theo Quyết định số 2289/QĐ - ĐHLHN;
-Ngày 3/10/2021 : NCS làm đơn xin bảo vệ luận án cấp trường;
-Ngày 3/12/2021: NCS bảo vệ luận án cấp Trường theo Quyết định số 3696/ QĐ-ĐHLHN ngày 1/11/2021.
Như vậy, từ khi NCS Vương Tấn Việt bảo vệ luận án TS cấp cơ sở đến ngày có đơn xin bảo vệ cấp Trường chỉ vỏn vẹn có 06 ngày (sáu ngày). Có mấy câu hỏi cần được Trường ĐHL HN giải thích thêm cho rõ:
Một là, không thấy Trường ĐH Luật HN nêu thời gian NCS chờ kết quả phản biện kín. Chẳng lẽ NCS này bảo vệ luận án TS mà không có phản biện kín (ý kiến đánh giá của 2 phản biện độc lập) hay sao ?
Hai là, nếu có phản biện kín mà quý Trường ĐHL HN QUÊN KHÔNG NÊU thì cần bổ sung thêm để giải trình Bộ GD&ĐT rõ và xin giải thích tiếp câu hỏi thứ hai:
Theo quy trình, 26/9/2021 NCS bảo vệ luận án TS cấp cơ sở thì phải cần ít nhất 01 tháng để hoàn thiện luận án. Sau đó chờ kết quả phản biện kín (2 phản biện độc lập) cũng phải cần ít nhất 01 tháng. Sau đó, NCS phải hoàn thiện luận án theo góp ý của 2 phản biện độc lập. Tiếp đến mới là công đoạn NCS nộp luận án để xin bảo vệ cấp trường, chạy nhanh nhất cũng mất 01 tháng. Như vậy, từ khi bảo vệ luận án cấp cơ sở đến khi bảo vệ cấp Trường phải mất ít nhất cũng là 3 tháng. Thực tế bản Giải trình cũng đã cho thấy chỉ riêng công đoạn xin Trường ĐHL HN ra Quyết định cho phép NCS bảo vệ luận án cấp trường cũng đã phải mất 01 tháng (3/10/2021-1/11/2021). Từ khi có Quyết định của Trường (1/11/2021) đến khi NCS tổ chức lễ bảo vệ luận án chính thức (3/12/2021)- công đoạn này hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào NCS - mà cũng phải mất 01 tháng. Vậy mà theo Giải trình của Trường Đại học Luật Hà Nội, nghiên cứu sinh chỉ mất 6 ngày từ khi bảo vệ cấp cơ sở (26/9/2021) đến khi nộp luận án cùng với đơn xin bảo vệ cấp trường và có Quyết định (1/11/2021) ??? Như thế là thế nào? Thật là vô cùng khó hiểu.
Xin quý Trường Đại học Luật Hà Nội giải thích rõ thêm hai câu hỏi trên!

Dân gốc rạ

 14:05 26/06/2025

Dân Gốc Rạ
Trân trọng cảm ơn anh, người cần mẫn quét rác. Em chúc anh Do Hoang cùng quý quyến an vui và hạnh phúc. Em nghĩ : sạch rác thì môi trường sẽ trong xanh.

Nguyễn Quang Trung

 14:02 26/06/2025

Nguyễn Quang Trung
Tôi buồn vì nhiều nhà thơ cổ xuý cho thơ văn xuôi. Thà là văn xuôi cho có thể có loại. Đằng này cứ như đưa "bò lạc"(cách nói trong hài Xuân Hinh) vào thơ. Ấy là thơ đã di vào tận cùng của cái sừng trâu, đi vào tử huyệt. Các nhà thơ văn xuôi đẫ bức tử thơ dưới ngọn cờ tung bay phấp phới dưới chiêu bài đổi mới. Anh nói đưa ra những nhà thơ phản thơ, phi thơ, ngợm hoá thơ mà tôi thấy buồn cho sự nghiệp văn chương nước nhà...

Tài trai

 15:17 25/06/2025

Vy nhân công sức còn lai
Trời xanh muôn thế muôn thế rộng dài
Hòn đá bên đường thành bại
Mỉm cười tay trắng đời trai!

Chêt oan!

 15:14 25/06/2025

Chết oan
Linh ở bên kia mấy tiểu đoan?
vô nhiều đưng chạt cả đường quan.
Ngày mai không biêt nơi nào dánh?
Nhat định có ngwif phỉ chết oan!

Suy ngẫm

 20:32 24/06/2025

Chí véi c¬­êi kÎ kia bÞ n¹n !
V× cuéc ®êi khæ ®au v« h¹n .
§¬­êng ng­êi ®i ch­a biÕt tËn cïng .
Nªn h•y khoan vç tay nh¹o b¸ng !

6-7-2001

VÉn biÕt binh ®ao lµ vËt gì .
Th¸nh nh©n khæ l¾m míi dïng.
Nh¬­ng bao kÎ vÉn thÝch huyÕt ®æ !
Để ®Þa cÇu m¸u ch¶y kh«ng ngõng !

18-5-2003

Th­¬îng §Õ nãi g× - Xin chí ®õng tin .
Th­¬îng §Õ mØm c­¬êi – Xin chí ®õng tin .
Vµ tÊt c¶ nh÷ng lêi Th­¬îng §Õ .
Tõ x­a nay đã đánh mất niềm tin !

9-6-2001

Thiều - Phấn - 2 Thi tặc

 20:29 24/06/2025

Tay Thiều cũng như tay Phấn hay khoe Mỹ, Columbia tặng giải thưởng Thơ! Những nước ấy biết gì thơ Việt, người đọc Việt. Ngay Hội Nhà văn Việt trao giải thưởng cho Nguyễn Quang Thiều năm 1993 tập sự mất ngủ của lửa - Một tập sách như Quỷ Sa tăng, ba đầu sáu tay! Tởm lợm!
Ảnh:
(1) Thi tặc số 1 - Thiều
(2) Thi tặc số 2- Phấn
Nhà thơ Đỗ Hoàng
Thi tặc số 1 Nguyễn Quang Thiều không biết làm thơ tiếng Việt , tư tưởng văn nô, tay nghề non nớt, việt lách thần kinh, thừa ý, thiếu lời, dốt đặc cán mai, loăng quăng chu nghĩa, dâm loạn bẩn thỉu hơn nhà chó đẻ...Thế mà hắn làm Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam(!) Có thời nào như thời này?
Nguyễn Quang Thiều
Nguyên bản(1)
Trong quán rượu rắn
Những con rắn được thủy táng trong rượu
Linh hồn nó bò qua miệng bình nằm cuộn khoanh đáy chén
Bò nữa đi, bò nữa đi qua đôi môi bạc trắng
Có kẻ say gào lên những khúc bụi bờ
Một chóp mũ và một đôi giày vải
Mắt ngơ ngơ loang mãi đến chân trời
Nhóm u uất trong những vòm tháp cổ
Người suốt đời lảm nhảm với hư vô
Như đá vỡ, như vật vờ lau chết
Thơ âm âm, thơ thon thót giật mình
Kinh hãi chảy điên cuồng như lưỡi liếm
Ngửa mặt cười trong tiếng khóc mộng du
Bò nữa đi, bò nữa đi, hỡi những linh hồn rắn
Nọc độc từng tia phun chói trong bình
Người không uống rượu mà uống từng ký ức
Mạch máu căng lên lên những vệt rắn bò
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
Rừng mang mang gọi những khúc thu vàng
Rượu câm lặng chở những linh hồn rắn
Có người say hát lên bằng nọc độc của mình.
(1) Bài rút trong tập Thi Tửu - NXB Hội Nhà văn quý IV năm 2007
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt:
Trong quán rượu – mắm rắn
Lũ rắn độc bị đem tửu táng
Hồn bò quanh đáy chén, miệng bình
Bò nữa đi qua môi bạc trắng
Kẻ say gào giọng rượu thất kinh!
Áo quần, mũ, tất giày trút bỏ
Mắt ngu ngơ hoang mạc chân trời
Nỗi u uất ứ vòm tháp cũ
Với hư vô lảm nhảm suốt đời!
Như đá vỡ, như vật vờ lau chết
Hồn rên lên, tim thon thót nhói lòng
Kinh hoàng chảy điên cuồng như lửa liếm
Ngửa mặt cười khóc mộng du không!
Bò nữa đi! Hỡi những linh hồn chết!
Nọc độc phun bầm cả đáy vò
Ta uống rượu và uống từng ký ức
Mạch máu căng lên những vệt rắn bò!
Đêm dài rộng chôn vùi trong quán vắng.
Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng.
Rượu câm lặng chở bao linh hồn rắn.
Hát bằng nọc độc mình, kẻ xỉn hú rất hăng!
Hà Nội ngày 13 - 1 - 2008
Bài Vô lối
- Những người đàn bà gánh nước sông
Nguyễn Quang Thiều.
Nguyên bản:
Những ngón chân xương xẩu móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm mười lăm năm ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết rồi
Những người đàn ông giận dữ buồn bã và bỏ đi
Đã năm năm mười lăm năm ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi
1992
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt :
Những người đàn bà gánh nước sông
Bàn chân toẽ như chân gà mái
Quá nửa đời non dại tôi trông.
Đàn bà xuống gánh nước sông
Bối tóc vỡ xối bềnh bồng trên lưng
Tay giữ chặt giữa chừng đòn gánh
Tay vịn vào mây trắng như tơ
Sông trôi úp mặt vào bờ
Trai mang mơ biển lặng tờ ra đi.
Cá thiêng khóc rầu rì quạnh quẻ
Chiếc phao ngô cô lẻ chết rồi!
Đàn ông giận dữ ôi thôi.
Nuốt sầu ngao ngán chán đời đi luôn.
Nửa đời trải thấm buồn tôi thấy
Lũ trẻ con níu váy u già
Lớn lên giữa chốn bùn sa.
Gái thay mẹ gánh nghèo qua bến thuyền
Con trai mộng triền miên mơ biển
Vác cần câu lặng biến tha hương
Cá thiêng quay mặt lệ tuôn
Để trơ cái lưỡi câu lươn lộ mồi!
Hà Nội ngày 6 tháng 5 năm 2010
Đ - H

Vô lối Nguyên Quang Thiều...

 14:55 24/06/2025

VÔ LỐI NGUYỄN QUANG THIỀU
(Bài do tác giả gửi CBTT)
Đỗ Hoàng
Vô lối là một loại viết có từ thập kỷ 60 thế kỷ trước và bùng phát nhiều nhất từ thập kỷ 90 thế kỷ trước đến hôm nay. Nó càng bùng phát hơn nữa khi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 trào giải cho tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều và vừa rồi (năm 2011 - 2012), Hội Nhà văn Việt Nam lại tiếp tục trao giải cho cả 4 tập của các tác giả Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Định Thị Như Thúy, kiểu viết như Nguyễn Quang Thiều nối dài.
Điển hình của Vô lối là triệt tiêu một trăm phần vần điệu, xóa bỏ cách nghĩ, cách cảm của ông cha và thơ ca truyền thống dân tộc và thế giới, tắc tỵ, rắc rối, tù mù, dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống, nhạt nhẽo, đánh đố mình, đánh đố người đọc, dung tục, tình dục bệnh hoạn, sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, tuỳ hứng…
Vô lối có một đặc điểm nữa là không thể đọc nổi vài ba dòng.
Nguyễn Quang Thiều cũng là một trong những đại biểu của Vô lối ấy vừa được các báo chí chính thống, các vụ viện chính thống, các học giả, nhà phê bình, giáo sư đại học, cánh hẩu viết bài lắng xê, ca ngợi hết lời. Họ coi đó là sự là “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân”, Thơ Nguyễn Quang Thiều nhìn từ mẫu gốc” (Tạp chí Nhà văn số 6 - 2012); “Hộp đen” Nguyễn Quang Thiều – Báo Văn nghệ số 17 + 18 tháng 4 – 2012...
Cách tân tức là làm mới không chỉ ở thơ ca mà trong cuộc sống muôn loài cũng phải luôn luôn đổi mới để phát triển tồn tại. Thế hệ sau tiến bộ hơn thế hệ trước thì muôn loài, muôn vật, xã hội mới phát triển, không thì chỉ dừng lại và đi đến triệt tiêu!
Nhưng làm mới như thế nào? Tôi đã nhiều lần nói về việc làm mới. Làm mới – cách tân chứ không phải cách mạng. Đến như cách mạng lật đổ hoàn toàn quá khứ mà người vẫn còn giữ gìn và tiếp thu những ưu tú của đời trước để lại, huống hồ cách tân - làm mới, phải có kế thừa và phát huy cái hay, cái đẹp của dân tộc, của nhân loại. Nhà bác học Lê Quý Đôn nói: “Người tài giỏi hơn hết một thời, cũng không được phá bỏ đời trước”
Những người tìm tòi đổi mới thơ ca là đáng trân trọng. Nhưng lấy cớ tìm tòi đối mới để phá bỏ, đạp đổ những chuẩn mực, những tinh hoa của cha ông từ muôn đời để lại là một ý nghĩ, hành động điên rồ.
Hàn Mặc Tử có nói: “Vẫn biết thơ ca phải tân kỳ (mới và lạ), song thơ ta là thơ quốc âm, người phương Đông chuộng nỗi đau thâm trầm, nỗi buồn kín đáo. Ta phải thể hiện cái tinh thần phương Đông ấy.”
Nhưng những người viết hôm nay và nhất Nguyễn Quang Thiều không theo tiêu chí ấy mà đi tìm một cách viết rất chi là Vô lối.
Nguyễn Quang Thiều cố tìm một cách nói, cách lập ngôn như việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” – (Hỏa đích bất thụy sự), đã thể hiện cách ấy. Đọc thấy lạ tai, không theo cách nói cách viết thuần Việt, nó như là cách viết của Tây, nhưng Tây người ta không viết thế. Câu thơ, câu văn của Tây dài nhưng phải chính xác, không thừa chữ, không thừa ý và phải thuần chủng ngôn ngữ. Đằng này Nguyễn Quang Thiều cố tạo ra cách viết lạ nhưng lại vừa dùng chữ nước ngoài, vừa không theo cách cảm cách nghĩ của dân tộc. Cách này cũng đã có người trước Nguyễn Quang Thiều viết như “Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai” (Liên khúc những bài thơ tình thời cách xa – Thanh Tâm Tuyền)
Chữ sự nguyên là chữ Hán đã tương đối Việt hóa. Nó có ba nghĩa : 1- việc, 2 - làm việc, 3 - thờ. Không hiểu sự mất ngủ của lửa ở đây là việc, làm việc hay là thờ? Suy đoán trong bài hiểu theo nghĩa Hán “Hỏa đích bất thụy sự” thì có thể là việc. Dịch ra là “Việc mất ngủ của lửa” chắc là đúng ý tác giả!
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Hồ Chí Minh)
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Xuân Thủy dịch)
Thời Nguyễn Đình Chiểu, cũng là thời Hán học đang thịnh hành, cụ Đồ Chiểu còn đi thi tú tài Hán học, thế nhưng thơ Cụ, văn tế, phú của Cụ thì rất Việt hóa.
Việc cấy, việc cày việc bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cớ mắt chưa từng ngó
(Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc )
Nếu viết như Nguyễn Quang Thiều và Thanh Tâm Tuyền là phải:
Sự cấy, sự cày, sự bừa tay vốn làm quen
Tập khiên, tập súng, tập cờ mắt chưa từng ngó
Lại bàn về mất ngủ. Mất ngủ chỉ một trạng thái tâm lý của con người do lao lực, do nghĩ ngợi đau khổ nhiều, thần kinh yếu, do chấn động thân kinh, do chấn thương sọ não …nên dẫn đến mất ngủ. Nói chung nó là một trạng thái bệnh lý nhiều hơn. Còn người khỏe mạnh, thần kinh vững vàng thì khó có thể mất ngủ.
Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
(Hồ Chí Minh)
Người khỏe mạnh, cứng rắn, người ta chưa ngủ hoặc người ta không ngủ để lo quốc gia đại sự, chứ họ không bị chứng bệnh mất ngủ!
Vì vậy việc đặt tên tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” vừa không Việt hóa, vừa thừa chữ, thừa lời, vừa không ổn trong nhận thức. Có thể đặt theo cách thuần Việt “Lửa mất ngủ” hoặc “Lửa thức”…
Cách đặt tựa đề, đặt câu này Nguyễn Quang Thiều lặp đi lặp lại ở nhiều bài khác như: “Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi” (Tiếng vọng) – In trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập một, tháng 1 năm 2011.
Ảnh Thiều
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều đa phần dài dòng văn tự. Viết ngắn viết dài tùy theo cảm xúc, suy nghĩ, tùy theo mức độ tình cảm của tác giả. Cái đáng viết dài thì viết dài, cái đáng viết ngắn thì viết ngắn. Có cái không đáng ba dòng tác giả lại kéo ra tràng giang đại hải
“Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi”
(Những người đàn bà gánh nước sông)
Hay:
“Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được giàn dụa nước mưa sông. “ (Sông Đáy)
Nên nhớ rằng “ Đoản thi tối hảo phá” (Thơ ngắn có sức mạnh vô biên). Ngay phương Tây cũng có nói phải cô níc (viết ngắn).
Bác Hồ cũng đã từng nói: “Bác ít có thi giờ xem văn nghệ, nhưng khi xem thì thấy nó dài dòng, dây cà ra dây muống, hình như người viết cố viết dài ra để lấy nhuận bút. Rồi lại sính dùng chữ nước ngoài. Chữ ta có thì nên dùng chữ ta, chữ ta không có mới mượn chữ nước ngoài – theo “Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt – Sửa đổi lề lối làm việc)
Có nhiều bài viết vừa dài, vừa lập luận thừa thải. Điển hình là bài “Những người đàn bà gánh nước sông” (đã trích dẫn ở trên). Ví dụ câu:
"Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy”. Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy, thì cần gì phải kể đến từng chặng một thời gian như vậy. Kể thế sao cho hết. Nếu kể thế thì phải viết cho đủ: Đã một năm, đã hai năm, đã ba năm… đã và đã, thì đến bao giờ mới kể xong. Viết chỉ ngắn gọn là “nửa đời tôi thấy” thì vừa đầy đủ, vừa chính xác. Còn có những người, họ chỉ sống 50 tuổi , 40 tuổi, 30 tuổi thì sao?
Mỉa mai thay bài này đã được chọn in trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX(!)
Cách nghĩ và cách viết không chính xác, viết lấy được của Nguyễn Quang Thiều còn nhiều nhiều. Như bài “Trong quán rượu rắn”. Người ngồi trong quán rượu rắn, chắc là không uống rượu nên tỉnh bơ, như uống nước chai lave “Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ/ Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng”. Người đọc tưởng tác giả đang đi dạo rừng thu bạch dương ở bên Nga!
“Những con rắn bị thủy táng trong rượu". “Thủy táng” là chôn nước. Táng - nguyên chữ Hán là chôn, vùi đã tương đối Việt hóa. Khi người chết, nhất là người thân, người ta dùng chữ táng cho nhẹ đi, đỡ đau hơn nếu dùng chữ Việt là chôn hoặc vùi. Từ cổ đến nay có nhiều cách táng: thổ táng, hỏa táng, thủy táng, mộc táng, điểu táng, thạch táng, cẩu táng, điện táng… “Những con rắn bị thủy táng trong rượu” – Tức là những con rắn chôn nước trong rượu. Thật ra rượu là nước có nồng độ men cao, cũng như nước biển có nồng độ muối cao mà thồi. Những người đi biển khi chết được đem bỏ xuống biền và nói như cách nói của Nguyễn Quang Thiều: “Những con người bị thủy táng trong biển”. Nó vô lý và buồn cười, đau xót biết bao cho cách lập câu, cách viết như thế này.
Cha ông ta đã có cách nói rất hay khi đem bỏ thảo quả và động vật quý làm thuốc vào rượu và gọi là “ngâm rượu”: táo ngâm rượu, cam ngâm rượu, lê, mận ngâm rượu, bìm bịp ngâm rượu, rắn độc ngâm rượu… Nếu nói cho có hình ảnh mượn chữ Hán thì có thể nói “những con rắn bị đem tửu táng”!
Cách viết của Nguyễn Quang Thiều rất kém thi pháp (nghệ thuật thơ), lạm dụng nhiều chữ nhiều từ như : khóc, vỹ đại, lạm dụng từ Hán Việt chưa được Việt hóa…
Những con cá thiêng quay mặt khóc
………
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
(Những người đàn bà gánh nước sông – đã dẫn).
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quì xuống vốc cát ấp vào mặt
Tôi khóc.
(Sông Đáy)
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo gọi Nguyễn Quang Thiều là “nhà khóc học” thật không sai!
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
(Trong quán rượu rắn)
Cha ông ta có những phép tu từ rất diệu nghệ, người ta không hề nói đến một chữ khóc mà đời nào nghe cũng rưng rưng:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi!
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn
Hay:
Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả mẹ chín chìu ruột đau!
(Ca dao)
Bạn về chẳng có chi đưa
Có hai lọn nếp mà chưa lặt lòn!…
(Ca dao)
Rồi mùa toóc rạ rơm khô
Bạn về quê bạn biết mô mà tìm
(Ca dao)
Ở đây Nguyễn Quang Thiều và nhiều người viết khác dùng vô thiên lũng chữ “ khóc”, người ta gọi là các “nhà khóc học” mà chẳng làm một ai mủi lòng! Thật là tại hại!
Nguyễn Quang Thiều hay viết về quê hương mình, vùng làng Chùa, sông Đáy là xứ Đoài xưa nhưng không hề thầy bóng dáng “Xứa Đoài mây trắng” ở đâu, không thấy áo lụa Hà Đông ở đâu, không thấy Hà Tây quê lụa ở đâu? Một miền cội nguồn dân ca Bắc Bộ, một miền hát xoan, ghẹobiến mất trong cách viết của Nguyễn Quang Thiều!
Mà Xứ Đoài không chỉ người con của xứ sở ấy máu thịt mà cả dân tộc, thậm chí cả châu Á, châu Âu cũng có trong hồn của họ.
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Lên núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuy khoắt thổi đêm trăng
(Quang Dũng)
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt nhớ
Bởi vì em mặc áo lụa Đông
( Nguyên Sa)
Bóng chiếc thoi đưa, ánh mắt long lanh, trời đất Hà Tây quê em dệt lụa
Mây trắng Ba Vì…hồn thơ Nguyễn Trãi
(Hà Tây quê lụa – Nhật Lai)
Một lần trò chuyện với nhà văn Trung Quốc Trịnh Bá Nông nguyên Tổng biên tập báo Văn Nghệ Trung Quốc tại Bắc Kinh, ông nói: “Ở việt Nam tôi yêu thích nhất là Ca dao và Quan họ Bắc Ninh”. Trong khi đó các nhà thơ, nhạc sỹ nước mình đi tìm con cáo lông đen (ý của Gam zatop) ở đâu đâu.
Viết ngắn, viết giản dị mới khó. Đông Tây, kim cố gì cha ông cũng đã dạy
Rien n’est plus dificille que d’ecrire ficille - Không có gì khó bằng viết dễ hiểu – Châm ngôn Pháp. "Công phu thâm xứ thi bình dị" - Thơ hay nhất là thơ dễ hiểu – Lục Dụ đời Tống, Trung Quốc.
Điển hình cho sự dài dòng văn tự, tắc tỵ lố bịch, quái dị của Nguyễn Quang Thiều là bài “Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ”.
(Trích)
"Người hướng dẫn : Được dệt thủ công bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
"Người mua : Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm"…
Kịch không ra kịch, đối thoại không ra đối thoại, tế không phải tế, cáo không phải cáo, điếu văn cũng không ra điều văn, kể chuyện học sinh cũng không ra kể chuyện học sinh, nhật ký cũng không phải nhật ký, hát ru bà, hát ru ông cũng không phải… Nó là một thứ ba đầu sáu tay, quái thai văn chương. Thế rồi nó lại còn dung tục: “Một bà già đi tiểu 5 lần nói: “Mẹ đau lắm!”. Trong bệnh viện khoa dưỡng lão, các bác sỹ ghi bệnh án còn sạch sẽ hơn nhiều cái gọi là thơ này!
Thơ hậu hiện đại có thể lược bỏ vần điệu, coi nhẹ vần điệu nhưng ý tứ phải sâu sắc, hình ảnh phải mới lạ, độc đáo, tình cảm phải dạt dào rung động người đọc mới chấp nhận:
Thời gian ơi, xin hãy đừng trôi nữa
Đó là lời khẩn cầu
Của những kẻ đang yêu
Tại sao các vị lại không khẩn cầu ngược lại
Tình yêu hãy ở bên các người mãi mãi
Còn thời gian thì:
Cứ kệ nó trôi đi…
(Thời gian và tình yêu – Ion Milos – Nhà thơ Thụy Điển – Thơ hậu hiện đại – Phạm Viết Đào dịch)
Hay:
Người đẹp
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
(Dân ca Dáy)
Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết- nhìn người đẹp lại không muốn chết nữa
Ơ! Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!
(Lò Ngân Sủn)
hay:
Hôm qua sáu giờ năm mươi phút
Đồng chí Lê nin từ trần
Năm này chứng kiến một lần
Điều bất hạnh trăm năm không thấy nửa
Ngày ngày muôn thuở
Sẽ là truyền thuyết đau thương
Tin kinh hoàng
Sắt thép bất tiếng kêu than
Sóng nức nở trên những người cộng sản
Sức nặng đè ghê gớm
Không lê nổi chân đi
Biết thế nào đây và làm gì nữa!
Nhà hát lớn trôi trên đường phố
Nỗi buồn như một cỗ xe tang
Nỗi vui bò như ốc như sên
Nỗi buồn chạy như điên như dại
Không ánh mặt trời
Không ánh băng sang dọi
Tất cả đã rắc một lớp tuyết đen
Sàng qua báo chí
Tin ập tới
Người công nhân trước máy
Như một chén lệ đổ xuống bàn dụng cụ
Trẻ nhỏ bỗng nghiêm trang như các cụ già
Các cụ già khóc như trẻ nhỏ!...
(Trường ca Vladimia Ilích Lê nin – Maiacop xki – Trần Dần dịch)
Hay:
Sầm phu tử
Đan Khâu sinh
Tương tiến tửu
Bôi mạc đình
Thỉnh quân ca nhất khúc
Vị ngã khuynh nhĩ thinh
Chung cổ soạn ngọc bất túc quý
Đã nguyện trường túy bất nguyện tinh
Cổ lai thánh hiền giai tỉnh mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Tương tiến tửu – Lý Bạch)
Sầm Phu tử
Đan Khâu sinh
Sắp mời rượu
Đừng có sai
Mời anh ca một khúc
Vì tôi nghe mầy bài
Rượu tiệc ngon giữa trống chiêng nào có đáng quý
Không muốn tình cứ say sưa mãi hoài
Xưa nay thánh hiền có ai tên tuổi
Chỉ kẻ uống rượu là lưu danh muôn đời
(Sắp mời rượu – Đỗ Hoàng dịch)
Nói vậy, chứ tiếng Việt lược bỏ hoàn toàn vần điệu rất dễ chuốc lấy thất bại thảm hại. Vì tiếng Việt hoặc tiểng phương Đông là xỉ âm – phát ra từ răng, phần nhiều một âm tiết, không như tiếng các Âu – Mỹ - đa âm tiết, một từ nói đã có tính nhạc trong đó ví dụ như bữa ăn sáng (phiên âm): bờ rét phát, đẹp - bui ti phul (Anh ), đẹp - kờrát xvưi (Nga)…
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và một số nhà thơ, người làm thơ khác cũng có công cố gắng tìm tòi, đấy là điều đáng trân trọng. Nhưng theo quan điểm và cách thưởng thức, thẩm định của tôi thi những gì họ viết ra không phải thi ca, văn chương. Họ hoàn toàn thật bại một trăm phần trăm.
Người viết ra loại Vô lối thật đáng trách, người tung hô, in ấn lăng xê càng đáng trách hơn, tố chức nào đó trao tặng giải thưởng, khuyến khích cổ vũ thì đáng trách vô cùng. Những người này nếu được đề bạt quản lý cầm cương nảy mực nền văn nghệ nước nhà thì văn chương Việt đi đến đâu? Nhãn tiền ấy mọi người đã rõ!
Hà nội ngày 1 – 6 -2012
Đ.H.

Thơ tự do. thơ vô lôi

 14:47 24/06/2025

THƠ TỰ DO - VÔ LÔI THI TẶC (tiêp theo 2)
Đỗ Hoàng
Lằn ranh giữa Thơ Tự Do và Vô lối Thi tặc chỉ một sợi tóc nhỏ. Người ta bảo: “Làm thơ không vần như đi xếc trên giây, rất dễ thất bại!”
Đó là mới không vần, còn đã không vần lại còn viết dung tục, dâm loạn, bẩn thỉu, kiến thức sách vở, kiến thức đời nông cạn, ngu độn nữa thì chỉ có vứt vào hố xí ! Các kiểu viết của đám Vô lối Thi tặc đều vứt vào hố xí!
Thơ Tự Do:
Bạn tôi
trên thép gai ba tầng,
tay chưa rời báng súng
chân lưng chừng nửa bước xung phong!
(Chính Hữu)
Vô Lối Thi tặc:
Tôi anh lính phong tình
nhìn sương núi vờn quang thân súng
lòng côn cào vũ điệu giao long
(Nguyễn Bình Phương)
Như đã so sánh trước, đặt hai bài cạnh nhau, một bên là người tiên ở trên trời, một bên là con quỉ dâm tà hôi hám chui rúc trong hầm tối; một bên là ánh mặt mặt trời chói lòa, một bên hang rắn đen ngòm nhà thổ! So sánh là khập khiểng, nhưng quả vậy.
Chính Hữu viết về đồng đội, sự hy sinh của đồng chí như tạc bức tường kỳ vĩ của những anh hùng vô cùng thánh thượng. Còn Nguyễn Bình Phương viết tự thú quá dung tục, bẩn thỉu. Tự xưng mình là kẻ phong tình, lính phong tình, điều ấy hiếm xảy ra. Lý Hạ, Lý Thân bên Tàu lấy nhà thổ làm nhà, trai Thái Lan ngủ với điếm “cần tăng dân số” bị ăn ruỗng, khi đi tiều đái xòe như cái xoa tưới nước mà chưa dám nói mình là kẻ phong tình!
Rồi lính ngụy, lính Đại Hàn đem lậu giang mai làm cho gái miền Nam một thuở kinh hồn bạt vía chưa nhận phong tình, trăng hoa, lẳng lơ!
“Nếu mai đụng độ ta còn sống
Về ghé sông Mao phá phách chơi
Chia bớt nỗi sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một giờ vui »
(Nguyễn Bắc Sơn)
Kẻ phong tình chí có người đời xác nhận, và hình tượng trong sách vở. Mã Giam Sinh, Đông Joăng …
“Châng ngờ gã Mã Giám Sinh
Vẫn là một đứa phong tình đã quen
Quá chơi lại gặp hồi đen
Quen mùi ăn kiếm ở miền nguyệt hoa »
Đây là lần đầu tiên cõi Việt, một anh bộ đội cụ Hồ tự thú « Tôi là anh lính phong tình » !Tạp chí Nhà văn & Tác phẩm in bài này đã là sai lầm lớn. Không có quân đội nào, nước nào chấp nhận tên lính phong tình ở trong quân ngũ. Nhửng tên lính nhà thổ này phải tước quân tịch đuổi ra khỏi quân đội !
Tham khảo nhân loại làm thơ tự do - nhà Walt Whitman nước Mĩ! – Trường ca Lá cỏ - Bài hát về tôi (trích)
Xứ tự do cho thi nhân bộc bạch hết cái tôi. Cái tôi người ta vẫn trong sáng. Có đâu cai tôi như anh lính Nguyễn Bình Phương. Cái tôi thổ tả !
1 - Song of Myself
I celebrate myself, and sing myself,
And what I assume you shall assume,
For every atom belonging to me as good belongs to you.
I loafe and invite my soul,
I lean and loafe at my ease observing a spear of summer grass.
My tongue, every atom of my blood, form’d from this soil, this air,
Born here of parents born here from parents the same, and their parents the same,
I, now thirty-seven years old in perfect health begin,
Hoping to cease not till death.
Creeds and schools in abeyance,
Retiring back a while sufficed at what they are, but never forgotten,
I harbor for good or bad, I permit to speak at every hazard,
Nature without check with original energy.
Đỗ Hoàng dịch:
1 – Bài hát về tôi
Tôi tôn sùng tôi, ca hát chỉ về tôi.
Và những gì tôi làm, bạn thừa nhận
Vì mọi nguyên tử thuộc về tôi đều thuộc về bạn.
Tôi nhác nhớn, tôi gọi trái tim tôi
Tôi nghiêng người mệt mỏi nhìn ngọn cỏ mùa hè.
Lưỡi của tôi, mỗi nguyên tử trong máu của tôi, hình thành từ đất này, không khí này,
Sinh hạ từ cha mẹ ở đây, cha mẹ cũng sinh hạ ở đây, giống nhau, và cha mẹ họ cũng vậy,
Tôi, bây giờ 37 tuổi, cái tuổi dồi dào sức khỏe.
Hy vọng sẽ không dừng lại cho đến khi chết
Tín ngưỡng và trường học bị hủy bỏ,
Nghỉ hưu một thời gian là đủ, nhưng không bao giờ quên,
Tôi chấp nhận điều tốt, điều xấu, tôi cho phép nói trước mọi nguy hiểm,
Thiên nhiên không kiểm tra năng lượng ban đầu…
*
Từ nghin xưa Lý Bạch viêt tuyệt hay vê tình yêu. Tình yêu của người ta thanh sạch trên chín tầng trời, có đâu tình dục hiếp dâm, dơ nhớp như bọn vô lối thi tăc.
李白
寄遠
寄遠
美人在時花滿堂,
美人去後餘空床。
床中繡被卷不寢,
至今三載聞餘香。
香亦竟不滅,
人亦竟不來。
相思黃葉落,
白露濕青苔。
Ký viễn
Mỹ nhân tại thì hoa mãn đường,
Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng.
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm,
Chí kim tam tải văn dư hương.
Hương diệc cánh bất diệt,
Nhân diệc cánh bất lai.
Tương tư hoàng diệp lạc,
Bạch lộ thấp thanh đài.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:
GỬI NƠI XA
Người đẹp còn đây, hoa đầy nhà
Người đẹp đi rồi, trơ giường không
Trên giường chăn gấm đã cuốn lại không ai nằm
Nay đã ba năm còn nghe mùi hương thơm
Hương không bay đi mất
Người cũng không trở về
Nhớ nhung lá vàng rụng
Sương trắng rơi ướt rêu xanh
Hà Nội 2023 – 2024
Đ - H
(*) Phụ lục : Bọn (詩賊 Thi tặc ) – giặc thơ là bọn lươn lẹo, xỏ xiên, gian xảo, ném lựu đạn, sáo rỗng, tà ngụy, ngụy ngôn, đại ngôn, kém học, bất tài, lưu manh, giả dôi, bản vị, háo danh, vụ lợi, nhỏ nhen, ích kỷ, thù vặt, cướp công, dâm ô, trụy lạc…phá nát thơ Việt, làm băng hoại tâm hồn dân tộc Việt.
Đám 詩賊 -Thi tặc gồm 27 tên trùm sò : 1 -Thanh Tâm Tuyền, 2– Lê Văn Ngăn, 3 – Nguyễn Quang Thiều, 4 – Nguyễn Khoa Điềm, 5 – Nguyễn Bình Phương, 6 –Trúc Thông, 7– Dư Thị Hoàn, 8 – Mai Văn Phấn, 9 – Trần Hùng, 10 – Đinh Thị Như Thúy, 11 – Hoàng Vũ Thuật, 12 – Phạm Đương, 13 – Phan Hoàng, 14 – Phan Huyền Thư, 15 – Phan Thị Vàng Anh, 16 – Văn Cầm Hải, 17 – Vi Thùy Linh, 18 – Thanh Tùng, 19 – Thi Hoàng , 20 - Nguyễn Phan Quế Mai, 21 – Hoàng Hưng, 22 – Tuyết Nga, 23 – Giáng Vân, 24 – Mã Giang Lân, 25 – Mai Quỳnh Nam, 26 – Từ Quốc Hoài, 27 – Đỗ Doãn Phương
Ảnh mạng: Chân dung Vô lối thi tặc!
Không có thông tin chi tiết để hiển thị

Viết buồn nôn!

 22:35 21/06/2025

VIẾT BUỒN NÔN NHƯ GIẪM PHẢI CỨT NGƯỜI!
Vi Thùy linh
Nguyên bản (1)
Mùa thụ mầm
Đêm song song phố ướt – cặp đùi dài
Nàng đếm ngày người yêu về lại
Đếm bằng ngón tay như những phím cầm nâu của anh
Đôi chân chưa nhìn thấy
Chỉ những dấu chân vân nhấn trời mang bầu vĩnh cửu
Từ kiếp trước
Chúng mình đã yêu cẫn mẫn . Và im lặng
Đời người thì ngắn
Giấc mơ lại dài
Anh giấu đôi tay trước sự chờ đợi của em
Ngoài kia
Tất cả thành phố cây xanh bỗng rạc vàng cành khô. Lá vàng ngân nga như những át – cơ hồi hộp
Căn phong say mềm tay
ánh vàng toát từ những lọ gốm như mồ hôi mặt trời chiều
Níu anh, em sóng.
Không thể đu lên giữ chiếc kim giờ hiện thực
Vì khuôn mặt chúng ta là chiếc đồng hồ
Gửi cho anh hai mươi búp ngọc lan ủ bên ngực em từ đêm anh choáng ngợp
Vốc tay đầy hương linh
Mạch mạch nước nấc lên vì nhớ
Bừng từng đêm lưỡi như ngọn lửa
Liếm vào thân sóng nóng
Nguyên một mùa đắm đuối
Tình yêu sinh ra Con người
Khi em lúng túng không cất tiếng, là lúc nỗi sợ hãi xa cách quất lên
Ngôn ngữ không quyền uy cho diễn đạt yếu đuối
Đôi mắt ôi mùi nồng nàn ơi
Tạo hóa cho chúng ta ánh sáng mới tinh sau một đêm mê man còn váng sữa
Mảnh trăng như miếng dưa hấu đỏ
Bỏ lạc giữa trời
Váng vất cơn cơn mưa mê sảng
Những giọt mưa tuột ra từ những đám mây bụng mang dạ chửa
Khiến cái túi ni - lon tứ tung bỗng vỡ nước ối từ một số mái nhà
Vỡ không gian rối tung bê tông cọc sắt
Mưa tới tấp vừa rơi, vừa yêu
Không phải Phật nghìn mắt, nghìn tay
Anh ủ em trong im lặng đầy hơi ấm bằng đôi tay xuất thần
Con đường khểnh theo chiếc răng bên trái
Cầu vồng mọc từ hai ngón tay cái
Em ngập vào ngân gió
Ngân anh
Giữa nỗi lạc lõng
Trong ánh sáng đỏ của mặt trăng dưa hấu đang hồi lại màu thu non vì được bú dịu dàng
Những chiếc máy bay như bầy chuồn chuồn ớt
Cắn rồn Ngày và Đêm
Thế mà Đêm chẳng biết bơi băng qua những ngăn cách, khủng hoảng của loài người
Đêm một mình và đêm yêu nhau. Lúc nào cũng tóc
Tóc ướt trong phòng tắm tóc khô héo gối
Dòng sông đầy tóc rụng đang ngân gió
Gọi xanh
Kìa búp sen xanh mắt quyền uy khép đêm giao linh
Ôm cơn khát để anh tung vó
Chỉ hơi thở và tiếng hân hoan tưới đầy mặt đất
Hằng hà mầm cây như những núm vú bật lên từ hoang hóa đất đai
Tiếng lục lạc tràn hoang mạc
Ngày sinh của chúng : sự nhân – chia đôi tiền định hai người tháng Tư
Em nấp vào vết tay anh để lại trên bàn vàng căn phòng quen lạ ấy
Nơi lỡi nến phập phồng vươn cả khi sắp tắt trong cái nhìn hình phễu của chiếc lới chụp bên nụ hồng vàng khô nép cánh giống đôi môi em
Ngày anh về, chưa biết rõ
Phố đầy cây phượng gọi anh từ mùa hoa này
Nơi bay lên bầy vú thiếu nữ
Con đường đêm héo như quả phượng già
Tháng 9 nhớ về chín nhịp phồn sinh trong tiếng gọi đóa hoa kèn tháng Tư nở vào mùa thu tinh khiết.
Con đường trổi cặp chân dài
(1) Theo Đặc Trưng – Thơ
Đỗ Hoàng Dịch ra thơ Việt:
Mùa sinh sôi
Đêm đôi ngã trải dài phố ướt
Nàng tính ngày người yêu trở về.
Bấm đốt tay như bấm phím cầm mơ ước,
Chưa thấy người trong khoảng trời quê!
Từ kiếp trước tình đôi ta im lặng
Với lời yêu gửi chốn địa đàng.
Đời thì ngắn, ước mơ thì dài rộng,
Anh có bồi hồi trước nỗi em mong?
Ngoài kia là nhiệt nồng phố xá,
Hàng cây xanh bỗng rực rỡ thắm vàng
Những chiếc là hoe ngân nga trong gió
Như lá bài hồi hộp âm vang!
Nhớ căn phòng mềm say tay ấm,
ánh vàng như nước giọt trời chiều
Dập dìu níu anh em như sóng
Giữa thì giờ hiện thực phiêu diêu.
Gương mặt ta, chiếc đồng hồ báo thức
Giữ cho anh những búp ngọc lan
ủ ngực em làm anh choáng ngợp
Vốc tay đầy lan hương linh thơm!
Ngầm mạch đời cuộn sôi nỗi nhớ
Lưỡi mềm như ngọn lửa rực hồng
Đi đến tận ngọn nguồn sóng vỗ
Tình yêu sinh nhân loại kiêu hùng!
Lúc bối rối, em làm sao nói hết.
Em sợ nhiều hoang vắng cách xa.
Chút yếu mềm làm em mỏi mệt
Đôi mắt đầy nồng thắm thiết tha.
Đêm thăm thẳm giữ giùm ta ánh sáng
Mảnh trăng thanh tựa mảnh dưa hồng,
Ai bỏ lạc giữa trời cao rộng
Từng cơn mưa váng vất rót thinh không.
Mưa rơi xuống trên mây mờ sủng nước,
Nước tứ tung gõ những mái nhà,
Làm vỡ cả bê tông, cốt thép.
Mưa nồng nàn tình cảm đôi ta!
Không phải Phật nghìn tay, nghìn mắt.
Anh ủ em bằng cả tâm hồn
Đường đời ấy còn biết bao trở trắc
Ngón tay anh như ánh cầu vồng!
Em ngụp lặn trong anh ngàn gió,
Giữa cô đơn lạc lõng lứa đôi.
Trong ánh sáng mặt trời dưa đỏ
Dòng sữa thơm bú mớm tuyệt vời.
Đêm ồn tiếng máy bay chuồn ớt,
Cố băng qua khoảng cách loài người
Đêm nồng nàn yêu mùi hương tóc,
Ngân gió ngàn, xanh gọi sông trôi.
Đêm giao linh, mắt quyền uy khép mở
Em phi thân trên cơn khát đời anh,
Tươi mặt đất phút hân hoan ngẹt thở
Mầm cây lên cho bằng địa êm lành!
Trên hoang mạc rung vang lục lạc,
Ngày tháng Tư của ta sinh sôi.
Em ngập vào tay anh thân thuộc
Ngọn nến mềm dịu ấm làn môi.
Ngày trở về, em chưa tường tỏ
Phượng hồng ơi! Anh của mùa này
Sẽ bay lên như bầy thiếu nữ
Nở mùa thu tinh khiết đắm say!
Hà Nội ngày 10 – 9 - 2007
Đ - H

Nhắn ông nhà báo

 22:31 21/06/2025

Đỗ Hoàng
NHĂN ÔNG NHÀ BÁO (1)
Có thiếu gì đâu những tứ thơ.
Báo Dân (2) mình đó vẫn làm ngơ.
Vội vàng nhét gấp dòng Lâm ngẩn (3),’
Hấp tấp tung mau chữ Nguyễn khờ (4)!
Bạn đọc mấy phen bưng mũi khịt,
Người xem trăm lượt bịt tai ngơ!
Mong ông nhà báo yêu thi thủm
Nên đoái đến người mãi đói thơ!
Lệ Thủy, Quảng Bình hậu chiến 1975
Đ - H
(1) Trước chưa làm báo, đang đi dạy học, tưởng trách nhiệm gì đều là của nhà báo
(2) Báo của Đảng bộ Bình Trị Thiên
(3),(4) Thơ mấy ông lông gà, lông vịt

Tam kiệt Văn chương Viêt

 17:00 20/06/2025

Tam kiệt Văn chương Xứ Việt
Nhà văn, nhà triết học - Paul Nguyễn Hoàng Đức
Người Việt có câu: có cứng mới đứng đầu gió, với vốn liếng văn hóa dạn dầy, dài rộng, sâu lắng, và thi ca kim cổ đông tây đồ sộ, lại mang một tầm nhìn lớn cho thơ, một tầm vóc hoành tráng cho chữ nghĩa, làm gì Đỗ Hoàng chẳng tự tin và dám tả xung hữu đột đối mặt với lực lượng làm thơ mậu dịch đông rinh ríc. Có một phát hiện mới của loài người rằng: sáng tạo là việc của cá nhân chứ không phải làm việc là sản phẩm của đám đông. Hàng nghìn, hàng vạn người làm việc cũng không thể được gọi là sáng tác mà đó chỉ là sản xuất. Chính thế văn thơ bao cấp nhiều khi chỉ là chỗ không người. tôi vừa chia sẻ sự cô lập của Đỗ Hoàng vừa buộc phải thán phục anh. Nếu không có tâm hồn chịu sóng gió cô lập trước đám đông vần vèo nhũn nhẽo thì làm sao có được một Đỗ Hoàng thơ ca hoành tráng như vậy, dám làm một cây bút hàng đầu phản tỉnh lại cuộc chiến “nồi da sáo thịt”?! Bái phục! Bái phục!
Về thơ, đặc biệt thơ phản chiến, trình độ thơ, tình yêu thơ, tài năng thơ, Đỗ Hoàng chắc chắn luôn ngồi chiếu một. Việc đó giờ đây là bất khả bác bỏ. Tôi đã bình bầu 3 người giỏi kiến thức thơ ở Việt Nam là Trần Mạnh Hảo, Đỗ Hoàng, Nguyễn Hưng Quốc từ lâu, nhưng cho đến nay chưa ai bác được! Theo truyền thống tư duy của Tây, anh không bác được, anh không đề cử ai hơn, nghĩa là anh buộc phải chấp nhận! Tuy 3 người đó, nhưng về sáng tác thơ thì Nguyễn Hưng Quốc lại không bằng 2 vị kia.

Tinh thàn hòa hợp dân tôc

 16:57 20/06/2025

TẦM VÓC HÒA HỢP DÂN TỘC TRONG CHÂN DUNG 810 VỊ VĂN SĨ VIỆT của Đỗ Hoàng - NXB Hội Nhà văn năm 2018
Nếu hai miền nam bắc Việt Nam hòa hợp được như nước Mỹ thì " Chân dung 810 vị Văn sĩ Việt đương đại của Đỗ Hoàng xứng giải Nobel Hòa bình!
Gần 400 văn sĩ thuộc nước Việt Nam Cộng Hòa 1954 - 1975 có.mặt.
(tiếp theo)
Phần Văn:
1- Doãn Quốc Sĩ nổi địa cầu
Ba sinh hương lửa thần sầu An nam.
2 - Văn phong Võ Phiến nhẹ nhàng
Nỗi đau nhân thế , danh càng thơm hơn!
3 - Xuân Vũ xương trắng Trường Sơn
Đường đi không đến, nỗi hờn máu tuôn!
4 -Vũ Bằng tình báo văn chương
Miếng ngon Hà Nội khó lường hiểm nguy!
5 - Đêm xa Hà Nội một thời
Mai Thảo văn bút rụng rời đến nay!
(còn nữa)

Luận văn Đôt...

 08:35 19/06/2025

Luận văn Doxtoiepxki - Đỗ Hoàng
PHÊĐÔR MIKHAILÔVÍCH ĐÔXTÔIEPXKI - (Fyodor Mikhaylovich Dostoyevsky - Федор Михайлович Достоевский ) VỚI TÁC PHẨM: "ANH EM NHÀ KARAMMAZỐP" (Братья Карамазовы)
Đỗ Hoàng
Đôxtôiepxki - Достоевский , chiếm một vị trí lỗi lạc trong văn học Nga, như một người kế tục truyền thống nhân đạo và hiện thực, như một nhà văn phê phán quyết liệt xã hội tư sản - địa chủ, cất cao tiếng nói mạnh mẽ chở che con người bình dị thường bị cuộc đời ô trọc làm nhục, giày xéo và đày đọa, luôn luôn bị coi khinh, bị xúc phạm.
Đôxtôiepxki đã tạo nên một loại tiểu thuyết mới và đã nêu lên một cách hết sức đầy đủ và sâu sắc những mâu thuẫn của đời sống hiện đại và những rung động sâu kín của tâm hồn. Đó là tiểu thuyết bi kịch, tiểu thuyết của những xung đột dữ dội, gay cấn, sâu sắc, căng thẳng... Với sự chính xác như nhà phẫu thuật, Đôxtôiepxki đã khám phá ra đời sống nội tâm sau kín của con người, chỉ ra những điều kiện xã hội hình thành nên tính cách của con người.
Sáng tác của Đôxtôiepxki có ý nghĩa quốc tế lớn lao. Cho đến ngày nay người ta mới thấy hết tầm vóc vĩ đại của nhà văn Nga này. Họ mới đánh giá được phần nào quy mô triết lý, cái nhìn sâu sắc soi thấu những miền bí ẩn trong tâm tư tình cảm vốn sống động và thật là đa dạng của con người. Các nhà văn trên thế gới thuộc tất cả các trường phái: lãng mạn, hiện thực, hiện sinh chủ nghía đều khai thác mặt này, hay mặt khác ở trong tác phẩm bất hủ của Đôxtôiepxki là để tự suy tôn mình lên. Bởi vì ở Đôxtôiepxki không một vấn đề nào, không một ý tưởng nào mà không được soi rọi, chiếu sáng, phân tích đầy đủ của các nhân vật của Đôxtôiepxki và được đẩy lên ở mức độ căng thẳng.
Thế nhưng, ngay ở quê hương, tổ quốc của Đôxtôiepxki, người ta vẫn chưa đánh giá hết tầm vóc của Đôxtôiepxki. Sách của ông in ra ít. Những người nghiên cứu về ông không nhiều.Ở nước ta (Việt Nam), nhất là miền Bắc trước đây khó có thể tìm ra thấy sách của Đôxtôiepxki. Tình hình cởi mở vài năm lại đây cho ta được đọc một vài tác phẩm của ông được chuyển qua Việt ngữ. Nhưng Đôxtôi epxki rất phức tạp. Tác phẩm của ông đọc rất hấp dẫn nhưng thật khó hiểu. Đọc vài ba lần cũng chưa có thể nói là đã hiểu hết ý tình của Đôxtôiepxki gửi gắm, kiến giải. Việc khó này không chỉ khó đối với người Việt Nam đọc, nghiên cứu về Đôxtôiepxki mà ngay tại nước Nga và phương Tây - những học giả lớn cũng có những ý kiến đánh giá khác nhau.
Bản thân tôi được đọc Đôxtôiepxki, làm luận văn về Đôxtôiep xki là một niềm vinh hạnh nhưng cũng một việc làm quá sức và trình độ của mình. Nhưng là người yêu mến Đôxtôiepxki, người sùng bái ông, tôi vẫn mạnh dạn nêu lên những suy nghĩ, kiến giải của mình khi làm luận văn về Đôxtôiepxki.
Đôxtôiepxki để lại cho đời ssau hàng chục kiệt tác, hàng chục nhân vật mang tầm vóc thế kỷ. Nhân vật của ông sáng tạo ra khổng lồ về mọi mặt...Những nhân vật vị tha, trong sạch, cao ngạo, điển hình cho tính cách người Nga và của nhân loại. Với những nhân vật phản diện thì ích kỷ, hẹp hòi, tàn nhẫn thực thi cái ác đến cùng. Với tài năng vĩ đại, với những vốn sống trải nghiệm phong phú, với trái tim giàu nhân hậu, Đôx tôiepxki đã ạo ra những nhân vật điển hình biệt lập, không ai giống ai. Một Raxkôlminôv tham quyền lực, thích làm cái ác, một Hoàng thân Mưskhin luôn luôn day dứt, xót thương trước cái cảnh đời, cảnh người đau khổ quằn quại, một Xmerđiakôp căm thù con người, một I van Fiôđôvits báng bổ đòi bỏ Chúa, một Đimitri Fiôđô vits cuồng loạn ;một Fiôđor Pavlôvits ham nhục dục. Và một Zôxima kính Chúa sáng danh với tấm lòng quảng đại, vị tha, trong sạch...
Tôi không thể phân tích hết các nhân vật nổi tiếng của Đôxtôiepxki mà chỉ đi sau phân tích đánh giá thấu hiểu nhân vật Zôxima - Nhân vật mà Đôxtôiepxki gửi gắm nhiều nỗi ước mong, lòng từ thiện của mình cho hậu thế. Zôxima là nhân vật trung tâm chiếm một phần quan trọng trong kiệt tác " Anh em nhà Karamazôp" của nhà văn. Để hiểu thấu nhân vật Zôxima, chúng ta không thể không tìm hiểu thêm cuộc đời riêng của Đô xtôiepxki. Bởi vì khi xây dựng nhân vật cha Zôxima, Đôxtôiepxki đã lấy một phần cuộc đời của mình lăn lộn trong bão táp đời thật, lấy khát vọng lý tưởng của mình làm nguyên mẫu cho nhân vật điển hình này. Có thể nói cha Zôxima là hiện thân cả Đôxtôiepxki cả thời trẻ trai cho đến thời cuối đời. Cha Zôxima hiện thân Đôxtôiepxki cả về hình mạo, cả về tâm tính, ước vọng sống, cả về nỗi khổ, niềm đau trong cuộc đời.
Đôxtôiepxki sinh ngày 30 - 10 - 1821 (có sách ghi là 11 -11 - 1821) tại Matscơva. Năm 17 tuổi, ông vào trường công binh tại Petecbourg. Năm 1844 giải ngũ theo nghiệp văn. Ông thành công ngay tác phẩm đầu tay: Dân nghèo năm 1846 . Năm Đôxtôiepxki 27 tuổii bị bắt giữ vì ông tham gia vào một nhóm chống lại chính quyền Sa hoàng và bị đày đi Xibiri . Sau bốn năm khổ sai, ông phục vụ với tư cách là người lính binh nhì tại Omask. Năm 1857, kết duyên với một góa phụ mắc bệnh lao Marie Isaeva. Năm 1860 trở lại Petecbourg. Năm 1862 thăm Tây Âu. Ngoài 40 tuổi kết duyên với Anna Grigorievna. Anna Grigorievna là người vợ hoàn hảo, người thơ ký tận tụy của Đôxtôiepxki. Ông mất tại Petecbourg ngày 28 - 1 - 1881.
Từ khi sinh thành cho đến khi mất, Đôxtôiepxki sống trong một thế kỷ nước Nga sôi sục với những cuộc khởi nghĩa, cuộc biểu tình. Dư âm của những cuộc đấu tranh thế kỷ trước như vẫn còn vang vọng. Chế độ Sa hoàng ngày càng tỏ rõ sức mạnh chuyên chế của mình. Ngục thất của chính quyền phong kiến, tư bản đang mở rộng để tống giam những người chống lại chế độ đương thời. Đôxtôiepxki đã tham gia vào phong trào khởi nghĩa, hoạt động trong những hội kín chống lại chính quyền đương thời. Mục kích được những cảnh sống của những kẻ bạo loạn, chính mình ông chứng kiến và sống trong môi trường của một người tử tù giảm án. Đôxtôiepxki thất vọng trước cái ác và có phần bất lực khi thấy cái ác hoành hành thế gian. Câu hỏi suốt đời trăn trở trong cõi lòng, cõi tâm linh sâu xa của Đôxtôiepxki là nỗi thống khổ của con người. Làm thế nào để cứu vớt con người? Cái thiện cứu vớt con người hay cái ác? Có Chúa không? Những kẻ tự xưng là ân nhân của nhân loại, kẻ ấy là ai? Những kẻ đao phủ, những kẻ khoác áo đấu tranh cho tự do, những kẻ ấy có phải là ân nhân của nhân loại không? Con đường đến vương quốc cái thiện là con đường như thế nào? Đó là câu hỏi vĩnh cửu suốt đời Đôxtôiepxki nung nấu, trăn trở, mong muốn bày giải. Và chính kiệt tác "Anh em nhà Karammarốp", tác phẩm vĩ đại nhất của Đôxtôiepxki tổng kết cả cuộc đời viết văn của ông. Nó tụ hội tất cả những ý tưởng mà Đôxtôiepxki ấp ủ, gửi gắm và bày giải. Nhân vật cha Zôxima chính là câu trả lời co bao nhiêu năm Đôxtôiepxki gửi gắm. Chính cái thiện hiện thực và cái thiện lý tưởng, và một đấng Chúa cứu thế sẽ là ân nhân cứu rỗi con người ra khỏi u mê, lầm lạc, ra khỏi cái ác…
(còn nữa)

Ngục trung nhật ký (tiếp)

Chân cẳng treo lên tự tội hinh/Làng xom hai bờ sông đông đúc/giữa dòng ông chài lươt nhẹ tênh!

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập6
  • Hôm nay238
  • Tháng hiện tại4,770
  • Tổng lượt truy cập166,492
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi