Đạo đức kinh - Lão Tử -(tiêp 2)

  •   17/05/2025 19:17:00
  •   Đã xem: 23
  •   Phản hồi: 0
LÃO TỬ - ĐẠO ĐỨC KINH
CHƯƠNG 68
PHỐI THIÊN
配 天
Hán văn:
善 為 士 者 不 武. 善 戰 者 不 怒. 善 勝 敵 者 不 與. 善 用 人 者 為 之 下. 是 謂 不 爭 之 德. 是 謂 用 人 之 力. 是 謂 配 天, 古 之 極.
Phiên âm:
1. Thiện vi sĩ giả bất vũ. Thiện chiến giả bất nộ. Thiện thắng địch giả bất dữ.
2. Thiện dụng nhân giả vi chi hạ. Thị vị bất tranh chi đức. Thị vị dụng nhân chi lực. Thị vị phối Thiên, cổ chi cực.
Dịch nghĩa:
1. Tướng giỏi không dùng vũ lực. Người chiến đấu giỏi không giận dữ. Người khéo thắng không giao tranh với địch.
2. Khéo dùng người là hạ mình ở dưới người. Thế gọi là cái đức của không tranh. Thế là dùng sức người. Thế là kết hợp với Trời, cực điểm của người xưa.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Tướng giỏi, vũ lực không dùng.
Tướng chiến giỏi không khùng giận dữ
Người thắng không tranh cứ quân thù
Khéo dùng người mới mẹo quân cơ
Không tranh cái đức muôn thời hanh thông.
Dùng sức người được đồng lòng
Kêt cùng trời đất tam công xưa bày!
CHƯƠNG 69
HUYỀN DỤNG
玄 用
Hán văn:
用 兵 有 言, 吾 不 敢 為 主, 而 為 客. 不 敢 進 寸 而 退 尺. 是 謂 行 無 行, 攘 無 臂, 扔 無敵, 執 無 兵. 禍 莫 大 於 輕 敵, 輕 敵 幾 喪 吾 寶. 故 抗 兵 相 加. 哀 者 勝 矣.
Phiên âm:
1. Dụng binh hữu ngôn, ngô bất cảm vi chủ, nhi vi khách. Bất cảm tiến thốn nhi thoái xích.
2. Thị vị hành vô hành, nhương vô tí, nhưng vô địch, chấp vô binh.
3. Họa mạc đại ư khinh địch, khinh địch cơ táng ngô bảo. Cố kháng binh tương gia. Ai giả thắng hĩ.
Dịch nghĩa:
1. Dụng binh có câu: Thà làm khách hơn làm chủ. Chẳng dám tiến một tấc, mà lui một thước.
2. Cho nên thánh nhân chẳng đi mà vẫn đi, đuổi mà không dùng tay, bắt mà không đối địch, cầm giữ mà không binh khí.
3. Không họa nào lớn bằng khinh địch, khinh địch là mất của báu, cho nên khi giao binh, người nào thận trọng từ nhân sẽ thắng.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Dụng binh có câu này nên nhớ
Thà làm khách nên chớ làm vương
Đừng tiến một tấc lui dặm dài
Chẳng có đi mà ai thấy bước
Chẳng đuổi mà băt được địch gian
Khinh địch họa lớn nên bàn
Giao binh thận trọng từ nhân thắng người.
CHƯƠNG 70
TRI NAN
知 難
Hán văn:
吾 言 甚 易 知, 甚 易 行. 天 下 莫inh có câu nay nên biêt 能 知, 莫 能 行. 言 有 宗, 事 有 君. 夫 唯 無 知, 是 以 我不 知. 知 我 者 希, 則 我 者 貴. 是 以 聖 人 被 褐 而 懷 玉.
Phiên âm:
1. Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành.
2. Ngôn hữu tông, sự hữu quân.
3. Phù duy vô tri, thị dĩ ngã bất tri. Tri ngã giả Hi, tắc ngã giả quý. Thị dĩ thánh nhân, bị hạt hoài ngọc.
Dịch nghĩa:
1. Lời ta rất dễ biết, rất dễ làm. Thiên hạ chẳng biết chẳng làm.
2. Lời ta có duyên do, việc ta có mấu chốt.
3. Thiên hạ không biết thế, nên không hiểu ta. Ít người hiểu ta, nên ta mới quý. [2] Cho nên thánh nhân mặc áo vải mà chứa ngọc
Đỗ Hoàng dịch thơ :
Ta nói lời, dễ làm dễ biết
Thiên hạ sao, chẳng thiết, chẳng ham
Lời ta mấu chốt duyên ban
Thiên hạ không hiểu tâm can duyên này
Vì không hiểu, ta nay mới quý
Thánh nhân mang ngọc tỷ áo thô.
Nhưng mà thóc lúa đầy bồ.
CHƯƠNG 71
TRI BỆNH
知 病
Hán văn:
知 不 知 上, 不 知 知 病. 夫 唯 病 病, 是 以 不 病. 聖 人不 病, 以 其 病 病, 是 以 不 病.
Phiên âm:
1. Tri bất tri thượng, bất tri tri bệnh.
2. Phù duy bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh.
3. Thánh nhân bất bệnh, dĩ kỳ bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh.
Dịch nghĩa:
1. Biết điều không biết là cao. Không biết điều đáng biết là bệnh.
2. Biết sợ bệnh, thì không bệnh.
3. Thánh nhân không bệnh, vì biết sợ bệnh, thế nên không bệnh
Đỗ Hoàng dịch thơ :
Biết điều không biết cho to lớn
Biết điều không biết bệnh rợn cả người
Bệnh sợ bệnh là bệnh thôi.
Thánh nhân không bệnh là người phòng thân.
CHƯƠNG 72
ÁI KỶ
愛 己
Hán văn:
民 不 畏 威, 則 大 威 至. 無 狎 其 所 居, 無 厭 其 所 生. 夫 唯 不 厭, 是 以 不 厭. 是 以聖 人 自 知 不 自 見, 自 愛 不 自 貴. 故 去 彼 取 此.
Phiên âm:
1. Dân bất úy uy, tắc đại uy chí.
2. Vô hiệp kỳ sở cư, vô yếm kỳ sở sinh. Phù duy bất yếm, thị dĩ bất yếm.
3. Thị dĩ thánh nhân, tự tri bất tự kiến, tự ái bất tự quý. Cố khứ bỉ, thủ thử.
Dịch nghĩa:
1. Dân mà không sợ cái đáng sợ, tất cái sợ lớn sẽ đến.
2. Đừng khinh chỗ mình ở, đừng chán đời sống mình. Vì không chê nên không chán.
3. Cho nên thánh nhân biết mình, và không cầu người biết, yêu mình mà không cần người trọng. Cho nên bỏ cái kia giữ cái này.
Đõ Hoàng dịch thơ :
Cái đáng sợ không sợ là dân
Thì cái đáng sợ lớn dần đến ngay
Đừng khinh mình chỗ ở này
Đừng chán nơi sống xưa nay của mình.
Vì không chê, lặng thinh không chán
Nên thánh nhân không nẩn cầu người
Yêu, quí trọng chỉ mình thôi
Vì bỏ cái này thời giữ cái kia!
:
CHƯƠNG 73
NHIỆM VI
任 為
Hán văn:
勇 於 敢 則 殺. 勇 於 不 敢 則 活. 此 兩 者 或 利 或 害. 天 之 所 惡, 孰 知 其 故. 是 以 聖 人 猶 難 之. 天 之 道 不 爭 而 善 勝, 不 言 而 善 應, 不 召 而 自 來, 坦 然 而 善 謀. 天 網 恢 恢, 疏 而 不 失.
Phiên âm:
1. Dũng ư cảm tắc sát. Dũng ư bất cảm tắc hoạt. Thử lưỡng giả hoặc lợi hoặc hại.
2. Thiên chi sở ố, thục tri kỳ cố. Thị dĩ thánh nhân do nan chi.
3. Thiên chi đạo bất tranh nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện ứng, bất triệu nhi tự lai, thản nhiên nhi thiện mưu.
4. Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất.
Dịch nghĩa:
1. Mạnh bạo dám làm là chết, mạnh bạo chẳng dám làm là sống. Hai cái đó, hoặc lợi hoặc hại.
2. Cái mà Trời ghét, ai mà biết được căn do, thánh nhân còn lấy làm khó nữa là.
3. Đạo Trời không tranh mà thành, không nói, mà người hưởng ứng, không mời mà người tự tới, nhẹ nhàng mà công việc vẫn xong xuôi.
4. Lưới Trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Mạnh dám làm, là chia là chết
Mạnh không làm là biêt sống thôi.
Trời ghét ai đoán được thời
Thánh nhân không biêt hỏi người biết sao.
Đạo Trời không tranh, thanh cao thành đạt
Không mời, không noi người dạt tơi nhiều.
Xong xuôi công việc bao điều ước mong
Lưới trời lồng lộng mênh mông
Thưa mà chẳng lọt cầu vồng thanh thiên.
CHƯƠNG 74
CHẾ HOẶC
制 惑
Hán văn:
民 不 畏 死, 奈 何 以 死 懼 之? 若 使 民 常 畏 死, 而 為 奇 者, 吾 得 執 而 殺 之, 孰 敢. 常 有司 殺 者 殺. 夫 代 司 殺 者 殺. 是 謂 代 大 匠斲. 夫 代 大 匠 斲 者, 希 有 不 傷 其 手 矣.
Phiên âm:
1. Dân bất úy tử, nại hà dĩ tử cụ chi? Nhược sử dân thường úy tử, nhi vi kỳ giả, ngô đắc chấp nhi sát chi, thục cảm.
2. Thường hữu tư sát giả sát.
3. Phù đại tư sát giả sát. Thị vị đại đại tượng trác. Phù đại đại tượng trác giả, hi hữu bất thương kỳ thủ hĩ.
Dịch nghĩa:
1. Khi dân không sợ chết, làm sao lấy cái chết làm cho họ sợ được.
2. Nếu khiến được dân sợ chết, mà bắt kẻ phạm pháp giết đi, thì còn ai dám phạm pháp nữa.
3. Thường có đấng Tư sát, có quyền giết người.
4. Nay ta lại thay Ngài mà giết, thì có khác nào muốn đẽo gỗ thay thợ mộc đâu? Muốn thay thợ mà đẽo gỗ, khó mà thoát bị thương tật.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Dân không sợ chết, đừng hòng mà dọa
Lấy sự chết để họ nổi đóa lên
Khiến dân sợ chết yếu hèn
Tị tội kẻ phạm tội dân bèn rút lui.
Đấng Tư sát quyền giêt người
Ta làm há chẳng thay trời đẽo săng.
Thay thợ đẽo hóa thằng thương tật
CHƯƠNG 75
THAM TỔN
貪 損
Hán văn:
民 之 飢, 以 其 上 食 稅 之 多, 是 以 飢. 民 之 難 治, 以 其 上之 有 為, 是 以 難 治. 民 之 輕 死, 以 其 求 生 之 厚, 是 以 輕 死. 夫 唯 無 以 生 為 者 是 賢 於 貴 生.
Phiên âm:
1. Dân chi cơ, dĩ kỳ thượng thực thuế chi đa, thị dĩ cơ.
2. Dân chi nan trị, dĩ kỳ thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị.
3. Dân chi khinh tử, dĩ kỳ cầu sinh chi hậu, thị dĩ khinh tử.
4. Phù duy vô dĩ sinh vi giả thị hiền ư quí sinh.
Dịch nghĩa:
1. Dân đói, là vì người trên thu thuế nhiều, nên dân mới đói.
2. Dân khó trị, là vì người trên dở dói lôi thôi, vì thế nên khó trị.
3. Dân coi thường cái chết, chính là vì muốn sống cho rồi rào hậu hĩ, nên mới khinh chết.
4. Người sống đơn sơ hay hơn người sống cầu kỳ.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Dân đói to, thuê đặt quá nhiều
Dân khó trị bỡi quan quan liêu
Dân coi cái chêt như liều đời dân
Nên sống đơn sơ hơn cần cầu vọng !
CHƯƠNG 76
GIỚI CƯỜNG
戒 強
Hán văn:
人 之 生 也 柔 弱, 其 死 也 堅 強. 萬 物 草 木 之 生 也 柔 脆, 其 死 也 枯 槁. 故 堅 強 者 死 之 徒, 柔 弱 者 生 之 徒. 是 以 兵 強 則 不 勝, 木 強 則 折. 故 堅 強 處 下, 柔 弱 處 上.
Phiên âm:
1. Nhân chi sinh dã nhu nhược, kỳ tử dã kiên cường.
2. Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thúy kỳ tử dã khô cảo.
3. Cố kiên cường giả tử chi đồ, nhu nhược giả sinh chi đồ.
4. Thị dĩ binh cường tắc bất thắng, mộc cường tắc chiết.
5. Cố kiên cường xử hạ, nhu nhược xử thượng.
Dịch nghĩa:
1. Con người khi mới sinh thì mềm mại, mà khi chết thời cứng cỏi.
2. Vạn vật cỏ cây, khi mới sinh thì mềm mại, đến khi chết thì khô héo.
3. Cho nên cứng cỏi thời chết, mềm mại thời sống.
4. Cho nên binh mạnh sẽ không thắng, cây mạnh sẽ bị chặt.
5. Cho nên cứng cỏi thời kém, mềm mại thời hơn
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Con người sinh thì thường mềm mại
Mà khi chết cứng cỏi không cùng.
Cây sông mềm mại bao dung
Đên khi chêt mơi tận cùng khô héo.
Cho nên cứng khi chêt mềm khéo khi sinh
Binh mạnh không thắng cây mạnh hình bị phơi
Cứng cỏi cũng chỉ nhất thời
Mềm mại mới muôn thời là hơn!
CHƯƠNG 77
THIÊN ĐẠO
天 道
Hán văn:
天 之 道, 其 猶 張 弓 與? 高 者 抑 之, 下 者 舉 之, 有 餘 者 損 之, 不 足 者 補 之. 天 之 道, 損 有 餘 而 補 不 足. 人 之 道 則 不 然, 損 不 足 以 奉 有 餘. 孰 能 有 餘 以 奉 天 下? 唯 有 道 者. 是 以 聖 人 為 而 不 恃. 功 成 而 不 處, 其 不 欲 見 賢.
Phiên âm:
1. Thiên chi Đạo, kỳ do trương cung dư? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi, hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi Đạo, tổn hữu dư nhi bổ bất túc.
2. Nhân chi đạo tắc bất nhiên, tổn bất túc nhi phụng hữu dư. Thục năng hữu dư dĩ phụng thiên hạ? Duy hữu đạo giả.
3. Thị dĩ thánh nhân, vi nhi bất thị. Công thành nhi bất xử, kỳ bất dục kiến hiền.
Dịch nghĩa:
1. Đạo Trời như dương cung. Cao thì ép xuống, thấp thì nâng lên. Thừa thì bớt đi, không đủ thì bù vào. Đạo Trời bớt dư bù thiếu.
2. Đạo người chẳng vậy, bớt thiếu bù dư. Ai đem chỗ dư bù đắp cho thiên hạ? Phải chăng chỉ có người có Đạo?
3. Cho nên thánh nhân làm mà không cậy công. Công thành không ở lại; không muốn ai thấy tài mình.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo Trời như thể giương cung
Cao thì hạ xuống, thấp cùng dương lên.
Thừa thì phải bớt đi liền
Không đủ thì biết rút thêm bù vào.
Đạo Trời biết chõ hao thêm thiếu
Dư thừa ai nhũng nhiễu thiên bàn
Phải chăng có đạo Trời ban?
Thánh nhân việc ây mông.mới làm không công.
Làm không công mà không ai biết.
Sức tài thứ thiệt của mình!
CHƯƠNG 78
NHIỆM TÍN
任 信
Hán văn:
天 下 莫 柔 弱 於 水, 而 功 堅 強 者 莫 之 能 勝, 以 其 無 以 易 之. 柔 勝 剛, 弱 勝 強. 天 下 莫 不 知, 莫 能 行. 是 以 聖 人 云: 受 國 之 垢, 能 為 社 稷 主. 受 國 不 祥, 能 為 天 下 王. 正 言 若 反.
Phiên âm:
1. Thiên hạ nhu nhược mạc quá ư thủy, nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắng, kỳ vô dĩ dịch chi.
2. Nhu thắng cương, nhược thắng cường. Thiên hạ mạc bất tri, mạc năng hành.’
3. Thị dĩ thánh nhân vân: Thụ quốc chi cấu, năng vi xã tắc chủ. Thụ quốc bất tường, năng vi thiên hạ vương. Chính ngôn nhược phản.
Dịch nghĩa:
1. Trong thiên hạ không gì mềm yếu hơn nước; thế mà nó lại công phá được tất cả những gì cứng rắn. Chẳng chi hơn nó, chẳng chi thay thế được nó.
2. Mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh, thiên hạ ai cũng biết thế, mà chẳng ai làm được.
3. Cho nên thánh nhân nói: «Dám nhận lấy nhơ nhuốc của quốc gia, mới có thể làm chủ xã tắc, ai dám gánh chịu tai họa của quốc gia, mới có thể làm vua thiên hạ.» Lời ngay nghe trái tai.
Đõ Hoàng dịch thơ:
Trong thiên hạ mềm hình của nươc .
Thế mà công phá được muôn loài
Chẳng vạt nào dám đơn sai
Thiên bàn không có một ai sánh bằng.
Mềm thắng cứng, yêu thăng mạnh thẳng băng
Ai cũng biêt có ai làm được đâu.
Thánh nhân nói ngay buổi đầu
Nhận yếu của nước mới hàu giang sơn.
Ai nhận sự kém hờn xã tắc
Mơi có cơ làm bậc đế vương
Đạo xưa thông tuệ lạ thường
CHƯƠNG 79
NHIỆM KHẾ
任 契
Hán văn:
和 大 怨, 必 有 餘 怨. 安 可 以 為 善. 是 以 聖 人 執 左 契 而 不 責 於 人. 有 德 司 契, 無 德 司 徹. 天 道 無 親, 常 與 善 人.
Phiên âm:
1. Hòa đại oán, tất hữu dư oán. An khả dĩ vi thiện.
2. Thị dĩ thánh nhân, chấp tả khế nhi bất trách ư nhân.
3. Hữu đức tư khế, vô đức tư triệt.
4. Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân.
Dịch nghĩa:
1. Hòa được oán lớn, vẫn còn oán thừa, như thế sao gọi là phải được.
2. Cho nên thánh nhân cầm tờ khế ước bên trái, mà không trách người.
3. Kẻ có đức thì thích cho người. Kẻ vô đức thì thích đòi người.
4. Thiên đạo không thân ai, mà thường gia ân cho người lành.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Hòa được oán vẫn còn vương oán
Vẫn phải còn ca thán trong dân
Cho nên nhứng bậc nhân Thánh nhân
Tay cầm khế ươc không phân trách dời
Kẻ có đức thích cho người
Kẻ vô đức truy tận nơi bần cùn
Thiên đạo giữ khiêm cung
Thường gia ân kẻ cô cùng đáng thương!
CHƯƠNG 80
ĐỘC LẬP
獨 立
Hán văn:
小 國 寡 民. 使 有 十 伯 之 器 而 不 用. 使 民 重 死 而 不 遠 徙. 雖 有 舟 輿 無 所 乘 之. 雖 有 甲 兵 無 所 陳 之. 使 民 復 結 繩 而 用 之. 甘 其 食, 美 其 服, 安 其 居, 樂 其 俗. 鄰 國 相 望. 雞 犬 之 聲 相 聞. 民 至 老 死, 不 相 往 來.
Phiên âm:
1. Tiểu quốc quả dân, sử hữu thập bá chi khí nhi bất dụng.
2. Sử dân trọng tử nhi bất viễn tỉ. Tuy hữu chu dư vô sở thừa chi.
3. Tuy hữu giáp binh, vô sở trần chi.
4. Sử dân phục kết thằng nhi dụng chi.
5. Cam kỳ thực, mỹ kỳ phục, an kỳ cư, lạc kỳ tục.
6. Lân quốc tương vọng. Kê khuyển chi thanh tương văn. Dân chí lão tử, bất tương vãn
Dịch nghĩa:
1. Nước nhỏ, dân ít, dù có ít nhiều tôi giỏi, nhưng chưa cần dùng đến.
2. Dạy dân sợ chết, đừng đi xa. Tuy có xe thuyền, mà chẳng khi dùng.
3. Tuy có giáp binh, mà chẳng phô trương.
4. Khiến dân trở lại thắt nút mà dùng.
5. Ăn cho là ngon, mặc cho là đẹp, ở cho là yên, cho là sướng.
6. Nước gần, thấy nhau, gà kêu chó cắn đều nghe, dân đến già chết chẳng lui tới nhau.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Nước nhỏ, dân it dù lắm phường tôi giỏi
Dân sợ chêt đừng gắng gỏi đi xa.
Tuy xe thuyền sẵ.n đầy nhà
Giáp binh đầy đủ khéo mà phô trương
Khiên dân trở lại đời thường
Ăn ngon, mặc đẹp đủ đường sướng sung.
Nước gần nhau chớ vội mừng
Gà kêu, chó suẩ chưa từng thăm nhau!
CHƯƠNG 81
HIỂN CHẤT
顯 質
Hán văn:
信 言 不 美. 美 言 不 信. 善 者 不 辯. 辯 者 不 善. 知 者 不 博. 博 者 不 知. 聖 人 不 積. 既 以 為 人, 己 愈 有, 既 以 與 人, 己 愈 多. 天 之 道, 利 而 不 害. 聖 人 之 道 為 而 不 爭.
Phiên âm:
1. Tín ngôn bất mỹ. Mỹ ngôn bất tín. Thiện giả bất biện. Biện giả bất thiện. Tri giả bất bác, bác giả bất tri.
2. Thánh nhân bất tích. Ký dĩ vi nhân, kỷ dũ hữu. Ký dĩ dữ nhân, kỷ dũ đa. Thiên chi đạo, lợi nhi bất hại. Thánh nhân chi đạo vi nhi bất tranh.
Dịch nghĩa:
1. Lời chân thành không hoa mỹ. Lời hoa mỹ không chân thành. Người tốt không tranh biện, người tranh biện không tốt. Người biết không học rộng, người học rộng không biết.
2. Thánh nhân không tích trữ. Càng vì người, mình càng có. Càng cho người mình càng thêm nhiều. Đạo trời lợi mà không hại. Đạo thánh nhân làm mà không tranh.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Lời chân thành không màù hoa mỹ
Lời hoa mỹ chẳng ti chân thành
Người tốt không biện tranh
Người biện tranh không lành, không không tốt.
Kẻ biết ráo riết thì dốt học thường
Kẻ học nhiều thi nhưòng lặng yên
Thành nhân không tich trữ tiền
Càng vì người lại càng quên chính mình.
Đạo trời lợi lộc cao minh
Đạo thánh nhân thật chân tình công tâm!
Dịch xong Đại học Tổng hơp Huê năm 1981 – 1984
Đỗ Hoàng

Đạo đức kinh - LaoxTwr (1)

  •   17/05/2025 19:12:00
  •   Đã xem: 20
  •   Phản hồi: 0
ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ
Ltg: Đạo đức kinh được Lão Tử viết khoảng 600 năm trước công nguyên. Nó là cuốn sách cần thiết cho người làm dân, làm tướng, làm vua… Nhiều bài học đến nay vẫn còn hữu ích. Tôi dịch ra thơ từ thời trẻ (sinh viên) học Tam giáo ở Huế (1981 - 1984). Nay đưa nó lên mạng để mọi người tham khảo!
Đõ Hoàng
ĐẠO KINH
上 經 ● 道 經
CHƯƠNG I
THỂ ĐẠO
體 道
Hán văn:
道 可 道 非 常 道. 名 可 名 非 常 名. 無 名 天 地 之 始; 有 名 萬 物 之 母. 故 常 無 欲 以 觀 其 妙; 常 有 欲, 以 觀 其 徼. 此 兩 者 同 出 而 異 名. 同 謂 之 玄. 玄 之 又 玄. 眾 妙 之 門.
Phiên âm:
1. Đạo khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh.
2. Vô danh thiên địa chi thủy; Hữu danh vạn vật chi mẫu.
3. Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu; Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu.
4. Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền. Chúng diệu chi môn.
Dịch nghĩa:
1. Đạo (mà) có thể gọi được, không phải là Đạo thường (hằng cửu). Tên mà có thể gọi được, không (còn) phải là tên thường (hằng cửu).
2. Không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật.
3. Cho nên thường không có dục để nhìn thấy chỗ vi diệu của mình. Thường có dục, để nhìn thấy chỗ giới hạn (công dụng) của mình. Chính là muôn phải,
4. Hai cái đó cùng một nguồn gốc, nhưng tên khác nhau, đều gọi là Huyền nhiệm. (Cái) tối ư huyền nhiệm ấy chính là cửa phát sinh ra mọi điều huyền diệu.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo gọi đươc! Đạo trời muôn phái.
Tên gọi ra không phải tên thường.
Không tên gốccủa ngọn nguồn
Có tên mẹ của muôn phương đất trời!
Lòng ước muồn nhìn nơi vi diệu
Nâng cao lên tầm hiểu cuả mình
Mong về giới hạn vô minh .
Cùng từ nguồn cội hiển linh mà thành
Tên gọi khác nên danh huyền nhiệm
Cái tôi ư, bất biến vô vàn
Cõi đời vạn vật trần gian
Nhiệm huyền là cửa phát ban diệu huyền !
CHƯƠNG 2
DƯỠNG THÂN
養 身
Hán văn:
天 下 皆 知 美 之 為 美, 斯 惡 已; 皆 知 善 之 為 善, 斯 不 善 已. 故 有 無 相 生, 難 易 相 成, 長 短 相 形, 高 下 相 傾, 音 聲 相 和, 前 後 相 隨. 是 以 聖 人 處 無 為 之 事, 行 不 言 之 教. 萬 物 作 焉 而 不 辭, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 功 成 而 弗 居. 夫 唯 弗 居, 是 以 不 去.
Phiên âm:
1. Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy.
2. Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo.
3. Vạn vật tác yên nhi bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị,công thành nhi phất cư.
4. Phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ.
Dịch nghĩa:
1. Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, thế là xấu vậy; đều biết tốt là tốt thế là không tốt vậy, bởi vì có không sinh ra nhau dễ khó thành tựu lẫn nhau, ngắn dài tạo thành lẫn nhau, trên dưới lộn lạo ra nhau, thanh âm hòa hợp với nhau, sau trước theo nhau.
2. Cho nên thánh nhân dùng Vô vi mà xử sự, dùng «vô ngôn» mà dạy dỗ.
3. Vạn vật hoạt động mà vẫn im lìm; sống động mà không (đòi quyền) sở hữu; lao tác mà không cậy công; công thành mà không lưu luyến.
4. Không lưu luyến nên mới không mất.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ở đời khen tuyệt vời cái đẹp
Cái xấu kia đã biết chen vào
Đời khen cái tốt thanh cao
Cái xấu len đến đã đến đào huyệt sâu
Không sinh, không diệt vì nhau
Cái trên,cái dưới, trước sau hòa đồng.
Thánh nhân vẫn cầu mong hòa hợp
Dúng vô vi cảm được vô ngôn
Công thành tất thảy vẹn tròn
Lặng im công sức vẫn còn mốt mai!
CHƯƠNG 3
AN DÂN
安 民
Hán văn:
不 尚 賢, 使 民 不 爭. 不 貴 難 得 之 貨, 使 民 不 為 盜. 不 見 可 欲, 使 民 心 不 亂. 是以 聖 人 之 治, 虛 其 心, 實 其 腹, 弱 其 志, 強 其 骨. 常 使 民 無 知 無 欲. 使 夫 知 不 敢 為 也. 為 無 為, 則 無 不 治.
Phiên âm:
1. Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quí nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn.
2. Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri vô dục. Sở phù trí giả bất cảm vi dã.
3. Vi vô vi, tắc vô bất trị.
Dịch nghĩa:
1. Không sùng thượng hiền tài, khiến cho dân không tranh. Không quí của khó được, khiến cho dân không trộm cướp. Không phô trương những gì kích thích lòng ham muốn, khiến cho lòng dân không loạn.
2. Vì vậy phép trị nước của thánh nhân là làm cho dân: Trống lòng; No dạ; Yếu chí; Mạnh xương. Thường khiến cho dân không biết, không ham. Khiến cho kẻ trí không dám làm gì cả.
3. Làm theo phép Vô vi, thời không gì là không trị.
Đỗ Hoàng dịch thơ
:Chớ sủng ái hiền tài quá đáng
Khiên cho dân sao lãng đua tranh
Đừng tìm của quí xa gần
Trộm cướp đạo tăc cũng dần tiêu tan
Đưng kích thích lòng ham muốn ước
Khiến cho dân không được bình yên
Trong lòng, no dạ, ấm êm
Kẻ trí cũng chẳng làm nên điều gì.
Đay là theo phép vô vi
Trị mà không trị việc gì cũng nên !
CHƯƠNG 4
VÔ NGUYÊN
無 源
Hán văn:
道 沖 而 用 之 或 不 盈. 淵 兮 似 萬 物 之 宗. 挫 其 銳, 解 其 紛, 和 其 光, 同 其 塵. 湛 兮 似 或 存. 吾 不 知 誰 之 子. 象 帝 之 先.
Phiên âm:
1. Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh.
2. Uyên hề tự vạn vật chi tông.
3. Tỏa kỳ nhuệ,giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần.
4. Trạm hề tự hoặc tồn.
5. Ngô bất tri thùy chi tử. Tượng đế chi tiên.
Dịch nghĩa:
1. Đạo rỗng không mà dùng không hết.
2. Đạo sâu xa man mác tựa hồ như là tổ tông vạn vật.
3. Làm nhụt bén nhọn, tháo gỡ rối rắm, pha trộn ánh sáng, hòa mình cùng bụi rậm.
4. Trong trẻo thay, tựa hồ trường tồn.
5. Ta không biết Đạo con ai; hình như có trước Thiên đế.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo rỗng không, vững bên muôn kiếp
Đạo sâu xa nối tiêp nguồn xưa
Gỡ rối rắm, chuốt tà lưa.
Chan hòa ánh sáng buổi vừa mơi sinh.
Trong trẻo thay, tựa trường sinh
Đạo là con của thiên đình, đế thiên!
CHƯƠNG 5
HƯ DỤNG
虛 用
Hán văn:
天 地 不 仁, 以 萬 物 為 芻 狗. 聖 人 不 仁, 以 百 姓 為 芻 狗. 天 地 之 間, 其 猶 橐 籥 乎. 虛而 不 屈, 動 而 愈 出. 多 聞 數 窮, 不 如 守 中.
Phiên âm:
1. Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. [1]
2. Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.
3. Thiên địa chi gian,[2] kỳ do thác thược [3] hồ.
4. Hư nhi bất khuất,[4] động chi dũ xuất.
5. Đa ngôn số cùng, bất như thủ trung. [5]
Dịch nghĩa:
1. Trời đất không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm.
2. Thánh nhân không có lòng nhân, coi bách tính như chó rơm.
3. Khoảng trời đất giống như ống bễ. Trống không mà không hao kiệt, càng động, hơi càng ra.
4. Nói nhiều cũng chẳng hết, thà giữ lấy Trung.
Đõ Hoàng dịch thơ:
Trời đất lòng dạ bất yên
Coi thiên hạ một miền chó hoang
Khoảng trời đât rỗng toang ống bể
Không anh hùng, xưng đế nhiễu nhương.
Càng lay động, càng lụy vương
Cuối cùng giữ lấy thường thường lòng trung.
CHƯƠNG 6
THÀNH TƯỢNG
成 象
Hán văn:
谷 神 不 死 是 謂 玄 牝. 玄 牝 之 門, 是 謂 天 地 根. 綿 綿 若 存. 用 之 不 勤.
Phiên âm:
1. Cốc thần bất tử thị vị Huyền tẫn.
2. Huyền tẫn chi môn thị vị thiên địa căn.
3. Miên miên nhược tồn. Dụng chi bất cần.
Dịch nghĩa:
1. Cốc thần bất tử, đó là Huyền tẫn.
2. Cửa Huyền tẫn chính là gốc rễ trời đất.
3. Miên man trường tồn, dùng không bao giờ hết.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Huyền Tẫn chốn vô cùng bất tử
Cửa Huyền Tẫn gốc rễ dất trời
Miên man trong cõi sinh sôi
Của kho vô tận đời đời bao dung.
CHƯƠNG 7
THAO QUANG
韜 光
Hán văn:
天 長 地 久. 天 地 所 以 能 長 且 久 者, 以 其 不 自 生, 故 能 長 生. 是以 聖 人 後 其 身 而 身 先, 外 其 身 而 身 存. 非 以 其 無 私 耶? 故 能 成 其 私.
Phiên âm:
1. Thiên trường, địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kỳ bất tự sinh, cố năng trường sinh.
2. Thị dĩ thánh nhân, hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn.
3. Phi dĩ kỳ vô tư da? Cố năng thành kỳ tư.
Dịch nghĩa:
Trời dài, đất lâu. Trời đất sở dĩ dài lâu chính vì không sống cho mình, vì thế nên trường sinh.
Vì vậy thánh nhân để thân ra sau mà thân ở trước; để thân ra ngoài mà thân còn.
Phải chăng vì không riêng tây, nên vẫn thành được cái riêng tây?
Đỗ Hoàng dịch thơ::
Thiên trường địa cửu không dừng
Cho thiên hạ không ngừng phát sinh.
Thánh nhân bâc thần tình
Thân ra sau mà hiển linh mãi còn.
Phải không vương bận núi non
Công thành mãi mãi vẫn tròn riêng tây!
CHƯƠNG 8
DỊ TÍNH
易 性
Hán văn:
上 善 若 水. 水 善 利 萬 物 而 不 爭, 居 眾 人 之 所 惡, 故 几 於 道. 居 善 地, 心 善 淵, 與 善 仁, 言 善 信, 政 善 治, 事 善 能, 動 善 時. 夫 唯 不 爭, 故 無 尤.
Phiên âm:
Thượng thiện nhược thủy.
Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư Đạo.
Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời.
Phù duy bất tranh, cố vô vưu.
Dịch nghĩa:
Bậc trọn lành giống như nước.
Nước khéo làm ích cho muôn loài mà không tranh giành, ở chỗ mọi người đều ghét, cho nên gần Đạo.
Ở thì lựa nơi chốn; tâm hồn thời thâm trầm sâu sắc; giao tiếp với người một mực nhân ái; nói năng thành tín; lâm chính thời trị bình; làm việc thời có khả năng; hoạt động cư xử hợp thời.
Chính vì không tranh, nên không ai chê trách oán thán.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Đạo được chÍnh tròn đầy như nước
Làm có ích không vượt đua tranh
Ở thấp chẳng ai ham giành
Cho nên chính đạo mới thành công huân.
Ở nơi chốn thâm trầm sâu sắc
Giao tiếp người một bâc ái tôn
Tâm thành lâm chính xóm thôn
Trị bình hòa hơp hoạt không trong ngoài
Chính vì không on, không sai
Trên dưới trong ngoài chẳng ai oán than!
CHƯƠNG 9
VẬN DI
運 夷
Hán văn:
持 而 盈 之, 不 如 其 已. 揣 而 銳 之, 不 可 長 保. 金 玉 滿 堂, 莫 之 能 守. 富 貴 而 驕, 自 遺 其 咎. 功 成 名 遂, 身 退, 天 之 道.
Phiên âm:
1. Trì nhi doanh chi bất như kỳ dĩ.
2. Sủy nhi nhuệ chi bất khả trường bảo.
3. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ.
4. Phú quí nhi kiêu, tự di kỳ cữu.
5. Công thành, danh toại, thân thiên chi đạo.
Dịch nghĩa:
1. Giữ mà làm cho đầy mãi, không bằng dừng lại.
2. Mài cho nhọn, cho sắc không giữ được lâu.
3. Vàng ngọc đầy nhà, chẳng thể giữ được.
4. Giàu sang mà kiêu căng, sẽ tự vời tai họa.
5. Thành công, thành danh rồi thời nên lui thân, ấy là đạo Trời.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Làm đầy mãi , không bằng dừng lai
Nhọn săc sao giữ mãi đươc lâu
Cũng như vàng ngọc, nhà lầu
Kiêu căng tất sụp bùn sâu ai ngờ
Thành công rồi nên nên ngơ với ngác
Thành công rồi ông an lạc đạo Trời!
Thành danh nên biết nghỉ ngơi
Dễ thành bâc thánh trên đời không ngoa.
CHƯƠNG 10
NĂNG VI
能 為
Hán văn:
載 營 魄 抱 一 能 無 離 乎? 專 氣 致 柔, 能 如 嬰 兒 乎? 滌 除 玄 覽, 能 無 疵 乎? 愛 民 治 國, 能 無 為 乎? 天 門 開 闔, 能 無 雌 乎? 明 白 四 達, 能 無 知 乎? 生 而 畜 之, 生 而 不 有, 為 而 不 恃, 長 而 不 宰, 是 謂 玄 德.
Phiên âm:
1. Tải doanh phách bão nhất năng vô ly hồ?
2. Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ?
3. Dịch trừ huyền lãm, năng vô tì hồ?
4. Ái dân trị quốc năng vô vi hồ?
5. Thiên môn khai hạp, năng vô thư hồ?
6. Minh bạch tứ đạt năng vô tri hồ?
7. Sinh nhi súc chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng chi bất tể, thị vị huyền đức.
Dịch nghĩa:
Năng vi (Làm được không?)
1. Có thể đem hồn phách ôm ấp lấy Đạo, không lìa xa chăng?
2. Có thể giữ cho nguyên khí không tán loạn, giữ vẹn thiên chân, hoàn toàn theo được đạo Trời, (định luật trời đất) như anh nhi chăng?
3. Có thể tẩy trừ được (trần cấu), giữ được cho gương lòng trong sáng không tì vết chăng?
4. Có thể yêu dân trị nước, mà vẫn vô vi chăng?
5. Cơ trời mở đóng, có thể thuận ứng như con mái chă
6. Có thể sáng suốt mà như người vô tri chăng?
7. Sinh dưỡng vạn vật; sống mà vẫn như không có; làm mà không cậy công; khiến cho lớn mà không đòi làm chủ, thế là đức sâu xa vậy.
Đỗ Hoàng dịch thơ
Vẫn giữ nguyên của ta, nguyên khi
Trấu rơm mài hêt bỉ gương thần
Vô vi trị nước yêu dân
Cơ trời thuận ứng muôn phân như không
Sáng suốt mà nghiệp mà lòng gây dựng
Dưỡng sinh tương ứng vĩnh hằng.
Tài dưỡng sinh ánh như băng
Khiêm cung công đức.sánh bằng cao xa
CHƯƠNG 11
VÔ DỤNG
無 用
Hán văn:
三 十 輻 共 一 轂. 當 其 無, 有 車 之 用. 埏 埴 以 為 器. 當 其 無, 有 器 之 用. 鑿 戶 牖 以 為 室. 當 其 無, 有 室 之 用. 故 有 之 以 為 利, 無 之 以 為 用.
Phiên âm:
1. Tam thập phúc,cộng nhất cốc.Đương kỳ vô, hữu xa chi dụng.
2. Duyên thực dĩ vi khí. Đương kỳ vô, hữu khí chi dụng.
3. Tạc hộ dũ dĩ vi thất. Đương kỳ vô, hữu thất chi dụng.
4. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng.
Dịch nghĩa:
1. Ba chục căm, hợp lại một bầu. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của xe.
2. Nhào đất để làm chén bát. Nhờ chỗ «trống không», mới có cái dùng của chén bát.
3. Đục cửa lớn, cửa sổ để làm nhà; nhờ có chỗ trống không, mới có cái dùng của nhà.
4. Cho nên lấy cái «có» để làm cái lợi, lấy cái «không» để làm cái dụng.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ba chục cân mới ra một đấu
Nơi trống không chỗ bấu càng xe
Nhào đât bát chén vôi ve
Chỗ không ra có bát be để dùng
Cử lớn nhỏ cùng chung ngôi vị
Nhờ trông không nên thế ngôi nhà
Lấy cái có để làm ra
Từ không biến hóa tài ba vật dùng.
CHƯƠNG 12
KIỂM DỤC
檢 欲
Hán văn:
五 色 令 人 目 盲. 五 音 令 人 耳 聾. 五 味 令 人 口 爽. 馳 騁 田 獵 令 人 心 發 狂. 難 得 之 貨, 令 人 行 妨. 是 以 聖 人 為 腹 不 為 目. 故 去 彼 取 此.
Phiên âm:
1. Ngũ sắc lịnh nhân mục manh..Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng.. Trì sính, điền liệp lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa, lịnh nhân hành phương.
2. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục. Cố khứ bỉ thủ thử.
Dịch nghĩa:
1. Năm màu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của cải khó được, khiến người bị tai hại.
2. Bởi vậy, thánh nhân vì bụng không vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Năm màu sắc làm cùng mù mắt
Năm tiếng kêu người đặc điếc tai.
Năm mùi lưỡi liếm lè dài
Ruổi rong săn bắn người tài hóa điên
Của cải kho, người thêm bị hại
Thánh nhân thường kinh hãi bụng mình
Thường tâm coi trọng mắt nhìn
Chọn hay loại bỏ phải tinh tận tường..
CHƯƠNG 13
YẾM SỈ
厭 恥
Hán văn:
寵 辱 若 驚. (貴) 大 患 若身. 何 謂 寵 辱 若 驚. 寵 為 (上, 辱 為) 下. 得 之 若 驚, 失 之 若 驚. 何 謂 (貴) 大 患 若 身. 吾 所 以 有 大 患 者, 為 吾 有 身. 及 吾 無 身, 吾 有 何 患? 故 貴以 身 為 天 下, 若 可 寄 天 下. 愛 以 身 為 天 下, 若 可 托 天 下.
Phiên âm:
1. Sủng nhục nhược kinh. (Quí) đại hoạn nhược* thân.
2. Hà vị sủng nhục nhược* kinh. Sủng vi (thượng, nhục vi) hạ.. Đắc chi nhược* kinh, Thất chi nhược* kinh.
3. Hà vị (quí) đại hoạn nhược* thân. Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?
4. Cố quí dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả ký thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược* khả thác thiên hạ.
Dịch nghĩa:
1. Vinh, nhục cũng làm lo âu. Sở dĩ hoạn nạn là vì có thân.
2. Tại sao vinh, nhục đều làm lo âu? Vinh là ở ngôi cao, nhục là ở địa vị thấp. Được cũng lo, mất cũng lo. Vì thế nên nói: Vinh nhục đều lo.
3. Tại sao nói: «Hoạn nạn là vì có thân?» Ta sở dĩ phải lo âu nhiều, chính vì ta có thân. Nếu không có thân, ta đâu có lo !
4. Cho nên ai quí thiên hạ hơn thân mình, thì có thể đem thiên hạ giao phó cho, ai yêu thiên hạ hơn thân mình, thì có thể gửi gắm thiên hạ cho họ được.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Có vinh nhục đều thường lo lắng
Ngôi cao, hèn đều đáng âu lo
Mất thì hoạn nạn tẽn tò,
Vinh hoa cũng bị một bồ dao đâm!
Họa phúc là vì có thân
Không thân thì cũng chẳng cần điều chi.
Nên ai yêu quý chỉ vì thiên hạ
Thì nên đem tất cả trao cho.
Ai coi thiên hạ trời to
Giao thiên hạ hết chẳng lo việc gì!
CHƯƠNG 14
TÁN HUYỀN
贊 玄
Hán văn:
視 之 不 見, 名 曰 夷. 聽 之 不 聞, 名 曰 希. 搏 之 不 得, 名 曰 微. 此 三 者 不 可 致 詰. 故 混 而 為 一. 其 上 不 皎, 其下 不 昧, 繩 繩 不 可 名, 復 歸 於 無 物. 是 謂 無 狀 之 狀, 無 物 之 象. 是 謂 惚 恍, 迎 之 不 見 其 首. 隨 之 不 見 其 後. 執 古 之 道, 以 御 今 之 有. 能 知 古 始, 是 謂 道 紀.
Phiên âm:
1. Thị chi bất kiến, danh viết Di. Thính chi bất văn, danh viết Hi. Bác chi bất đắc, danh viết Vi. Thử tam giả bất khả trí cật.. Cố hỗn nhi vi nhất.
2. Kỳ thượng bất kiểu..Kỳ hạ bất muội. Thằng thằng bất khả danh, phục qui ư vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng. Thị vị bất hốt hoảng, nghinh chi bất kiến kỳ thủ. Tùy chi bất kiến kỳ hậu.
3. Chấp cổ chi đạo, dĩ ngự kim chi hữu. Năng tri cổ thủy, Thị vị đạo kỷ.
Dịch nghĩa:
1. Nhìn không thấy, gọi là Di. Nghe không thấy, gọi là Hi. Nắm không được, gọi là Vi. Ba điều ấy không thể suy cứu đến cùng. Cho nên hợp lại làm một.
2. Trên nó không sáng. Dưới nó không mờ. Miên man dằng dặc mà không thể đặt tên. Rồi lại trở về chỗ không có gì. Đó là trạng thái của cái không trạng thái. Hình tượng của cái không có vật chất. Cái có hoảng hốt, đón trước không thấy đầu, theo sau không thấy đuôi.
3. Giữ cái Đạo xưa để trị chuyện nay; biết cái đầu mối của thời xưa, ấy là nắm được giềng mối đạo.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Ba diều gọi Di, Hi, Vi
Ba điều âý chẳng thể truy đến cùng.
Cho nên goi một tên chung
Trên không sáng, dưới mông lung, lờ mờ
Không đặt tên, miền mơ dằng dặc
Rồi trỏ về ản tắc vô danh
Đó là trạng thái mong manh
Trước sau không thấy hữu hình đầu đuôi
Giềng mối nào tìm nơi gỡ rói
Cái Đạo nầy nối tới ngày nay
CHƯƠNG 15
HIỂN ĐỨC
顯 德
Hán văn:
古 之 善 為 士 者, 微 妙 玄 通, 深 不 可 識. 夫 唯 不 可 識, 故 強 為 之 容. 豫 焉 若 冬 涉 川. 猶 兮 若 畏 四 鄰. 儼 兮 其 若 客. 渙 兮 其 若 冰 之 將 釋. 敦 兮 其 若 朴. 曠 兮 其 若 谷. 混 兮, 其 若 濁. 孰 能 濁 以 止, 靜 而 徐 清. 孰 以 安 以 久 動 而 徐 生. 保 此 道 者, 不 欲 盈. 夫 唯 不盈 故 能 蔽, 不 新 成.
Phiên âm:
1. Cổ chi thiện vi sĩ giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức, cố cưỡng vi chi dung.
2. Dự yên nhược đông thiệp xuyên. Do hề nhược úy tứ lân. Nghiễm hề kỳ nhược khách. Hoán hề nhược băng chi tương thích. Đôn hề kỳ nhược phác. Khoáng hề kỳ nhược cốc. Hỗn hề kỳ nhược trọc.
3. Thục năng trọc dĩ chỉ, tĩnh nhi từ thanh. Thục dĩ an dĩ cửu động nhi từ sinh.
4. Bảo thử Đạo giả bất dục doanh. Phù duy bất doanh cố năng tế,bất tân thành.
Dịch nghĩa:
1. Bậc hoàn thiện xưa siêu vi, huyền diệu, thâm thúy, thông suốt; thâm thúy khôn lường. Vì khó lường nên gượng tả hình dung.
2. Các ngài thận trọng như mùa đông đi qua sông; các ngài e dè sợ láng giềng bốn bên; kính cẩn như khách; lạnh lùng như băng tan; mộc mạc chất phác như chưa đẽo gọt; man mác như hang núi; hỗn mang như nước đục
3. Ai có thể đục mà nhờ tĩnh lại dần dần trong. Ai có thể yên mà nhờ động lại dần dần linh hoạt.
4. Kẻ giữ đạo không muốn đầy. Chỉ vì không muốn đầy, nên mới che dấu và chẳng đổi mới.
Đỗ Hoàng thơ:
Bâc hoàn thiện xưa nay thông suốt
Hình dung ư khó ước khôn lường.
Cẩn thận như đi qua đường
Lạnh lùng băng giá, giản thường suối khe
Không tan chảy màu mè đẽo gọt
Hỗn mang như nước đục trên non
Nhờ có động mà còn linh hoạt
Không muốn đầy nên thoát dư thừa
CHƯƠNG 16
QUI CĂN
歸 根
Hán văn:
致 虛 極, 守 靜 篤. 萬 物 并 作, 吾 以 觀 其 復. 夫 物 芸 芸, 各 歸 其 根. 歸 根 曰 靜, 靜 曰 復 命. 復 命 曰 常. 知 常 曰 明. 不 知 常, 妄 作, 凶. 知 常 容. 容 乃 公. 公 乃 王. 王 乃 天. 天 乃 道. 道 乃 久. 沒 身 不 殆.
Phiên âm:
1. Trí hư cực, thủ tĩnh đốc.
2. Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan kỳ phục. Phù vật vân vân, các qui kỳ căn.
3. Qui căn viết tĩnh. Tĩnh viết phục mạng. Phục mạng viết thường.
4. Tri thường viết minh. Bất tri thường, vọng tác, hung.
5. Tri thường dung. Dung nãi công. Công nãi vương. Vương nãi thiên. Thiên nãi Đạo. Đạo nãi cửu. Một thân bất đãi.
Dịch nghĩa:
1. Hư không cùng cực, hết sức yên tĩnh.
2. Vạn vật đua sống, ta nhân đó xem chúng trở về (nguồn). Vạn vật trùng trùng đều trở về cội.
3. Trở về cội rễ là tĩnh; tĩnh là phục mệnh; phục mệnh tức là trường cửu.
4. Biết «trường cửu» mới là sáng suốt. Không biết trường cửu sẽ làm càn và gây hung họa.
5. Biết «trường cửu» sẽ thung dung như công hầu vương tước, sẽ hợp với Trời với Đạo. Hợp Đạo rồi sẽ cửu trường: thân có mất đi, cũng chẳng nguy hại gì.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
Hư không cực tột ưa yên tĩnh
Ta nhẩm xem ai tinh về nguồn.
Trùng trùng vạn vật mưa tuôn
Trở về tĩnh lặng là khuôn mệnh mình.
Phục mệnh mình đinh ninh trường ửu
Không làm càn gây họa cho ai
Biết trường cửu sẽ nối dài
Hợp Trời với Đạo thân ngoài hư không.
CHƯƠNG 17
THUẦN PHONG
淳 風
Hán văn:
太 上, 不 知 有 之. 其 次, 親 而 譽 之. 其 次, 畏 之. 其 次, 侮 之. 信 不 足 焉, 有 不 信 焉. 悠 兮, 其 貴 言. 功 成 事 遂, 百 姓 謂 我 自 然.
Phiên âm:
1. Thái thượng, hạ tri hữu chi.
2. Kỳ thứ, thân nhi dự chi.
3. Kỳ thứ, úy chi.
4. Kỳ thứ, vũ chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên.
5. Du hề, kỳ quí ngôn. Công thành, sự toại, bách tính vị ngã tự nhiên.
Dịch nghĩa:
1. Thánh quân thời cổ xưa (cai trị), dân ở dưới không biết rằng có.
2. Bậc dưới, họ thân và ngợi khen. Bậc dưới nữa họ sợ. Bậc dưới nữa, họ khinh. Vì không đủ tin, nên dân không tin.
3. Bậc thánh xưa quí lời nói. Công việc xong xuôi, mà dân đều bảo rằng: «Tự nhiên bởi ta.»
Đỗ Hoàng dịch thơ :
Dân ở dưới trong vòng cai quản
Rất tin yêu, tinh toán gì đâu.
Bâc dướii họ ngợi khen nhau
Bậc dưới nữa họ sợ mau oán hờn
Thánh nhân lời nói quí hơn
Việc thành dân biết trả ơn chốn nào !
CHƯƠNG 18
TỤC BẠC
俗 薄
Hán văn:
大 道 廢, 有 仁 義. 智 慧 出, 有 大 偽. 六 親 不 和, 有 孝 慈. 國 家 昏 亂, 有 忠 臣.
Phiên âm:
1. Đại Đạo phế, hữu nhân nghĩa.
Trí tuệ xuất, hữu đại ngụy.
2. Lục thân bất hòa, hữu hiếu từ.
3. Quốc gia hôn loạn, hữu trung thần.
Dịch nghĩa:
1. Đại đạo mất mới có nhân nghĩa,
Trí tuệ sinh mới có dối trá lớn.
2. Lục thân bất hòa, nên có kẻ thảo người lành.
3. Quốc gia rối loạn mới có trung thần.
Đỗ Hoàng dịch thơ::
Đạo lớn mất nghĩa nhân sao tỏ
Trí tuệ sinh mới có tráo lừa.
Nội thân xáo trộn ghét ưa.
Quốc gia tao loạn có thừa người trung!
CHƯƠNG 19
HOÀN THUẦN
還 淳
Hán văn:
絕 聖 棄 智, 民 利 百 倍. 絕 仁 棄 義, 民 復 孝 慈. 絕 巧 棄 利, 盜 賊 無 有. 此 三 者 以 為 文, 不 足. 故 令 有 所 屬. 見 素 抱 朴. 少 思 寡 欲.
Phiên âm:
1. Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội.
2. Tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ.
3. Tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu.
4. Thử tam giả dĩ vi văn, bất túc.
5. Cố lệnh hữu sở thuộc. Kiến tố bão phác. Thiểu tư quả dục.
Dịch nghĩai:
1. Dứt thánh bỏ trí, dân lợi gấp trăm.
2. Dứt thân bỏ nghĩa dân lại thảo lành.
3. Dứt khéo, bỏ lợi, không có trộm cướp.
4. Ba điều đó hào nhoáng bên ngoài, chẳng đủ vào đâu.
5. Phải chú trọng điều này: Giữ vẹn tinh anh, chất phác: ít riêng tây, ít ham muốn
Đỗ Hoàng dịch thơ;
Thánh, trí bỏ đi vô cùng dân lợi
Nhân tinh xóa sạch, dân tới thỏa lành
Lợi, kheo tiêu càng an dân
Những điều hào nhoàng chẳng thành vào đâu.
Phải chú trọng điều đầu nhắc nhở
Vẹn tinh anh nên nhớ giữ gìn
Ít ham muốn bỏ quên mình
Riêng tay quét sạch, hiển linh bây giờ!
CHƯƠNG 20
DỊ TỤC
異 俗
Hán văn:
絕 學 無 憂. 唯 之 與 阿, 相 去 幾 何. 善 之 與 惡, 相 去 若 何. 人 之 所 畏, 不 可 不 畏. 荒 兮 其 未 央 哉. 眾 人 熙 熙, 如 享 太 牢, 如 登 春 台. 我 獨 泊 兮 其 未 兆, 如 嬰 兒 之 未 孩. 儡 儡 兮 若 無 所 歸. 眾 人 皆 有 餘, 而 我 獨 若 遺. 我 愚 人 之 心 也 哉. 沌 沌 兮 眾 人 昭 昭, 我 獨 昏 昏. 眾 人 察 察, 我 獨 悶 悶. 澹 兮 其 若 海. 飂 兮 若 無 止. 眾 人 皆 有 以 而 我 頑 且 鄙. 我 獨 異 於 人, 而 貴 食 母.
Phiên âm:
1. Tuyệt học vô ưu. Duy chi dự a, tương khứ kỷ hà.
Thiện chi dữ ác tương khứ nhược hà.
2. Nhân chi sở úy, bất khả bất úy. Hoang hề kỳ vị ương tai.
3. Chúng nhân hi hi như hưởng thái lao,[8] như đăng xuân đài.
4. Ngã độc bạc hề kỳ vị triệu, như anh nhi chi vị hài Luy luy hề nhược vô sở qui.
5. Chúng nhân giai hữu dư, nhi ngã độc nhược di. Ngã ngu nhân chi tâm dã tai. Độn độn hề chúng nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn.Chúng nhân sát sát, ngã độc muộn muộn. Đạm hề kỳ nhược hải.. Liêu hề nhược vô chỉ..Chúng nhân giai hữu dĩ nhi ngã ngoan thả bỉ.
6. Ngã độc dị ư nhân, nhi quí thực mẫu.
Dịch nghĩa:
1. Dứt học, hết lo. Dạ với ơi khác nhau bao lăm? Lành với dữ khác nhau mấy tầm?
2. Cái mà người sợ, ta há không sợ, nhưng không đến nỗi hoảng hốt mất tinh thần.
3. Người đời hớn hở, như hưởng cỗ bàn, như lên đài xuân.
4. Riêng ta lặng lẽ, chẳng chút phô trương, y như trẻ thơ, chưa biết mỉm cười. Dáng điệu phờ phạc, lênh đênh vô định.
5. Chúng nhân có thừa, riêng ta thiếu thốn. Lòng ta ngu dốt thay, mù mịt tay. Người đời sáng chói, riêng ta mịt mù. Vắng lặng như biển khơi, vi vu như gió thổi. Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngu xuẩn, thô kệch.
6. Riêng ta sống khác người, vì không lìa xa «mẹ thiên nhiên».
Dỗ Hoàng dịch thơ:
Không học, không à uôm lo lắng
Dạ và ơi tiếng thẳng, giọng cong
Nhưng nào đến nỗi mất hồn.
Nhưng ta lặng lẽ phô trương làm gì.
Như trẻ thơ nhu mì cười mỉm
Dáng dị khờ đủng dỉnh vô ngôn
Đời thừa, ta kẻ sạch trơn
Lòng ta ngu dốt, gió cồn mờ bay.

Phê binh Hữu Thỉnh thẩm thơ!

  •   07/05/2025 10:30:00
  •   Đã xem: 38
  •   Phản hồi: 0
CHỦ TỊCH HỘI NHÀ VĂN VN HỮU THỈNH CÓ NHIỀU NHẬN ĐỊNH SAI LẦM VỀ THƠ MỚI, THƠ CHỐNG PHÁP, THƠ CHỐNG MỸ (KỲ 2)
Phong trào thơ sau giải phóng năm 1975, nhà thơ Hữu Thỉnh chưa có nhận định và đánh giá mà chỉ gộp vào trong thơ chống Mỹ: “Thơ chống Mỹ và thơ hiện nay lấy sự bổ sung và làm đầy là nguyên tắc cho sự phát triển” là chưa rõ.
Hữu Thỉnh đánh giá về “trường phái phu chữ” là đúng.
Trong lúc các thi nhân nhấn mạnh phần hồn thì Lê Đạt tuyên bố”chữ bầu lên nhà thơ” và kéo theo cả một trường phái phu chữ. Đó cũng là một hướng tìm tòi đáng trân trọng. Vấn đề là tác phẩm. Tác phẩm nào hay theo trường phái phu chữ thì hãy trưng ra. Thoải mái. Và xem công chúng tiếp nhận đến đâu.
Nói về trường phái phu chữ Lê Đạt thì nhà thơ Hữu Thỉnh chí lý nhưng nói về Vô lối tắc tỵ, tù mũ rối rắm, tình dục bệnh hoạn của thế hệ sau 1975 thì nhà thơ Hữu Thỉnh nói chung chung: “ Không bằng lòng với thơ tự do hiện tại, họ muốn đi tìm tự do nữa, tự do sau tự do tháo bỏ mọi kích cỡ để thuận tiện cho việc biểu cảm tự nhiên”
Cái gọi là phong trào “tự do sau tự do” đã 30 năm đủ để nhìn nhận đánh giá. Vì một phong trào thơ, cả Thơ Mới, thơ chống Pháp, thơ chống Mỹ chỉ có 10 năm đã được khẳng định. Còn phong trào “tự do sau tự do” 30 năm thì biết nó thất bại hoàn toàn, nó không để lại dấu ấn trên thi đàn. (Xem Vô Lối phản lại thơ ca – vannghecuocsong.com)
Vô lối – Phản lại thơ ca!
Vô lối manh nha và xuất hiện ở Việt Nam trên dưới nửa thế kỷ từ giữa thập kỷ 50 thế kỷ trước cho đến hôm nay. Nó bùng phát như nấm độc mọc sau mưa là từ thập kỷ 90 thế kỷ trước và nhất là khi Hội Nhà văn Việt Nam trao giải cho tập Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều. Và nó bị kết liễu khi Hội Nhà văn Việt Nam trao giải cho nó vào năm 2010 – 2011 với 4 tập Vô lối của Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Đinh Thị Như Thúy.
Thời gian Vô lối bùng phát đến nay đã trên dưới 20 năm (1992 – 2012) nhưng nó không gây được tiếng vang, không dấy lên một phong trào thơ ca nào cả. Nó có cách cảm, cách nghĩ tù mù, rối rắm, khập khà khập khễnh, kênh kiệu, lôm nhôm, loam nhoam, lộn xà lộn xộn… với một loại hình câu chữ dài dòng lê thê lếch thếch hoặc kể lể con cà con kê, hoặc nói năng lảm nhảm rối rắm, hoặc làm duyên làm dáng vô bổ, hoặc uốn éo da lươn, hoặc tịch mịch tối bưng, hoặc đen ngòm da gấu, hoặc đa ngôn đa quái, hoặc lai căng chữ nghĩa nước ngoài một cách thô thiển đàng điếm hoặc mê muội bệnh hoạn về tình dục thể hiện trong câu viết, trong tâm tưởng ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nó bị đại đa số công chúng, bạn đọc của toàn dân tộc phản bác dù nó được báo chí chính thống, cục vụ viện chính thống, cánh hẩu lăng xê, tán tụng đưa lên mây xanh và dành không ít tiền thuế của dân đeo vòng “nguyệt quế” rởm cho nó!
Xin nhắc lại một vài nhận dạng Vô lối.
Đó là một loại hình không có trong tất các loại thể văn học nước nhà và thế giới. Nó dịch không ra dịch, mô phỏng không ra mô phỏng, không phải phú, không phải tế, không phải hát nói, không phải kịch, không phải ca từ, không phải ngâm, không phải vịnh, không phải hát vui chơi, không phải hát ru em, không phải nói lối, không phải văn xuôi, không phải kể chuyện, nó là một loại quái thai của văn chương! Nó chính là Vô lối!
Đặc điểm của Vô lối là: Thứ nhất là nó chối bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, chối bỏ thẩm mỹ của loài người; thứ hai là triệt tiêu một trăm phần trăm vần điệu; thứ ba là viết dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống; thứ tư là tù mù, tịch mịch, rối rắm, đánh đố mình, đánh đố người đọc; thứ năm là đại ngôn, sáo rỗng, trống hơ, trống hoắc, hô khẩu hiệu; thứ sáu là dung tục bẩn thỉu và tình dục bệnh hoạn; thứ bảy là sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, chưa Việt hóa…
Gooki nhà văn Xô viết (Liên Xô cũ) đã từng nói: “Nhà văn không biết đến văn học dân gian là một nhà văn tồi”. Đến Kalinin lãnh tụ của Liên Xô cũ cũng nói đại ý: “ Nội dung và hình thức văn học dân gian là thiên tài, các tài năng lớn về văn học đều biết tiếp thu và học tập thành công văn học dân gian. Bao nhiều tài năng lơn trong nước và thế giới đã minh chứng điều đó: Puskin, Lecmongtop, Bairon, Oma Khayam, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ…
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẻ ngược xuôi hở chàng
Đưa nhau một bước lên đàng
Cỏ xanh hai dãy mấy hàng châu sa
(Ca đao)
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Đoạn trường tân thanh – Nghuyễn Du)
Sinh vi vạn nhân thê
Tử vi vô phu quỷ
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chống
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
Những người viết Vô lối chổi bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, chối bỏ cách nói cách cảm của ông cha. Trước tiên, Vô lối triệt tiêu 100% vần điệu nhưng câu viết thì cứng cỏi, khô khan, không có một chút truyền cảm, không rung động lòng người. giống như ông nói gà, bà nói vịt, tù mù, hủ nút. Đọc nó có cảm giác lê thê, vô bổ:
“…Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
(nếu đời người không có những sớm mai)
anh trở dậy
đọc thơ Nguyễn Du
những câu lục bát buồn rưng rưng cuối đường của một ngày
chợt anh muốn viết tặng em
không thể được
em làm con tin ở một thế giới
(Thanh Tâm Tuyền)

Phan Rang, những năm ấy, có lẽ chị Ba không nhớ nữa
nhưng tôi kẻ từng chịu ơn chị, tôi không thể nào quên quá khứ.
Năm ấy, tôi đến từ phương xa
không giấy tờ, không người quen, không nhà không cửa
và tương lai tôi
tương lai ở trong tay những kẻ bố ráp bắt người đi đánh thuê cho quân xâm lược
tương lai buồn tênh như con đường bụi khô ngoài quán cà phê chiều hôm gió cuốn.
(Lê Văn Ngăn)

Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Đêm ấy tôi nằm trong chăn nghe tiếng chim đập cửa
Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi
(Nguyễn Quang Thiều)

Tôi đã làm khổ cô láng diềng niên
khóa cuối trung học trước khi làm lang
thang. Năm năm nàng chờ, thằng Wang nói
mầy quá tệ làm nó khổ mầy ngủ
ngon ăn khỏe còn nhăn răng cười như
khỉ. Ôi em còn hay đã thành ma,
hôm nay trời trăng nào biết? Tôi đã
chửi tệ bà nhà quê đáng tuổi mẹ
….
Ông không làm gì cả, đi loanh
quanh. Ông không đi đến đâu cả,
đi rồi về. Ông không làm gì
cả, ông suy nghĩ – không nghĩ ra
cái gì cả. Con cháu nói thứ
ăn hại, ông cười buồn. Lối xóm
bảo đồ lười biếng, ông nín lặng.
(In ra sa ra)…
Bây giờ là lúc có thể chia tay với điện thoại để bàn, cá vi dít, nắm đấm mi crô
Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường
Một mình một ba lô với xe đạp
Bây giờ gió gọi anh đi
Mặt trời đánh nhịp về tám hướng
Từ giã cà vạt, giày đen lời trịnh trọng
Anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ
Hò hét một mình, đọc những gì mình yêu thích, ghi chép những gì cần ghi chép
(Nguyễn Khoa Điềm)
Thành đôi môi đẫm rượu
Lênh đênh qua hàng quán tàn phai
Với cái nhìn bạc màu kiêm ái
Anh nhận ra tro tàn kim cương
Sau chớp mắt chậm như vĩnh cửu
Còn nhớ chăng bầu trời quạnh hiu
Trong thân thể gầy gò nơi giam giữ phận anh thoáng chốc
Em hay vầng trăng khiến nó mịt mù
(Nguyễn Bình Phương )
thanh tẩy (2) mãi vẫn không thấy sạch
quay về tắm bằng ngọn đèn
thử đưa bờ vai về phía ánh sáng
rồi cả hai tay
bàn chân, cằm, đầu gối
cả đôi tròng mắt và tiếng ho khan
xối ánh sáng vào từng góc khuất
gốc khuất như lò thúc mầm (3)
như thép nóng đem tôi vào nước
như quả trứng trong ổ đang ấp
rễ thân cành đã chết đâm ngang
(Mai Văn Phấn)
Trăng sáng
Ngư dân ở nhà chơi với vợ
đợi đêm còn ra với phong ba
Trăng sáng
Nước bạc, lưới không sao giấu mắt
Cá băng tung tẩy từng đàn
Ngộp thở
Phố cổ oi, đèn lồng vàng và đỏ
Người đi từng đang đổ về phía bờ sông
(Phan Thị Vàng Anh)
Vô lối viết câu dây cà ra dây muống, dài dòng văn tự mà lại không có một thông tin, một ý nghĩa, đọc lên như hủ nút, rối rắm, ngúc nga, ngúc ngắc, tâm thần, đa số các câu dài câu dài 30 , 40 chữ, thậm chí có câu dài đến 40, 50 chữ. Đặc biệt có câu dài 42, 58 chữ, như điển hình các câu sau: câu trong bài “Sinh ngày 4 – 4”. Câu này đã vượt câu thơ Nguyễn Thị Kiêm thời Thơ mới 15 chữ;
Trò Domino với hiệu ứng lan truyền, đổ sang nhau những ăn năn – bất cần, trong sạch – vấy bẩn, ý nghĩa – vô bổ, cạn kiệt – lấp đầy, tuyệt vọng và ngộ nhận, đoàn tụ và lưu lạc, trấn tỉnh và hoảng loạn.
(Vi Thùy Linh)
Câu của Nguyễn Quang Thiều trong Cây ánh sáng đạt kỷ lục, vượt Nguyễn Thị Kiêm đến 31 chữ (!) tức là 58 chữ.
Cả những người đàn bà tội lỗi và thánh thiện vẫn vuốt ve con đỉa khổng lồ bám chặt bộ xương chàng và thì thầm run rẩy với con đỉa ấy, bị hành hạ vì con đỉa ấy, tự vẫn vì con đỉa ấy và tìm thấy một chút ý nghĩa đầy ảo giác với con đỉa ấy
(Nguyễn Quang Thiều)
Người đọc nào kiên nhẩn đọc câu trên chắc cũng phải điên lên cùng kẻ viết!
Trong khi đó thơ ca tinh hoa của thế giới phương Tây hay phương Đông chỉ một bài thơ 20 chữ đã sống mài hơn 2 000 năm và còn sồng lâu hơn nữa:
“Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm túy sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai”
(Lưu Vũ Tích – Đời Đường)
Trước hoa giờ được uống
Mấy chén ngất ngư say
Chỉ buồn hoa lại nói
Không nở cho già này!
(Đỗ Hoàng dịch)
27 chữ của Nguyễn Thị Kiêm thời Thơ mới đã không còn thì câu 41 chữ của Vi Thùy Linh và câu 58 chữ của Nguyễn Quang Thiều thời Vô lối sẽ tan như bong bóng xà phòng!
Những người làm Vô lối bây giờ ngoài việc chối bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, họ còn dấn thêm một bước là dung tục hóa câu viết mà các sách dâm thư cổ ( Nhục bồ đoàn) kim (các trang mạng đen bẩn thỉu) hiện nay cũng còn thua, cái nhìn rất bệnh hoạn vào người khác giới:
Mặt hồ thủ dâm nổi sóng
(Nguyễn Quang Thiều)
Một bài thơ viết ở Hà nội
Có một bài thơ tôi viết
Trong bóng tối
Của thành phố này
Đấy không phải là đêm
Tôi vẫn nhìn thấy những đám mây nặng
Bò trên những mái nhà thành phố
Và vẫn nhìn thấy
Một người đàn bà
Tắm trong một toilet không có rèm che
Kỳ cọ như tuốt hết da thịt mình
Và vẫn nhìn thấy
Cuộc làm tình ban ngày
Của những kẻ thất nghiệp
Trong chính công sở của họ
Viết lúc 10 giờ 13 phút
H ngủ muộn. 10h13 phút chưa dậy.
Những sự sống trôi qua chiếc giường.
Những cái chết trôi qua chiếc giường.
Và H nhìn thấy trong giấc ngủ
Một tấm thân đàn ông nóng rừng rực
Trôi qua chiếc giường và dừng lại
ở một khoảng trên đầu
lúc 10h13 một người đàn bà khác
khoả thân trong một chiếc giường
đặt ở giữa thành phố
(Nguyễn Quang Thiều)
Đúng là người viết bệnh hoạn và của một số cây viết bệnh hoạn, bị bệnh thị dâm rất nặng, đàn ông hay nhìn trộm phụ nữ tắm, đàn bà hay nhìn vào hạ bộ đàn ông để lấy cảm hứng “sáng tác”(!)
Số này cần phải đến bệnh viện tâm thần điều trị lâu dài, trước khi cầm bút viết lách!
Và rất nhiều, rất nhiều cách viết trắng trợn, ô trọc, súc vật:
Khỏa thân trong chăn thèm chồng, thèm Anh!
(Vi Thùy Linh)
Đến như loài lục súc, con chó cái nó có nhu cầu bạn tình nó cũng chạy khắp vườn trên, xóm dưới đánh tín hiệu bằng cách kêu ăng ẳng, ngúc ngoắc cái đuôi thể hiện nhu cầu ái ân theo văn hóa kiểu chó, sạch sẽ hơn nhiều kiểu viết thô lậu trần truồng, không Việt hóa ở trên!
Sau một phút êm đềm trên ghế đá
Anh quên cài khuya áo cho em
(Dư Thị Hoàn)
Cái ghế đá thường đặt nơi công cộng, công viên, hoặc vườn thú. Người đứng đắn có ai kéo nhau đến nơi công cộng làm cái truyền giống bao giờ. Một “anh du côn tám thẹo gặp chị điếm giang hồ bảy da” mà còn đòi hạnh kiểm đạo đức thì lấy đâu ra khi rủ nhau vào nơi công cộng giữa thanh thiên bạch nhật làm cái chuyện đực cái mà chỉ có loài lục súc mới làm trước mặt mọi người!
Hay kém thẩm mỹ, thô tục:
Nằm nghiêng ở trần thương kiếp nàng Bân
ngón tay rỉ máu.
Nằm nghiêng khe cửa ứa ra một dòng ấm cô đơn.
Nằm nghiêng cùng sương triền đê đôi bờ ỡm ờ nước lũ
Nămg nghiên lạnh hơi lạnh cũ.
Ngoài đường khô tiếng ngày
Nằm nghiêng.
Mùa đông nằm nghiêng trên thảm gió mùa.
Nằm nghiêng nứt nẻ khóe môi đã lâu không vồ vập răng lưỡi
Nằm nghiêng xứ sở bốn mùa nhiệt đới, tự dưng nhói đau sau lần áo lót có đệm mút dầy
(Phan Huyền Thư)
Những người làm vô lối đã thổi phù cái tình dục bệnh hoạn phản cảm của mình một cách thô thiển trắng trợn làm băng hoại con người.
Viết bẩn thỉu, dung tục dâm ô, ở thế giới phương Tây có nhiều nhà thơ lạm dụng. Nhưng những tài năng lớn họ thường biết hạn chế để làm đẹp,trong sáng thơ ca.
Apollinaire nhà thơ Pháp đầu thế kỷ XX nổi tiếng với câu thơ mà người Pháp nào cũng thuộc lòng: Sous le pont Mirabeau coule la Seine ( Dưới cầu Mira beau trôi dòng sông Seine…) khi viết bài thơ văn xuôi dài Vùng, bản thảo lúc đầu câu thơ có mấy chữ thô tục: “Hôm nay tôi bước giữa Paris những người đàn bà vấy máu kinh nguyệt chảy đỏ các rảnh nước…”. Nhưng sau đó ông thấy không được viết bẩn như thế, nhà thơ liền sửa lại:
Hôm nay mi bước giữa Paris những người đàn bà vấy máu.
(Aujourd’hui tu marches dans Paris les femmes sont ensanglanteses)
Những người viết vô lối Việt viết hết sức bẩn thỉu nói trắng ra là rất mất vệ sinh. Viết đến mức mà các bác sỹ khoa sản phụ cũng chào thua!
“Ngáp ngủ đêm đã qua
Chửi tục đêm đã qua
Gạ gẫm làm tình đêm đã qua
Âm hộ đêm đã qua
Dương vật đêm đã qua!”
(Nguyễn Quang Thiều)
Ngoài ra họ còn`tắc tỵ hóa câu viết và nhiều kiểu khác phi văn chương nữa!

luật lệ
tử cung
sự giao l­uu hoang hoái ngực Mạ
một ngày mai tinh khôi vân tay
một ngày thơ cô đơn rực rỡ mai San Francisco
hao gầy
bóng Mỹ
nợ nần
lửa khói
hoe đáy mắt phù du Thiên Cầm
phù du kiếp biển
mùi n­uớc mắm vàng lên chân lời Hồng Lĩnh
(Văn Cầm Hải)
… bên kia,
về phía bên kia nơi bờ sông quê hương
tháng Tư đang hành Lễ tẩy trần.
Làm sao em song hành cùng tôi về đứng bờ sông đêm nay?
trong cơn đau hoan lạc
hát vang bài tụng ca của nước
chảy đi
chảy đi
chảy trôi đi
chảy trôi tất cả đi …
Giở một vòm trời khác.
on ma nào đưa tôi ngồi quán
tôi rơi vào mắt cô gái Cham đầu tiên bán bia ôm
em ngồi sát vào khiến tôi rụt cái đầu con nít.
ồ tôi có thể dòm gì, làm gì em cũng được
nhưng tôi muốn dòm / làm gì!?
đôi mắt em chuyển màu suy nghĩ tôi
có gì liên quan giữa bắp chân tròn thô đậm rơm rạ em với cặp giò thon thả vũ nữ Apsara xưa?
(In ra sa ra)
Một nghìn ba trăm năm mươi mét cao ly hồng nở
đôi mắt bồ câu
vô biên im lặng
cơn mưa đồng phạm
con chó thảo hiền không biết sủa dẫn tôi đi cùng
bài thơ tình ăn theo mưa
ly thơm vào trưa
xấu hổ tôi cúi mặt
(Hoàng Vũ Thuật)
Những người làm Vô lối chối bỏ các phép tu từ: ẩn dụ ,ngoa dụ, hoán dụ, nói giảm, nói tăng(nghệ thuật thơ ca – thi pháp) của ông cha, viết một cách trần trụi, sống sượng kém truyền cảm,
Những con cá thiêng quay mặt khóc

Và cá thiêng lại quay mặt khóc

Vục cát lên
Tôi khóc
(Nguyễn quang Thiều)
Khóc cho đoàn tàu dừng lại
Khóc cho tà vẹc vỡ đôi
Khóc cho núi đồi sụp lỡ
(Dư Thị Hoàn)
Người viết Vô lối dùng hàng trăm chữ khóc, không một ai rớm lệ, dùng hàng trăm chữ cười, chẳng có nhếch môi.
Ngoài ra những người viết Vô lối còn đa quái, đại ngôn, sáo rống, trống huếch, rối rắm, tắc tỵ, tối như mõm chó lá đa, chẳng có một thông tin nào:
Cát đã vơi
Lẹ làng
Yểu điệu
Như chú ong vừa bay vừa tan
Chưa kịp vắng
Đã lại dào dạt chữ
………
Tôi nhớ tiếng bản lề kèn kẹt
mở từ xa tới gần
và nhớ
trong mũi tiêm quấn quýt một đám mây
hứa hẹn những nổi trôi ngoạn mục
(Nguyễn Bình Phương)
Vô lối còn lạm dụng dùng chữ nước ngoài, đối với âm Hán – Việt thì dùng vô độ những chữ chưa Việt hóa như: vô ngôn, thanh tẩy, cuồng thảo, khỏa thân, hàm ngôn, hoan ca, hoan lạc, bi ca, tuyệt ca; ngoạn mục, đối với tiếng Âu - Mỹ thì để nguyên cả chữ như wifi, link, thank you, hello, hercule:
Thanh tẩy mãi vẫn không thấy sạch
(Mai Văn Phấn)
Nhân loại đi qua
Vô ngôn
(Nguyễn Khoa Điềm)
Link tháng tư
….
Hercule đâu thần tu­ợng muôn dân.
(Vi Thùy Linh)
Mười năm đã đủ để khẳng định một phong trào thơ. Hai mươi năm càng đủ thời gian để khẳng định nhiều phong trào thơ. Vô lối đươc xuất hiện rầm rộ từ năm 1993 khi Hội Nhà văn Việt Nam trao giải cho tập Vô lối Sự mất ngủ của lửa đến hôm nay năm 2012, Hội Nhà văn Việt Nam lại tiếp tục trao giải cho 4 tập Vô lối khác là sự kết liễu của một cách viết Vô lối. Dù Vô lối được các cơ quan báo chí chính thống tung hô, được các học giả lăng xê, được ưu ái hưởng tiền thuế dân đóng ở những lần trao giải thưởng và nhiều lần khác.
Vô lối là một loại mà dân tộc Việt và cả nhân loại tiến bộ không thể chấp nhận được. Thế hệ cha ông chúng ta, chúng ta và con cháu chúng ta hôm nay ai ai lớn lên đều ở trong tiếng ru của ca dao, dân ca, của câu kiều (câu ca, câu thơ hay) - ca dao ru cháu, câu kiều ru con và cả câu Kiều của Nguyễn Du nữa. Con cháu chúng ta mai sau không có thể đem cái thứ Vô lối này được! Mà không thể làm tiếng ru được! Đó là điều hoàn toàn sự thật! Nó đươc ru vô lối thì nó lớn lên chắc chắn không thể thành người.
*
Trong bài viết vê "Một nền thơ đang chuyển động" nhà thơ Hữu Thỉnh trích dẫn có nhiều câu thơ chưa phải là hay
Gượng:
“Những mùa hoa đại trắng
Tiếng mõ chừng cũng thơm”
Nhạt:
“Chiều đứng lặng nghe tiếng người cuối bãi
Trăng lại treo mơ mộng trước hiên nhà”
Và triết lý vặt:
“Tối tối mẹ ta hay kể chuyện xưa
Sông vì biển mà dài, biển vì sông mà rộng”
Nhà thơ Hữu Thỉnh hơi lạm dụng từ Hán chưa Việt hoá:
Tiệm tiến là dần dần tiến, sao không nói dần dần tiến hay từ từ tiến mà dùng tiệm tiến. Người đọc chắc có người không hiểu tác giả nói gì.
Bài Một nền thơ đang chuyển cần xem lại!
Nhà thơ ĐỖ HOÀNG
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Chính Luận
tondSposer2ii
ú
27032642
p
h
0thla70t608411ut3m

3
9
c
t
m7t47030h59gt
·
Nguyễn Doãn Đôn
tondSposer2ii
ú
27032642

h
0thla70t608411ut3m
9
3
5
c
t
m7t470
p
0h59gt
·
Ông Hà Sỹ Phu viết:… Xem thêm
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Sinh nhật
Ngư

Đỗ Hoàng phê bình thơ Hoàng Vũ Thuật...

  •   06/05/2025 16:01:00
  •   Đã xem: 40
  •   Phản hồi: 0
ĐỖ HOÀNG PHÊ BÌNH THƠ HOÀNG VŨ THUẬT
Đỗ Hoàng
Thứ bảy, 09:19 Ngày 30/01/2021
Trong cuộc sống, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật sống chân tình chung thủy vợ con, cưu mang bạn bè, người thân; nhưng trong sáng tác thì Hoàng Vũ Thuật rất ưa làm hàng giả. Giả trong cách lập tứ, chọn từ, đặt câu, thi tứ, mô phỏng. Cái giả nó đeo theo nhà thơ từ khi chập chững vào nghề cho đến hôm nay đã thất thập cổ lai hy, đầu suy tứ chi!
Nghĩ cho cùng không phải lỗi của Hoàng Vũ Thuật, mà nói như từ thông dụng bây giờ là lỗi cả một hệ thống. Cả thế hệ cứng như một thỏi sắt (Lưu Quang Vũ). Nhiều lớp lớp làm nhà ca học, hót học, hát học, cười học… Trùng trùng điệp điệp cổ động viên tự giác và không tự giác.
Đến nỗi như nhà thơ Phạm Tiến Duật nổi tiếng nhất trong thơ chống Mỹ cũng làm “nhà cười học” khi viết bài thơ tình Cái chao đèn duyên tình thế mà phải thêm hai câu kết rất dở hơi mới được in và mới được phổ biến:
CÁI CHAO ĐÈN
Con trai đội nón bao giờ
Vì mưa nên phải đi nhờ nón em
Bấy lâu mũ sắt đội quen
Buồn cười cái nón tòn ten trên đầu.
Khoảng râm là ánh sáng màu
Của tình yêu đội trên đầu đó em.
Hông hồng khuôn mặt xinh quen,
Nón bài thơ cái chao đèn của anh!
Khi đưa in, nhà biên tập không đồng ý vì cả nước đang đánh giặc mà nhà thơ lại làm thơ tình thuần túy. Bất đắc dĩ, Phạm Tiến Duật phải viết thêm hai câu kết không ăn nhập gì để được in:
Mũ va vào mũ lanh canh
Đường xa nhớ nón che anh buổi nào!
Rồi tiếp đến nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ suốt thời chống Mỹ nằm hầm ở thôn Phú Vinh (Trụ sở Hội Văn nghệ Quảng Bình đóng) cũng phịa, tưởng tượng ra mình là bộ đội hoặc thanh niên xung phong hành quân:
Đơn vị tôi hành quân qua con đường mòn
Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái
(Khoảng trời và hố bom)
Và dùng nhiều câu đại ngôn, hô khẩu hiệu sáo mòn để cổ động:
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa.
(Bài đã dẫn)
Nhà văn Dương Thu Hương cũng vậy. Tưởng tượng mình là chiến sỹ lái xe đi trên đường gặp nhiều hoa Trâm Lê (hoa phịa) hứa sẽ làm tròn nhiệm vụ ngoài tiền tuyến cho hậu phương yên tâm sản xuất…
Thế hệ Hoàng Vũ Thuật là thế hệ chống Mỹ. Cả nước gồng lên đánh một đế quốc giàu mạnh nhất thế gới nên văn chương cũng gồng lên nhiều lần để phục vụ cho mục đích đánh giặc:
Ta lại viết bài thơ báng súng
Con đứng lên viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.
(Hoàng Trung Thông)
Tố Hữu nhà thơ của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng viết:
Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương!
Cho nên cả nước từ văn chương, thơ ca, nhạc, họa đều phải vót chông trước khi vót văn.
Hồi ấy in ấn rất khó khăn từ trung ương đến địa phương. Văn thơ không nói về bom đạn, hỏa tuyến, đánh giặc, bắn máy bay, bộ đội, thanh niên xung phong, ta thắng địch thua… thì rất khó in.
Hội văn nghệ Quảng Bình có tờ Văn nghệ Quảng Bình, anh em phải xếp hàng nhiều năm mới có bài đăng.
Một lần Hoàng Vũ Thuật đưa bài “Quả ổi trong vườn chín sớm” đến Ban biên tập để duyệt.
Nội dung là tả trái ổi trong vườn bị viên bom bi găm vào nên nó chín sớm. Ban biên tập mới phê rằng: “Sự việc có thật nhưng người viết đã chọn không điển hình nên nó thành giả. Bom đạn Mỹ ném bom, bắn súng hàng ngày để bao nhiêu người chết, súc vật chết, không viết, mà viết quả ổi bị bom bi chín sớm vừa sến, vừa nhẹ tênh, gượng gạo thế nào! Có sự việc không có thật nhưng nhà thơ điển hình hóa nó lên thì đọc như là thật.”
Từ đó Hoàng Vũ Thuật đi tìm cái điển hình hóa không thật để làm cho nó thật. Nhưng tai hại thay, sau khi văn chương cổ động tuyên truyền qua đi thì những cái giả nó lại lai hoàn giả, không thể chấp nhận được:
Qua ải Bắc, đèo Nam
Qua Trường Sơn nắng mưa dằng dặc
Anh thành người con trai suốt đời đi đánh giặc
(Cây Nhạc ngựa)
Hoàng Vũ Thuật thì không một ngày mặc áo lính, không biết khẩu AK lắp đạn như thế nào, một băng đạn có mấy viên và bắn liên thanh hay bắn ba phát một thì địch mới sợ, nhưng Hoàng Vũ Thuật hay thay lời người ra trận làm thơ cổ động chiến đấu, hay đánh giặc trên giường(!). Điều này cũng không vấn đề gì, xưa nay mọi người vẫn làm, miễn là hay xúc động là được. Đằng này bài Cây nhạc ngựa vừa giả vừa dở, vừa không có một chút gì gọi là thi pháp nên nó rất phản cảm. Mặc dầu bài này được giải thưởng thơ báo Văn nghệ đâu năm 1986. Rồi tập Tháp nghiêng cũng được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Giải thưởng dù giải địa phương, dù giải trung ương đều đáng trân trọng. Nhưng lấy giải thưởng mà đo chất lượng một đời thi ca là một việc hoàn toàn sai lầm. Vì giải thưởng chỉ phục vụ cho một giai đoạn, một hoàn cảnh nhất định, một chính thể cụ thể. Bài Cây nhạc ngựa vừa giả dối, vừa kém thi pháp, vừa gần như mô phỏng nhiều câu của Phạm Ngọc Cảnh trong bài thơ Lý ngựa ô ở hai vùng đất:
Mai xa rồi, em nhớ anh không?
Trăng lại tròn vầng trăng biên cương
Ngựa tung bờm trắng thảo nguyên gió.
….
Cỏ vô tận cho lòng anh rong ruổi
(Cây nhạc ngựa – Hoàng Vũ Thuật)
Ngựa tung bờm bay qua biển lúa
Ngựa ghìm cương nơi sông xòe chín cửa

Gặp câu hát bền lòng rong ruổi mãi
(Lý ngựa ô ở hai vùng đất - Phạm Ngọc Cảnh)
Cha ông ta đã từng viết về người lính suốt đời đánh giặc một cách nghệ thuật tài tình:
Ban Siêu quy thời mấn dĩ hoa
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm)
Là biết chàng Siêu suốt đời đánh giặc rồi, cần gì mà nói:
Anh thành người con trai suốt đời đánh giặc!
Viết thế, vừa không thơ, vừa không thật, vừa ảnh hưởng thơ người khác:
Cái giả của Hoàng Vũ Thuật đi vào cả đề tài tình yêu:
…Rồi em làm quan tòa
Đưa anh ra xử án
Và có thể cao hơn
Đem pháp trường xử bắn.
Mặc tất anh chẳng cần
Sợ gì giây xích sắt
Nếu đạn bắn vào anh
Sẽ làm em chết mất!...
(Không đề)
Lúc đầu Hoàng Vũ Thuật viết câu kết Nếu đạn bắn vào anh/ Sẽ làm em chết ngất
Anh em góp ý là chết ngất là chết giả. Hoàng Vũ Thuật sửa lại chết mất cũng là chết giả nốt. Mình như thế nào, là vua chăng, là thượng đế chăng mà người tình có thế chết(!). Vua và thượng đế đầy quyền lực đấy nhưng người tình chưa chắc đã thèm chết. Ngay thần Juipite bá chủ Olimpơ mà đã có người tình nào chết đâu!
Hoàng Vũ Thuật rất chủ quan, rất không thực chút nào. Thật ra nhà thơ chẳng hiểu gì quy luật tâm lý. Chín con chưa thật mặt chồng, huống gì mới tình tang đôi lứa ngoài đường, người con trai trộm yêu người con gái. Việc này vô cùng giả dối.
Giang Nam thật tình hơn:
Hôm nay nhận được tin em
Dù không tin đó là sự thật
Giặc giết em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi.
Đau xé lòng anh chết nửa con ngươi!
(Quê hương – Giang Nam)
Chết nửa con người của Giang Nam là chủ thể, nó thực nên thuyết phục người đọc, đọc xúc động đến hôm nay.
Hoàng Vũ Thuật viết đã giả lại quá cũ như hai nghìn năm trước:
Giữa bãi cát vàng em là cây
Bóng em đổ xuống hai vai gầy
Anh ngồi trưa nắng như thiêu đốt
Mỗi chiếc lá xanh một bàn tay…
(Em là)
Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường
Trân châu liêm bạc yểm lan đường
Hoành thùy bảo ác đồng tâm kết
Bán phất quỳnh diên tô hợp hương…
(Đảo thiên y – Lý Bạch)
Trăng sáng cao vời giờ điểm đây.
Nhà lan châu ngọc ánh vơi đầy.
Tấm lòng cùng kết bên màn liễu,
Phảng phất chiếu quỳnh hương ngất ngây!...
(Đỗ Hoàng dịch)
Gần bảy mươi tuổi, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật tự lột xác mình, cố gắng đổi mới, phá bỏ cách viết cũ và giả của mình gần 60 năm qua. Nếu thế thì đáng quý biết bao, dù còn sống một giây cũng phải đổi mới, nhưng tiếc thay Hoàng Vũ Thuật chẳng có đổi mới gì mà chỉ sa đà vào tắc tỵ, bí hiểm, cầu kỳ rắc rối, tù mù, hũ nút, không còn một chút rung động thi ca. Chỉ có rặt những kiểu nói tắc tỵ, bí hiểm, đánh đố mình, đánh đố người đọc vì một kiến văn thiển cận, kiến thức hạn hẹp, rất nhiều chỗ hỏng trong học vấn, ít từng trải, sai cả quy luật tâm lý, quy luật tự nhiên, xã hội…
Được các bác sỹ đỡ đẻ hải ngoại quanh năm ngồi trong phòng sản phụ đỡ con Mỹ đen, các học giả, học thật, tiến sỹ bò tung hô… nên Hoàng Vũ Thuật càng dấn sâu vào quái thai, kỳ quặc, lởm khà lởm khởm, tắc tỵ…
Đặt tựa đề một cách tù mù, đánh đố:
Mãi viên trà, K, Ly, Hoàng An, Lá, Đo, Cõi, Ngược, Màu, Kiến
Cầu kỳ, rắc rối:
Mưa trên mười ngón tay dài, Trưa lệch phai…
Những câu vô lối như bị tâm thần, nhạt nhẽo vô vị, không ai hiểu mô tê răng rứa, viết cho bạn mà như viết cho kẻ không ăn ngũ cốc, cho kẻ ở ngoài hành tinh hoặc quỷ dạ xoa dưới Long cung:
ngày mẹ đưa chúng mình xuống sông quẫy đạp
tình yêu dội lên hai bờ vai
đẫm vào da thịt
tia chớp sáng của ngọn sao khuya
chúng mình đứng như trời trồng khi tình yêu tới
những câu thơ vọt máu phát cuồng quất vào bức tranh
đớn đau khát cháy
(Viết cho bạn)
tù mù, vô nghĩa:
giờ thì anh trồng thêm gốc cây
thuộc loài bạch dương chờ đông sang phủ tuyết
nào có gì ổn định
rồi con sóng tiếp xô đổ anh
lúc anh là cát
những con sóng siêu hình lau sạch gương mặt cũ
như chén rượu đêm ấy
chặng cuối
(Hoàng An)
Viết sai cả quy luật tâm lý, quy luật xã hội, tình cảm:
người di gan không buồn
chỉ biết hát
nhiệt cuồng và mê loạn
người di gan không đau
chỉ biết múa
vũ điệu ngả nghiêng phố xá
rạch ríu làm xiếc diễn tuồng
người di gan không khóc
chỉ biết cười
chào mời đổi chác
giơ tay xin giơ tay vẫy mặt trời
(người Di gan)
Đáng khóc mà ta vẫn hát tràn
(Hồ Chí Minh)
Người Di gan phải như thế chứ mà thật như thế. Sao người Di gan lại không khóc, chỉ biết cười. Hoàn toàn khiên cưỡng!
Bí hiểm không ra bí hiểm, mù mịt, tâm thần không ra tâm thần, ngớ ngẩn, rất thiểu năng trí tuệ:
Một nghìn ba trăm năm mươi mét cao ly hồng nở
đôi mắt bồ câu
vô biên im lặng
cơn mưa đồng phạm
con chó thảo hiền không biết sủa dẫn tôi đi cùng
bài thơ tình ăn theo mưa
ly thơm vào trưa
xấu hổ tôi cúi mặt
(Ly)
Viết về một quán Mãi viên trà chỉ có bà mẹ và cô con gái mà Hoàng Vũ Thuật chế biến ra ba người là một thiếu nữ, một cô gái, một bà mẹ. Ai cũng biết đã dùng thiếu nữ thì thôi dùng cô gái, mà dùng cô gái thì thôi dùng thiếu nữ. Không hiểu ra làm sao:
nấp dưới cánh lá bồ đề màu phật
một cô bé một thiếu nữ một người mẹ
cô bé vắt tuổi thơ qua đồi sim
thiếu nữ mười sáu lần trăng đỏ
người mẹ đội nước lên chùa
(Mãi viên trà)
Viết rất điên rồ:
xóa đi rồi vẽ lại
ngẹt thở
thêm một nét gầy thêm một nét
chết lặng dưới chân cầu thang
nàng khóc
(Họa sỹ)
Mượn cái gọi là hậu hiện đại, cách tân, siêu thực, xuống dòng một cách vô lối, bệnh hoạn tùy tiện:
thỏi hình hài bẹp dí
long lóc
thở
ẩn dụ giữa rừng khô
héo
bày bán cùng
hoa
(trong tập Màu)
tìm nơi di trú
bằng chìa khóa mẹ
trao
(tiếng chim)
nhôm nhoam nhiều câu viết lớm khởm, tối nghĩa, kiểu cách lên gân giả vờ, điệu đàng, sống sượng, triết lý vặt:
chẳng thể bắt níu những sợi tóc vào mùa
không người tuốt chải gặt hái
anh cắt dán cánh đồng lên thân thể em
điều phối cơn mưa
vá víu vết thương cuối hạ.
(hoàng an)
rừng mọc dưới bờ mi
(viết dưới tượng Exenhin)
đếm tiếng trái tim khuya
(điều ấy có ý nghĩa gì)
huyền ảo uốn cong hiện thực
nhịp cầu tượng trưng gãy vụn
ẩn dụ giữa rừng khô
héo…
(ý nghĩ vụt hiện)
Kể mãi không bào giờ hết.
Rồi Hoàng Vũ Thuật sa đà mượn hệ đếm, con số, thuật ngữ toán học nhét vào các bài vô lối phá hỏng thơ ca:
nằm dưới kia
một ông vua một hoàng hậu một người hầu
một thanh gươm một tuấn mã một mê nón
một lệnh truyền một trống giục một lời van
nằm dưới kia
một hộp sọ một ống xương một đốt lóng tay
một trung thực một đớn hèn một điên loạn
một ngọn lửa một đêm tối một chiều tà
một vận hạn một thức thời một nguyền rủa…
(lăng tẩm)
Hoàng Vũ Thuật đã dùng đến 21 chữ một để diễn tả một sự việc chỉ cần một con số một là đủ:
Dưới kia có một đế vương
Tàn tro bụi bặm lóng xương chẳng còn.
(Đỗ Hoàng phóng dịch)
Trong thơ cổ kim có dùng con số, nhưng dùng khéo thì làm cho bài thơ hay lên rất nhiều:
MƯỜI THƯƠNG
Một thương bỏ tóc đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Bảy thương tính nết đoan trang
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương em ở một mình
Mười thương con mắt có tình với anh!
(Ca dao)
Một canh, hai canh lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm và chợp mắt
Sao vang năm cánh mộng hồn quanh.
(Hồ Chí Minh)
Không chỉ nước ta mà nhiều nước, nhất là Trung Quốc nhiều nhà thơ dùng con số để diễn ý, diễn tình. Từ con số khô khan biến hóa muôn vẻ làm nên thi phẩm lung linh, bất hủ:
LÃO SƯ KHỐN
Nhất thân bình giả bố
Lưỡng tụ phấn bút khôi
Tam xan ngật bất bảo
Tứ quý thường sô mi
Ngũ canh tựu khởi sàng
Lục đườngyếm nhĩ ngật
Thất thiên nhất tinh kỳ
Bát phương cuồng kỷ hồi
Cửu thiên bất phát hưởng
Thập gia giai đoạn xuy.
(Khuyết danh)
ĐỜI GIÁO VIÊN XƯA
Một thân áo quần bố
Hai tay áo phấn đầy
Ba bữa ăn không đủ
Bốn mùa ủ mặt mày
Năm canh đã trở dậy
Sáu giờ mới ăn chay
Bảy ngày tròn tuần lễ
Tám phương biết gì đây
Chín ngày lương không có
Mười nhà đói lắt lay!
(Đỗ Hoàng dịch)
TUYỆT CÚ
Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liều
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền
(Đỗ Phủ)
Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc
Một hàng cò trắng vút trời xanh
Nghìn năm tuyết núi sông in sắc
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
(Dịch – Khuyết danh)
Bài trên có các con số: Hai, một, vạn, nghìn.
Trong những người làm thơ vô lối, Hoàng Vũ Thuật cũng là người dùng một cách lạm phát từ ngữ nước ngoài nhất là âm Hán Việt ít Việt hóa như: điều phối, thảo hiền, hiển lộ, mê lộ, tẩy trần, trùng phùng, mãi viên trà, di trú, vô chủ, tấu khúc, miền hiển thủy, miền thiên hư,vô cư, vũ điệu, di hài, thuần khiết, tạ từ, nguyên thủy, cuồng thảo, mãn nguyện, nguyện cầu, hoan lạc, hoang phế, biến thể… hằng hà vô số. Đọc vô cùng khó chịu!
Tôi đã từng viết tặng nhà thơ Hoàng Vũ Thuật để nói lên cái “việc làm tốt nghĩa vụ của người công dân thì người thi sỹ rất đau khổ” của anh (ý của nhà thơ Nhêkarêxốp – Nga)::
Anh là nhà thơ Nhà nước
Có việc làm ăn hẳn hoi
Thế mà đời thật cơ cực
Thơ anh nén khóc để cười…
(Lang thang chiều Huế)
Và nhà thơ Hoàng Vũ Thuật cũng khắc họa chân dung của mình một cách đúng nhất:
như người điên đi trong dầm dã
hai mươi năm sau
không biết nơi nào để dừng
(mưa trên mười ngón tay dài)
Cần gì đến hai mươi năm, ngay bây giờ kiểu viết vô lối, tắc tỵ, bệnh hoạn của Hoàng Vũ Thuật đã không chốn nương thân, bị loại bỏ ra khỏi tâm hồn Việt như bao loại Vô lối khác!
Hà Nội, ngày 16-02-2013
ĐH.
Facebook Đỗ Hoàng ngày 29-01-2021.
*
Hoa trinh khiết – một kiểu phi thơ ca
Trong chuyên luận "Vô lối Hoàng Vũ Thuật" tôi đã viết khá kỹ về cái gọi là tìm tòi, cách tân của Hoàng Vũ Thuật, nay chỉ nói về bài "Hoa trinh khiết" mà báo in và nhiều kẻ bốc thơm!
Nhóm anh em nhập môn thơ ca Quảng Bình năm 1970 thế kỷ trước, Hoàng Vũ Thuật là kém nhất. Anh nhiệt tâm thấp, lại hay viết giả nên tác phẩm rất xoàng! Đến nỗi Nguyễn Khắc Phê là nhà văn rất chê thơ Hoàng Vũ Thuật.
Đợt đi thực tế sáng tác về các vùng biển, vùng quê, thấy nhiều loại hoa đẹp mà chưa có tên, thế là các nhà thơ tương lai sáng tạo ra tên cho chúng. Trần Nhật Thu đặt cỏ lông chông là "Hoa Mặt Trời", hoa cây chạc chìu là "Hoa Chắt Chiu", tôi đặt một loài hoa dại đẹp là hoa "Kiều Kiều"... Chỉ tiếc là những bài thơ được in báo, sách cấp tỉnh nó chỉ nằm ở cấp tỉnh, rồi người ta quên tên các nhà thơ đặt tên cho nó. Mọi người vẫn gọi "cỏ lông chông", hoa chạc chìu, hoa muống biển... Nó không được như lá "Diêu Bông" của Hoàng Cầm. Vì bài thơ "Lá Diêu Bông" quá nổi tiếng nên cái lá phịa sống mãi trong lòng mọi người!
Hoàng Vũ Thuật đặt tên hoa "Trinh Khiết" cũng là hoa phịa nhưng quá kém! Kém là do cái bài vô lối "Hoa Trinh Khiết" rất vớ vẩn, vô duyên không vào lòng người đọc nên người ta chẳng nhớ cái "hoa trinh khiết" là gì! Cái nữa nó chẳng mới. Đã có hoa Trinh Nữ đẹp, thực như thế, đặt hoa Trinh Khiết vô lối thừa ra!
Tên các loài hoa cỏ rất Việt, rất hay, nó gợi tính chất vùng quê, hình dáng mùi hương của hoa như các bạn đã biết đấy: cỏ lông chông, hoa muống biển, hoa chạc chìu, hoa vung vang, hoa dành dành, hoa thị, hoa bưởi, hoa cam, hoa quì..
"Hoa Trinh Khiết", Hoàng Vũ Thuật đặc hai chữ nguyên Hán ngữ làm cho cái hoa phịa vốn đã khô cứng nay lại càng khô cứng nặng nề hơn đá!
Chữ 貞(trinh) có 15 chữ, nghĩa ở đây là trinh bạch, trinh trắng, trong trắng, chữ 潔 (khiết ) có 20 chữ, nghĩa ở đây là thánh thiện, trong sạch!
Hoa phịa "Trinh Khiết" ngay cái tựa đề đã không Việt chút nào!
Từ đó vào bài Hoàng Vũ Thuật viết ba lăng nhăng, ỡm ờ, mập mờ, lung mung, lang mang, kiểu cách uốn éo như gái dở hơi mới lớn!...
"không theo mùa nở trên những nhánh mây
nồng nàn vạt áo"
Trong câu văn Việt có chủ ngữ ẩn là tùy theo văn cảnh, nhưng "không theo mùa nở trên những nhánh mây", người ta sẽ hỏi cái gì "không theo mùa nở trên những nhánh mây"? Hoàng Vũ Thuật chuyên viết tắc tỵ, đánh đố, ỡm ờ điển hình như đặt tên bài thơ "Mãi viên trà", "Ly", "Hoàng An", "Lỗ Thủng", "Mùi"...
Tây có thể viết "những đám mây không mặc quần" (Maiacopxki) nhưng Việt, phương Đông không nên viết như thế!
Rồi thì đưa vào câu "nồng nàn vạt áo" vô duyên, vô lối. Không biết nồng nàn vạt áo của ai?
Chưa hết lại còn học đòi mấy cái anh "hải ngoại" làm thơ đưa các dấu tắt toán học vào như: "&", "%", "$" "+", xuống dòng, cắt câu vô tội vạ:
"hương thơm ngôi sao xanh & rất
nhiều sợi mưa lấp lánh"
Viết: "hương thơm ngôi sao xanh và rất nhiều sợi mưa lấp lánh" có sao đâu? Hay viết có dấu "&" để cho hậu hậu hiện đại (!)
Tiếp câu "hàng tỷ năm mới gặp mùi hương ấy". Viết thế này phóng đại lên, phịa ra ngỡ là làm mới nhưng chứng tỏ mình rất vô học! "Hàng tỷ năm", bét cũng ba tỷ năm trở lên. Tuổi trái đất chưa đầy ba tỷ năm, ai nghe mùi hương ấy? Trong khi ngửi mùi hương ấy là con người. Con xuất hiện mới một triệu năm thôi!
Chưa hết, Hoàng Vũ Thuật lại chơi tiếp những câu dở dơi, dở chuột, điệu đàng, phách lối, dục tính:
"bay cùng ánh sáng
hổn hển của tiếng ca"...
Có thể nói "hổn hển" thở, "hổn hển" nói, ai lại tiếng ca "hổn hển". Những ca sĩ như Hồng Nhung, Thanh Lam, Thùy Dung... "hổn hển" ca thì có chó nó nghe!
Phải nói Hoàng Vũ Thuật tư duy rất lớm khởm!
Càng lởm khờm hơn "sau cánh mỏng là thiên đường". Sao anh lại quả quyết như vây? Sau cánh mỏng cái gì chứ? Sau cánh mỏng tà áo hay vạt váy, hay màn nhung, hay đăng ten? Sau cánh mỏng ấy còn nhiều thứ nữa chứ!
Đọc "Hoa trinh khiết" của Hoàng Vũ Thuật phải nói thật rất buồn nôn! Chúng ta nên quét sạch "Thơ Vô lối" như diệt vi rut Covid 19 hiện nay đang làm bải hoại nhân loại!
Hà Nội, ngày 25 tháng 1 năm 2021
ĐH.
Facebook Đỗ Hoàng ngày 03-02-2021.
Ảnh: Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật (ngồi, phải)

27vTREEN TRÙM SÒ THI TẶC...

  •   29/04/2025 16:31:00
  •   Đã xem: 59
  •   Phản hồi: 0
27 TÊN TRÙM THI TẶC - GIẶC THƠ
Dịch thơ tiếng mẹ đẻ ra thơ tiếng mẹ đẻ
Thứ sáu - 17/09/2021 04:51
Dịcn sang thơ Việt:
,,Dịch thơ tiếng mẹ đẻ ra thơ tiếng mẹ đẻ là nỗi đau bậc nhất của nhân loại trong sáng tạo thơ ca,,
,Nhà thơ Triệu Lam Châu,
CÕI LẶNG
Cõi lặng, anh soi thật mình
Nỗi buồn trong sạch, trắng trinh giữa trời.
Cõi lặng, không tiếng nào rơi,
Tiếng tim anh đập muôn đời nào yên!
Dịch thơ tiếng mẹ đẻ ra thơ tiếng mẹ đẻ
Dịcn sang thơ Việt:
,,Dịch thơ tiếng mẹ đẻ ra thơ tiếng mẹ đẻ là nỗi đau bậc nhất của nhân loại trong sáng tạo thơ ca,,
,Nhà thơ Triệu Lam Châu,
CÕI LẶNG
Cõi lặng, anh soi thật mình
Nỗi buồn trong sạch, trắng trinh giữa trời.
Cõi lặng, không tiếng nào rơi,
Tiếng tim anh đập muôn đời nào yên!
Yêu người tha thiết, thiêng liêng,
Nguyện cùng sống chết, đảo điên vì người!
Cõi lặng, ghềnh thác vượt rồi,
Đến miền trong sạch, tuyệt vời xanh trong!
Đỗ Hoàng dịch
Hà Nội ngày 29 -1 – 2012
Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên bản
ANH ĐỢI (*)
Đến sớm một ngày
Vượt trước thôi đường
Cao hơn thói thường
Anh đợi
Đánh đổ một đời
Cuối đất cùng trời
Anh đợi
Anh tìm em
Từ cõi hư vô
Đến phiên chợ trời
Âm dương xanh thẳm
Thương nhớ bồi hồi
Anh đợi
Vứt hết sách vở
Hai tay bụi trần
Núi cao anh trèo
Sông sâu anh lội
Anh đi tìm em
Mây chiều bạc tóc
Thương nhớ lao lung
Một thời trận mạc
Một thời cấy trồng
Anh là hạt thóc
Em là cánh đồng
Gieo bao thương nhớ
Vẫn còn mênh mông
Còn chăng điều tốt
Trong cuộc đời này?
Còn bao nông mặn
Em dành hai ta?
Ngàn năm, trăm năm
Anh mong, anh đợi
Một ngày xuôi tay
Đường xa để lại
Anh còn ngoái lại
Những lời hôm qua:
Anh đợi!
Ngày 27 – 9 -2006
Nhà thơ Vũ Quần Phương có bài Đợi
“Anh đứng một giờ
Đất lạ thành quen”
Một sự phát giác từ hiện thực, rất hay, ai cũng biết nhưng không ai nói được. Bài Anh đợi của Nguyễn Khoa Điềm vô duyên hết chỗ nói. Nó vừa quê, vừa cổ lỗ sỉ, không có phát hiện gì mới, lại dưới cả vè thì đọc giả làm sao chấp nhập được?
Đỗ Hoàng Tạm dịch qua vè truyền thống người Việt:
VÈ ANH ĐỢI
Vè vẻ, vè ve
Nghe vè anh đợi.
Đến sớm một ngày
Không thì trời tối.
Vượt trước thôi đường
Cao hơn thói thường
Anh chờ, anh đợi
Anh tìm, tìm em
Từ cõi hư vô
Đến phiên chợ trời
Âm dương sáng tối
Thương nhớ bồi hồi
Anh chờ, anh đợi.
Vở sách trôi nổi
Hai tay bụi trần
Núi cao anh lần
Sông sâu anh lội
Anh đi tìm em
Mây chiều tóc rối
Thương nhớ lao lung
Chiến trường lạc lối
Một thời cấy trồng
Anh hạt thóc thối
Em là cánh đồng
Gieo bao thương nhớ
Vẫn còn mênh mông!
Còn chăng điều tốt,
Trong cuốc đời này?
Còn bao nồng mặn
Dành ta, ai hay?
Ngàn năm, ngàn năm
Anh mong, anh đợi
Một ngày xuôi tay.
Đường xa để lại
Anh ngoái lần này,
Những lời hôm qua!
Vẫn còn chói lọi!
Hà Nội ngày 29 – 1 - 2012
Ngyễn Khoa Điềm
Nguyên bản:
NGỒI VỚI CÂY LONG NÃO NHÀ BẠN
Ngồi với tôi mỏi mê
Anh quay vào bếp
Xong nồi lục đục
Mỗi âm thanh dễ nhận ra
Củi – diêm - nước mắm
Và những gì gian khó
Không âm thanh
Tôi một mình
Một nình với cây long não
Cây long não già mà lá trẻ
Như ta giữa cuộc đời này
Cây long não lặng im
Cây long não trịu trần
Năm tháng bên nhau
Nhận lấy phấn bụi bặm
Trả ta hương lành
Và một chút gì sâu xa
Không rõ nữa nữa
Bây giờ cây tiếp chuyện tôi
Gác một chân lên hè phố
Chúng tôi nói về anh
Những trang chứa biết đến của một người cầm bút...
Bên cầu Phủ Cam, tháng 5 năm 1982
Đỗ Hoàng dịch:
VỚI BẠN
Ngồi với tôi mải mê
Anh lại quay vào bếp
Tiếng song nồi, nhôm thép
Âm thanh dễ nhận ra
Nước mắm, muối, diêm, cà...
Vì những gì gian khó
Chắng có một âm thanh!
Còn tôi chỉ một mình
Một mình với long não
Long não già lá trẻ
Như ta cuộc đời này.
Cây long não lặng im
Một thân hình trần trụi
Năm tháng ta bên nhau
Nhận lấy phần bậm bụi
Trả cho ta hương lành
Chút sâu xa vời vợi
Mà không còn rõ nữa.
Bây giờ cây tiếp tôi
Gác chân lên hè phố
Chúng tôi nói về anh
Trang sách còn viết dở!...
Hà Nội ngày 29- 1 – 2012
Nhà thơ Đỗ Hoàng
Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên bản:
HOA QUỲ VÀNG
Thông đã mọc nghìn năm
Thành phố trăm năm
Anh đến một ngaỲ
Đà Lạt trẻ
Mà anh thì quá tuổi
Hoa quỳ vàng
Lặng im bên cửa
Hoa quỳ vàng
Ái ngại
Nở chờ anh
Đã sang thu?
Là hạ?
Vẫn là đông?
Không cao thấp
Sao chập chùng
Ẩn hiện
Hoa quỳ vàng
Nghiêng nghiêng
Cánh mỏng
Hồn cao nguyên
Nương náu đến bao dung
Em thanh xuân
Anh quá đỗi
Ngại ngùng với sương gió
Đượm buồm từng tấc cỏ
Đà Lạt
Anh có gì
Để nhớ
Sao âm thầm lưu luyến
Tôi muôn xưa
Hoa quỳ vàng
Em chợt đến
Sau mưa
Để chợt héo
Trước ngày đông
Tháng giá
Anh chợt đến
Và chợt về
Xa lạ
Chợt trăm năm
Một khoảnh khắc
Giao mùa
Hoa quỳ vàng
Hoa quỳ nở
Như mưa.
Ngày 22 .1. 1993
Nhận xét:
Một ông trên 70 tuổi mang danh nhà thơ, giữ trọng trách quốc gia mà viết như thế này thì hoạ là điên loạn.
Dịch dễ hiểu:
HOA QUỲ VÀNG
Thông đã nghìn năm
Phố thị trăm năm
Anh đến một ngày
Ơi! Đà Lạt trẻ.
Anh thì quá thể
Mà hoa quỳ vàng
Lặng im bên cửa
Là hoa quỳ vàng
Chút gì ái ngại
Nở chờ anh sang!
Là đã tới thu?
Hay là đang hạ?
Hay vẫn là đông
Mịt mùng sương giá.
Không cao, không thấp
Mà sao vẫn chập chùng!
Mờ mờ ẩn hiện
Ơi, hoa quỳ vàng
Nghiêng nghiêng cánh mỏng
Hớp hồm cao nguyên
Chút gì nương náu
Bao dung nhân duyên!
Em mãi thanh xuân
Anh thì quá đỗi
Ngại ngùng sương núi
Tấc có đượm buồm
Đà Lạt tơ vương.
Anh có gì nhớ
Mà sao âm thầm
Mà sao lưu luyến
Tới buồn muôn xưa!
Hà Nội ngày 29 – 1- 2012
Nguồn : Đỗ Hoàng's Blog

Chữ Hán bẻ đôi không biết mà dịch Đường thi...

  •   29/04/2025 09:34:00
  •   Đã xem: 32
  •   Phản hồi: 0
CHỮ HÁN BẺ ĐÔI KHÔNG BIẾT MÀ DỊCH ĐƯỜNG THI!
Thứ Ba, 20 tháng 9, 2016
Đỗ Trung Lai dịch phá nát Đường thi - Phan Cẩm Thượng nịnh thối
ĐỖ TRUNG LAI DỊCH PHÁ NÁT ĐƯỜNG THÌ
PHAN CẨM THƯỢNG NỊNH THỐI ĐỖ TRUNG LAI
Đỗ Hoàng
Một lần tôi gặp nhà nghiên cứu Văn học Lại Nguyên Ân ở cơ quan tôi 65- Nguyễn Du, Hà Nội, tôi nói: - Cả rừng người biết chữ Hán sao lại để Đỗ Trung Lai múa may dịch thơ Đường trên sân Văn Miếu thế tiên sinh?
Anh Ân lắc đầu:
- Mấy ông bộ đội họ làm văn chương trại lính theo kiểu họ, chào thua!
Cũng không phải việc của mình nên tôi cũng chẳng hơi đâu bới lông tìm vết. Nhưng vừa qua đọc nghe nhà sách Giáo dục thông báo Thơ Đường mấy cuốn do Đỗ Trung Lai dịch đã đưa vào nhà trường, lại đọc thấy Phan Cẩm Thượng nịnh thối Đỗ Trung Lai quá đáng đành phải lên tiếng. Tôi đã viết hai bài: “Đỗ Trung Lai đánh trống qua cửa sấm”. “ Đỗ Trung Lại dịch hỏng Đường thi” nhằm phê phán việc Đỗ Trung Lai không biết chữ Hán mà lại đi dịch các thi hào gây tai hại vô cùng cho văn hóa nhân loại!
Trong bài ngắn này chỉ phê phán Phan Cẩm Thượng không hiểu biết thơ Đường lại đi nịnh thối Đỗ Trung Lai làm cho bạn đọc hiểu sai Đường thi.
Phan Cẩm Thượng viết:
“Cách đây hai năm, tôi nhờ Đỗ Trung Lai viết cho những bài bình thơ trên tạp chí Khoa học và Tổ quốc, chọn thơ nào bình ra sao là tùy ông. Dịp tết năm đó ông đã dịch và bình bài Tương tiến tửu của Lý Bạch, và ngay lập tức nhiều người cho rằng đây là bản dịch hào sảng nhất về bài thơ. Ngay ba câu đầu Lý Bạch viết : Quân bất kiến / Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai/Bôn lưu đáo hải bất phục hồi. Ông dịch:
"Anh không thấy
Nước trời rơi mãi
Thành mênh mông một dải Hoàng Hà
Chẩy mau về với biển xa
Có trôi trở lại cùng ta bao giờ…"
Sau đó, ông dịch liền bốn bài Nguyệt hạ độc chước (Uống rượu dưới trăng ) có câu : Sầu cùng thiên vạn đoan / Mỹ tửu tam bách bôi / Sầu đa tửu tuy thiểu / Tửu khuynh sầu bất lai. Được dịch là: Sầu thì ngàn vạn mối/ Rượu ba trăm chén thôi / Sầu nhiều rượu lại ít / Uống vào sầu tạm lui.
Như vậy Đỗ Trung Lại vừa nắm được cái khẩu khí của nguyên tác, lại mạnh dạn đưa vào trong bản dịch cái cảm hứng thi ca của chính mình”
Xin thưa với đồng chí Phan Cẩm Thượng nguyên tác thế này:
君不見:
黃河之水天上來,
奔流到海不復回?
Quân bất kiến:
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Nghĩa là:
Anh không thấy:
Nước sông Hoàng Hà chảy từ trên trời xuống
Cuồn cuộn tuôn ra biển không quay trở về”
Nhiều người đều dịch thơ đúng nghĩa:
“Há chẳng thấy:
Nước sông Hoàng từ trời tuôn xuống
Chảy nhanh ra biển, chẳng quay về, “
(Hoàng Tạo và Tương Như)
“Bác chẳng thấy
Sông Hoàng từ trời nước đổ xuôi
Một mạch xuống biển không hề lui? “
(Khương Hữu Dụng)
“Thấy chăng anh
Nước Hoàng Hà từ trời tuôn xuống
Chảy băng ra biển chẳng quay về. “
(Ngô Văn Phú)
“Kìa anh
Trời đổ sông Hoàng
Nước tuôn ra biển không đường trở lui”
(Đỗ Hoàng)
“Thấy chăng ai
Nước sông Hoàng từ trên trời đỏ xuống
Cuồn cuộn ra biển không trở về”
(Hữu Loan)
Nhà thơ nào cũng dịch đúng thơ, đúng nghĩa, riêng Đỗ Trung Lai phịa ra “ Nước trời rơi mãi”. Không biết nước trời rơi mãi ở đâu ra? Trong nguyên bản không có. Nếu có thì phải “Thiên thủy cửu lưu”. Bịa ra một câu sai nguyên bản như thế gây tác hại không nhỏ cho người đọc. Rồi Đỗ Trung Lai lại tiếp: “Thành mênh mông một dải Hoàng Hà” là một kiểu dịch bịa , ba láp, loại tam thiên chí đế! Sao là mênh mông một dải Hoàng Hà được. Dù hình tượng hóa đến đâu,thì sông Hoàng không thể thành mênh mông một dải như Thiên Hà. Rồi Đỗ Trung Lai lại phịa tiếp: “Có trôi trở lại cùng ta bao giờ?” Thật là ngô nghê, không nói là dốt nát! “Nguyên bản “ bôn lưu đáo hải bất phục hồi” (Cuộn cuộn chảy về biển không trở lại). “Trở lại cùng ta bao giờ” là vẽ rắn thêm chân”. Đỗ Trung Lai hay vẽ rắn thêm chân khi dịch.
Thơ Lý Bạch là thơ hiện đại, như dòng chảy sông Hoàng, Đỗ Trung Lai dịch ra lục bát nên phải vần vè, Đã đưa ra chữ “mãi” thì phải tìm chữ “dãi”, như:
“Bọn ruồi là giống hiểm nguy
Vì chân của nó rất vi trùng nhiều”
Chung quy là chả biết chữ Hán, căn cứ vào bản dịch nghĩa, có bài không có dịch nghĩa thì dịch lung tung!
Lý Bạch có 4 bài “ Nguyệt hạ độc chước” (Uống rượu dười trăng
). Bài nào cũng tuyệt tác. Kỳ tư (bài 4) có bốn câu mở đầu rất hay.
窮愁千萬端,
美酒三百杯。
愁多酒雖少,
酒傾愁不來
“Cùng sầu thiên vạn đoan,
Mỹ tửu bách tam bôi.
Sầu đa tửu tuy thiểu,
Tửu khuynh sầu bất lai. …”
Nghĩa là: “
Sầu tận cùng đến nghìn vạn mối. Mà rượu ngon chí có ba trăm chén. Sầu quá nhiều mà rượu quá ít. Đã say đổ thì sầu không còn đến nữa.”
Các nhà văn nhà thơ cổ kim đã dịch rất hay tuy không bằng nguyên bản. Đỗ Trung Lai cóp lại của tiền nhân mà cóp rất dở, thêm thắt lung tung cho có vần điệu nên càng dở hơn!
Bản dịch của Khái Hưng:
“Sầu lớn nghìn muôn mối
Ba trăm chén rượu ngon !
Sầu nhiều, rượu tuy ít
Rượu nghiêng sầu phải bon. “…
(Trên đường xe chạy bon bon
Niềm vui được lúa hạt tròn hạt vuông)
(Bút Tre)
Bản dịch Trần Trọng San:
“Sầu cùng ba vạn mối,
Rượu ngon ba trăm bôi.
Sầu nhiều rượu tuy ít,
Uống rượu cho sầu lui. “…
Bản Đỗ Trung Lai:
Sầu thì ngàn vạn mối
Rượu ba trăm chén thôi.
Sầu nhiều rượu lại ít
Uống vào sầu tạm lui!...
Tuy không bằng nguyên bản nhưng bản dịch của Khái Hưng và Trần Trọng San đều đạt được thần thơ và ý tứ. Bản dịch Đỗ Trung Lai, Phan Cẩm Thượng bốc thơm là cóp của tiền nhân rồi chế biến ra của mình nên nó vừa dở vừa thối, vừa thêm thắt chữ vô lối như chữ “thì” , chữ “thôi” cho có hiệp vần lại sai nghĩa nguyên bản, lại nhiều chữ Hán chưa Việt hóa mà các bản dịch trước không phạm phải! Ví dụ: Bản Khái Hưng không dùng chữ Hán “thiên, vạn” mà dùng “nghìn muôn”. Rồi lại dịch sai nghĩa “ Tửu khuynh sầu bất lai” (Say đổ sầu không đến nữa) chứ không phải “ Sầu tạm lui”. Sầu không đến nữa mới thần thi!
Tóm lại Đỗ Trung Lai không biết chữ Hán nên dịch bậy bạ, Phan Cẩm Thượng chẳng biết anh nào, chắc không biết Đường thi nên khen bừa, khen ẩu vô cùng nguy hại cho nhân quần! Các ông đừng nịnh thối nhau nữa!
Nhục nhã thay!
Hà Nội 12 – 9 – 2016
Đ - H
Ảnh của Do Hoang.á nát thơ

Thơ phản chiên Đỗ Hoàng...

  •   27/04/2025 12:44:00
  •   Đã xem: 32
  •   Phản hồi: 0
“TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH” TỪ BÓNG RÂM CHIẾN KHU
ĐẾN QUẢNG TRƯỜNG PHẢN TỈNH CỦA LƯƠNG TRI
( Viết về nhà thơ Đỗ Hoàng )
Nguyễn Hoàng Đức
Tôi gặp nhà thơ Đỗ Hoàng lần đầu tiên ở nhà tôi, anh đi cùng nhà văn Nguyễn Đình Chính đến để mời tôi giữ chân biên tập trang lý luận cho tạp chí Văn Học Nghệ Thuật (nhưng việc không thành). Cảm giác đầu tiên của tôi về các nhà thơ nói chung là cái gì nhũn nhẽo, ẻo lả, yếu ớt, tí tởn, ham vui, đồng bóng. Và nhà thơ Đỗ Hoàng trưởng ban biên tập thơ của Tạp chí Nhà văn dường như còn vượt qua cả mức đó, anh sinh ra ở Quảng Bình nơi người ta nói như hát, rồi đi lính vào Huế nơi hát còn nhiều hơn nói, rồi anh lại là nhà thơ ngâm nga lới lơ, thành thử giọng của anh cứ võng võng ngòn ngọt một thứ chè nhão cho quá nhiều đường… thành thử sau khi gặp vài lần tôi cứ mặc định, lại một ông nhà thơ hâm hấp không nên chấp.
Thời gian sau, đặc biệt khi anh gọi với tôi, tôi dừng lại một cách khiên cưỡng gượng gạo có chút kiêu kỳ. Tôi đã cầm cuốn thơ dịch “Chinh Phụ Ngâm” của anh. Mặc dù trước đó tôi đã nghe và đọc những bài thơ anh dịch lại cả tiếng Việt, tôi vẫn cho là thứ “thừa công rồi nghề”. Tôi đọc “Chinh Phụ Ngâm” của anh với ý định: hãy cố bỏ chút đỉnh thời gian xem tay này công phá thần tượng ra sao? Triết gia Nietzsche có nói: “Rồi một ngày học trò sẽ phản thầy, vì chính học trò cũng có sứ mệnh phải làm thầy”. Đọc xong, tôi ngạc nhiên vì nhà thơ Đỗ Hoàng ít nhất là đã luôn bới việc thơ ra để làm với một tình yêu tự nhiên không thể nào sống nổi nếu không hít thở thơ. Thứ hai, anh đã dám cày xới lại luống cày đã định hình của các thần tượng để làm nên vụ mùa mới của mình.
Thời gian trôi đi không lâu, tôi nhận thấy trong con người của Đỗ Hoàng không đơn giản là một tâm hồn ngê nga thơ phú kiểu chè đường, mà là một con người rất có bản lĩnh thơ. Rất cứng rắn! Rất dũng cảm! Và hôm nay tôi quyết định viết về anh sau khi đã đọc tập thơ phản chiến rất sớm của anh có tên “Tâm sự người lính”. Cây nào quả nấy, chúng ta thử xem cái cây Đỗ Hoàng là gì?
Đỗ Hoàng trước hết khá giỏi tiếng Trung, có cả kho tàng thơ cổ trong người. Tôi đã nghe anh nói tiếng Anh, bình thơ có tiếng Pháp, lại còn nhắn tin cho tôi bằng tiếng Nga. Riêng về vốn thơ, tôi gặp ba người làm tôi đáng nể và luôn cho rằng họ giầu vốn thơ nhất Việt Nam, đó là, Đỗ Hoàng, Nguyễn Hưng Quốc và Trần Mạnh Hảo.

Nhà thơ Đỗ Hoàng và tập thơ Tâm sự người lính
Đó mới là vốn thơ! Nhưng còn ý chí thơ, sức sống thơ, và bản lĩnh thơ. Đỗ Hoàng là một quan chức thơ sống giữa môi trường thơ mậu dịch, vậy mà anh dám sống và sáng tác, bình thơ như một người cô đơn. Cô đơn là một cái gì hết sức tê tái đặc biệt là trong nền văn hóa tiểu nông cực kỳ lạc hậu và bè phái của Việt Nam. Nhà thơ, nhà văn hóa Inrasara đã nói, các nhà thơ Việt rất sợ bị cô đơn và cô lập. Chúng ta biết trong nền văn hóa tiểu nông giầu tính cục bộ đố kỵ của nước nhà, người ta dễ dàng bỏ rơi tập đoàn, đánh hội đồng vào cá nhân nào muốn có cá tính hay định chơi chòi. Người ta có thể đồng loạt yêu, đồng loạt ghét, đồng loạt bao vây, nhất quán trong cả hành động cô lập hiếu – hỉ, đăng bài hay rút bài… tóm lại rất tiểu nhân. Vậy mà Đỗ Hoàng dám phê phán nhiều nhà thơ, nền thơ bằng cách không ngại chỉ tận tay day tận trán, như: “…cái Văn chương Mậu Dịch dở hơi ngự trị văn đàn hơn 5 thập kỷ. Ai cũng biết nhưng không ai dám nói. Nguyễn Hoàng Đức đập Thanh Thảo là để đập vào nghìn thế hệ nói leo ăn theo, khen bừa, khen ẩu, nói láo. Tệ hại nhất là những tiến sỹ bò, học giả, học thật như Đỗ Lai Thúy, Hồ Thế Hà, Phạm Quang Trung, Văn Giá, Chu Văn Sơn và ông thấp học Phạm Xuân Nguyên không làm được cái tiến sỹ Vịt…”

Trước khi nói về thơ Đỗ Hoàng, tôi muốn bàn qua về bút pháp kẻo lại rơi vào tùy tiện khen – chê không chuẩn đích:
1- Tầm vóc của nhà thơ (cả nhà văn, và các loại nhà) được xác định đầu tiên bằng tính đề tài. Đề tài chim, hoa, cá, lá, gái thì không thể lớn bằng đề tài của thế giới, con người, chiến tranh hay hòa bình. Đề tài sinh họat vi mô ăn ngủ hút hít gái gú thì không thể bằng các đề tài đầu tiên đó là Sinh – Tử của con người.
2- Thơ hay không phải cứ viết bằng bút pháp phóng đại bột nở vống lên. Thơ hay luôn phải được dùng cái hư cấu kết hợp với tính chân thực. Chẳng hạn hai câu thơ vào loại hay nhất của Tây và Đông:
“Anh cùng tôi không một xu dính túi
Vẫn mua được hương thơm của cả trái đất này” (Whitman)
Hoặc:
“Mái chèo cắt vòm trời trên sóng biếc
Thuyền lướt lên trăng theo dòng nước nổi” (Giả Đảo)

Đỗ Hoàng là một người lính, nhưng thơ anh không chỉ đơn giản hành quân ra chiến trường để nhằm bắn và đếm xác cả quân thù lẫn quân ta. Nhà văn Bảo Ninh đã từng được báo chí phương Tây đánh giá rất cao khi gọi là “cuộc phản tỉnh đầu tiên của chiến tranh” ( The first reflexion of the war). Họ đánh giá cao vì cho đó là một ngoại lệ khác hẳn các nhà văn ăn tem phiếu chỉ viết theo định hướng ta đỏ địch đen, ta tốt địch xấu, ta chính nghĩa địch phi nghĩa, ta khôn ngoan địch nham hiểm, ta to địch bé, ta trước địch sau, ta chiến thắng vinh quang địch thất bại ê chề. Vậy thì có lẽ Đỗ Hoàng là một trong những nhà thơ hàng đầu đồ sộ viết về phản chiến.
Triết gia Kant có lẽ là người đầu tiên nêu ra khái niệm “Công dân nhân loại”. Công dân đó là người đã vượt khỏi lằn ranh biên giới, con người ai cũng là người, khi ngã xuống thì đều là một nhân mạng thiệt vong, người lính nông dân ở phía Bắc bắn chết người lính nông dân ở phía Nam, rõ ràng cả hai người chỉ làm theo mệnh lệnh của cấp trên, họ đều là giai cấp nông dân, không có chuyện họ là kẻ thù giai cấp của nhau.
Trong tâm hồn nhà thơ Đỗ Hoàng, mối ưu tư về nhân loại bao giờ cũng lên cao nhất, nó không chỉ là đỉnh cao mà là hệ thống, là con đường dằng dặc chạy lên đỉnh, chứ không phải mấy thoáng chốc bồng bột vu vơ. Đỗ Hoàng ưu tư và bộc bạch, sợ rằng con người sẽ quên đi bài học mất mát của chiến tranh:
Khi chiến tranh đi xa,
Cuộc đời hồi sinh lại.
Đã ai hiểu cho mà,
Có một thời dữ dội!
Thơ tôi rồi sẽ chết,
Như cuộc đời của tôi.
Qua tháng năm trận mạc,
Thời gian quên con người!
( THỜI GIAN QUÊN 11 – 1973)
Mối ưu tư của Đỗ Hoàng thường gắn với những gì kỳ vĩ, những nhãn quan vũ trụ, những suy nghĩ gắn liền với nguyên lý sống còn:
NGỦ QUÊN

Không có mặt trời,
Trái đất ngủ quên.
Trong triệu năm băng giá!
Không có con thuyền,
Dòng sông ngủ quên.
Và tự xoá mình khi về biển cả!
Không có người­ đi,
Con đ­ường ngủ quên .
Rồi cũng tan vào cây cỏ!
Không có tình yêu,
Trái tim
ngủ quên.
Huế 1983
Anh ra trận với một cây súng dường như cũng không có được giấc ngủ thiếp lịm của sắt thép vô tri mà nó luôn ưu tư vì sự điểm hỏa của mình. Ưu tư về một chiến trường nằm giữa hố thẳm yêu bạo lực của cả một thế giới còn hiếu sát. Vì suy tư trên tầm rộng lớn nên lời thơ của anh rất hào sảng mạnh mẽ:
Tôi đã hành quân dã chiến dưới đáy cuộc đời lớp lớp chiến binh.
Mới nhìn rõ trái tim đen ngòm hơn họng súng.
Mới biết chẳng có gì tốt đẹp như những triết lý rơm nghìn đời mộng tưởng.
Mỗi một ngày trái tim thêm nỗi đau thương!
Nghĩ về cuộc đời hôm nay
Người lính không thể dửng dưng.
Không thể hướng nòng súng mình theo những lời giả dối.
Không thể dại khờ hành quân đi tới
Tử địa chiến trường bờ vực của chiến tranh!
( NGHĨ VỀ CUỘC ĐỜI HÔM NAY)

Tình yêu và thương xót trong chiến tranh mới chỉ là cảm xúc thuần túy giành cho những gì đã mất ở cấp độ tình cảm, nhưng để có phản tỉnh người ta đã phải leo lên rất cao ở tầng lý trí. Chính Đỗ Hoàng đã bày tỏ cuộc sống suy tư trong sáng tạo của mình:
Tôi đã đi đến cái thực chất bên trong của cuộc chến đời này
Cái thực chất mà sử sách, thơ văn đương kim người ta chưa hề nói đến.
Mặc dù báo chí, loa đài ra rả suốt ngày đêm.
Cuộc đời ơi! Chẳng có gì quý mến
Nếu con người chẳng có nghĩ suy riêng!
( THỰC CHẤT CUỘC CHIÊN)

Cái nhìn đầu tiên của Đỗ Hoàng dường như luôn có tầm nhìn bao quát ở trên cao, trước khi nhìn thấy đồng đội của mình anh luôn thấy số phận của nhân loại đang lầm than mất mát trong chiến tranh. Một người lính ngã xuống dù ở bên nào liệu khi biết tin mẹ anh ta có đau xót không ? Và chính lô gic đó Đỗ Hoàng luôn nhìn xa trông rộng về một thế giới phủ bóng tang thương qua nhiều biên giới chiến tranh :

Đêm nay ai không ngủ?
Nghĩ số phận loài người.
Hận thù đang còn ngự,
Mấy triệu đời chưa thôi!

Trái đất đen một nửa,
Bom đạn găm đầy mình.
Những đường gươm ly loạn,
Đang chém nát hành tinh!
( SỐ PHẬN LOÀI NGƯỜI)
Đỗ Hoàng đã đặt ra cho mình cũng như loài người những câu hỏi rất lớn, những câu hỏi mang tầm vĩ mô, hỏi về con người với bản tính đầu tiên, xem có phải đó là thứ tâm hồn hiếu sát chỉ đòi ăn thịt đồng loại:
bao nhiêu triệu năm ta mới có được chữ Người
- dẫn ta tới những tình yêu kỳ lạ
- dẫn Ta tới cái căm hờn nghiệt ngã
trên hành tinh này nửa trắng, nửa đen.
( LOÀI NGƯỜI)
Sau câu hỏi về thế giới tồn tại trong không gian là câu hỏi về thời gian, về thời đại mà tác giả đang sống và hành quân, về những trận chiến làm đổ máu những người lính cả quân ta lẫn công dân nhân loại. Bên này hay bên kia chiến tuyến ư, họ chẳng là những con người sao ?
thế kỷ hai mươi
con người ở đâu cũng tàn ác như nhau!
đâu phân biệt bên kia bờ chiến tuyến!
đất bằng này
sẵn súng, sẵn dao
sẵn những lời đổi đen ra trắng!
cái chết ở đây
nào có khác gì.
phát súng bên này, phát súng bên kia.
( THẾ KỶ HAI MƯƠI )
Đỗ Hoàng giành cho những đồng đội của mình cái nhìn thật yêu thương và trìu mến. thậm chí một nỗi đau còn đến trước nỗi đau:

Lính lại vào đầy bến.
Chỗ chuyển quân bầm tím cả chân trời
Mùa đông đi ra trận,
Có ánh mắt nào vui!
Và:
Ngày mai không biết nơi nào đánh?
Nhất định có người phải chết oan!
Một cái nhìn không chỉ lo lắng việc sinh tử mà còn là thứ tình cảm tàn phai trống vắng hoang vu phía tình yêu. Một cái gì thật xót xa:
Anh hành quân qua những lề đời chật hẹp.
Nắng phai màu quân phục trái tim anh.
Và em ạ ! Em đừng thương tưởng tiếc.
Một con người trong đời lính chiến chinh!
Đỗ Hoàng suy tư rốt ráo về kết cục của cuộc chiến, kẻ thì chết, người trở về thì khánh kiệt sức lực và mất mát. Một mất mát không nằm trong chi thể mà còn bị vắt kiệt trong cả mơ ước. Một làng quê không còn ánh lửa thắp lên nghĩa là dường như khống có cả ánh sáng cho tư duy, còn người lính rệu rã quay về liệu có còn sinh lực cho những ước mơ ?
mẹ hiền đón anh,
một người trọng bệnh.
qua vạn năm chưa ai chữa cho lành!
bây giờ anh không muốn tìm về người thân,
bởi sức lực trong anh đã kiệt.
tuổi yêu đương ngày xưa đánh mất,
trái tim vết chém u bầm!
phía quê nhà không một ánh lửa thắp lên.
bom đạn xáo trộn cày sông bến.
người lính tần ngần như kẻ chưa hồi sinh sự sống,
nhìn tầng mây ngơ ngác giữa trời quê.
chiến tranh,
chiến tranh
là thế kia!
lứa tuổi yêu đương không còn mơ ước.

( TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH )
Lãnh tụ Stalin có nói: chiến tranh, chết chóc nhiều khi chỉ là những con số thống kê. Nhưng nhà thơ Đỗ Hoàng không nghĩ vậy, cái nhìn của anh là một nhà thơ phải mang tính nhân văn, thơ anh dường như bao sân đến tất cả những người lính, những khía cạnh vất vả, gian lao, hy sinh, và anh không quên giành cái nhìn thật thương xót cho những cô gái chân yếu tay mềm, cành vàng lá ngọc phải lấm láp cát bụi khói lửa và hy sinh tàn khốc của chiến trường. Trong bài “Lính Gái” anh viết:
Đoàn lính gái áo quần còn mới
Lứa lính này đưa tới miền trong.
Họ không hề bị đeo gông,
Mà sao ánh mắt mênh mông nỗi buồn!
Xương trắng phơi nẻo ra tiền tuyến
Mồ gái tơ diều liệng, chồn giay!.
Lớp này rồi lớp khác thay,
Màu cờ lau trắng rợn lay sa trường!
Và cái chết sẽ chờ mọi lối,
Trên con đường dẫn tới miền trong.
Chiến tranh dai dẳng chưa xong.
Còn bao nhiêu chuyện đau lòng xảy ra!

Rồi Đỗ Hoàng khóc than cho một người đẹp ngã xuống bằng một khúc bi ca thật trữ tình tráng lệ. Một tiếng khóc khiến người ta thấy chiến tranh đã tàn hủy và tiêu diệt cả cái đẹp đau xót hoài phí đến nhường nào:
CÁI CHẾT NGƯỜI ĐẸP

Em chết rồi.
Người đẹp!
Viên đạn của thế kỷ nào bắn em?
Anh sững sờ giữa trái đất máu đổ.
Xác em nằm trong huyền ảo xa xôi.

Anh đi trên trái đất cô đơn.
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.

Anh không thể nào viết nỗi lời thơ.
Khóc em để loài người nguyền rủa!
Trong vô biên
Mạng em thua hạt cỏ.
Khóc em
Anh phản lại Trường Tồn!
Chiến trường Quảng Trị tháng 1 – 1974
Người Việt có câu: có cứng mới đứng đầu gió, với vốn liếng văn hóa dạn dầy, dài rộng, sâu lắng, và thi ca kim cổ đông tây đồ sộ, lại mang một tầm nhìn lớn cho thơ, một tầm vóc hoành tráng cho chữ nghĩa, làm gì Đỗ Hoàng chẳng tự tin và dám tả xung hữu đột đối mặt với lực lượng làm thơ mậu dịch đông rinh ríc. Có một phát hiện mới của loài người rằng: sáng tạo là việc của cá nhân chứ không phải làm việc là sản phẩm của đám đông. Hàng nghìn, hàng vạn người làm việc cũng không thể được gọi là sáng tác mà đó chỉ là sản xuất. Chính thế văn thơ bao cấp nhiều khi chỉ là chỗ không người. tôi vừa chia sẻ sự cô lập của Đỗ Hoàng vừa buộc phải thán phục anh. Nếu không có tâm hồn chịu sóng gió cô lập trước đám đông vần vèo nhũn nhẽo thì làm sao có được một Đỗ Hoàng thơ ca hoành tráng như vậy, dám làm một cây bút hàng đầu phản tỉnh lại cuộc chiến “nồi da sáo thịt”?! Bái phục! Bái phục!
NHĐ 30/94/2013

Thơ phản chiên Đỗ Hoàng...

  •   27/04/2025 12:44:00
  •   Đã xem: 31
  •   Phản hồi: 0
“TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH” TỪ BÓNG RÂM CHIẾN KHU
ĐẾN QUẢNG TRƯỜNG PHẢN TỈNH CỦA LƯƠNG TRI
( Viết về nhà thơ Đỗ Hoàng )
Nguyễn Hoàng Đức
Tôi gặp nhà thơ Đỗ Hoàng lần đầu tiên ở nhà tôi, anh đi cùng nhà văn Nguyễn Đình Chính đến để mời tôi giữ chân biên tập trang lý luận cho tạp chí Văn Học Nghệ Thuật (nhưng việc không thành). Cảm giác đầu tiên của tôi về các nhà thơ nói chung là cái gì nhũn nhẽo, ẻo lả, yếu ớt, tí tởn, ham vui, đồng bóng. Và nhà thơ Đỗ Hoàng trưởng ban biên tập thơ của Tạp chí Nhà văn dường như còn vượt qua cả mức đó, anh sinh ra ở Quảng Bình nơi người ta nói như hát, rồi đi lính vào Huế nơi hát còn nhiều hơn nói, rồi anh lại là nhà thơ ngâm nga lới lơ, thành thử giọng của anh cứ võng võng ngòn ngọt một thứ chè nhão cho quá nhiều đường… thành thử sau khi gặp vài lần tôi cứ mặc định, lại một ông nhà thơ hâm hấp không nên chấp.
Thời gian sau, đặc biệt khi anh gọi với tôi, tôi dừng lại một cách khiên cưỡng gượng gạo có chút kiêu kỳ. Tôi đã cầm cuốn thơ dịch “Chinh Phụ Ngâm” của anh. Mặc dù trước đó tôi đã nghe và đọc những bài thơ anh dịch lại cả tiếng Việt, tôi vẫn cho là thứ “thừa công rồi nghề”. Tôi đọc “Chinh Phụ Ngâm” của anh với ý định: hãy cố bỏ chút đỉnh thời gian xem tay này công phá thần tượng ra sao? Triết gia Nietzsche có nói: “Rồi một ngày học trò sẽ phản thầy, vì chính học trò cũng có sứ mệnh phải làm thầy”. Đọc xong, tôi ngạc nhiên vì nhà thơ Đỗ Hoàng ít nhất là đã luôn bới việc thơ ra để làm với một tình yêu tự nhiên không thể nào sống nổi nếu không hít thở thơ. Thứ hai, anh đã dám cày xới lại luống cày đã định hình của các thần tượng để làm nên vụ mùa mới của mình.
Thời gian trôi đi không lâu, tôi nhận thấy trong con người của Đỗ Hoàng không đơn giản là một tâm hồn ngê nga thơ phú kiểu chè đường, mà là một con người rất có bản lĩnh thơ. Rất cứng rắn! Rất dũng cảm! Và hôm nay tôi quyết định viết về anh sau khi đã đọc tập thơ phản chiến rất sớm của anh có tên “Tâm sự người lính”. Cây nào quả nấy, chúng ta thử xem cái cây Đỗ Hoàng là gì?
Đỗ Hoàng trước hết khá giỏi tiếng Trung, có cả kho tàng thơ cổ trong người. Tôi đã nghe anh nói tiếng Anh, bình thơ có tiếng Pháp, lại còn nhắn tin cho tôi bằng tiếng Nga. Riêng về vốn thơ, tôi gặp ba người làm tôi đáng nể và luôn cho rằng họ giầu vốn thơ nhất Việt Nam, đó là, Đỗ Hoàng, Nguyễn Hưng Quốc và Trần Mạnh Hảo.

Nhà thơ Đỗ Hoàng và tập thơ Tâm sự người lính
Đó mới là vốn thơ! Nhưng còn ý chí thơ, sức sống thơ, và bản lĩnh thơ. Đỗ Hoàng là một quan chức thơ sống giữa môi trường thơ mậu dịch, vậy mà anh dám sống và sáng tác, bình thơ như một người cô đơn. Cô đơn là một cái gì hết sức tê tái đặc biệt là trong nền văn hóa tiểu nông cực kỳ lạc hậu và bè phái của Việt Nam. Nhà thơ, nhà văn hóa Inrasara đã nói, các nhà thơ Việt rất sợ bị cô đơn và cô lập. Chúng ta biết trong nền văn hóa tiểu nông giầu tính cục bộ đố kỵ của nước nhà, người ta dễ dàng bỏ rơi tập đoàn, đánh hội đồng vào cá nhân nào muốn có cá tính hay định chơi chòi. Người ta có thể đồng loạt yêu, đồng loạt ghét, đồng loạt bao vây, nhất quán trong cả hành động cô lập hiếu – hỉ, đăng bài hay rút bài… tóm lại rất tiểu nhân. Vậy mà Đỗ Hoàng dám phê phán nhiều nhà thơ, nền thơ bằng cách không ngại chỉ tận tay day tận trán, như: “…cái Văn chương Mậu Dịch dở hơi ngự trị văn đàn hơn 5 thập kỷ. Ai cũng biết nhưng không ai dám nói. Nguyễn Hoàng Đức đập Thanh Thảo là để đập vào nghìn thế hệ nói leo ăn theo, khen bừa, khen ẩu, nói láo. Tệ hại nhất là những tiến sỹ bò, học giả, học thật như Đỗ Lai Thúy, Hồ Thế Hà, Phạm Quang Trung, Văn Giá, Chu Văn Sơn và ông thấp học Phạm Xuân Nguyên không làm được cái tiến sỹ Vịt…”

Trước khi nói về thơ Đỗ Hoàng, tôi muốn bàn qua về bút pháp kẻo lại rơi vào tùy tiện khen – chê không chuẩn đích:
1- Tầm vóc của nhà thơ (cả nhà văn, và các loại nhà) được xác định đầu tiên bằng tính đề tài. Đề tài chim, hoa, cá, lá, gái thì không thể lớn bằng đề tài của thế giới, con người, chiến tranh hay hòa bình. Đề tài sinh họat vi mô ăn ngủ hút hít gái gú thì không thể bằng các đề tài đầu tiên đó là Sinh – Tử của con người.
2- Thơ hay không phải cứ viết bằng bút pháp phóng đại bột nở vống lên. Thơ hay luôn phải được dùng cái hư cấu kết hợp với tính chân thực. Chẳng hạn hai câu thơ vào loại hay nhất của Tây và Đông:
“Anh cùng tôi không một xu dính túi
Vẫn mua được hương thơm của cả trái đất này” (Whitman)
Hoặc:
“Mái chèo cắt vòm trời trên sóng biếc
Thuyền lướt lên trăng theo dòng nước nổi” (Giả Đảo)

Đỗ Hoàng là một người lính, nhưng thơ anh không chỉ đơn giản hành quân ra chiến trường để nhằm bắn và đếm xác cả quân thù lẫn quân ta. Nhà văn Bảo Ninh đã từng được báo chí phương Tây đánh giá rất cao khi gọi là “cuộc phản tỉnh đầu tiên của chiến tranh” ( The first reflexion of the war). Họ đánh giá cao vì cho đó là một ngoại lệ khác hẳn các nhà văn ăn tem phiếu chỉ viết theo định hướng ta đỏ địch đen, ta tốt địch xấu, ta chính nghĩa địch phi nghĩa, ta khôn ngoan địch nham hiểm, ta to địch bé, ta trước địch sau, ta chiến thắng vinh quang địch thất bại ê chề. Vậy thì có lẽ Đỗ Hoàng là một trong những nhà thơ hàng đầu đồ sộ viết về phản chiến.
Triết gia Kant có lẽ là người đầu tiên nêu ra khái niệm “Công dân nhân loại”. Công dân đó là người đã vượt khỏi lằn ranh biên giới, con người ai cũng là người, khi ngã xuống thì đều là một nhân mạng thiệt vong, người lính nông dân ở phía Bắc bắn chết người lính nông dân ở phía Nam, rõ ràng cả hai người chỉ làm theo mệnh lệnh của cấp trên, họ đều là giai cấp nông dân, không có chuyện họ là kẻ thù giai cấp của nhau.
Trong tâm hồn nhà thơ Đỗ Hoàng, mối ưu tư về nhân loại bao giờ cũng lên cao nhất, nó không chỉ là đỉnh cao mà là hệ thống, là con đường dằng dặc chạy lên đỉnh, chứ không phải mấy thoáng chốc bồng bột vu vơ. Đỗ Hoàng ưu tư và bộc bạch, sợ rằng con người sẽ quên đi bài học mất mát của chiến tranh:
Khi chiến tranh đi xa,
Cuộc đời hồi sinh lại.
Đã ai hiểu cho mà,
Có một thời dữ dội!
Thơ tôi rồi sẽ chết,
Như cuộc đời của tôi.
Qua tháng năm trận mạc,
Thời gian quên con người!
( THỜI GIAN QUÊN 11 – 1973)
Mối ưu tư của Đỗ Hoàng thường gắn với những gì kỳ vĩ, những nhãn quan vũ trụ, những suy nghĩ gắn liền với nguyên lý sống còn:
NGỦ QUÊN

Không có mặt trời,
Trái đất ngủ quên.
Trong triệu năm băng giá!
Không có con thuyền,
Dòng sông ngủ quên.
Và tự xoá mình khi về biển cả!
Không có người­ đi,
Con đ­ường ngủ quên .
Rồi cũng tan vào cây cỏ!
Không có tình yêu,
Trái tim
ngủ quên.
Huế 1983
Anh ra trận với một cây súng dường như cũng không có được giấc ngủ thiếp lịm của sắt thép vô tri mà nó luôn ưu tư vì sự điểm hỏa của mình. Ưu tư về một chiến trường nằm giữa hố thẳm yêu bạo lực của cả một thế giới còn hiếu sát. Vì suy tư trên tầm rộng lớn nên lời thơ của anh rất hào sảng mạnh mẽ:
Tôi đã hành quân dã chiến dưới đáy cuộc đời lớp lớp chiến binh.
Mới nhìn rõ trái tim đen ngòm hơn họng súng.
Mới biết chẳng có gì tốt đẹp như những triết lý rơm nghìn đời mộng tưởng.
Mỗi một ngày trái tim thêm nỗi đau thương!
Nghĩ về cuộc đời hôm nay
Người lính không thể dửng dưng.
Không thể hướng nòng súng mình theo những lời giả dối.
Không thể dại khờ hành quân đi tới
Tử địa chiến trường bờ vực của chiến tranh!
( NGHĨ VỀ CUỘC ĐỜI HÔM NAY)

Tình yêu và thương xót trong chiến tranh mới chỉ là cảm xúc thuần túy giành cho những gì đã mất ở cấp độ tình cảm, nhưng để có phản tỉnh người ta đã phải leo lên rất cao ở tầng lý trí. Chính Đỗ Hoàng đã bày tỏ cuộc sống suy tư trong sáng tạo của mình:
Tôi đã đi đến cái thực chất bên trong của cuộc chến đời này
Cái thực chất mà sử sách, thơ văn đương kim người ta chưa hề nói đến.
Mặc dù báo chí, loa đài ra rả suốt ngày đêm.
Cuộc đời ơi! Chẳng có gì quý mến
Nếu con người chẳng có nghĩ suy riêng!
( THỰC CHẤT CUỘC CHIÊN)

Cái nhìn đầu tiên của Đỗ Hoàng dường như luôn có tầm nhìn bao quát ở trên cao, trước khi nhìn thấy đồng đội của mình anh luôn thấy số phận của nhân loại đang lầm than mất mát trong chiến tranh. Một người lính ngã xuống dù ở bên nào liệu khi biết tin mẹ anh ta có đau xót không ? Và chính lô gic đó Đỗ Hoàng luôn nhìn xa trông rộng về một thế giới phủ bóng tang thương qua nhiều biên giới chiến tranh :

Đêm nay ai không ngủ?
Nghĩ số phận loài người.
Hận thù đang còn ngự,
Mấy triệu đời chưa thôi!

Trái đất đen một nửa,
Bom đạn găm đầy mình.
Những đường gươm ly loạn,
Đang chém nát hành tinh!
( SỐ PHẬN LOÀI NGƯỜI)
Đỗ Hoàng đã đặt ra cho mình cũng như loài người những câu hỏi rất lớn, những câu hỏi mang tầm vĩ mô, hỏi về con người với bản tính đầu tiên, xem có phải đó là thứ tâm hồn hiếu sát chỉ đòi ăn thịt đồng loại:
bao nhiêu triệu năm ta mới có được chữ Người
- dẫn ta tới những tình yêu kỳ lạ
- dẫn Ta tới cái căm hờn nghiệt ngã
trên hành tinh này nửa trắng, nửa đen.
( LOÀI NGƯỜI)
Sau câu hỏi về thế giới tồn tại trong không gian là câu hỏi về thời gian, về thời đại mà tác giả đang sống và hành quân, về những trận chiến làm đổ máu những người lính cả quân ta lẫn công dân nhân loại. Bên này hay bên kia chiến tuyến ư, họ chẳng là những con người sao ?
thế kỷ hai mươi
con người ở đâu cũng tàn ác như nhau!
đâu phân biệt bên kia bờ chiến tuyến!
đất bằng này
sẵn súng, sẵn dao
sẵn những lời đổi đen ra trắng!
cái chết ở đây
nào có khác gì.
phát súng bên này, phát súng bên kia.
( THẾ KỶ HAI MƯƠI )
Đỗ Hoàng giành cho những đồng đội của mình cái nhìn thật yêu thương và trìu mến. thậm chí một nỗi đau còn đến trước nỗi đau:

Lính lại vào đầy bến.
Chỗ chuyển quân bầm tím cả chân trời
Mùa đông đi ra trận,
Có ánh mắt nào vui!
Và:
Ngày mai không biết nơi nào đánh?
Nhất định có người phải chết oan!
Một cái nhìn không chỉ lo lắng việc sinh tử mà còn là thứ tình cảm tàn phai trống vắng hoang vu phía tình yêu. Một cái gì thật xót xa:
Anh hành quân qua những lề đời chật hẹp.
Nắng phai màu quân phục trái tim anh.
Và em ạ ! Em đừng thương tưởng tiếc.
Một con người trong đời lính chiến chinh!
Đỗ Hoàng suy tư rốt ráo về kết cục của cuộc chiến, kẻ thì chết, người trở về thì khánh kiệt sức lực và mất mát. Một mất mát không nằm trong chi thể mà còn bị vắt kiệt trong cả mơ ước. Một làng quê không còn ánh lửa thắp lên nghĩa là dường như khống có cả ánh sáng cho tư duy, còn người lính rệu rã quay về liệu có còn sinh lực cho những ước mơ ?
mẹ hiền đón anh,
một người trọng bệnh.
qua vạn năm chưa ai chữa cho lành!
bây giờ anh không muốn tìm về người thân,
bởi sức lực trong anh đã kiệt.
tuổi yêu đương ngày xưa đánh mất,
trái tim vết chém u bầm!
phía quê nhà không một ánh lửa thắp lên.
bom đạn xáo trộn cày sông bến.
người lính tần ngần như kẻ chưa hồi sinh sự sống,
nhìn tầng mây ngơ ngác giữa trời quê.
chiến tranh,
chiến tranh
là thế kia!
lứa tuổi yêu đương không còn mơ ước.

( TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH )
Lãnh tụ Stalin có nói: chiến tranh, chết chóc nhiều khi chỉ là những con số thống kê. Nhưng nhà thơ Đỗ Hoàng không nghĩ vậy, cái nhìn của anh là một nhà thơ phải mang tính nhân văn, thơ anh dường như bao sân đến tất cả những người lính, những khía cạnh vất vả, gian lao, hy sinh, và anh không quên giành cái nhìn thật thương xót cho những cô gái chân yếu tay mềm, cành vàng lá ngọc phải lấm láp cát bụi khói lửa và hy sinh tàn khốc của chiến trường. Trong bài “Lính Gái” anh viết:
Đoàn lính gái áo quần còn mới
Lứa lính này đưa tới miền trong.
Họ không hề bị đeo gông,
Mà sao ánh mắt mênh mông nỗi buồn!
Xương trắng phơi nẻo ra tiền tuyến
Mồ gái tơ diều liệng, chồn giay!.
Lớp này rồi lớp khác thay,
Màu cờ lau trắng rợn lay sa trường!
Và cái chết sẽ chờ mọi lối,
Trên con đường dẫn tới miền trong.
Chiến tranh dai dẳng chưa xong.
Còn bao nhiêu chuyện đau lòng xảy ra!

Rồi Đỗ Hoàng khóc than cho một người đẹp ngã xuống bằng một khúc bi ca thật trữ tình tráng lệ. Một tiếng khóc khiến người ta thấy chiến tranh đã tàn hủy và tiêu diệt cả cái đẹp đau xót hoài phí đến nhường nào:
CÁI CHẾT NGƯỜI ĐẸP

Em chết rồi.
Người đẹp!
Viên đạn của thế kỷ nào bắn em?
Anh sững sờ giữa trái đất máu đổ.
Xác em nằm trong huyền ảo xa xôi.

Anh đi trên trái đất cô đơn.
Gió bấc lạnh thổi tung làn ngực nở.
Xác em nằm
Một hành tinh vứt bỏ.
Vó ngựa trường chinh lãnh đạm dẫm qua.

Anh không thể nào viết nỗi lời thơ.
Khóc em để loài người nguyền rủa!
Trong vô biên
Mạng em thua hạt cỏ.
Khóc em
Anh phản lại Trường Tồn!
Chiến trường Quảng Trị tháng 1 – 1974
Người Việt có câu: có cứng mới đứng đầu gió, với vốn liếng văn hóa dạn dầy, dài rộng, sâu lắng, và thi ca kim cổ đông tây đồ sộ, lại mang một tầm nhìn lớn cho thơ, một tầm vóc hoành tráng cho chữ nghĩa, làm gì Đỗ Hoàng chẳng tự tin và dám tả xung hữu đột đối mặt với lực lượng làm thơ mậu dịch đông rinh ríc. Có một phát hiện mới của loài người rằng: sáng tạo là việc của cá nhân chứ không phải làm việc là sản phẩm của đám đông. Hàng nghìn, hàng vạn người làm việc cũng không thể được gọi là sáng tác mà đó chỉ là sản xuất. Chính thế văn thơ bao cấp nhiều khi chỉ là chỗ không người. tôi vừa chia sẻ sự cô lập của Đỗ Hoàng vừa buộc phải thán phục anh. Nếu không có tâm hồn chịu sóng gió cô lập trước đám đông vần vèo nhũn nhẽo thì làm sao có được một Đỗ Hoàng thơ ca hoành tráng như vậy, dám làm một cây bút hàng đầu phản tỉnh lại cuộc chiến “nồi da sáo thịt”?! Bái phục! Bái phục!
NHĐ 30/94/2013

Nguyễn quang Thiều không biêt làm văn chương

  •   11/04/2025 16:22:00
  •   Đã xem: 86
  •   Phản hồi: 0
NGUYỄN QUANG THIỀU KHÔNG BẾT LÀM VĂN CHƯƠNG
Đỗ Hoàng
Nguyễn Quang Thiều viết thơ cũng hỏng (ra vô lối – thi tặc):“ Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua/Như dao sắc phất vào tôi tứa máu/Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói/Rằng nếu tôi lấy họ/Tôi sẽ ngủ với họ thế nào- Sự mất ngủ của lửa. Câu nầy quê tôi gọi giả đò hỏi – giả vờ hỏi – giả đò đui giòm lồn – giả mù xem lồn! Viết văn thì văn nô – Kẻ ám sát cánh đồng!- Chúng ta những ngọn gió thức dậy từ những nơi mà các ngươi không bao giờ biết được. Và các ngươi cũng không thể nào biêt được nơi chốn chúng ta sẽ đên. Đấy vừa là quyền uy vừa là bí mật của chúng ta. “ Thông điệp của những ngọn gió” - Chuyên đê Viết & Đọc” Sáo rỗng, dao to búa lớn, tù mù, khệnh khạng…(Đỗ Hoàng)
Các Cụ thời Pháp thuộc như Huy Cận, Xuân Diệu học trường Tây, cụ Huy Cận kể: “Họ hỏi mính chọn ngoại gì? “ Mình báo tiếng An nam! Nhờ thế mình viết được “Tràng giang”. Nếu mình học tiếng Anh thì mình có thể làm những bái ảnh hưởng của Bairon, Philip Larkin, George Orwell, William Golding. Ted Hughes, Doris Lessing . Đến nay chả ai nhớ thơ mình!
Các Cụ khiêm tốn nói thế chứ các Cụ học đến đại học thì tiếng Việt, chữ Hán của các Cụ cũng khá lám rồi. Những thiên – trời, địa – đát, tử - mât, tồn - còn, tử - con, tôn – cháu, lục – sáu, tam – ba, gia – nhà, quốc – nước, tiền – trước – hậu – sau, ngưu – trâu, mã – ngưa, cự - cửa, nha – răng, vô – chăng, hữu – có, khuyển – chó, dương – dê, qui - về, bái - lạy, qụy – quỳ, khứ - đi, lai – lại, nữ - gái, nam – trai, đái – đai, quan – mũ, túc – đủ, đa - nhiều, ái yêu, tăng – ghét, thức – biết, tri – hay, mộc – cây, căn rể…các Cụ thuộc như cháo. Bây giờ các người làm văn chương mà không biết Hán – Việt là một thiệt thòi lớn!
(trích) THÔNG ĐIỆP (通牒) CỦA NHỮNG NGỌN GIÓ – Nguyễn Quang Thiều
Chúng ta những ngọn gió thức dậy từ những nơi mà các ngươi không bao giờ biết được. Và các ngươi cũng không thể nào biêt được nơi chốn chúng ta sẽ đên. Đấy vừa là quyền uy ( 权威) vừa là bí mật (祕密) của chúng ta. Chỉ khi chúng ta tràn qua các ngươi thì các ngươi mới biết sự (亊) hiện diện (現面) của chúng ta. Mọi sự nổ lực (努力) săn tìm của sác ngươi đều bất lực (不力).C Chúng ta vừa lướt mình trên các ngươi vừa cất tiêng về Tự do (自由).
Chúng ta bay lượn trên bàu trời kỳ vĩ (奇伟)và lướt trên dất đai bât tận (不儘) từ ban mai đên đêm tối. Chúng ta không thuộc quyền sở hữu (属拳所有)của bất cứ ai nhưng hiện diện (現面) trong mọi ngóc ngách của đời sống này, tham dự(與)vào đời sống của mọi con người.
Chúng ta làm cho những cái cây bất động (不動) như đã chết trở nên quyến r(卷) rũ và kiêu hãnh (憍婞). Các ngươi hãy ngước măt lên những vòm lá. Chúng ta đang ngự trị (御治) ở dó. Chúng ta làm cho những chiếc lá bị phủ đầy bụi thức dậy và ngân (听) vang như những tiếng chuông vàng. Chúng ta làm cho những cái cây yếu hèn và sợ hãi phải cúi đầu. Chúng ta làm cho những cái cây có ý chí (意志) biết lớn lên trong bão táp trở thành (成) những cái cây bền vững và kỳ vĩ (奇伟)Trong những đêm tối của cô độc (孤独,chúng ta mang tiếng thì thầm của các Thiên thần (天神)qua khu vườn. Chúng ta mang đến cho những người đang thao thức trong đêm tối những điều nhân văn (人文), giai điệu kỳ diệu (佳調奇妙)của chúng ta. Chúng ta lách mình qua cửa và thì thầm với một cố bé,’ Hãy mở của giấc mơ của em ra”. Và trong giấc mơ lộng (弄)lẫy ngập tràn ánh Thiên thanh (映天青), cô bé xòe dôi cánh móng và thơm như nhưng cánh hoa tầm xuân nở trong ngày đầu xuân, bay đến xứ sở thần tiên (處所神仙) của mình. (hết tích)
Tôi ở trong miền Trung ra học Hà Nội nghe tin đồn Nguyễn Quang Thiều gia đình hiểm hoi nên xin Thiều con của người Chăm làm con nuôi vì thấy Thiều giông giống người Chăm!
Nhưng đọc trang viết của Thiêu ở trên thi Thiều đich thưc là Tàu Ô! Viết thế mặt mũi nào đi làm văn chương!

Chuyển truyện ngắn ra Thơ

  •   06/04/2025 16:02:00
  •   Đã xem: 74
  •   Phản hồi: 0
VÌ SAO TÔI DỊCH “THƠ VIỆT” RA THƠ VIỆT

Đỗ Hoàng

Tôi không phải là nhà phê bình chuyên nghiệp, nên thấy thơ thích là đọc, không thích thì thôi. Hơn nữa tôi là người làm thơ, mà thơ thì trăm người trăm vẻ, người thích kiểu này, người thích kiểu kia, không ai giống ai. Mình chê thơ người ta thì khác nào chị hàng cá nguýt chị hàng thịt. Vậy nên khi các kiểu thơ đua nhau ra đời, thậm chí có tác giả thơ được lăng xê này nọ hoặc đoạt những giải thưởng do nhiều tổ chức trao tặng, tôi vẫn mảy may làm im.
Nhưng rồi càng ngày càng thấy nhiều người sa đà vào viết kiểu thơ tắc tỵ hoặc dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống ( tức là đa ngôn ) thơ không vẫn, không điệu, không giống Việt, cũng chẳng ra Tàu, ra Tây. Thơ họ giống như người nước ngoài học 100 tiết tiếng Việt làm thơ Việt, cũng như chúng ta học 100 tiết tiếng Anh làm thơ tiếng Anh! Ấy vậy mà cũng có người hết lời ca ngợi xem đó là cách tân, đổi mới thơ Việt. Thật ra khi đọc kỹ thì thấy những người viết ấy chẳng có gì là cách tân, đổi mới, họ chỉ khuấy nước đục lên để không ai biết cái ao thơ của họ quá cạn mà thôi. Họ càng làm tắc tỵ để càng nhiều người không hiểu, để họ càng “thiên tài”.
Lại thêm nhiều người viết ca ngợi. Tôi thấy không đúng. Người không hiểu thơ, ca ngợi đã đành; người hiểu thơ cũng vì thế này, thế nọ mà ca ngợi là không được!. Cái hại cuói cùng không phải người làm thơ đích thực mà hại cho người đọc. Người đọc hoang mang không biết định hướng thế nào, đâu là thật, đâu là giả, vàng thau lẫn lộn! Họ hoang mang vì họ thấy những nhà phê bình có tên tuổi khen, những nhà thơ có thương hiệu khen. Như vậy thật là bất công.
Tôi thấy tôi phải làm một việc gì đó họa may cung cấp một thông tin chính xác cho người đọc về cái gọi là “ Thơ ” đang ngự trị văn đàn.. Tôi chẳng có diễn đàn nào, thôi chỉ có cách duy nhất là dịch nó ra thơ Việt, vừa cho mình hiểu biết đâu có người nào đó hiểu cũng được, thế là mừng rồi! Rồi đi đọc chui, xuất bản “miệng”!
Dịch những kiểu viết trên ra thơ Việt, tôi cũng áy náy lắm! Không cứ là thơ mà mọi điều trong cuộc sống đều phải luôn luôn mới, không có đổi mới tức là sự sống bị ngừng trệ! Nhưng đổi mới như thế nào?
Bố mẹ để cho cái nhà, mình chỉ xây thêm một gác nhỏ là mới rồi.; chứ bỏ nó đi rồi ra đồng che một túp rạ cũng gọi là mới sao? Chỉ cần một cơn gió nhẹ thì túp lều ấy bay ra thành bụi. Chưa nói đến chó sủa, mèo kêu cũng hoảng hồn! Rồi còn bọn trộm cướp đầy đường, đầy chợ!
Nhà thơ Hàn Mặc Tử có viết: “ Vẫn biết nghệ thuật chuộng ở sự tiến bộ, sự hoàn toàn từ tinh thần đến hình thức của bài thơ, song le ta không quên rằng, thơ của ta là thơ Quốc âm. Ta phải giữ đúng tinh thần Việt Nam của ta. Hơn nữa cái tinh thần phương Đông là nhờ ở cái đẹp kín đáo, cái tình sâu sắc, cái buồn thấm thía.”
Ngay cả cổ nhân cũng dạy: “Công phu thâm xứ thi bình dị” ( Thơ đạt đến chỗ thâm hậu công phu hay nhất vẫn là thơ rất bình dị ).
Trên thế giới này chưa có một nhà thơ thiên tài nào tự mình tạo ra được một hình thức của thơ kể cả Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, Lục Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Puskin…
Bỡi vì hình thức thơ của một dân tộc phải trải qua hàng nghìn năm mới có. Dân tộc ta cũng vậy mà các dân tộc trên thế giới cũng thế.
Rồi còn vần điệu. Những câu có vần điệu chưa phải là thơ. Nhưng đã là thơ có vần điệu thì đạt đến mức tuyệt bích. Từ khi mới có loài người, các tộc người chưa có quá một nghìn từ để trao đổi đã có thơ không vần. Loài người tìm ra vần điệu trong ngôn ngữ chẳng khác nào trong cuộc đời mình loài người tìm ra lửa. Trong tiến trình lịch sử tiến lên, thơ không vần điệu bị loại bỏ, chỉ còn thơ có vần điệu. Nhưng thời hiện đại, khi tư duy con người phát triển, những suy nghĩ đột phá, những ý tưởng độc đáo cũng để lại trong trí nhớ người đọc thì thơ không vần có chỗ đứng và trở thành hàng “độc”. Tuy vậy trên thế giới này những bài thơ không vần được người đời ghi nhận cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay! Làm thơ không vần cũng giống như đi xiếc trên dây, rất dễ thất bại!
Bây giờ có người làm thơ in đến bảy tám tập thơ không vần để bắt đọc giả coi đó là thơ siêu việt thì là một điều hoang tưởng!
Nhiều tác giả cắt, chẻ câu thơ, xuống dòng lên dòng một cách tùy tiện, viết không vần , không điệu một cách lạm phát, đấy chưa phải là sáng tạo ra hình thức thơ mới. Đấy chỉ là sự làm rối rắm lên mà thôi!
Tôi là người dịch Đường thi, tôi thấy những kiểu thơ bầy giờ nó còn lởm khởm hơn cả bản dịch nghĩa thơ của nước ngoài ra tiếng Việt. Người Việt mình có nhiều cách nghĩ, cách cảm, cách nói phong phú mà nhiều người không phát huy mà còn lược bỏ đi thì thật đáng tiếc!
Khi đọc bài thơ “ Mẹ sinh tôi” in trên phụ san Thơ - Báo Văn nghệ năm 2003 của một nhà thơ có câu:
“ Mẹ sinh tôi ra từ dưới đáy xã hội
Cũng từ dưới đáy xã hội, mẹ tôi nuôi tôi lớn lên…”
Tôi nảy ra ý nghĩ: - Hai câu thơ này có thể chuyển ra câu thơ lục bát truyền thống của Việt Nam nhưng vẫn không mất ý nghĩa mà còn giản bỏ nhiều từ thừa. Thế là tôi dịch:
“ Mẹ sinh tôi duới đáy đời,
Nuôi tôi khôn lớn nên người hôm nay…”
Khi đọc khổ thơ của một tác giả khác:
“ Đêm rơi qua dải khăn mây
Gió đợi chờ thơ thác
Nảy đọt yêu thương
Lớn trên tay những mầm khao khát
Khẻ về sắc cỏ thanh miên..”
Tôi nghĩ là tác giả này có tứ rất là hay, sao không thể hiện cái hay của mình mà đi nói lảm nhảm, thật uổng phí. Tôi liền dịch nó ra thơ Việt:
“Mây đêm buông xuống bất ngờ,
Thơ reo tiếng nhac, gió chờ đợi nhau.
Tình yêu có phép nhiệm màu,
Dồn khao khát nhớ lên đầu ngón tay!...”
Đến khi đọc Tạp chí Thơ số 5 năm 2006 có bài thơ “Ngươi Dig an” của một nhà thơ :
“Người Di gan không buồn/ chỉ biết hát/ nhiệt cuồng và mê loạn

người Di gan không đau/ chỉ biết múa/ vũ điệu ngã nghiêng phố xá/ rạch rúi làm xiếc diễn tuồng

người Di gan không khóc/ chỉ biết cười/ chào mời đổi chác/ giơ tay xin giơ tay vẫy mặt trời”
Viết thế là không hiểu con người. Một con người bình thương cũng không phải thế, huống gì cả dân tộc thương khó như dân tộc Di gan. Họ suôt đời lang thang kiếm sống bằng lời ca, điệu múa, họ đau buồn lắm chứ, tôi liền dịch:
“ Người Di gan quên buồn!
Khi họ múa, họ hát.
Nhiệt cuồng và mê thác,
Suốt ngày dài đêm thâu!

Người Di gan quên đau!
Khi họ hát và múa
Vũ điệu nghiêng phường phố,
Thân làm xiếc, diễn tuồng!

Người Di gan thậm buồn!
Tiếng cười thay tiếng khóc
Chào mời và đổi chác
Ngửa tay ăn xin trời!”
Thế là từ đó, khi đọc các loại thơ trên, tôi thấy bài nào quá tắc tỵ, quá đa ngôn tôi liền dịch ra thơ Việt. Lúc đầu tôi dịch để tự mình cố hiểu tác giả họ viết gì, hơn nữa khi tôi dịch ra thơ Việt, tôi mới nhớ bài thơ của họ qua bản dịch của tôi. Hầu như bài thơ nào tôi dịch lại tôi đều thuộc, còn đọc nguyên bản dù tôi là người học khoa học tự nhiên tôi không tài nào thuộc được! Sau đó thì đọc cho anh em thân hữu nghe, thay một lời phê bình!
Khi có Blog, tôi post lên blog chơi, giao lưu với mọi người.
Tôi được một nửa anh em, bạn bè đồng tình, nhà thơ Nguyễn Trác – Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn, nhà thơ Lê Đình Cánh, nhà văn Văn Vinh động viên tôi cứ dịch; một nửa phản đối kịch liệt. Thậm chí khi tôi trích dẫn những câu thơ tục tỉu của các tác giả để phê phán, họ lại vu cho tôi là người làm bẩn thỉu, làm ô uế blog và cảnh cáo blog tôi một tuần, nhưng vì bị sự cố nên bị cấm mất gần một tháng. Tất cả bài vở đều bị delete hết!
Số đồng tình viết trên blog của tôi, ca ngợi việc làm này! Tôi nhớ có chị Phương Phương, anh Nguyên Hùng, Tùng Bách, Nguyễn Đức Đát, Vương Trọng, Hồ Văn Thiện, Trần Quang Đạo, Nguyễn Hữu Quý…. Họ đều là những nhà thơ cự phách, nhà quản lý kinh tế, nhà khoa học. Anh Nguyên Hùng còn là tiến sỹ khoa học ở Nga, dịch giả thơ Nga!
Nhiều tác giả tán đồng bảo rằng: - Tôi đã làm rõ nghĩa các bài thơ mà khi đọc nguyển bản, họ không hiểu ra. Nhà thơ Nguyên Hùng viết:
“ Hoan hô bác Đỗ thật cừ,
Dịch Văn Cầm Hải cứ như uống trà.
Nguyên bản em đọc không ra,
Nhờ qua bản dịch biết là thật hay!”

Nhà thơ Tùng Bách viết:
“Kể ra chú cũng hào hoa
Dịch thơ Việt ra thơ Ta tuyệt vời
Riêng vụ “ Hoe chân lời” ( Một bài thơ tắc tỵ của Văn Cầm Hải )
Chú cũng phiên được, khiến tôi phục tài !”.
Nhà thơ Tùng Bách viết tiếp:
“Đỗ Hoàng là thi sỹ có công đầu trong việc giữ gìn sự trong sáng thơ Việt”.
Anh Hồ Văn Thiện viết: “Đỗ Hoàng đã làm một công việc tuyệt vời, còn khó hơn dịch thơ Tàu, thơ Tây ra tiếng Việt”
Ngay nhà thơ Hoàng Vũ Thuật khi tôi dịch bài “Mãi viên trà” của anh ra thơ Việt, anh cũng viết cho tôi: “Đỗ Hoàng dịch như thế là sát nghĩa, vừa sáng tạo lại mà không làm mất nguyên bản, thế cũng là tài hoa!”.
Nhưng cũng có nhiều ý kiến phản bác, có người viết tên thật, có người nặc danh, “ khủng bố”, viết với một thái độ hằn học quá đáng!
Ý kiến phản ứng của họ là:- Đỗ Hoàng đã làm một công việc vô bổ, làm trò cười cho thiên hạ, có lẽ ông bị điên hay ông tự quảng cáo mình. Nếu tự quảng cáo thì ông được điểm 9, còn các tác giả ấy họ được điểm 10. Cô Kim Oanh ( Bình Định ), cô Võ Thanh Hoa ( Vũng Tàu ), Khải Nguyên ( không biết ở đâu ) thì gay gắt hơn : “ Mỗi nhà thơ họ có đọc giả của họ, ông có đọc giả của ông, chúng tôi phản đối việc làm của ông! Cảnh cáo blog của ông là một việc làm rất đúng, để răn dạy người khác!”
Tự tôi, tôi thấy rằng, không chỉ làm thơ mà viết văn, để cho người đọc không hiểu và ngay cả bản thân mình không hiểu là có lỗi với công chúng, đó là chưa kể về sự sai lầm thi pháp, trong tư duy, và quy luật tâm lý tình cảm của con người. Nhà thơ Vương Trọng viết cho tôi:
“ Miệt mài chú dịch thơ Ta
Điên đầu nhức óc để ra cái gì?
Tự mình hành hạ làm chi!
Rồi thì nằm khểnh, thích thì uống bia.
Đặt bày trò nọ, trò kia,
Còn hơn chú định hành nghề dịch chui.
Lung tung họ nói những lời,
Họ còn chẳng hiểu, chú thời hiểu sao?
Chi bằng kệ họ với nhau!”
Đỗ Phủ đã từng nói: “Thi bất kinh nhân, tử bất hưu” ( Thơ chưa làm xúc động lòng ngươi, chết chưa yên!”
Cái được, cái không được chỉ chờ độc giả phán quyết! Còn thâm tâm tôi, tôi muốn phân vàng ra thau ra thau!. Đời lừa chúng ta nhiều quá rồi, các nhà thơ không nên lừa người đọc nữa!
Xin chờ ý kiến của mọi người!

Hà Nội ngày 23 tháng 1 năm 2008
Đ - H

Đỗ Hoàng
Nguyên văn:
Cỏ
Tác giả: Thanh Tâm Tuyền

Em bao giờ là thiên nhiên
anh cuối đầu xuống ngực
giòng mưa sắc lá
đau môi
Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín
cho thơm đường hôm nay đến sớm mai
hôn từ ngày dài tội lỗi
chưa quên
Gai trắng con ngươi mở mù lòa
hơi đất nằm trong tóc
thèm muốn mỗi hàm răng
từng móng vuốt
đầy đồng xanh hoa nhiều màu một người
sống sót
cỏ ơi cỏ kết thành lời
dàn nhạc huy hoàng
cô đơn
Giấc vụng về
tia nhọn sáng
đừng rơi hoàng hôn cánh rừng dầy
những ngực thương nhau
không áo
vì cỏ dại rối bời
Chúng ta ôm thời gian trong suốt
chẳng phân vân
như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ
như lá cây thầm ngã phủ vai trần
như tiếng tim thốt cười ngoài dĩ vãng
BÌNH GIẢNG
Hồi miền Nam tạm bị chiếm có hai tác giả Vô lối là Thanh Tâm Tuyền và Lê Văn Ngăn. Thanh Tâm Tuyền cón có làm thơ Việt, Lê Văn Ngăn toàn tòng Vô lối. Hai tác giả đã chết. Tuyền chết bên Mỹ, Ngăn chết trong nước. Ngăn sau giải phong miền Nam theo phe ta vào được Đảng Cộng sản Việt Nam. Vô lối của Thanh Tâm Tuyền thì dở hơi, cụt lủn, như bị thần kinh, Vô lối của Ngăn dài dòng văn tự, dây cà ra dây muốn lòng thòng xu thời báo công với Cách mạng không có ý nghĩa gì! Thua xa hàng vạn dặm các bản dịch nghĩa thơ nước ngoài!
Để giúp bạn đọc hiểu thêm đám Vô lối, tôi sẽ lần lượt phân tích, bình giảng các tác giả Vô lối được trích dẫn. Đầu tiên là bài Cỏ của Thanh Tâm Tuyền. Trước đây tạp chí thơ đã lăng xê Thanh Tâm Tuyền in một chùm thơ hẳn hoi. Vừa rôi tạp chí Nhầ văn & Tác phẩm cũng in thơ Tuyền và một bình luận khá dài. Tôi đã dịch ra thơ Việt của Tuyên và một bài phản biện tạp chí Nhà văn & Tác phẩm. Có là một loại bài đặt trưng cho lối viết dở hơi của Thanh Tâm Tuyền.
Mở đầu bài Cỏ là một câu rất ngớ ngẩn, vớ vẩn:
“Em bao giờ là thiên nhiên”
Em là con người, con người là một phần của thiên nhiên, sao còn nói một cách vô nghĩa, ngớ ngẩn như vậy!
Thiên nhiên đã được định nghĩa: “Tự nhiên hay cũng được gọi thiên nhiên, thế giới vật chất, vũ trụ và thế giới tự nhiên (tiếng Anh: nature) là tất cả vật chất và năng lượng chủ yếu ở dạng bản chất. "Tự nhiên" nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất, và cũng nhắc đến sự sống nói chung. Phạm vi bao quát của nó từ cấp hạ nguyên tử cho tới những khoảng cách lớn trong vũ trụ. Nghiên cứu về tự nhiên là một mảnh ghép lớn trong thế giới khoa học. Dù cho con người hiển nhiên là một phần của tự nhiên, nhưng những hoạt động của con người thường được phân biệt rạch ròi khỏi những hiện tượng tự nhiên.(Theo từ điên Wikipedia)
Em đã là thiên nhiên. Em to lớn như vậy, anh cúi đầu xuống ngực, làm sao được.Phóng đại em thành kẻ khổng lồ khủng long thế thì mần ăn chi được!
Câu tiếp là câu lại vô nghĩa, ngớ ngẩn, hâm hấp:
“giòng mưa sắc lá
đau môi”
Ba câu tiếp theo cũng vô thưởng, vô phạt, thừa chữ, thừa lời:
“Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín “
Thơ phải kiệm lời, tùy hoàn cảnh nhấn mạnh, còn ở đây có gì mà dùng đến ba chữ “những”
Tiếp theo cả một đoạn hôn hít, điên dại, tính dục bẩn thỉu, rời rạc, không có một ngữ nghĩa gì:

“hôn từ ngày dài tội lỗi
chưa quên
Gai trắng con ngươi mở mù lòa
hơi đất nằm trong tóc
thèm muốn mỗi hàm răng
từng móng vuốt
đầy đồng xanh hoa nhiều màu một người
sống sót “

Nối theo đoạn này cũng là một đoạn vô bổ, cũng đầy dục tính bẩn thỉu, rời rạc, tắt tỵ, đánh đố, còn thua ông nói gà, bà nói vịt. Ngỡ như Thanh Tâm Tuyên đang từ trong trại tâm thần Trâu Quỳ đi ra! Nào “ Cỏ ơi, cỏ kết thành lời”, “thèm muốn mỗi hàm răng”, “giàn nhạc huy hoàng”, “cô đơn” đến “những ngực thương nhau/ không áo”…:
“dàn nhạc huy hoàng
cô đơn
Giấc vụng về
tia nhọn sáng
đừng rơi hoàng hôn cánh rừng dầy
những ngực thương nhau
không áo
vì cỏ dại rối bời “
Đoạn kết cũng tù mù, uốn éo, vô nghĩa “ôm thời gian trong suốt chẳng phân vân” sao còn so sánh như”, sáo rỗng “ huy hoàng”, “những ngực thương nhau” “ như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ”?.
Ngoài việc triệt tiêu trăm phần trăm vần, điệu Vô lối củaThanh Tâm Tuyền có cả bài Cỏ này là một kiểu viết quái thai không chấp nhận được trong văn học dân tộc Việt.
Hà Nội 10 – 12 – 2017
Đ - H

Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt
CỎ
Mong em nét đẹp như tiên
Cho anh cúi đầu xuống ngực
Mặc dòng mưa dài lá sắc
Cỏ hoa hoa cỏ làn môi!

Những ngón tay thon, nụ cười
Mưa nắng tháng ba, tháng bảy
Thơm đường đến ngày mai ấy
Nụ hôn dài không hề quên!

Hương đất còn trong tóc em
Ơi hàm răng đều trắng muốt
Đầy đồng hoa thơm tươi tốt
Sống vui lại một kiếp người!

Cỏ yêu, cỏ kết thánh lời
Cô đơn huy hoàng dàn nhạc
Giấc mơ vọng về tiếng hát
Đừng rơi hoàng hôn rừng dày!

Hai ta cầm tay trong tay
Ôm lấy thời gian trong suốt
Mặt trời chuyện trò hẹn ước
Tiếng tim vang vọng tiếng cười!

Hà Nội 10 – 12 – 2017
Đ – H

Dịch Thơ Việt ra thơ Việt

Thanh Tâm Tuyền

Liên những bài thơ tình thời chia cách ( 1 )

I- Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
( nếu đời người không có những sớm mai )
anh trở dậy
đọc thơ Nguyễn Du
những câu lục bát buồn rưng rưng cuối đường của một ngày
chợt anh muốn viết tặng em
không thể được
em làm con tin ở một thế giới
mà lòng sầu héo là một trọng tội
anh cố viết những lời thơ thật tự nhiên
như câu chuyện buổi còn gặp gỡ
như khoảng trời đơn sơ sau cửa sổ
anh gọi thầm một mình
trong giấc mơ phủ làn tóc biếc
anh biết anh gọi thầm một mình

II Sự vắng mặt của em và bãi biển mùa đông
thành phố đau từ mỗi cột đèn
mỗi bậc thềm cửa đóng
em đi không nón không áo choàng
mưa tầm tả
những cửa sổ đêm muốn hé ra
nỗi loạn
và mắt em mặt trời cỏ hoa với môi anh đằm thắm
và rực rỡ nhớ thương
( 1 ) Bài in trên Tạp chí Thơ năm 2006

Dịch:

Thơ chia xa

Có em như những sớm mai
Cho anh trở dậy đọc tài Nguyễn Du.
Những câu lục bát buồn ru,
Anh muốn viết tặng, nhường như khó làm.
Em con tin một địa đàng,
Mà lòng sầu héo đã mang tội đồ.
Anh cố viết những lời thơ,
Như câu chuyện buổi bất ngờ gặp nhau.
Khoảng trời cửa sổ nhạt màu,
Một mình anh gọi mơ đau tóc thề!

Em xa mùa lạnh biển mê,
Cột đèn, thềm phố tái tê nỗi buồn.
Em đi không nón, áo buông,
Mưa tầm tả cửa, đêm tuồng hé ra.
Mắt em trời thắm cỏ hoa,
Môi anh nồng cháy vỡ òa nhớ thương!

Hà Nội ngày 25 - 9 - 2006

Chuyển truyện ngắn hay ra thơ!

  •   05/04/2025 09:15:00
  •   Đã xem: 74
  •   Phản hồi: 0
CHUYỂN TRUYỆN NGẮN HAY RA THƠ (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Ltg : Báo Mậu dịch hai ba chục năm nay luôn tung hê, lăng xê đám thơ vô lối – thi tăc lêm trời cao ! Những cái tên nghe lộn mửa đươc nhắc đi, nhắc lại khắp các tờ báo vô văn chương : Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phú Trạm Inasara, Vi Thùy Linh, Mai Văn Phấn…
Nguyễn Quang Thiều mới đây nhất ra tập « Lò Mổ » - một tập hoạn heo. Tôi chưa đọc trọn tác phẩm (chỉ mới đọc những câu trích trên mạng) nhưng như tôi từng phát biểu, Nguyễn Quang Quang Thiều không biết làm thơ, phú , viết rât ẩu sỉ, dung tục bẩn thiu, bô đen đạo đức, thuần phong mỹ tục…Tuy cs vđi du học, nhưng du học Cu Ba, người Mỹ la tinh dạy cho tiêsng Anh nên kiến văn rất lỏm bỏm. Hò Chí Minh là nhà thơ lớn đa viết « Tự do tiên khách trên đời, Biết đâu trong ngục có người khách tiên ! » Một câu thơ tổng hợp bao quát rộng rãi. Trong toán học học gọi là bao hàm ngoài, Nguyễn Quang Thiều chẻ ra kiểu quy nạp không hoàn toàn cũng trong toán học « Ngọn có tự do sẽ thành thảo nguyên / Con chim tư do sẽ thành bầu trời/ Con người tự do sè làm nên vũ trụ… » Con tâm linh thì sao ? Qui nạp không hoàn toàn kể đến lúc nào mới hêt !
Vô lối – thi tăc Hoàng Thụy Hưng thường ký Hoang Hưng. Hoàng Hưng sinh năm 1942, quê Hưng Yên. Tốt nghiệp đại học năm 1965. Thời đó có bằng cấp đại học là quá danh giá. Bao nhiêu người không vào được đại học phải đi làm công nhân, phụ hồ, phu phen lục lộ (bây giờ gọi là thợ đụng) « Em ơi em ! Đừng yêu anh nữa . Trái tim anh vôi vữa hết rồi » ! Hoàng Hưng được về làm bao Người giáo viên nhân dân ! Một tờ báo có chữ1 Ai cũng có chữ ! Riêng Hoàng Hưng không có chữ (Mặc dù ở tù Hoàng Hưng tự học chữ Pháp dịch được thơ Pháp). Tuổi của Hoàng Hưng là tuổi tham gia trận mạc. Những người cùng tuổi , cùng thời đã rât nổi danh :Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ…Hoàng Hưng chuyên bàn đèn thuốc phiện (đưa thơ Hoàng Cầm ra nước ngoài – gọi là đổ nước đái cho Hoàng Cầm). Tư cách thế nên Công an giam tù. Ra tù gã làm tho, in thơ rất bậy bạ : « Con gà đen, con gà đen/ Cởi quần chưởi thề ! »/Bạn giờ giao hợp nơi đâu/ Hay về gác cũ sắc màu đung đưa !». Gã tâm hồn bẩn thỉu, tăm tối. Gã được Nguyên Ngọc cho giữ trang Văn Việt, gã trao giải thơ cho ga, tặng những ddwass viết hỏ lốn như Thái Hạo…Gã tâng bốc vô lối – thitawcj Nguyễn Quang Thiều để Thiều in cho một chùm 10 bài vô lôi khệnh khang cho mình là « chân trời », sắp giật giải Nobel (Viết &Đọc chuyên đề mùa đông năm 2023, trang 213) « « Hai bên Tam Đảo Ba Vì/ Tôi đứng giữa/ Lặn lẽ trèo/ Hết bên này đến bên kia. »
VIÊT THEO KIẾU CÂU THƠ – Truyện ngắn MUA NHÀ của Nam Cao.
Một lúc sau, chẳng biết đã gửi em cho ai được, đứa con gái lân la gần tôi, xem dỡ nhà. Tôi có dịp trông gần nó. Nó gầy ốm quá. Cổ tay, cổ chân chỉ con con. Mặt chau chau. Quần áo rách lượt thượt. Răng của nó cứ nhe ra một cách thương hại lắm. Tự nhiên tôi ngán ngẩm. Tôi thở dài một tiếng. Rồi tôi buột mồm hỏi nó:
- Từ sáng tới giờ, em đã có gì ăn chưa?
Nó không đáp, chỉ lắc đầu uể oải. Hình như nó đang bận nghĩ ngợi điều gì. Mắt nó nheo lại. Cái mặt nó cứ cau cau. Có lẽ chỉ vì nắng quáng. Nhưng tôi thấy nó có vẻ thù ghét tôi lắm. Tôi nhắc thầm trong trí: ta không mua thì người khác …
Những mè, rui đã xong rồi. Người thợ mộc bắt đầu tháo gỗ. Tiếng dùi đục kêu chan chát. Những tiếng rắn chắc vang lên, lộng óc. Tôi thấy con bé bừng mắt. Nó không nhe răng ra nữa. Đôi môi nó bụm lại. Hai má nó phình ra một chút. Cứ thế, nó chẳng nói chẳng rằng, chạy bình bịch sang nhà hàng xóm. Nó định làm gì vậy? Lòng tôi thắc mắc nỗi lo không rõ rệt. Bỗng tôi nghe một tiếng trẻ con khóc nức nở và hờ:
- Mẹ ơi!…
Tim tôi động một cái giống như bước hụt. Rồi nó đập loạng choạng. Tôi hơi lảo đảo. Bây giờ thì tôi không lẩn trốn những ý nghĩ của tôi được nữa. Tôi ác quá! Tôi ác quá! Tôi phải thú với tôi nhiều rồi…
Phải, tôi ác quá, anh Kim nhỉ. Rồi đây, hối hận sẽ toả một bóng đen vào trong cái nhà mới của tôi, rộng rãi và sạch sẽ hơn cái trước. Những chiều đông lạnh lẽo, một con thạch sùng nấp trên một cái xà ngang, sẽ tặc lưỡi nhắc cho tôi biết: Tôi ác quá! Tôi ác quá!… Nhưng mà thôi anh Kim ạ! Nghĩ ngợi làm gì nữa? Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc cũng chỉ là một cái chăn hẹp. Người này co thì người kia bị hở. Đâu phải tôi muốn tệ? Nhưng biết làm sao được? Ai bảo đời cứ khắt khe vậy? Giá người ta vẫn có thể nghĩ đến mình mà chẳng thiệt gì đến ai!…
VIẾT THEO KIỂU CÂU THƠ :
Một lúc sau, chẳng biết đã gửi em cho ai được, đứa con gái lân la gần tôi, xem dỡ nhà.
Tôi có dịp trông gần nó.
Nó gầy ốm quá.
Cổ tay, cổ chân chỉ con con.
Mặt chau chau.
Quần áo rách lượt thượt.
Răng của nó cứ nhe ra một cách thương hại lắm.
Tự nhiên tôi ngán ngẩm.
Tôi thở dài một tiếng. Rồi tôi buột mồm hỏi nó:
- Từ sáng tới giờ, em đã có gì ăn chưa?
Nó không đáp, chỉ lắc đầu uể oải.
Hình như nó đang bận nghĩ ngợi điều gì.
Mắt nó nheo lại.
Cái mặt nó cứ cau cau.
Có lẽ chỉ vì nắng quáng.
Nhưng tôi thấy nó có vẻ thù ghét tôi lắm.
Tôi nhắc thầm trong trí: ta không mua thì người khác …
Những mè, rui đã xong rồi.
Người thợ mộc bắt đầu tháo gỗ.
Tiếng dùi đục kêu chan chát.
Những tiếng rắn chắc vang lên, lộng óc.
Tôi thấy con bé bừng mắt.
Nó không nhe răng ra nữa.
Đôi môi nó bụm lại.
Hai má nó phình ra một chút.
Cứ thế, nó chẳng nói chẳng rằng, chạy bình bịch sang nhà hàng xóm.
Nó định làm gì vậy?
Lòng tôi thắc mắc nỗi lo không rõ rệt.
Bỗng tôi nghe một tiếng trẻ con khóc nức nở và hờ:
- Mẹ ơi!…
Tim tôi động một cái giống như bước hụt.

Rồi nó đập loạng choạng.
Tôi hơi lảo đảo.
Bây giờ thì tôi không lẩn trốn những ý nghĩ của tôi được nữa.
Tôi ác quá! Tôi ác quá!
Tôi phải thú với tôi nhiều rồi…
Phải, tôi ác quá, anh Kim nhỉ.
Rồi đây, hối hận sẽ toả một bóng đen vào trong cái nhà mới của tôi, rộng rãi và sạch sẽ hơn cái trước.
Những chiều đông lạnh lẽo, một con thạch sùng nấp trên một cái xà ngang, sẽ tặc lưỡi nhắc cho tôi biết:
Tôi ác quá! Tôi ác quá!…
Nhưng mà thôi anh Kim ạ!
Nghĩ ngợi làm gì nữa?
Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc cũng chỉ là một cái chăn hẹp.
Người này co thì người kia bị hở.
Đâu phải tôi muốn tệ?
Nhưng biết làm sao được?
Ai bảo đời cứ khắt khe vậy?
Giá người ta vẫn có thể nghĩ đến mình mà chẳng thiệt gì đến ai!…
Trích “Mua nhà” – Truyện ngắn Nam Cao.
Ltg: Bọn vô lối – thi tặc chúng đâu tỉnh người. Chúng hãy xem lạ vô lối – thi tặc của chúng có trâng nào xa xót âm vang như truyện ngăn của Nam Cao.Toàn một lũ bệnh hoạn giặc chữ ngu độn, gian manh, lèo lá!
(còn nữa )

Chuyển văn xuôi ra thơ

  •   04/04/2025 15:12:00
  •   Đã xem: 63
  •   Phản hồi: 0
CHUYỂN VĂN XUÔI THÀNH THƠ
Đỗ Hoàng
Đám thi tặc – vô lối bây giờ cứ viết bỏ vần điệu là chúng coi đó là thơ. Bởi vì chunhs viết ngô ngọng, lủng ca, lủng củng, chuột không ra chuột, dơi không ra dơi! Trong 27 tên Trùm Sò vô lối – thi tặc, đứa nào cũng như đứa nào phản lại thơ ca tổ tiên!
Câu hỏi cuối ngày
Nguyễn Quang Thiều
“…Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào

Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào”
Chuyển ra văn xuôi là bài viết dung tục, bậy bạ nhất, không có chỗ đứng trong văn chương nước nhà!
“giòng mưa sắc lá
đau môi”
….
“Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín “
(Thanh Tâm Tuyền)
Thanh Tâm Tuyền bài này không viết dâm ô, bẩn thỉu, giả đò đui dòm lồn như Nguyễn Quang Thiêu nhưng chẳng biết gã lảm nhảm điều gì! Như một thằng ở Trâu Quỳ!
Hãy xem bai thơ sau ‘ Chuyển từ văn xuôi sang” – Đường chúng ta đi – Nguyễn Trung Thành – Nguyên Ngọc
“Đêm nay là một đêm chuẩn bị. Ngày mai chúng tôi sẽ ra trận.
Chúng tôi đóng trong làng. Bây giờ đã khuya, bốn bề đều im lặng. Cho đến ngôi sao xa ngoài khung cửa cũng đứng im, lóng lánh như giọt nước mắt vui lặng lẽ của người vợ ở quê ta gặp chồng sau mười năm trời gian lao và cách biệt. Gió se lạnh, thoang thoảng hương lúa lên đòng, thơm như sữa một người mẹ trẻ.
Tôi nằm đã lâu, không ngủ. Không sao ngủ được. Có gì đấy, vừa êm ả vừa trào sôi đang dậy trong lòng tôi, người lính đêm nay.
Sáng mai chúng tôi sẽ ra trận. Đội trưởng của chúng tôi nói:
- Ngủ đi, ngủ cho ngon. Mai sẽ làm một trận tiêu diệt thật gọn!
Tôi nghe lời, nhắm mắt, rồi mở mắt. Không ngủ được. Sáng mai chúng tôi sẽ ra trận. Tôi bồi hồi suy nghĩ vì việc đó ư? Không, tôi là một người lính cũ. Trong đời tôi, đêm nay là đêm chuẩn bị ra trận lần thứ bao nhiêu rồi, cũng không còn nhớ rõ. Điều gì đây? Có gì đây đang trào dậy trong lòng tôi, như một linh cảm mơ hồ, như một hơi men cay, một cơn sóng ngầm xao động ở tận chỗ sâu kín của tâm hồn.
Viết dài ngắn theo hình thức của Thơ:
“Đêm nay là một đêm chuẩn bị.
Ngày mai chúng tôi sẽ ra trận.
Chúng tôi đóng trong làng.
Bây giờ đã khuya, bốn bề đều im lặng.
Cho đến ngôi sao xa ngoài khung cửa cũng đứng im, lóng lánh như giọt nước mắt vui lặng lẽ của người vợ ở quê ta gặp chồng sau mười năm trời gian lao và cách biệt.
Gió se lạnh, thoang thoảng hương lúa lên đòng, thơm như sữa một người mẹ trẻ.
Tôi nằm đã lâu, không ngủ.
Không sao ngủ được.
Có gì đấy, vừa êm ả vừa trào sôi đang dậy trong lòng tôi, người lính đêm nay.
Sáng mai chúng tôi sẽ ra trận. Đội trưởng của chúng tôi nói:
Ngủ đi, ngủ cho ngon. Mai sẽ làm một trận tiêu diệt thật gọn!
Tôi nghe lời, nhắm mắt, rồi mở mắt.
Không ngủ được. Sáng mai chúng tôi sẽ ra trận.
Tôi bồi hồi suy nghĩ vì việc đó ư?
Không, tôi là một người lính cũ.
Trong đời tôi, đêm nay là đêm chuẩn bị ra trận lần thứ bao nhiêu rồi, cũng không còn nhớ rõ.
Điều gì đây?
Có gì đây đang trào dậy trong lòng tôi, như một linh cảm mơ hồ, như một hơi men cay, một cơn sóng ngầm xao động ở tận chỗ sâu kín của tâm hồn.(trích)
Ltg : Bài thơ văn xuôi nó hay gấp vạn lân các loại thơ vô lối – thi tặc in nhan nhản trên mặt báo mậu dịch. Cả Nguyễn Quang Thiều (Chủ tịch Hội Nhà văn Viêt Nam) , Nguyễn Bình Phương (phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam) và 27 tên Trùm Sõ vô lôi – thi tặc cả đời của chúng không có được một chữ vào đứng trong bài thơ chuyển từ văn xuôi này !
(còn nữa)

Văn chương giật lùi...

  •   04/04/2025 10:39:00
  •   Đã xem: 60
  •   Phản hồi: 0
VĂN CHƯƠNG GIẬT LÙI
Đỗ Hoàng
Trong sinh vật, muôn loài phát triển, người ta càng phân chia nhánh, giống, loài, bộ….Văn chương cũng vậy! Người ta chia ra văn vần (thơ), văn viết (nói và viêt). Về thơ cũng chia ra nhiều thể loại thơ (như thơ ngắn, lục bát, song thất lục bát, đường luật, thơ dài (trường ca)…
Đến thế kỷ XIV, XV, XVI…ở châu Âu, nhất là các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha …các nhà thơ bỏ vần điệu để cảm hứng trọn ven!
Nước ta, từ rất sơm cha ông chúng ta đã phân chia thể loại khá chính xác! Các Cụ phân ra văn viết, văn vần (thơ). Văn “Vần” gọi thơ! Còn những loại thơ bỏ vần điệu, đối…các Cụ gọi: Hịch, Chiều, Tụng, Cáo, Sắc, Phú, Sấm, …
Những nước có dân tộc nói (phát âm) đa âm , mỗi từ của họ như một câu tho cua người đơn âm bỏ vần điệu còn có thành côn. Những nước phát âm đơn âm như các nước phương Đông thì thơ bỏ vần điệu khó thành công.
Việt Nam cũng là nước đơn âm. Giữa thế ký XX đến nay các cây bút làm thơ không vần bùng phát rầm rộ.
“Mẹ đã hóa vào cao xanh kia
Cao sang và hư ảo

Đó là gương mặt thật của mẹ
Gương mặt của người mẹ vỹ đại đã sinh ra con
Tiếp đoạn sau lại rất thủ phận, người mẹ vỹ đại biến mất, chỉ còn:
“Bởi vì mẹ ơi mẹ con mình thật nhỏ bé
Chỉ như cái bòng côi cút trong cuộc đời”
Giáng Vân
“tôi kêu toáng lên thức giấc mơ vẫn
cứ thấp lùn chạy xộc vào nhà trong
……
soi lại trăm lẻ lần mới đốn ngộ
ra rằng làng nước quỷ thần ơi cả
xóm đang sống bằng đầu gối.”
(Đầu gối 1) – Inrasara Phú Trạm
Sóng vẫn đập vào eo biển - Lê Văn Ngăn
1.
Tôi thầm hỏi có phải em đang gửi lòng mình qua sóng biển
nhắn cho tôi biết
rằng nỗi đau đớn em vẫn còn mang nặng
Qui Nhơn Qui Nhơn đồng ruộng mía phía Tây
phất phới vườn bông gòn
những đầm nước mặn
im bóng cửa nhà
Qui Nhơn Qui Nhơn trên thảm nước xanh rờn của thuyền đánh cá và chim én
Buổi sáng hay chiều hôm từng chuyến phi cơ
Vô lối – Phản lại thơ ca!
Vô lối manh nha và xuất hiện ở Việt Nam trên dưới nửa thế kỷ từ giữa thập kỷ 50 thế kỷ trước cho đến hôm nay. Nó bùng phát như nấm độc mọc sau mưa là từ thập kỷ 90 thế kỷ trước và nhất là khi Hội Nhà văn Việt Nam trao giải cho tập Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều. Và nó bị kết liễu khi Hội Nhà văn Việt Nam trao giải cho nó vào năm 2010 – 2011 với 4 tập Vô lối của Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Đinh Thị Như Thúy.
Thời gian Vô lối bùng phát đến nay đã trên dưới 20 năm (1992 – 2012) nhưng nó không gây được tiếng vang, không dấy lên một phong trào thơ ca nào cả. Nó có cách cảm, cách nghĩ tù mù, rối rắm, khập khà khập khễnh, kênh kiệu, lôm nhôm, loam nhoam, lộn xà lộn xộn… với một loại hình câu chữ dài dòng lê thê lếch thếch hoặc kể lể con cà con kê, hoặc nói năng lảm nhảm rối rắm, hoặc làm duyên làm dáng vô bổ, hoặc uốn éo da lươn, hoặc tịch mịch tối bưng, hoặc đen ngòm da gấu, hoặc đa ngôn đa quái, hoặc lai căng chữ nghĩa nước ngoài một cách thô thiển đàng điếm hoặc mê muội bệnh hoạn về tình dục thể hiện trong câu viết, trong tâm tưởng ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nó bị đại đa số công chúng, bạn đọc của toàn dân tộc phản bác dù nó được báo chí chính thống, cục vụ viện chính thống, giáo sư, tiến sỹ văn chương, học giả đầu ngành, cánh hẩu lăng xê, tán tụng đưa lên mây xanh và dành không ít tiền thuế của dân đeo vòng “nguyệt quế” rởm cho nó!
Xin nhắc lại một vài nhận dạng Vô lối.
Đó là một loại hình không có trong tất các loại thể văn học nước nhà và thế giới. Nó dịch không ra dịch, mô phỏng không ra mô phỏng, không phải phú, không phải tế, không phải hát nói, không phải kịch, không phải ca từ, không phải ngâm, không phải vịnh, không phải hát vui chơi, không phải hát ru em, không phải nói lối, không phải văn xuôi, không phải kể chuyện, nó là một loại quái thai của văn chương! Nó chính là Vô lối!
Đặc điểm của Vô lối là: Thứ nhất là nó chối bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, chối bỏ thẩm mỹ của loài người; thứ hai là triệt tiêu một trăm phần trăm vần điệu; thứ ba là viết dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống; thứ tư là tù mù, tịch mịch, rối rắm, đánh đố mình, đánh đố người đọc; thứ năm là đại ngôn, sáo rỗng, trống hơ, trống hoắc, hô khẩu hiệu; thứ sáu là dung tục bẩn thỉu và tình dục bệnh hoạn; thứ bảy là sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, chưa Việt hóa…
Gooki nhà văn Xô viết (Liên Xô cũ) đã từng nói: “Nhà văn không biết đến văn học dân gian là một nhà văn tồi”. Đến Kalinin lãnh tụ của Liên Xô cũ cũng nói đại ý: “ Nội dung và hình thức văn học dân gian là thiên tài, các tài năng lơn về văn học đều biết tiếp thu và học tập thành công văn học dân gian. Bao nhiều tài năng lớn trong nước và thế giới đã minh chứng điều đó: Puskin, Lecmongtop, Bairon, Oma Khayam, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ…
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẻ ngược xuôi hở chàng
Đưa nhau một bước lên đàng
Cỏ xanh hai dãy mấy hàng châu sa
(Ca đao)
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Đoạn trường tân thanh – Nghuyễn Du)
Sinh vi vạn nhân thê
Tử vi vô phu quỷ
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chống
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)

Những người viết Vô lối chổi bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và dân tộc, chối bỏ cách nói cách cảm của ông cha. Trước tiên, Vô lối triệt tiêu 100% vần điệu nhưng câu viết thì cứng cỏi, khô khan, không có một chút truyền cảm, không rung động lòng người. giống như ông nói gà, bà nói vịt, tù mù, hủ nút. Đọc nó có cảm giác lê thê, vô bổ:

“…Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
(nếu đời người không có những sớm mai)
anh trở dậy
đọc thơ Nguyễn Du
những câu lục bát buồn rưng rưng cuối đường của một ngày
chợt anh muốn viết tặng em
không thể được
em làm con tin ở một thế giới
(Thanh Tâm Tuyền)

Phan Rang, những năm ấy, có lẽ chị Ba không nhớ nữa
nhưng tôi kẻ từng chịu ơn chị, tôi không thể nào quên quá khứ.
Năm ấy, tôi đến từ phương xa
không giấy tờ, không người quen, không nhà không cửa
và tương lai tôi
tương lai ở trong tay những kẻ bố ráp bắt người đi đánh thuê cho quân xâm lược
tương lai buồn tênh như con đường bụi khô ngoài quán cà phê chiều hôm gió cuốn.
(Lê Văn Ngăn)

Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Đêm ấy tôi nằm trong chăn nghe tiếng chim đập cửa
Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi
(Nguyễn Quang Thiều)

Tôi đã làm khổ cô láng diềng niên
khóa cuối trung học trước khi làm lang
thang. Năm năm nàng chờ, thằng Wang nói
mầy quá tệ làm nó khổ mầy ngủ
ngon ăn khỏe còn nhăn răng cười như
khỉ. Ôi em còn hay đã thành ma,
hôm nay trời trăng nào biết? Tôi đã
chửi tệ bà nhà quê đáng tuổi mẹ
….
Ông không làm gì cả, đi loanh
quanh. Ông không đi đến đâu cả,
đi rồi về. Ông không làm gì
cả, ông suy nghĩ – không nghĩ ra
cái gì cả. Con cháu nói thứ
ăn hại, ông cười buồn. Lối xóm
bảo đồ lười biếng, ông nín lặng.
(In ra sa ra)…
Bây giờ là lúc có thể chia tay với điện thoại để bàn, cá vi dít, nắm đấm mi crô
Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường
Một mình một ba lô với xe đạp
Bây giờ gió gọi anh đi
Mặt trời đánh nhịp về tám hướng
Từ giã cà vạt, giày đen lời trịnh trọng
Anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ
Hò hét một mình, đọc những gì mình yêu thích, ghi chép những gì cần ghi chép
(Nguyễn Khoa Điềm)

Thành đôi môi đẫm rượu
Lênh đênh qua hàng quán tàn phai
Với cái nhìn bạc màu kiêm ái
Anh nhận ra tro tàn kim cương
Sau chớp mắt chậm như vĩnh cửu
Còn nhớ chăng bầu trời quạnh hiu
Trong thân thể gầy gò nơi giam giữ phận anh thoáng chốc
Em hay vầng trăng khiến nó mịt mù
(Nguyễn Bình Phương )

thanh tẩy (2) mãi vẫn không thấy sạch
quay về tắm bằng ngọn đèn

thử đưa bờ vai về phía ánh sáng
rồi cả hai tay
bàn chân, cằm, đầu gối
cả đôi tròng mắt và tiếng ho khan

xối ánh sáng vào từng góc khuất
gốc khuất như lò thúc mầm (3)
như thép nóng đem tôi vào nước
như quả trứng trong ổ đang ấp
rễ thân cành đã chết đâm ngang
(Mai Văn Phấn)
Trăng sáng
Ngư dân ở nhà chơi với vợ
đợi đêm còn ra với phong ba

Trăng sáng
ước bạc, lưới không sao giấu mắt
Cá băng tung tẩy từng đàn

Ngộp thở
Phố cổ oi, đèn lồng vàng và đỏ
Người đi từng đang đổ về phía bờ sông
(Phan Thị Vàng Anh)
Vô lối viết câu dây cà ra dây muống, dài dòng văn tự mà lại không có một thông tin, một ý nghĩa, đọc lên như hủ nút, rối rắm, ngúc nga, ngúc ngắc, tâm thần, đa số các câu dài câu dài 30 , 40 chữ, thậm chí có câu dài đến 40, 50 chữ. Đặc biệt có câu dài 41, 58 chữ, như điển hình các câu sau: câu trong bài “Sinh ngày 4 – 4”. Câu này đã vượt câu thơ Nguyễn Thị Kiêm thời Thơ mới 15 chữ;
Trò Domino với hiệu ứng lan truyền, đổ sang nhau những ăn năn – bất cần, trong sạch – vấy bẩn, ý nghĩa – vô bổ, cạn kiệt – lấp đầy, tuyệt vọng và ngộ nhận, đoàn tụ và lưu lạc, trấn tỉnh và hoảng loạn.
(Vi Thùy Linh)
Câu của Nguyễn Quang Thiều trong Cây ánh sáng đạt kỷ lục, vượt Nguyễn Thị Kiêm đến 31 chữ (!) tức là 58 chữ.
Cả những người đàn bà tội lỗi và thánh thiện vẫn vuốt ve con đỉa khổng lồ bám chặt bộ xương chàng và thì thầm run rẩy với con đỉa ấy, bị hành hạ vì con đỉa ấy, tự vẫn vì con đỉa ấy và tìm thấy một chút ý nghĩa đầy ảo giác với con đỉa ấy
(Nguyễn Quang Thiều)
Người đọc nào kiên nhẩn đọc câu trên chắc cũng phải điên lên cùng kẻ viết!
Trong khi đó thơ ca tinh hoa của thế giới phương Tây hay phương Đông chỉ một bài thơ 20 chữ đã sống mài hơn 2 000 năm và còn sồng lâu hơn nữa:
“Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm túy sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai”
(Lưu Vũ Tích – Đời Đường)
Trước hoa giờ nâng chén
Mấy chén ngất ngư say
Chỉ buồn hoa lại nói
Không nở cho lão này!
(Đỗ Hoàng dịch)
27 chữ của Nguyễn Thị Kiêm thời Thơ mới đã không còn thì câu 41 chữ của Vi Thùy Linh và câu 58 chữ của Nguyễn Quang Thiều thời Vô lối sẽ tan như bong bóng xà phòng!
Những người làm Vô lối bây giờ ngoài việc chối bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, họ còn dấn thêm một bước là dung tục hóa câu viết mà các sách dâm thư cổ ( Nhục bồ đoàn) kim (các trang mạng đen bẩn thỉu ) hiện nay cũng còn thua, cái nhìn rất bệnh hoạn vào người khác giới:
Mặt hồ thủ dâm nỏi sóng
(Nguyễn Quang Thiều)

Một bài thơ viết ở Hà nội

Có một bài thơ tôi viết
Trong bóng tối
Của thành phố này

Đấy không phải là đêm
Tôi vẫn nhìn thấy những đám mây nặng
Bò trên những mái nhà thành phố
Và vẫn nhìn thấy
Một người đàn bà
Tắm trong một toilet không có rèm che
Kỳ cọ như tuốt hết da thịt mình
Và vẫn nhìn thấy
Cuộc làm tình ban ngày
Của những kẻ thất nghiệp
Trong chính công sở của họ

Viết lúc 10 giờ 13 phút

H ngủ muộn. 10h13 phút chưa dậy.
Những sự sống trôi qua chiếc giường.
Những cái chết trôi qua chiếc giường.
Và H nhìn thấy trong giấc ngủ
Một tấm thân đàn ông nóng rừng rực
Trôi qua chiếc giường và dừng lại
ở một khoảng trên đầu

lúc 10h13 một người đàn bà khác
khoả thân trong một chiếc giường
đặt ở giữa thành phố
(Nguyễn Quang Thiều)
Nhắc bọn vô lối - thi tặc thật bẩn bút, mất thời gian!
(còn nữa)
Đ - H

Thơ vô lối - thi tặc (tiếp theo)

  •   03/04/2025 17:52:00
  •   Đã xem: 62
  •   Phản hồi: 0
THƠ VÔ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Như đã nhiều lần tôi phát biểu “thơ vô lối” là loại quái thai của văn chương Việt nở rộ trong khoảng giữa thế kỷ XX đến nay, Đến nay khi đám vô lối tranh đoạt đoạt sự quản lý văn học, nghệ thuât của đât nước thì thơ vô lối lên ngôi. Có một điêu đám thơ vô lôi làm chủ Hội nhà văn Việtt Nam – Nguyễn Quang Thiều – Chủ tịch Hội; Nguyễn Bình Phương – Phó Chủ tịch Hội, Phan Hoàng - Ủ y viên Ban Chấp hành – phụ trách Webrite vanviet.vn . Nhưng chúng cũng là số ít và Vô lối – thi tặc không có thành tựu gì nên các khóa Ban Chấp hành của chúng chưa đưa được một tác phẩm tiêu biểu nào ra trình làng. Chúng phải đưa Thơ lục bát truyền thống của cha ông “Thơ Thành Hưng – Nguyễn Phúc Lộc Thành – Chủ buôn giàu có! Các tác giả phương Tây, mỗi câu thơ của họ như sự phát hiện ý tứ, âm luật; mỗi chữ, mỗi câu của họ đều là sự phát hiện
Marlowe là người đầu tiên khai thác tiềm năng của thơ không vần để tạo nên bài phát biểu mạnh mẽ và sâu sắc:
“Hỡi những vì sao đã ngự trị trong ngày sinh của tôi,
Những vì sao đã gây ra cái chết và địa ngục,
Giờ hãy kéo Faustus lên như một làn sương mù
Vào bên trong những đám mây đang lao động kia,
Để khi chúng phun ra không trung,
Tứ chi của tôi có thể nhô ra khỏi miệng khói của chúng,
Để linh hồn tôi có thể bay lên Thiên đường.”
Tác phẩm:
—  Vua John
Shakespeare cũng sử dụng kỹ thuật ngắt dòng ngày càng thường xuyên hơn trong thơ của mình, và trong những vở kịch cuối cùng của ông đã sử dụng các âm cuối giống cái (trong đó âm tiết cuối của câu không được nhấn mạnh, ví dụ như dòng 3 và 6 trong ví dụ sau); tất cả những điều này làm cho thơ không vần sau này của ông trở nên vô cùng phong phú và đa dạng.
“Hỡi các yêu tinh của những ngọn đồi, những con suối, những hồ nước đứng và những lùm cây,
Và những kẻ trên bãi cát với bàn chân không dấu chân
Đang đuổi theo thần Neptune đang rút lui, và xua đuổi ngài
Khi ngài quay trở lại; các ngươi là những con rối nửa người nửa thú,
Nhờ ánh trăng tạo nên những lọn tóc xoăn xanh chua Mà
con cừu cái không cắn; và các ngươi có trò tiêu khiển
Là làm nấm lúc nửa đêm, vui mừng
Khi nghe lệnh giới nghiêm trang trọng; với sự giúp đỡ của các ngươi,
Mặc dù các ngươi là những chủ nhân yếu đuối, Ta đã làm
tối Mặt trời giữa trưa, triệu hồi những cơn gió nổi loạn,
Và giữa biển xanh và vòm trời xanh ngắt
Gây ra chiến tranh dữ dội - trước tiếng sấm rền đáng sợ
Ta đã ban lửa, và rạch cây sồi chắc khỏe của thần Jove Bằng chính
tia chớp của mình;”
Các nhà thơ phương Đông, đa số phát âm đa số “đơn âm tiết” nhưng thơ không vần của họ rất chú ý sắp xếp, ý tứ, đối đáp:
Nguyễn Trãi
Bình Ngô đại cáo:
Bình Ngô đại cáo 平吳大告 • Cáo bình Ngô
…神武不殺,予亦體上帝孝生之心。
參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;
總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。
彼既畏死貪生,而修好有誠;
予以全軍為上,而欲民之得息。
非惟謀計之極其深遠,
蓋亦古今之所未見聞。
社稷以之奠安,
山川以之改觀。
乾坤既否而復泰,
日月既晦而復明。
于以開萬世太平之基,
于以雪天地無窮之恥。
是由天地祖宗之靈有,
以默相陰佑而致然也!

於戲!
一戎大定,迄成無競之功;
四海永清,誕布維新之誥…
…Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,
Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.

Ô hô!
Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,

Đỗ Hoàng dịch thơ ….
Ta chẳng giết hại, thể lòng trời, ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn xiêu, phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, đem cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy bảo toàn là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Non sông từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại sáng
Trời trăng tối rồi lại hừng
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;…
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay!
Trần Hưng Đạo – Hịch tướng sĩ
Nguyên bản Việt cổ (chữ Nho)
Phiên âm tiếng Việt
余常聞之
Dư thường văn chi:
紀信以身代死而脫高帝
Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế;
由于以背受戈而蔽昭王
Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương.
豫讓吞炭而復主讎
Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù;
申蒯断臂而赴國難
Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn.
敬德一小生也 身翼太宗而得免世充之圍
Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi;
杲卿一遠臣也 口罵禄山而不從逆賊之計
Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế.
自古忠臣義士 以身死國 何代無之
Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi?
設使數子區區為兒女子之態
Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thá
徒死牖下 烏能名垂竹白
Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch,
與天地相為不朽哉
Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai!
“Ta thường nghe:’
Kỷ Tín lấy thân chết thay, cứu thoát được vua Cao-đế;
Do Vu chìa lưng chịu giáo che chở được vua Chiêu-vương;
= Dự Nhượng nuốt than để trả thù cho thầy;
Thân Khoái chặt tay để gánh nạn cho nước;
Uất Trì Cung một viên tướng nhỏ, còn biết che đỡ Đường-chủ, ra khỏi vòng vây của Thế Sung;
Nhan Cảo-Khanh là bầy tôi xa, còn biết mắng chửi Lộc Sơn, không nghe lời dụ của nghịch-tặc.
Từ xưa, những bậc trung thần nghĩa sĩ, lấy thân theo nước, đời nào là không có đâu?
Nếu mấy người kia, chăm chăm học thói dútdát của con gái trẻ con, chẳng qua cũng đến chết dũ ở dưới cửa sổ, đâu được ghi tên vào trong thẻ tre lụa trắng,
danh tiếng cùng trời đất cùng lâu bền?
(còn nữa)

Thơ vô lối - thi tặc Việt Nam

  •   02/04/2025 13:43:00
  •   Đã xem: 85
  •   Phản hồi: 0
THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶN VIỆT NAM.(tiếp theo)
Đỗ Hoàng

Bạch Đằng giang phú 白藤江賦 •
Phú sông Bạch Đằng
Bạch Đằng giang phú 白藤江賦 • Phú sông Bạch Đằng
Thơ » Việt Nam » Trần » Trương Hán Siêu
白藤江賦
客有:
掛汗漫之風帆,
拾浩蕩之海月。
朝嘎舷兮沅湘,
暮幽探兮禹穴。
九江五湖,
三吳百粵。
人跡所至,
靡不經閱。
胸吞雲夢者數百而,
四方壯志猶闕如也。
乃舉楫兮中流,
縱子長之遠遊。
涉大灘口,
溯東潮頭。
抵白藤江,
是泛是浮。
接鯨波於無際,
蘸繇尾之相繆。
水天一色,
風景三秋。
渚获岸蘆,
瑟瑟颼颼。
折戟沉江,
枯骨盈丘。
慘然不樂,
佇立凝眸。
念豪傑之已往,
嘆蹤跡之空留。
江邊父老,
謂我何求。
或扶黎杖,
或棹孤舟。
揖余而言曰:
此重興二聖擒烏馬兒之戰地,
與昔時吳氏破劉弘操之故洲也。
當期:
舳艫千里,
旌旗旖旎。
貔貅六軍,
兵刃蜂起。
雌雄未決,
南北對壘。
日月昏兮無光,
天地凜兮將毀。
彼:
必烈之勢強,
劉龔之計詭。
自謂投鞭,
可掃南紀。
既而:
皇天助順,
凶徒披靡。
孟德赤壁之師談笑飛灰,
符堅合淝之陣須臾送死。
至今江流,
終不雪恥。
再造之功,
千古稱美。
雖然:
自有宇宙,
故有江山。
信天塹之設險,
賴人傑以奠安。
孟津之會鷹揚箬呂,
濰水之戰國士如韓。
惟此江之大捷,
猶大王之賊閒。
英風可想,
口碑不刊。
懷古人兮隕涕,
臨江流兮厚顏。
行且歌曰:
大江兮滾滾,
洪濤巨浪兮朝宗無盡。
仁人兮聞名,
匪人兮俱泯。
客從而賡歌曰:
二聖兮並明,
就此江兮洗甲兵。
胡塵不敢動兮,千古昇平。
信知:不在關河之險兮,
惟在懿德之莫京。
Bạch Đằng giang phú
Khách hữu:
Quải hạn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên, Tương,
Mộ u thám hề Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nhân tích sở chí,
Mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách nhi,
Tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
Nãi cử tiếp hề trung lưu,
Túng Tử Trường chi viễn du.
Thiệp Đại Than khẩu,
Tố Đông Triều đầu.
Để Bạch Đằng giang,
Thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế,
Trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc,
Phong cảnh tam thu.
Chử địch ngạn lô,
Sắt sắt sâu sâu.
Chiết kích trầm giang,
Khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc,
Trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng,
Thán tung tích chi không lưu.
Giang biên phụ lão,
Vị ngã hà cầu.
Hoặc phù lê trượng,
Hoặc trạo cô châu.
Ấp dư nhi ngôn viết:
“Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã.”
Đương kỳ:
Trục lô thiên lý,
Tinh kỳ ỷ nỉ.
Tỳ hưu lục quân,
Binh nhẫn phong khỉ.
Thư hùng vị quyết,
Nam Bắc đối luỹ.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang,
Thiên địa lẫm hề tương huỷ.
Bỉ:
Tất Liệt chi thế cường,
Lưu Cung chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên,
Khả tảo Nam kỷ.
Ký nhi:
Hoàng thiên trợ thuận,
Hung đồ phi mỵ.
Mạnh Đức Xích Bích chi sư đàm tiếu phi hôi,
Bồ Kiên Hợp Phì chi trận tu du tống tử.
Chí kim giang lưu,
Chung bất tuyết sỉ.
Tái tạo chi công,
Thiên cổ xưng mỹ.
Tuy nhiên:
Tự hữu vũ trụ,
Cố hữu giang san.
Tín thiên tạm chi thiết hiểm,
Lại nhân kiệt dĩ điện an.
Mạnh Tân chi hội ưng dương nhược Lã,
Duy Thuỷ chi chiến quốc sĩ như Hàn.
Duy thử giang chi đại tiệp,
Do đại vương chi tặc nhàn.
Anh phong khả tưởng,
Khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Hành thả ca viết:
“Đại giang hề cổn cổn,
Hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận.
Nhân nhân hề văn danh,
Phỉ nhân hề câu dẫn.”
Khách tòng nhi canh ca viết:
“Nhị thánh hề tịnh minh,
Tựu thử giang hề tẩy giáp binh.
Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề,
Duy tại ý đức chi mạc kinh.”
Lời dẫn của tác giả:
Cuối đời nhà Đường trong thời Ngũ Đại, Lưu Cung tiếm ngôi, xưa quốc hiệu là Hán. Giữa lúc Nam Bắc phân tranh, nước ta chưa có thông thuộc, Dương Đình Nghệ cầm quyền cai trị trong châu, bị kẻ con nuôi là Kiều Công Tiễn giết để lên thay chân. Tướng của Đình Nghệ là Ngô Quyền dấy binh đánh Công Tiễn. Tiễn cầu cứu với Lưu Cung, Cung bèn sai con là Hoằng Thao đem quân sang cứu. Thao đem chiến thuyền từ sông Bạch Đằng kéo vào. Lúc ấy Quyền đã giết được Công Tiễn, và đã ngầm cắm những cây gỗ nhọn ở hai bên cửa bể, rồi dụ Hoằng Thao vào bên trong, đến khi nước thuỷ triều rút lui, ông mới tung quân ra đánh, giết được Hoằng Thao.
Đời vua Nhân Tông nhà Trần, niên hiệu Trùng Hưng năm thứ 4 (1288), vua Thế Tổ nhà Nguyên sai Ô Mã Nhi sang xâm lược, kéo binh vào sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương là Trần Quốc Tuấn cũng trồng cột nhọn ở lòng sông từ trước, rồi chờ lúc thuỷ triều lên thì ra khiêu chiến rồi giả cách thua chạy, đến lúc thuỷ triều xuống mới tung ra đánh, phá vỡ được quân địch, bắt sống được Ô Mã Nhi. Trận này vua Nhân Tông và thái thượng hoàng là Thánh Tông cùng ra cầm quân.
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than,
Ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng,
Thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
Đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Bên sông bô lão hỏi,
Hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước,
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa:
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao,
Nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Bản dich Ngô Tất Tố
Khách có kẻ:
Chèo quế bơi trăng
Buồm mây giong gió
Sớm ngọn Tương kia
Chiều hang Vũ nọ
Vùng vẫy Giang, Hồ
Tiêu dao Ngô, Sở
Đi cho biết đây
Đi cho biết đó

Chằm Vân, Mộng chứa ở trong kho tư tưởng, đã biết bao nhiêu:
Mà cái chí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở
Mới học thói Tử Trường
Bốn bể ngao du
Qua cửa Đại Thần
Sang bến Đông Triều
Đến sông Bạch Đằng
Đủnh đỉnh phiếm chu
Trắng xoá sóng kình muôn dặm
Xanh rì dặng ác một màu
Nước trời lộn sắc
Phong cảnh vừa thu
Ngàn lau quạnh cõi
Bến lách đìu hiu
Giáo gãy đầy sông
Cốt khô đầy gò
Ngậm ngùi đứng lặng
Ngắm cuộc phù du
Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá?
Mà đây dấu vết vẫn còn lưu
Kìa kìa bên sông, lão phủ người đâu?
Lượng trong bụng ta, chừng có sở cầu
Hoặc gậy chống trước, hoặc thuyền bơi sau.

Vái tạ mà thưa rằng:
Đây là chỗ chiến địa của vua Trần bắt giặc Nguyên,
Và là nơi cố châu của vua Ngô phá quân Lưu đấy.

Đương khi:
Muôn đội thuyền bày, hai quân giáo chỉ
Guơm tuốt sáng loè, cờ bay đỏ khé
Tướng Bắc quân Nam
Đôi bên đối luỹ
Đã nổi gió mà bay mây
Lại kinh thiên mà động địa
Kìa Nam Hán nó mưu sâu
Nọ Hồ Nguyên nó sức khoẻ

Nó bảo rằng:
Phen này đạp đổ nước Nam, tưởng chừng cũng dễ.

May thay:
Trời giúp quân ta
Mây tan trận nó

Khác nào như:
Quân Tào Tháo bị vỡ ở sông Xích Bích khi xưa.
Giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp Phì thuở nọ
Ấy cái nhục tầy trời của họ, há những một thời
Mà cái công tái tạo của ta, lưu danh thiên cổ
Tuy vậy, từ thuở có trời có đất, vẫn có giang san
Trời đất ra nơi hiểm trở
Người tính lấy cuộc tôn an
Hội nào bằng hội Mạnh Tân như vương sư họ Lã
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ như quốc sĩ họ Hàn

Kìa trận Bạch Đằng này mà đại thắng
Bởi chưng Đại vương coi thế giặc nhàn
Tiếng thơm còn mãi
Bia miệng bao mòn
Nhớ ai sa giọt lệ
Hổ mình với nước non

Rồi vừa đi vừa hát rằng
Sông Đằng một giải dài ghê
Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông
Trời Nam sinh kẻ anh hùng
Tăm kình yên lặng, non sông vững vàng
Khách lại nối mà hát rằng
Triều ta hai vị thánh nhân
Sông kia còn dấu tẩy trần giáp binh
Nghìn xưa gẫm cuộc thăng binh
Tại đâu đất hiểm, bởi mình đức cao.
THƠ KHÔNG VẦN ĐÁM VÔ LỐI - THI TẶC HÔM NAY
Ý kiến Nam Sơn Lê: ”Quả thật, ngày nay có một phong trào "cách tân" thơ quá đà sinh ra hàng loạt những bài thơ không chủ đề không ý tưởng không lề lối thơ phú ...mà chỉ như những câu văn của kẻ say rượu, nói lung tung, vừa hát vừa nói, pha trộn cả chèo, chầu văn, cải lương, tuồng ...nghe nực cười lắm ! Thế rồi tung hô nhau lên tận mây xanh, đạp đổ không thương tiếc, trơ trẽn nền văn thơ truyền thống giầu bản sắc dân tộc. Thế mà, cơ quan hữu trách, nhất là QH cứ lờ lớ lơ, mặc anh có thóc mặc chị có gà, tha hồ chọi nhau nảy lửa, phá tan nền thơ ca Việt Nam. Thật là vô tâm vô cảm vô nhiệm !”
BÀI VÔ LỐI "THỜI SỰ CUỐI NGÀY" CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Bài này đã in trên các trang mạng xã hội một vài năm trước. Nó là một trong những bài theo khuynh hướng Vô lối, mà Nguyễn Khoa Điềm là một trong những đại biểu. Nói chung Vô lối là sự bất lực của sáng tạo thi ca. Tôi không muốn động bút vì trang mạng xã hội thì hòa cả làng, không ai chấp. Nhưng nay nó được Tạp chí Nhà văn & Tác phẩm của Hội Nhà văn Việt Nam in trang trọng chùm thơ Nguyễn Khoa Điềm gồm 7 bài trên số 2 /2013 nên buộc tôi phải dịch nó ra thơ Việt để mọi người hiểu.
Cách đây mấy năm nhà thơ Triệu Nguyễn có viết cho tôi đại ý là:
“Thiều chi thơ Tống, thơ Đường
Mà sao ngửi cái mắm tương thối trời
Thương cho bác Đỗ bạn tôi
Lại đi dịch cái dở hơi thơ nhà!...”
Tôi vẫn dịch cho mọi người rõ.

Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên văn:
THỜI SỰ CUỐI NGÀY

5 giờ chiều. Từ trên cầu Tràng Tiền
Một cô gái nhảy xuống sông tự tử
Ngay lập tức có hai chàng trai
Từ cầu lao xuống nước
Vớt cô lên
Cả ba ra về. Không một lời để lại

Tôi chỉ muốn nói to:
Tôi mừng cho sông Hương
Trong sạch
Tôi mừng cho nước tôi
Vẫn còn Thạch Sanh
Dù không ít tên Lý Thông đĩ bợm
3 – 6 -2013
Ng – Kh – Đ

Đỗ Hoàng: Bài Vô lối này rất kém, thua Bản tin tối ngày tiếng Anh. Các bạn học văn chương đã biết bài “Chuyện hai người tự tử” của Lê Đạt nổi tiếng làm thay đổi những trường phái thơ tụng ca thời 1956 – 1957 ở miền Bắc Việt Nam.

Đỗ Hoàng
Dịch ra thơ Việt:

GÁI TRINH TỰ TỬ

Tràng Tiền chiều muộn dòng Hương
Gái trinh tự tử nát xương còn gì
Hai chàng trai trẻ đang đi
Từ cầu lao xuống tức thì vớt lên.

Ra về không để tuổi tên
Tôi gào muốn vỡ hai bên bên bờ:
"Mừng Hương Giang sạch đường tơ
Mừng cho đất nước như thơ trong lành.
Vẫn còn hảo hán Thạch Sanh
Lý Thông đĩ bợm gian manh vẫn còn!"
Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2013
Đ –H

Vi Thùy linh
Nguyên bản (1)

Mùa thụ mầm

Đêm song song phố uớt – cặp đùi dài
Nàng đếm ngày người yêu về lại
Đếm bằng ngón tay như những phím cầm nâu của anh
Đôi chân ch¬a nhìn thấy
Chỉ những dấu chân vân nhấn trời mang bầu vĩnh cửu

Từ kiếp trước
Chúng mình đã yêu cẫn mẫn . Và im lặng

Đời người thì ngắn
Giấc mơ lại dài
Anh giấu đôi tay trước sự chờ đợi của em

Ngoài kia
Tất cả thành phố cây xanh bỗng rạc vàng cành khô. Lá vàng ngân nga nhu¬ những át – cơ hồi hộp

Căn phong say mềm tay
ánh vàng toát từ những lọ gốm nh¬ mồ hôi mặt trời chiều
Níu anh, em sóng.
Không thể đu lên giữ chiếc kim giờ hiện thực
Vì khuôn mặt chúng ta là chiếc đồng hồ

Gửi cho anh hai mơi búp ngọc lan ủ bên ngực em từ đêm anh choáng ngợp
Vốc tay đầy hương linh
Mạch mạch nước nấc lên vì nhớ
Bừng từng đêm lỡi như ngọn lửa
Liếm vào thân sóng nóng
Nguyên một mùa đắm đuối
Tình yêu sinh ra Con người

Khi em lúng túng không cất tiếng, là lúc nỗi sợ hãi xa cách quất lên
Ngôn ngữ không quyền uy cho diễn đạt yếu đuối
Đôi mắt ôi mùi nồng nàn ơi

Tạo hóa cho chúng ta ánh sáng mới tinh sau một đêm mê man còn váng sữa Mảnh trăng như miếng dưa hấu đỏ
Bỏ lạc giữa trời
Váng vất cơn cơn mùa mê sảng
Những giọt mưa tuột ra từ những đám mây bụng mang dạ chửa
Khiến cái túi ni lon tứ tung bỗng vỡ nước ối từ một số mái nhà
Vỡ không gian rối tung bê tông cọc sắt
Muưa tới tấp vừa rơi, vừa yêu

Không phải Phật nghìn mắt, nghìn tay
Anh ủ em trong im lặng đầy hơi ấm bằng đôi tay xuất thần
Con đường khểnh theo chiếc răng bên trái
Cầu vồng mọc từ hai ngón tay cái
Em ngập vào ngân gió
Ngân anh
Giữa nỗi lạc lõng

Trong ánh sáng đỏ của mặt trăng dưa hấu đang hồi lại màu thu non vì được bú dịu dàng
Những chiếc máy bay nhu¬ bầy chuồn chuồn ớt
Cắn rồn Ngày và Đêm

Thế mà Đêm chẳng biết bơi băng qua những ngăn cách, khủng hoảng của loài người
Đêm một mình và đêm yêu nhau. Lúc nào cũng tóc
Tóc ươớt trong phòng tắm tóc khô héo gối
Dòng sông đầy tóc rụng đang ngân gió
Gọi xanh

Kìa búp sen xanh mắt quyền uy khép đêm giao linh
Ôm cơn khát để anh tung vó
Chỉ hơi thở và tiếng hân hoan tới đầy mặt đất
Hằng hà mầm cây như những núm vú bật lên từ hoang hóa đất đai
Tiếng lục lạc tràn hoang mạc
Ngày sinh của chúng : sự nhân chia đôi tiền định hai người tháng Tư
Em nấp vào vết tay anh để lại trên bàn vàng căn phòng quen lạ ấy
Nơi lỡi nến phập phồng vươn cả khi sắp tắt trong cái nhìn hình phễu của chiếc lới chụp bên nụ hồng vàng khô nép cánh giống đôi môi em

Ngày anh về, chưa biết rõ
Phố đầy cây phượng gọi anh từ mùa hoa này
Nơi bay lên bầy vú thiếu nữ
Con đường đêm héo như quả phượng già
Tháng 9 nhớ về chín nhịp phồn sinh trong tiếng gọi đóa hoa kèn tháng Tư nở vào mùa thu tinh khiết.

Con đường trỗi cặp chân dài

(1) Theo Đặc Trưng – Thơ
Dịch:
Mùa sinh sôi

Đêm đôi ngã trải dài phố ướt
Nàng tính ngày người yêu trở về.
Bấm đốt tay như bấm phím cầm mơ u¬ớc,
Chưa thấy người trong khoảng trời quê!

Từ kiếp trước tình đôi ta im lặng
Với lời yêu gửi chốn địa đàng.
Đời thì ngắn, ước mơ thì dài rộng,
Anh có bồi hồi trước nỗi em mong?

Ngoài kia là nhiệt nồng phố xá,
Hàng cây xanh bỗng rực rỡ thắm vàng
Những chiếc là hoe ngân nga trong gió
Như lá bài hồi hộp âm vang!

Nhớ căn phòng mềm say tay ấm,
Ánh vàng như nuớc giọt trời chiều
Dập dìu níu anh em như sóng
Giữa thì giờ hiện thực phiêu diêu.

Gương mặt ta, chiếc đồng hồ báo thức
Giữ cho anh những búp ngọc lan
Ủ ngực em làm anh choáng ngợp
Vốc tay đầy lan hương linh thơm!

Ngầm mạch đời cuộn sôi nỗi nhớ
Lưỡi mềm như ngọn lửa rực hồng
Đi đến tận ngọn nguồn sóng vỗ
Tình yêu sinh nhân loại kiêu hùng!

Lúc bối rối, em làm sao nói hết.
Em sợ nhiều hoang vắng cách xa.
Chút yếu mềm làm em mỏi mệt
Đôi mắt đầy nồng thắm thiết tha.

Dêm thăm thẳm giữ giùm ta ánh sáng
Mảnh trăng thanh tựa mảnh dưa hồng,
Ai bỏ lạc giữa trời cao rộng
Từng cơn mưa váng vất rót thinh không.

Mưa rơi xuống trên mây mờ sủng nu¬ớc,
Nước tứ tung gõ những mái nhà,
Làm vỡ cả bê tông, cốt thép.
Mưa nồng nàn tình cảm đôi ta!

Không phải Phật nghìn tay, nghìn mắt.
Anh ủ em bằng cả tâm hồn
Đu¬ờng đời ấy còn biết bao trở trắc
Ngón tay anh như ánh cầu vồng!

Em ngụp lặn trong anh ngàn gió,
Giữa cô đơn lạc lõng lứa đôi.
Trong ánh sáng mặt trời dưa đỏ
Dòng sữa thơm bú mớm tuyệt vời.

Đêm ồn tiếng máy bay chuồn ớt,
Cố băng qua khoảng cách loài ngu¬ời
Đêm nồng nàn yêu mùi hương tóc,
Ngân gió ngàn, xanh gọi sông trôi.

Đêm giao linh, mắt quyền uy khép mở
Em phi thân trên cơn khát đời anh,
Tươi mặt đất phút hân hoan ngẹt thở
Mầm cây lên cho bằng địa êm lành!

Trên hoang mạc rung vang lục lạc,
Ngày tháng Tu của ta sinh sôi.
Em ngập vào tay anh thân thuộc
Ngọn nến mềm dịu ấm làn môi.

Ngày trở về, em chưa tường tỏ
Phượng hồng ơi! Anh của mùa này
Sẽ bay lên như bầy thiếu nữ
Nở mùa thu tinh khiết đắm say!
Hà Nội ngày 10 – 9 - 2007

Thơ không vần thế giới - Vô lối thi tặc hôm nay

  •   01/04/2025 08:22:00
  •   Đã xem: 85
  •   Phản hồi: 0
THƠ KHÔNG VẦN CỦA CHA ÔNG – THƠ VÔ LÔI – THI TĂC HÔM NAY
(tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Bình Ngô đại cáo 平吳大告
Bình Ngô đại cáo 平吳大告 • Cáo bình Ngô
平吳大告
代天行化皇上若曰。
蓋聞:
仁義之舉,要在安民,
弔伐之師,莫先去暴。
惟,我大越之國,
實為文獻之邦。
山川之封域既殊,
南北之風俗亦異。
自趙丁李陳之肇造我國,
與漢唐宋元而各帝一方。
雖強弱時有不同
而豪傑世未常乏。
故劉龔貪功以取敗,
而趙禼好大以促亡。
唆都既擒於鹹子關,
烏馬又殪於白藤海。
嵇諸往古,
厥有明徵。
頃因胡政之煩苛。
至使人心之怨叛。
狂明伺隙,因以毒我民;
惡黨懷奸,竟以賣我國。
焮蒼生於虐焰,
陷赤子於禍坑。
欺天罔民,詭計蓋千萬狀;
連兵結釁稔惡殆二十年。
敗義傷仁,乾坤幾乎欲息;
重科厚歛,山澤靡有孑遺。
開金場塞冒嵐瘴而斧山淘沙,
採明珠則觸蛟龍而緪腰汆海。
擾民設玄鹿之陷阱,
殄物織翠禽之網羅。
昆虫草木皆不得以遂其生,
鰥寡顛連俱不獲以安其所。
浚生靈之血以潤桀黠之吻牙;
極土木之功以崇公私之廨宇。
州里之征徭重困,
閭閻之杼柚皆空。
決東海之水不足以濯其污,
罄南山之竹不足以書其惡。
神民之所共憤,
天地之所不容。
予:
奮跡藍山,
棲身荒野。
念世讎豈可共戴,
誓逆賊難與俱生。
痛心疾首者垂十餘年,
嘗膽臥薪者蓋非一日。
發憤忘食,每研覃韜略之書,
即古驗今,細推究興亡之理。
圖回之志,
寤寐不忘。
當義旗初起之時,
正賊勢方張之日。
奈以:
人才秋葉,
俊傑晨星。
奔走先後者既乏其人,
謀謨帷幄者又寡其助。
特以救民之念,每鬱鬱而欲東;
故於待賢之車,常汲汲已虛左。
然其:
得人之效茫若望洋,
由己之誠甚於拯溺。
憤兇徒之未滅,
念國步之遭迍。
靈山之食盡兼旬,
瑰縣之眾無一旅。
蓋天欲困我以降厥任,
故與益勵志以濟于難。
揭竿為旗,氓隸之徒四集
投醪饗士,父子之兵一心。
以弱制彊,或攻人之不備;
以寡敵眾常設伏以出奇。
卒能:
以大義而勝兇殘,
以至仁而易彊暴。
蒲藤之霆驅電掣,
茶麟之竹破灰飛。
士氣以之益增,
軍聲以之大振。
陳智山壽聞風而褫魄,
李安方政假息以偷生。
乘勝長驅,西京既為我有;
選兵進取,東都盡復舊疆。
寧橋之血成川,流腥萬里;
窣洞之屍積野,遺臭千年。
陳洽賊之腹心,既梟其首;
李亮賊之奸蠹,又暴厥屍。
王通理亂而焚者益焚,
馬瑛救鬥而怒者益怒。
彼智窮而力盡,束手待亡;
我謀伐而心攻,不戰自屈。
謂彼必易心而改慮,
豈意復作孽以速辜。
執一己之見以嫁禍於他人,
貪一時之功以貽笑於天下。
遂靈宣德之狡童,黷兵無厭;
仍命晟昇之懦將,以油救焚。
丁未九月柳昇遂引兵猶邱溫而進,
本年十月木晟又分途自雲南而來。
予前既選兵塞險以摧其鋒,
予後再調兵截路以斷其食。
本月十八日柳昇為我軍所攻,計墜於支稜之野;
本月二十日柳昇又為我軍所敗,身死於馬鞍之山。
二十五日保定伯梁銘陣陷而喪軀,
二十八日尚書李慶計窮而刎首。
我遂迎刃而解,
彼自倒戈相攻。
繼而四面添兵以包圍,
期以十月中旬而殄滅。
爰選貔貅之士,
申命爪牙之臣。
飲象而河水乾,
磨刀而山石鈌。
一鼓而鯨刳鱷斷,
再鼓而鳥散麇驚。
決潰蟻於崩堤,
振剛風於稿葉。
都督崔聚膝行而送款,
尚書黃福面縛以就擒。
僵屍塞諒江諒山之途,
戰血赤昌江平灘之水。
風雲為之變色,
日月慘以無光。
其雲南兵為我軍所扼於梨花,自恫疑虛喝而先以破腑;
其沐晟眾聞昇軍所敗於芹站,遂躪藉奔潰而僅得脫身。
冷溝之血杵漂,江水為之嗚咽;
丹舍之屍山積,野草為之殷紅。
兩路救兵既不旋踵而俱敗,
各城窮寇亦將解甲以出降。
賊首成擒,彼既掉餓虎乞憐之尾;
神武不殺,予亦體上帝孝生之心。
參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;
總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。
彼既畏死貪生,而修好有誠;
予以全軍為上,而欲民之得息。
非惟謀計之極其深遠,
蓋亦古今之所未見聞。
社稷以之奠安,
山川以之改觀。
乾坤既否而復泰,
日月既晦而復明。
于以開萬世太平之基,
于以雪天地無窮之恥。
是由天地祖宗之靈有,
以默相陰佑而致然也!
於戲!
一戎大定,迄成無競之功;
四海永清,誕布維新之誥。
播告遐邇,
咸使聞知。
Phiên âm Hán Việt Bản dịch
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,
Trí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.
Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Đồ hồi chi chí
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nhiên kỳ:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.
Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá khôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quán.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.
Ô hô!
Nhất nhung đại định,
ngật thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh,
đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.
Dỗ Hoàng dịch Thơ
Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những nổi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
VÔ LỐI – THI TẶC HÔM NAY
LỜI TẠ LỖI; “Lần nữa phải châp tay lay cha ông khi con phải đưa bọn vô lối – thi tặc cõi Việt viết nhơ bẩn , thối tha như thế đứng cùng trang với tiền nhân! Bỡi do cái đời nhơ nhuốc, nhố nhăng tôn vinh bọn này là tinh hoa là đại diện cho tầng lớp đổi mới,
VÔ LỐI – THI TẶC HÔM NAY
Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ - Nguyễn Quang Thiều
Người hướng dẫn: Được dệt thủ công bởi một người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ
Người mua: Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
Chủ nhân: Quà tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm.
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5, nói:
“Mẹ đau lắm”
21 năm tấm thảm không thay đổi chỗ treo
Người đàn ông 50 tuổi thường trở về và đứng
Trong ngôi nhà nửa bóng tối
Tràn ngập tấm thảm tiếng hô hoán
Và phía sau tấm thảm
Một lưỡi dao lạnh lùng đợi
Và một cái chảo sùng sục sôi
Người hướng dẫn: Những ngón tay người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt
Người mua: Ông già da đen Cuba đã tự vẫn
Chủ nhân: Tôi chỉ nhớ gương mặt con trai tôi khi nó mở bức thảm ra
Có một người lúc nào cũng rét
Đứng nhìn tấm thảm
Hai bàn chân bị đông cứng trong vũng máu
Ở chân tường
Người hướng dẫn: (đã bỏ nghề)
Người mua: Hình như không phải tấm thảm tôi đã mua
Chủ nhân: Tôi nhìn thấy những người thân đã chết chạy nấp sau những gốc cây trong tấm thảm
Bây giờ là năm thứ 22.
CÂU HỎI CUỐI NGÀY
Nguyễn Quang Thiều
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày
Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên
Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào
Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.
Quán Sứ - Hà Đông, 1991
BÌNH GIẢNG
Câu mở đầu không có gì gọi là câu thơ. Một câu nói đơn sơ như các ông, các bà quét rác ở các công ty Vệ sinh môi trường, sau ngày làm mệt nhọc vẫn thường nói. Mà nói hay hơn, thơ hơn:
“Ngày dài mưa nắng trên đường
Mong về có đọi cơm thương ở nhà”.
Tiếp theo 5 câu sau có tới 31 từ mà lại là 5 câu rất vô nghĩa, vô bổ không nói lên được điều gì:
“Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên”
Trong khi tiền nhân chỉ 20 từ đã làm nên thi phẩm bất hủ muôn đời!
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Lưu Vũ Tích
飲酒看牡丹
劉禹錫)
飲酒看牡丹
今日花前飲,
甘心醉數杯。
但愁花有語,
不為老人開。
Lưu Vũ Tích
Ẩm tửu khán mẫu đơn
Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm tuý sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ:
Bất vị lão nhân khai.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Trước hoa giờ được uống
Mấy chén ngất ngư say
Sợ rằng hoa sẽ nói:
Không nở cho già này!
Cao điểm chốt 176 –
Biên giới Việt Lào 1972
Tiếp đến 6 câu sau là những câu có ý nghĩ dục tình rất bậy bạ, ý nghĩ khiên cưỡng mang tính hiếp dâm cao:
“Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào”
Những người con gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua có sao đâu. Họ làm đẹp cho phố phường đường làng có cuộc đời khởi sắc mà ông bà váy cồng lộn ngược, mò cua bắt ốc không có đôi dép mo cau mà đi thì sao? Tại sao lại nói “Như dao sắc phất vào tôi tứa máu”? Một câu khẩu phàm, hàm hồ, hàm chứa, căm giận cái đẹp còn hơn phát xít Hitle bắn đại bác vào Viện Bảo tàng nghệ thuật Paris (Pháp) những năm 1940 – 1942. Người ta cưỡi xe máy, một nét đẹp của con gái Việt Nam thời đổi mới nghìn đời mới có, sao mình lại có cái nhìn thù hận như vậy?
Bên châu Âu như bà Angela Dorothea Merkel, thủ tướng Đức mặc váy cởi xe máy phóng qua anh cũng tứa máu như dao sắc phất vào người chăng?
Đúng là điên rồ!
Cha ông nói:
“Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc áo hở lườn mới xinh!”
Bây giờ người đẹp mới mặc váy cưỡi xe máy phóng qua mà mình đã hồng hộc sôi máu lên như đỉa phải vôi? Anh lại còn “ nấc “ lên như bị nghẹn. Việc chi mà anh ghen tức lồng lộn với cái đẹp như thế? Cái đẹp vĩnh cửu của thời đổi mới nước ta có phương hại gì đến thẫm mỹ, đến thuần phong mỹ tục gì đâu?
Người đẹp mặc thế là quá kín đáo, bây giờ chúng nó còn mặc quần đùi lên tận bẹn cởi xe máy nữa đấy. Chỉ những đám vua quan dâm dục vô độ “ Nhất dạ lục giao hoan, sinh ngũ tử” nhưng lại căm thù cái đẹp:
“Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng”
(Ca dao)
Chưa hết, anh còn đặt ra ảo tưởng rất bậy bạ, của đám cái bang, homeless people, vô lương tri:
“Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào “
Rằng anh làm sao lấy họ được. Anh Vua chúa sao mà lấy họ dễ dàng như thế. Anh không phải Đặng Mậu Lân em gái Đặng Thị Huệ khênh giường đi giữa Thăng Long thấy gái đẹp là kéo lên làm tình, cũng không phải Beria (Nga) có xe đặc chúng đóng giường chiếu riêng để đi trên phố hễ thấy nữ sinh viên là kéo lên giao hợp… Đến như vua Napoleon cũng phải lấy mạ giòng (đàn bà có con riêng), thứ gì anh thấy người đẹp mặc váy cưỡi xe máy đi trên phố thoáng qua mà đã đòi làm tình! Anh có nứng cặc thì anh chạy vào gốc cây thủ dâm cho nó hạ hỏa, chứ làm sao tiếp cận với người ta!
Anh còn chưa biết, biết đâu trong đám đàn bà, cả đẹp cả xấu đó là tình báo viên, đặc tình, đặc vụ của Công an cài cắm, mà ngành anh theo học. Anh bờm xơm họ sẽ cho một lưỡi dao găm thì anh đi đời, không họ sẽ điện đàm trực tuyến đến bộ phận tham mưu cho anh vào Hỏa Lò! Anh có dám không?
Tiếp đến là đoạn kể như học sinh lớp 2 Hà Nội thời miền Bắc hòa bình mới lặp lại tả cảnh các bà, các cô buôn vịt, buôn cá khô, buôn nước mắm đi trên tàu điện:
“Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia”
Rồi anh lại lần nữa nổi máu Sở Khanh không phải lối:
“Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.”
Thật là một ý nghĩ tà dâm rất bậy bạ!
Đến như Nguyễn Du chỉ mới nói, dù tên Mã Giám Sinh vô cùng mất dạy, bất lương, không còn luân thường đạo lý:
“Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến duyên”
Đó là đã có ba trăm lạng vàng nhé. Còn anh bô xu dính tíu sao anh có ý nghĩ hoang dâm vô độ ấy được?
Khi tập “ Sự mất ngủ của lửa” được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng, ngay năm1993, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết “ Nguyễn Quang Thiều tự dịch thơ mình ra tiếng Việt” và phong cho ông nhà “ Khóc Học” . Tôi nghĩ rất đúng mà chưa hết. Nguyễn Quang Thiều có du học học ngành Công an chuyên nghiệp, nhưng Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt. Tập “Sự mất ngủ của lửa” đầy hàng chục chữ khóc, riêng bài này đã hơn bốn chữ gần khóc: tôi nấc lên, tôi sặc khói, tôi sẽ ngủ, tôi nhói lên…
Người ta chẳng thấy nấc, sặc, nhói, ngủ… như thế nào!
Nói chung Nguyễn Quang Thiều Thiều không biết làm thơ tiếng Việt, viết rất kém, dẫu sau này anh có sáng tác lục bát “ Dâng trà”, “Con đường”…
Hội Nhà Văn Việt Việt Nam thời ấy (1993) tặng giải thướng cho Nguyễn Quang Thiều là có tội với nhân dân, với lịch sử!
Bài Vô lối Nguyễn Quang Thiều
Những người đàn bà gánh nước sông (1)
Nguyễn Quang Thiều.
Nguyên bản:
Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái.
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu tròn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết rồi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi
1992
(1) Bài được chọn là trong 100 bài thơ hay của thế kỷ XX
Đỗ Hoàng dịch :
Những người đàn bà gánh nước sông
Bàn chân toẽ như chân gà mái,
Quá nửa đời thơ dại tôi trông.
Cô, bà xuống gánh nước sông,
Bối tóc vỡ xối bềnh bồng trên lưng
Tay giữ chặt giữa chừng đòn gánh,
Tay vịn vào mây trắng như tơ
Sông trôi úp mặt vô bờ,
Trai mang mơ biển lặng tờ ra đi.
Cá thiêng khóc rầu rì, quạnh quẻ,
Chiếc phao ngô cô lẻ chết rồi!
Đàn ông giận dữ ôi thôi.
Nuốt sầu ngao ngán chán đời đi luôn.
Nửa đời trải, thấm buồn tôi thấy
Lũ trẻ thơ bám váy u già
Lớn lên giữa chốn bùn sa.
Gái thay mẹ gánh nghèo qua bến thuyền
Con trai mộng triền miên mơ biển,
Vác cần câu lặng biến tha hương
Cá thiêng quay mặt lệ tuôn,
Để trơ cái lưỡi câu lươn lộ mồi!
Hà Nội ngày 6 tháng 5 năm 2010
Đ - H
Nguyễn Bình Phương
Nguyên bản:
VƯỜN KHUYA
Cánh rất mỏng những bông quỳnh nở chậm
Trong nhụy hoa vàng mơ có tiếng nói thầm
- Anh đã hẹn em chiều thứ Năm
Cúc đang sáng chập chờn bên tay áo
Không ai vượt qua ngày thứ Tư
Nở như người ác ngồi tư lự
Nở như nỗi buồn đi mang làn môi xanh
Nở như ngọn đèn trôi êm ru từ bãi tha ma về
Sau tình yêu con đường lạnh
Hôn anh em làm anh mòn mỏi
Ta sẽ chết trong nhụy hoa những cánh hoa khép lại
Lời thì thầm đêm đêm nhắc nhở
- Kiêu hãnh không thắng nỗi thờ ơ.
(*) Bài in trên tạp chí Thơ - Hội Nhà văn Việt Nam số 1&2 - 2016
BÌNH GIẢNG
VƯỜN KHUYA - MỘT KIỂU VIẾT VÔ LỐI NGU TỐI
Cha ông ta nói: “Dốt hay nói chữ”, đầu bò sát mà làm ra vẻ đầu Niuton, điều nay rất đúng với Nguyễn Bình Phương khi đẻ ra hàng loạt bài Vô lối đánh đố, tắc tỵ, quái thai:
- Anh đã hẹn em chiều thứ Năm
Cúc đang sáng chập chờn bên tay áo
Cúc nào đây? Cúc áo hay hoa cúc, hay một cô Cúc mắt bị thẹo nào? Một sự đánh đố quá vô lối, quá ngu tối!
Việc gì không viết cúc áo đang sáng chập chờn? Bây giờ có kiều viết bắt người ta đoán mò thế mới cho là thơ khó, thơ thế mới hay, mới siêu. Toán khó rồi thơ khó mới là sang!
Thật ra thơ khó, người xưa làm lâu rồi:
“Lồn tròn thì cặc cũng tròn
Đâm vô thì cặc càng mòn, càng hao”!
(Ca dao)
Rồi tác giả lại khẳng định cũng vô lối nốt :
“Không ai vượt qua ngày thứ Tư”
Có chắc không? Tôi vượt qua ngày thứ tư thì sao? Cô ca ve vượt qua ba ngày thứ tư thì sao?
Rồi ví von, so sánh rất ác độc. Ai đem hoa quỳnh nở so với cái ác, so với ma quỷ:
“Nở như người ác ngồi tư lự
Nở như nỗi buồn đi mang làn môi xanh
Nở như ngọn đèn trôi êm ru từ bãi tha ma về”
Những câu viết về tình yêu cũ hơn trái đất:
“Hôn anh em làm anh mòn mỏi
Ta sẽ chết trong nhụy hoa những cánh hoa khép lại”
Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu đã viết nhiều rồi:
“Yêu là chết ở trong lòng một ít”
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu:
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết...”
Xuân Diệu học nhà thơ Edmond Harucourt ( 1856 - 1941 )
Partir, c’est mourir un peu,
C’est mourir à ce qu’on aime :
On laisse un peu de soi-même
En toute heure et dans tout lieu.
(Rondel De L?adieu)
Đi là chết ở trong lòng một ít.
Nỗi chết riêng mang cho người đắm yêu thương:
Còn để lại chút gì như thể vấn vương.
Trong mỗi giờ, mỗi nơi, mỗi bước.
(Khúc ca ly biệt)
Nguyễn Bình Phương hay dùng quy nạp không hoàn toàn, quy nạp như thế thì bao giờ cho đủ, cho hết ý:
“Sau tình yêu con đường lạnh”
Người ta có thể viêt:
“Sau tình yêu con gái sinh ra...”
Viết như thế này mới đúng và đủ nghĩa:
“Sau tình yêu con đường lạnh và N sự việc hiện tượng xảy ra!”
Có lẽ không nên mất thì giờ với kiểu viết ngu tối như thế này!
Đỗ Hoàng dịch:
VƯỜN KHUYA
Cánh mỏng mảnh bông quỳnh nở chậm
Nhụy vàng mơ có tiếng thĩ thầm
Chiều thứ Năm như lời anh hẹn
Mới thứ Tư anh đã lỡ, lầm!
Hoa quỳnh nở như người thiền tư lự
Như nỗi buồn mang làn môi xanh
Như ngọn đèn trôi qua mồ lạnh
Sau tình yêu con đường vắng tanh!
Nụ hôn em làm anh mòn mỏi
Rồi sẽ tan trong nhụy hoa vàng
Lời thầm thì đêm đêm nhắc mãi
Nỗi thờ ơ thắng sự kiêu hùng!
(còn nữa)
Vô lối - thi tặc Nguyễn Bình Phương

Thơ không vẩn 7

  •   30/03/2025 12:13:00
  •   Đã xem: 65
  •   Phản hồi: 0
THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM
(tiếp theo)
Đô Hoàng
SO SANH TIÊNG NGƯỜI “XỈ ÂM” VÀ NGƯỜI “HẦU ÂM”.
Đỗ Hoàng
Tôi đã có nhiều chuyên luận viết về tiếng nói người người “xỉ âm”(phát âm qua kẻ răng) và người “hầu âm”(phát âm qua thực quản (cổ họng âm)..Giờ chỉ dẫn chứng so sánh:
Tiếng Anh
America – Ơ re mi cần –Mỹ
Television – Televísần -Tivi
have breakfast- Het bơretphat – Ăn sáng
daily conversation – đàm thoại hàng ngày
Tiếng Việt: Mỳ, Vô tuyên , Ăn sáng, Nói hàng ngày!
Tiếng Trung : Mỹ, Vô tuyến, Tảo thực, Đàm thoại nhật
Tiếng Pháp:
la maison – cái nhà
la cochon – lợn
boutique – cửa hàng
numéro un – số một
Tiếng Việt : nhà, lợn, cửa hàng, số một
Tiếng Anh và tiêng Pháp những từ rời rac trên khi đọc, xêp lại như một bài thó tứ tuyệt của phương Đông,, còn tiếng Việt và tiêng Trung nó không có ngữ nghĩa gì!
Vây vần điệu trong thó người phát « xỉ âm » rất quan trọng !
THƠ KHÔNG VẦN NƯỚC TA TỪ CỔ ĐẾN NAY
Vì lý do « xỉ âm » nên từ cổ cha ông ta gọi làm thơ không vần là :chiếu, biểu, cáo, thư, tụng, biểu, tế, đói, sấm, hich, tô tụng, trát, phú, lệnh…Điển hình nhát là ‘BÌNH NGÔ DẠI CAO » - Bái cáo bình Ngô) của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo 平吳大告 • Đại cáo bình Ngô
蓋聞:
仁義之舉,要在安民,
弔伐之師,莫先去暴。
惟,我大越之國,
實為文獻之邦。
山川之封域既殊,
南北之風俗亦異。
自趙丁李陳之肇造我國,
與漢唐宋元而各帝一方。
雖強弱時有不同
而豪傑世未常乏。
故劉龔貪功以取敗,
而趙禼好大以促亡。
唆都既擒於鹹子關,
烏馬又殪於白藤海。
嵇諸往古,
厥有明徵。
頃因胡政之煩苛。
至使人心之怨叛。
狂明伺隙,因以毒我民;
惡黨懷奸,竟以賣我國。
Đỗ Hoàng trích dịch
Thế trời làm việc, Vua truyền rằng.
Đã nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà bán nước cầu vinh… »
Phú
Tú Xương
Phú hỏng khoa Canh Tý
Đau quá đòn hằn
Rát hơn lửa bỏng.
Hổ bút hổ nghiên;
Tủi lều tủi chõng.
Nghĩ đến chữ “lương nhân đắc ý” thêm nỗi thẹn thùng;
Ngắm đến câu “quyển thổ trùng lai” nói ra ngập ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng;
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.
Có một thầy:
Dốt chẳng dốt nào;
Chữ hay, chữ lỏng.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu;
Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng.
Quanh năm phong vận, áo hàng tầu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh;
Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng.
Tú rốt bảng giữa năm Giáp Ngọ, nổi tiếng tài hoa;
Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng.
Năm vua Thành Thái mười hai;
Lại mở khoa thi Mĩ Trọng.
Kỳ đệ tam văn đã viết rồi;
Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem giò;
Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng.
Sáng đi lễ Phật, còn kỳ này kỳ nữa là xong;
Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.
Nào ngờ:
Bảng nhỏ có tên,
Ngoại hàm còn trống.
Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang;
Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.
Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?
Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với bóng!
Giá cứ chăm nghề đèn sách thì mười lăm mười sáu đỗ tự bao giờ;
Những là mải việc đùa chơi nên một tuổi một già, hoá ra lóng đóng.
Thôi thì thôi:
Sách vở mập mờ;
Văn chương lóng ngóng.
Khoa trước đã chầy;
Khoa sau hẳn chóng.
Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;
Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!
Canh Tý tức năm 1900.
Chiếu
Thiên đô chiếu (chữ Hán: 遷都詔) tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư[1], bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La.
Theo ý kiến của sử gia Trần Quốc Vượng, Chiếu dời đô đã khẳng định được vai trò của kinh đô Thăng Long,[3] là tác phẩm văn học khai sáng của nhà Lý. Tuy nhiên, Chiếu dời đô chưa nêu bật được chủ nghĩa dân tộc và khát vọng độc lập, hơn nữa ngôn ngữ sử dụng trong văn bản này mang đượm màu sắc dị đoan, phong thủy.
昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億萬世子孫之計。上謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。筭數短促。百姓耗損。萬物失宜。朕甚痛之。不得不徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。萬物極繁阜之豐。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要會。爲萬世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。
Bản dịch tiếng Việt:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà 2 nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)
Sắc
Những người làm quan từ tứ phẩm trở lên, xưa được nhà vua ban sắc phong tặng cho cha mẹ, ông bà cụ kỵ tùy theo phẩm tước của mình. Nhất phẩm được triều đình truy phong đến cao tổ, nhị phẩm được truy phong đến ông bà, tam tứ phẩm được truy phong đến cha mẹ.
Trong sắc phong có kể lại công trạng chức tước của người làm quan, rồi suy âm truy phong đến cha mẹ, ông bà hay các cụ. Sắc phong được báo về dân làng, dân làng phải tổ chức đi rước sắc về nhà chủ. Nếu những người được phong còn sống, sẽ có lễ khao dân làng, cùng với cáo yết gia tiên và lễ thần linh tại đình.
(Theo Từ điển Lễ tục Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, 1996)
Sắc chí vua Tự Đức
“Thí sai Suất đội Lê Non thuộc đội 5 đội thủy vệ Bình Thuận đã kinh qua chức Thí sai do viên Cai tỉnh đề cử. Nay Bộ binh đồng ý chuẩn y bổ thụ giữ chức Chánh đội trưởng Suất đội Suất nội đội binh thủy đồng thời cai quản việc điều động người thi hành công vụ. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 29 tháng 5 năm Tự Đức thứ 17 (1863).
“Hiệp quản Lê Non thuộc Tinh binh Suất đội thủy vệ Bình Thuận đã được ân chuẩn thăng một trật, nay Cai tỉnh y theo đó chuẩn thăng làm Cai đội tinh binh đồng thời cai quản đội biện binh. Phàm mọi việc cứ y theo lệ mà thừa hành. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 8 tháng 5 năm Tự Đức thứ 23 (năm 1869).
(còn nữa)
Đ - H
THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIÊT NAM (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Chiếu, biếu , sắc phong, cáo, tụng, hịch…của cha ông nhiều nhiều lắm! Không kể hết! Thời cận đại và hiện nay vẫn có nhiều nhà thơ viết thơ không vần thành công . Như thời khàng chiến chống Pháp: Trần Mai Ninh, Hữu Loan, Hồng Nguyên…Thời nay: Lò Ngân Sủn (dân tộc Giáy)…
Nhà thơ Trần Mai Ninh
Trần Mai Ninh tên thật là Nguyễn Thường Khanh. Vốn xuất thân trong một gia đình công chức thời Pháp thuộc, ngay từ nhỏ Trần Mai Ninh đã chịu ảnh hưởng của Nho học và văn hóa Pháp. Bởi thế mà ông sớm có những luồng tư tưởng tiến bộ.
Nhắc đến Trần Mai Ninh nhiều người nhớ ông với tư cách một nhà thơ thời kỳ kháng chiến chống Pháp với những bài thơ: Tình sông núi, Nhớ máu, Thắc mắc, Nhịp muôn đời, Nắng tù, Cơm mới... thể hiện sự “căm thù tột cùng mà yêu thương hết mức”.
Cố nhà thơ Mai Ngọc Thanh trong cuốn sách “Nhà văn Việt Nam hiện đại Thanh Hóa” có kể lại câu chuyện khi ông được gặp nhạc sĩ Văn Cao, nhạc sĩ có nói: Này! Thanh Hóa cậu có Trần Mai Ninh là đáng phải tự hào lắm đấy. Chỉ với hai bài Tình sông núi và Nhớ máu thôi, Trần Mai Ninh đã là ngôi sao sáng chói trên thi đàn cách mạng Việt Nam. Một loạt các nhà thơ lứa mình được ảnh hưởng của thơ Trần Mai Ninh dẫn dắt đấy. Phải cúi đầu mà học ông đi”... Những vần thơ ông để lại cũng là những trải nghiệm của đời sống cách mạng, những ngày làm báo, viết báo.
Theo nhiều tài liệu ghi lại, ngay từ khi còn học ở Thanh Hóa, Trần Mai Ninh đã tham gia viết bài và tự vẽ tranh biếm họa trang trí cho “tờ báo tay” với nội dung đả kích thói hủ lậu của một số thầy giáo và học sinh.
Năm 1935, sau khi thi đỗ thành chung, ông ra Hà Nội học tiếp lên tú tài. Tại nơi đây, ông thực sự giác ngộ cách mạng, được Đảng dìu dắt. Ông tham gia nhóm “nghiên cứu Mác xít”, tích cực hoạt động trong phong trào Thanh niên Dân chủ Đông Dương và sớm trở thành một chiến sĩ cách mạng. Ông hoạt động nhiều trên mặt trận báo chí và văn học nghệ thuật với các bút danh: Trần Mai Ninh, Hồng Diện, Mạc Đỗ, Tố Chi, TK...
Đến năm 1937, Trần Mai Ninh tham gia công tác báo chí của Đảng xuất bản ở Hà Nội. Ông viết bài, làm thơ và làm họa sĩ chủ yếu của nhiều tờ báo Đảng như tờ Tin tức, Bạn dân, Thế giới, Thời mới...
Tuy vậy, kể từ năm 1939, chiến tranh thế giới II bùng nổ, thực dân Pháp đàn áp cách mạng Việt Nam, chúng thủ tiêu các quyền tự do dân chủ mà Nhân dân ta đã giành được trong thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939). Các tờ báo tiến bộ lần lượt bị đóng cửa, một số tòa soạn báo bị đe dọa, Trần Mai Ninh bị mật thám theo dõi, ông phải lui về hoạt động cách mạng ở thị xã Thanh Hóa (nay là TP Thanh Hóa). Ông viết bài cho báo Bạn đường, và làm biên tập chủ chốt của báo Tự do, cơ quan tuyên truyền và đấu tranh bí mật của Mặt trận phản đế cứu quốc Thanh Hóa. Đây là thời gian ông có nhiều cống hiến cho cách mạng trên lĩnh vực văn hóa và tư tưởng khi dùng thơ ca, báo chí để ca ngợi tình yêu thương, tự do và tuyên ngôn cách mạng.
Tháng 9/1941, Trần Mai Ninh gia nhập Chiến khu Ngọc Trạo, làm đội trưởng Đội xung kích. Trong khoảng thời gian chiến đấu ấy, ông vẫn miệt mài với công việc cổ vũ tinh thần đồng bào, đồng chí thêm tin yêu vào lý tưởng của Đảng bằng nhiều áng thơ và cuốn tự truyện Khi Chiến khu Ngọc Trạo bị vỡ, Trần Mai Ninh bị giặc bắt và bị giam cầm trong nhà lao Thanh Hóa. Đầu năm 1944, thực dân Pháp đày ông đi Buôn Ma Thuột. Lợi dụng lúc Nhật đảo chính Pháp, ông đã vượt ngục, về hoạt động ở Khu V, rồi tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Ngãi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tháng 5/1946 ông tham gia quân đội và là Trưởng ban tuyên truyền Đại đoàn 27 (sau đổi là Quân khu 6). Cuối năm 1947, theo yêu cầu của công tác vùng sau lưng địch, ông được cử vào cực Nam Trung Bộ hoạt động. Trong thời gian này, Trần Mai Ninh tiếp tục làm báo ở tờ Tiến hóa - cơ quan Văn nghệ cứu quốc tỉnh Quảng Ngãi.
Đang ở thời kỳ chín nhất của sự nghiệp cầm bút, Trần Mai Ninh bị sa vào tay giặc trong một chuyến công tác. Chúng đưa ông về giam ở nhà tù Nha Trang, tra tấn dã man và giết ông một cách hèn hạ. Về cái chết của Trần Mai Ninh đến nay vẫn còn là bí ẩn, người thì cho rằng, ông bị địch chọc mù mắt vì vẽ tranh cách mạng, người khác lại nói bị địch cắt lưỡi vì luôn chửi rủa chúng. Thậm chí, sau đó ông còn bị địch dùng xe kéo lê xác trên đường phố... tựu chung cũng chỉ khẳng định lòng yêu nước, quên thân của ông.
Không chỉ là một nhà thơ, một nhà báo, Trần Mai Ninh còn là một họa sĩ. Những bức tranh của ông phóng khoáng, dễ hiểu mang tính tuyên truyền cao. Hiện nay ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam còn lưu trữ được hơn 30 bức tranh biếm họa, áp phích của ông rải rác trên các tờ báo: Bạn dân, Thế giới, Thời nay, Bạn đường... Ông còn là một người viết văn xuôi, viết kịch. Đặc biệt, ông chính là người đầu tiên dịch tiểu thuyết “Người mẹ” (M.Gorki) ở Việt Nam. Ông còn dịch, giới thiệu văn học Xô-viết trên báo Tiến hóa; viết về nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua trên tạp chí Tiên phong - cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam...
Nhà báo Trần Mai Ninh: Sống và viếtTrần Mai Ninh và những trang viết sống mãi với bạn đọc.
Trần Mai Ninh trên hết vẫn là một nhà cách mạng. Ngay từ đầu những năm 40 trước Cách mạng Tháng Tám ông đã có quan niệm, trước hết là phải sống, phải hoạt động và phản ánh thân phận con người. “Một nhà văn, muốn sáng tạo cho thực có giá trị trong suốt cả cuộc đời, điều quan trọng nhất, điều quan hệ nhất là suốt cả cuộc đời, nhà văn ấy phải học ngay bằng máu thịt của mình tung ra giữa trời hoạt động, trong sự sống ngang tàng, chăm chỉ không ngừng một phút” (Trần Mai Ninh, Sống đã... rồi viết văn, Thanh Nghị số 42 ngày 1/8/1943). Và thực tế, ông đã sống, đã viết với tất cả tâm hồn và trái tim của mình. Trái tim ấy chưa bao giờ ngừng thổn thức, ngừng reo; một ý chí không biết sợ, không chịu khuất phục như những câu thơ hừng hực khí thế trong bài Nhớ máu:
"Sống... trong đáy âm thầm
Mà nắm chắc tối cao vinh dự
Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai
Vững tin tưởng nơi oai hùng
Và chiến thắng
Câu Việt Nam: dân tộc!".
Nhớ máu
Nhà thơTrần Mai Ninh
Ơ cái gió Tuy Hoà…
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng.
Gió đi ngang, đi dọc,
Gió trẻ lại – lưng chừng
Gió nghỉ
Gió cười,
Gió reo lên lồng lộng.
Tôi đã thấy lòng tôi dậy
Rồi đây
Còn mấy bước tới Nha Trang
– A, gần lắm!
Ta gần máu,
Ta gần người,
Ta gần quyết liệt.
Ơi hỡi Nha Trang!
Cái đô thành vĩ đại
Biết bao người niệm đọc tên mi.
Và Khánh Hoà vĩ đại!
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người,
Cả hồn ta sát tới
Nhìn mi!
Ta có nhớ
Những con người
Đã bước vào bất tử!
Ơ, những người!
Đen như mực, đặc thành keo
Tròn một củ
Hay những người gầy sát lại
Mặt rẹt một đường gươm
Lạnh gáy,
Lòng bàn tay
Khắc ấn chuôi dao găm.
Chân bọc sắt,
Mắt khoét thủng đêm dày
Túi chứa cả Nha Trang… họ bước
Vương Gia Ngại… Cung Giữ Nguyên
Chút chít Hoàng Bá San… còn nữa!
Cả một đàn chó ghẻ
Sủa lau nhau
Và lần lượt theo nhau
Chết không ngáp!
Dao găm để gáy,
Súng màng tang
Ồng ộc xối đầy đường máu chó.
Chúng nó rú.
Cả trại giặc kinh hoàng.
Quy-lát khua lắc cắc
Giày đinh xôn xao
Còi và kèn…
Cả trại giặc bạt hồn, bạt vía…
Chạy lung tung
-Sớm mai xét và bắt
Thiết giáp cam nhông
Rầm rập nối đuôi nhau
Và đêm khuya: lại chết
Chồn Pháp, chó Việt gian
Ằng ặc máu
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người
Cả hồn ta sát tới
Biết bao người
Sống lẩn lút nhưng ngang tàng
Bên lưng giặc!
Vẫn tổ chức, vẫn tuyên truyền
Hoặc giao thông hay liên lạc
Rải giấy
Treo cờ
Hay gồng vai tiếp tế
Từ bình minh cho tới trăng tàn
Đúc bê tông bên mặt trận
Và thì thào cùng du kích đi lên…
Cả ngàn chiến sĩ
Cả ngàn con bạc, con vàng
Của Tổ quốc!
Sống…trong đáy âm thầm
Mà nắm chắc tối cao vinh dự
Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai
Vững tin tưởng nơi oai hùng
Và chiến thắng
Câu Việt Nam: dân tộc!...”
Nhà thơ Hữu Loan:
Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan; Bút danh: Hữu Loan ; sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916 (theo lý lịch, còn có thông tin ông sinh năm 1914) tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh (nay là xã Nga Phượng), huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi dạy học và tham gia Mặt trận Bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê và khi cuộc Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn học, xuất bản tại Hà Nội . Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia quân đội Nhân dân Việt nam, phục vụ trong Đại đoàn 304.
Sau năm 1954, ông làm việc tại Báo Văn nghệ trong một thời gian. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Sau khi phong trào này bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải đi học tập chính trị, tiếp đó ông về quê sinh sống. Ông sống bằng nhiều nghề như đẩy xe cút kít, khai thác đá, làm bún[4]. Cuối đời ông về sống tại quê nhà ở tỉnh Thanh Hóa
Ông nổi tiếng với bài thơ Màu tím hoa sim do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến. Ông từ trần vào lúc 19h00 ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi.
MÀU TÍM HOA SIM
Khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
1949
Nhà thơ Hồng Nguyên
Xuất hiện vào thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, gần như cùng lúc với Đèo cả của Hữu Loan, Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Nhớ của Hồng Nguyên đã làm nên bộ “ngũ tư bất tử” của thơ chống Pháp nói riêng và trong lịch sử thi đàn Việt Nam nói chung.
Ngay từ khi mới xuất hiện, Nhớ của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện, được lan truyền rộng rãi và bám vào trí nhớ của nhiều người, nhiều lớp người dọc theo năm tháng.
NHỚ
I
Lũ chúng tôi,
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến,
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm đao kiếm.
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Ba năm rồi gửi lại quê hương,
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô,
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng.
Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng,
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ Độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp,
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.
II
Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động,
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng.
Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng,
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau.
Có tiếng gà gáy sớm,
Có “khai hội, yêu cầu, chất vấn”
Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa.
Trăng lên tập hợp hát om nhà
Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa,
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui,
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ,
Đồng chí mô nhớ nữa,
Kể chuyện Bình Trị Thiên,
Cho bày tôi nghe ví,
Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí
- Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ,
Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.
Đêm đó chúng tôi đi,
Nòng súng nghiêng nghiêng,
Đường mòn thấp thoáng...
Trong điếm nhỏ,
Mươi người trai tráng,
Sờ chuôi lựu đạn,
Ngồi thổi nùn rơm
Thức vừa rạng sáng.
Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi.
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni,
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc!
1948
Lò Ngân Sủn
Lò Ngân Sủn là một nhà thơ dân tộc Giáy. Ông sinh ngày 26 tháng 04 năm 1945 tại Bản Vền, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lao Cai. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991. Ông mất ngày 15 tháng 12 năm 2013.
Người đẹp
Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng
(Dân ca Dáy)
Người đẹp trông như tuyết
chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết - nhìn người đẹp lại không muốn chết nữa
Ơ! Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!
(còn nữa)
Đ - H
Không có thông tin chi tiết để hiển thị



THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIƠI – THƠ VÔ LÔI – THI TẶC VIỆT NAM (tiếp theo)
Đỗ Hoàng … Xem thêm
Không có thông tin chi tiết để hiển thị

Thơ không vần thế giới

  •   30/03/2025 12:04:00
  •   Đã xem: 88
  •   Phản hồi: 0
THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Nhân loai cũng không bỏ làm thơ có vần, có nhịp điệp, cũng không cầm làm thơ không vần, không nhịp điệu! Tùy bản săc dân tôc, tùy từng thời điêm và nhận thức của con người, thơ nào nhân đân nhớ thì chúng ta phát huy! Thời dại đang sống thấy loại hình nào tốt, nhân dân đều yêu chuộng. Thơ không vần mà là thơ là món quà quý cho nhân loại, nó không phải là thơ thì là con quỷ dữ!
Đã nhiều lần tôi viết trên mạng “vô lối” – thi tặc tàn phá nền văn chương Việt. Cả nước có hàng triệu người viết. Viết thì không sao, nhưng các tố công quyền , tư quyến tung hê, lăng xê điển hình như Hội Nhà văn Việt Nam hàng năm luôn trao giải cho các tác giả làm thơ “vô lối’- thi tặc. Năm 1993 tặng giải cho tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiêu; năm 2010 -2012 trao giải cho các giả: Mai Văn Phấn- Bầu trời không mái che; Từ Quôc Hoài – Sóng và khoảng lặng; Mã Giang Lân, Đinh Thị Như Thúy, Đỗ Doãn Phương. Trước đó Phú Trạm Inasara, Hoàng Vũ Thuật, con gái Hoàng Hưng… nhiều nhiều lắm! Tư nhân Văn đoàn Độc lâp: Thơ Hoàng Hưng, “Những con chuột chết” của Thái Hạo…
Thanh Tâm Tuyền (đã có chuyên luận riêng) một thi tặc ở Việt Nam Cộng Hòa được cả phe thắng, phe thua tâng bốc. Ông náy kiến thức rất ốm yếu, viết những câu vô học: “Sự em đến cần thiết như những sớm mai”. Cụ Nguyễn Đình Chiều thời Han học hưng thịnh viêt: “Việc cày, việc bừa việc cấy, tay vốn làm quen.” Viết như Thanh Tâm Tuyền ma nào nó ngửi! “Sự cày, sự bừa, sự cấy tay vốn lầm quen:!
“Sự em đến cần thiết như những sớm mai
Cho anh trở dậy đọc Nguyễn Du Việc em đến những sơm mai
Chuyển ra thơ Việt: “Việc em đên những sớm mai
Cho anh thức dậy đọc tài Nguyễn Du”
Đọc vừa dễ hiểu, vừa lược bỏ từ Hán Việt.
Thanh Tâm Tuyền :” Em bao giờ là thiên nhiên?”. Con người là một phần của thiên nhiên sao lại viết ngớ ngẩn vô học đến thế!
Thanh Tâm Tuyền tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13 (có nơi ghi 15) tháng 3 năm 1936, tại Vinh, Nghệ An. Trong bài Thơ mừng năm tuổi, làm năm Nhâm Tý 1972, ông đã kể chi tiết tiểu sử. Từ 1952, ông đã đi dạy học, trường Minh Tân, Hà Đông và có truyện đăng báo Thanh Niên, Hà Nội.
Sau đó, 1954 vào Nam hoạt động trong Tổng Hội Sinh Viên Hà Nội di cư, cùng với những người sẽ trở thành bạn văn nghệ về sau: Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, cùng chủ trương nguyệt san Lửa Việt.
Tại Sài Gòn, 1955, ông viết cho các tuần báo Dân Chủ, Người Việt và nổi tiếng từ những tác phẩm đầu tay, tập thơ Tôi Không còn Cô Độc, 1956, và truyện Bếp lửa, 1957. Thời điểm này, ông tích cực tham gia biên tập báo Sáng tạo (1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, và ông thường được xếp vào “nhóm” Sáng Tạo, có ảnh hưởng lớn trên văn học Miền Nam suốt một thập niên.
Năm1962, bị động viên vào trường Sĩ quan Thủ Đức, được giải ngũ, rồi tái ngũ trong Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, phụ trách chủ yếu việc huấn luyện văn hoá,và làm báo quân đội, “tám năm quân ngũ chưa nổ một phát súng với địch” (1972), cấp bực cuối cùng là Đại uý. Sau 1975, bị bắt đi học tập, trong 7 năm, tại trại Long Giao (Long Khánh) và nhiều trại cải tạo Miền Bắc. Cuối cùng sang định cư tại Hoa Kỳ từ 1990. Ông qua đời vì ung thư phổi, tại nơi cư ngụ.
Thanh Tâm Tuyền thèm quyền lực: “Đêm nay anh là vua
Em là hoàng hậu”
“Đời người, vô cùng rồi cũng đến vậy thôi.
Vô cùng Thanh Tâm Tuyền.
Thanh. Tâm. Tuyền.
Thanh Tâm
Tuyền.”
Dịch thơ Việt ra thơ Việt:
Nguyên văn:
CỎ
Tác giả: Thanh Tâm Tuyền
Em bao giờ là thiên nhiên
anh cuối đầu xuống ngực
giòng mưa sắc lá
đau môi
Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín
cho thơm đường hôm nay đến sớm mai
hôn từ ngày dài tội lỗi
chưa quên
Gai trắng con ngươi mở mù lòa
hơi đất nằm trong tóc
thèm muốn mỗi hàm răng
từng móng vuốt
đầy đồng xanh hoa nhiều màu một người
sống sót
cỏ ơi cỏ kết thành lời
dàn nhạc huy hoàng
cô đơn
Giấc vụng về
tia nhọn sáng
đừng rơi hoàng hôn cánh rừng dầy
những ngực thương nhau
không áo
vì cỏ dại rối bời
Chúng ta ôm thời gian trong suốt
chẳng phân vân
như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ
như lá cây thầm ngã phủ vai trần
như tiếng tim thốt cười ngoài dĩ vãng
BÌNH GIẢNG
Hồi miền Nam tạm bị chiếm có hai tác giả Vô lối là Thanh Tâm Tuyền và Lê Văn Ngăn. Thanh Tâm Tuyền cón có làm thơ Việt, Lê Văn Ngăn toàn tòng Vô lối. Hai tác giả đã chết. Tuyền chết bên Mỹ, Ngăn chết trong nước. Ngăn sau giải phong miền Nam theo phe ta vào được Đảng Cộng sản Việt Nam. Vô lối của Thanh Tâm Tuyền thì dở hơi, cụt lủn, như bị thần kinh, Vô lối của Ngăn dài dòng văn tự, dây cà ra dây muốn lòng thòng xu thời báo công với Cách mạng không có ý nghĩa gì! Thua xa hàng vạn dặm các bản dịch nghĩa thơ nước ngoài!
Nhiều người cho rằng Thanh Tâm Tuyền có học vấn cao, đọc nguyên bản tiêng Anh, tiếng Pháp, điều ấy có thể đúng với những người ở bên kia chiến tuyến (Việt Nam Cộng Hòa).. Tuyền dạy sơ học nên kiên thức có là do tự học chứ không phải được đào tạo bài bản. Học rất quan trọng, nhưng mới một phần, cái gì đáng học. Các nhà thơ tiền chiến chư Pháp giỏi đên mức thừa chữ chưởi bọn Tây nhưng các Cụ học đúng nghề. Huy Cận, Xuân Diệu đều đăng ký học thêm ngoại ngữ là tiếng Việt, học tiếng Việt phải học Hán Nôm nên chữ nghia trong thơ các Cụ trong sáng tiếng Việt đến giờ. Thanh Tâm Tuyên câu văn tràn lan Hán tự, câu văn dai lòng thong, câu này vắt qua câu khác :
« Tôi đứng nhìn mưa bên sông, mưa nửa dòng nước. Ôi nếu được ngủ dưới mái tranh, mùi đất bốc mưa mới đầu mùa ấm phổi hơn một hơi thuốc lá.
Tôi sẽ đưa em về bên ấy, nền nhà ẩm và em chân đất. Từ bỏ thành phố nhà máy xe điện xe buýt ánh đèn ngã tư. Tôi can đảm như thế. Con đường vào làng men chân đê hoa cỏ hoang dại nói tâm hồn những vật những người sắp gặp. Em đi thăm vườn trái cây và em có thể bắt đầu làm việc. Ngực trần không vướng víu anh thấy anh với hơi thở với bầu trời với cây màu đất là một…. » (Mưa – Tôi không cô đọc) hay ‘Chiều trên phi trường anh bỗng nhớ em, nhớ
chuyến đi xa ước hẹn. Đây mùa xuân không
đến, những đám cỏ hèn bên diện tích xi măng
khô, bánh thép lăn nhanh thành chấn động cuồng
điên, sự đổ vỡ của vô vàn ảo vọng, thuyền
không gian chở người đến mùa đông tuyết giá
đang già, anh ngồi lặng nhìn anh ở lại.
(Chiều trên phi trường)
Để giúp bạn đọc hiểu thêm đám Vô lối, tôi sẽ lần lượt phân tích, bình giảng các tác giả Vô lối được trích dẫn. Đầu tiên là bài Cỏ của Thanh Tâm Tuyền. Trước đây tạp chí thơ đã lăng xê Thanh Tâm Tuyền in một chùm thơ hẳn hoi. Vừa rôi tạp chí Nhầ văn & Tác phẩm cũng in thơ Tuyền và một bình luận khá dài. Tôi đã dịch ra thơ Việt của Tuyên và một bài phản biện tạp chí Nhà văn & Tác phẩm. Có là một loại bài đặt trưng cho lối viết dở hơi của Thanh Tâm Tuyền.
Mở đầu bài Cỏ là một câu rất ngớ ngẩn, vớ vẩn:
“Em bao giờ là thiên nhiên”
Em là con người, con người là một phần của thiên nhiên, sao còn nói một cách vô nghĩa, ngớ ngẩn như vậy!
Thiên nhiên đã được định nghĩa: “Tự nhiên hay cũng được gọi thiên nhiên, thế giới vật chất, vũ trụ và thế giới tự nhiên (tiếng Anh: nature) là tất cả vật chất và năng lượng chủ yếu ở dạng bản chất. "Tự nhiên" nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất, và cũng nhắc đến sự sống nói chung. Phạm vi bao quát của nó từ cấp hạ nguyên tử cho tới những khoảng cách lớn trong vũ trụ. Nghiên cứu về tự nhiên là một mảnh ghép lớn trong thế giới khoa học. Dù cho con người hiển nhiên là một phần của tự nhiên, nhưng những hoạt động của con người thường được phân biệt rạch ròi khỏi những hiện tượng tự nhiên.(Theo từ điên Wikipedia)
Em đã là thiên nhiên. Em to lớn như vậy, anh cúi đầu xuống ngực, làm sao được.Phóng đại em thành kẻ khổng lồ khủng long thế thì mần ăn chi được!
Câu tiếp là câu lại vô nghĩa, ngớ ngẩn, hâm hấp:
“giòng mưa sắc lá
đau môi”
Ba câu tiếp theo cũng vô thưởng, vô phạt, thừa chữ, thừa lời:
“Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín “
Thơ phải kiệm lời, tùy hoàn cảnh nhấn mạnh, còn ở đây có gì mà dùng đến ba chữ “những”
Tiếp theo cả một đoạn hôn hít, điên dại, tính dục bẩn thỉu, rời rạc, không có một ngữ nghĩa gì: Bon thi tặc – vô lối đứa nào ngoài đời thực đã dâm loạn mà trong thơ ca dâm dật không tưởng nổi !
“hôn từ ngày dài tội lỗi
chưa quên
Gai trắng con ngươi mở mù lòa
hơi đất nằm trong tóc
thèm muốn mỗi hàm răng
từng móng vuốt
đầy đồng xanh hoa nhiều màu một người
sống sót “
Nối theo đoạn này cũng là một đoạn vô bổ, cũng đầy dục tính bẩn thỉu, rời rạc, tắt tỵ, đánh đố, còn thua ông nói gà, bà nói vịt. Ngỡ như Thanh Tâm Tuyên ddang từ trong trại tâm thần Trâu Quỳ đi ra! Nào “ Cỏ ơi, cỏ kết thành lời”, “thèm muốn mỗi hàm răng”, “giàn nhạc huy hoàng”, “cô đơn” đến “những ngực thương nhau/ không áo”…:
“dàn nhạc huy hoàng
cô đơn
Giấc vụng về
tia nhọn sáng
đừng rơi hoàng hôn cánh rừng dầy
những ngực thương nhau
không áo
vì cỏ dại rối bời “
Đoạn kết cũng tù mù, uốn éo, vô nghĩa “ôm thời gian trong suốt chẳng phân vân” sao còn so sánh như”, sáo rỗng “ huy hoàng”, “những ngực thương nhau” “ như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ”?.
Ngoài việc triệt tiêu trăm phần trăm vần, điệu Vô lối của Thanh Tâm Tuyền có cả bài Cỏ này là một kiểu viết quái thai không chấp nhận được trong cõi Việt.
Nhiều người cho rằng Thanh Tâm Tuyền có học vấn cao, đọc nguyên bản tiêng Anh, tiếng Pháp, điều ấy có thể đúng với những người ở bên kia chiến tuyến (Việt Nam Cộng Hòa).. Tuyền dạy sơ học nên kiên thức có là do tự học chứ không phải được đào tạo bài bản. Học rất quan trọng, nhưng mới một phần, cái gì đáng học. Các nhà thơ tiền chiến chư Pháp giỏi đên mức thừa chữ chưởi bọn Tây nhưng các Cụ học đúng nghề. Huy Cận, Xuân Diệu đều đăng ký học thêm ngoại ngữ là tiếng Việt, học tiếng Việt phải học Hán Nôm nên chữ nghia trong thơ các Cụ trong sáng tiếng Việt đến giờ. Thanh Tâm Tuyên câu văn tràn lan Hán tự, câu văn dai lòng thòng, câu này vắt qua câu khác :
« Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy
bởi vì người vào trong đất đai của tôi
người hoàn toàn tự do
để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục
nếu người muốn nhập lãnh thổ
người hoàn toàn tự do
và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ
(Ở đây tôi là vị Hoàng đế)
Tật nói chữ « dao to búa lớn », rỗng tuếc…
đại lộ bờ cây hoang lạnh
những cửa hàng kín bưng
anh không nhìn thấy chân trời
thành trì oán hờn đứng lên ngang dọc
anh mang nhốt tự do vào công trường máu xương
giam hòa bình trong trại tập trung địa ngục
công trình hủy diệt kiên cố nghênh ngang
rồi đường phố rẫy đầy vách tường gạch ngói
lối cụt gài bẫy quanh mình
một chút ánh sáng một chút chân trời
cho những người tù nô đày đọa
(Mắt biêc)
Tiếng Việt viết thơ triệt tiêu vần điệu cũng được, nhiều nhà học cách này, có nhiều người có bài thành công. Nhưng triệt tiêu vần điệu đưa từ sáo rỗng, viêt ngu ngơ là phá hoại thơ tiếng Việt. Thanh Tâm Tuyên là một gã như thế. Người đương thời nói gã điềm đạm, khiêm tôn nhưng gã cung loại tráo lừa, giả dôi. Những người bên kia chiễn tuyến khi về vơi Cách mạng đều nói tôi không dính líu Mỹ nguy, tôi có cầm sung nhưng cả đơi không bắn một viên đạn nào ! Học Tây không ra Tay, học Tàu không ra Tàu, viết thơ Viêt thành quỷ ba đầu sáu tay. Tồi tệ hơn bài thơ dịch tiếng Anh :
Song of Myself - Walt Whitman
I celebrate myself, and sing myself,
And what I assume you shall assume,
For every atom belonging to me as good belongs to you.
I loafe and invite my soul,
I lean and loafe at my ease observing a spear of summer grass.
My tongue, every atom of my blood, form’d from this soil, this air,
Born here of parents born here from parents the same, and their parents the same,
I, now thirty-seven years old in perfect health begin,
Hoping to cease not till death.
Creeds and schools in abeyance,
Retiring back a while sufficed at what they are, but never forgotten,
I harbor for good or bad, I permit to speak at every hazard,
Nature without check with original energy.
Đỗ Hoàng dịch - Bài hát chính tôi - Walt Whitman
Tôi ca ngợi mình, tôi hát về tôi
Tôi nhận về các vị tự nhận về mình như tôi.
Vì mỗi nguyên tử thuộc về tôi, cũng thuộc về các ngài..
Tôi là người tha phương, tôi gọi hồn tôi về
Tôi, không nghề nghiệp, cúi nhìn hoa cỏ mùa hè.
Lưỡi tôi, mỗi nguyên tử trong máu tôi là từ đất đai, từ không khí
Tôi cùng cha mẹ sinh ra ở đây
Năm nay tôi 37, cái tuổi đang rực lửa
Ước mong mãi mãi cho đến ngày tôi nằm xuống
Những giáo điều và những trường học sẽ trống không
Tạm quay lại một thời gian, chúng tốt đẹp ở nơi cần, chẳng sợ ai quên
Tôi ấp ủ trong thiên nhiên như vốn có, thừa nhận mọi nơi, mọi lúc
Nói hết mọi điều với sức lực năng lượng buổi đầu tiên!
(còn nữa)

Thơ không vần thề giới -

  •   30/03/2025 11:58:00
  •   Đã xem: 75
  •   Phản hồi: 0
THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIÊT NAM (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Người ta tổng kết các thê kỷ trước, nước Anh có 2/3 thơ không vần. kiểu quan niệm thơ như hiện nay ở ta cac bài viết của cha ông ta đều là Thơ hết!. Ở miền Nam thời tạm chiếm có một nhân vật không nổi bằng Thanh Tâm Tuyền là Lê Văn Ngăn cũng được phe thắng lăng xê là Lê Văn Ngăn. Lê Văn Ngăn toàn tong vô lôi – thi tặc. Gã sống lèo lá, bội nghĩa quên tình rất xu thời ninh Cộng triệt để mình.
Trong lịch sử thơ văn cận đại, nhà thơ Lê Văn Ngăn và bài thơ “Sóng vẫn đập vào eo biển” là trường hợp duy nhất được cả hai bên chiến tuyến Nam - Bắc Việt Nam trân trọng.
Thi sĩ Lê Văn Ngăn.
Lê Văn Ngăn sinh năm 1944 ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên- Huế, hiện sống tại TP Quy Nhơn, Bình Định. Ông là một tiếng thơ vừa vang dội, vừa lắng đọng trong phong trào học sinh - sinh viên yêu nước trong các đô thị miền Nam trước 1975. Về già, thơ ông vẫn "sung", vẫn tả xung hữu đột…
Năm học đệ nhất (lớp 6 bây giờ) ông từng có thơ in trên Báo Phụ nữ Thứ bảy - Sài Gòn. 18 tuổi, ông viết bài "Người phu xe": "Cha đã lăn cho con những vòng xe / mồ hôi chảy xuống lấp lánh mặt trời/ đọ sức cùng thiên nhiên/ (…) Sao mà những nếp nhăn/ sao mà khuôn mặt héo…". Bài thơ này đã làm nhiều bạn bè của ông xúc động khôn xiết!
Thời sinh viên (khóa 3, năm 1964 - 1966) ở Trường Sư phạm Quy Nhơn, ông đã từng in ronéo tập thơ có tựa "Trên đồng bằng". Năm 1972, Đài Tiếng nói Việt Nam và Báo Văn nghệ phát đi bài thơ "Sóng vẫn đập vào eo biển", tờ Thống Nhất đăng bài "Đất của những người bất phục" khiến tên tuổi Lê Văn Ngăn được các kẻ sĩ Bắc Hà chia sẻ như một đồng chí trên cùng một chiến tuyến...
Năm 1972, lúc nghe Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng bài thơ của mình, anh lính tiếp vụ người Huế (lính hậu cần) của chính quyền Sài Gòn là Lê Văn Ngăn sung sướng đến bàng hoàng khi biết mình bị những người bên kia chiến tuyến… “đạo thơ”. Đến tận bây giờ, ông cũng không hiểu bài thơ của mình ra đến miền Bắc và lên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam bằng cách nào?
Thi sĩ quân ta “săn lùng” nhà thơ quân địch
Ngay khi mới ra đời, bài thơ ấy được những người yêu nước cả hai miền thấy trong đó như có cả nỗi lòng của mình: Tiếng sóng nơi em bắt nhịp với còi tàu Long Biên…./Cho nên tiếng bom nổ ở miền Bắc/Dù không nói, tôi cũng biết lòng em chấn động.
Bài thơ ấy nổi danh ngoài miền Bắc, các thi sĩ nhà ta trong đoàn quân giải phóng tiến vào Nam không ai không biết, nhưng mặt mũi Lê Văn Ngăn ra sao thì mù tịt. Sau khi giải phóng, bất ngờ “ngài” trung sĩ quân tiếp vụ của Việt Nam cộng hòa bị gọi lên, người gọi lên cũng là một nhà thơ, tất nhiên là “quân ta”, đó là thi sĩ Thanh Thảo, người hiện nay đang nổi tiếng về viết… bình luận bóng đá.
Gặp mặt lần ấy, Thanh Thảo chỉ hỏi “Anh là Lê Văn Ngăn hả? Vậy anh có biết một Lê Văn Ngăn làm thơ không?”, thi sĩ lừng danh của “quân địch” chỉ dám thưa “dạ! Tui là Lê Văn Ngăn và cũng có làm thơ” – “Vậy bài thơ “Sóng vẫn đập vào eo biển” và “Mảnh đất của những người bất phục” là của ai?” – “Dạ! Là tui làm ạ”… Vậy là khỏe! Chàng thi sĩ “quân địch” này được hẳn một chiếc xe Jeep hộ tống đưa về tận nhà. Ơn giời! Nhờ có giải phóng mà lần đầu tiên, Lê Văn Ngăn mới biết là làm thi sĩ nó oai thế nào?
Được Trịnh Công Sơn giác ngộ
Có một điều hiếm người biết, từ trước khi bài thơ lừng danh kia ra đời rất lâu thì trong lòng Lê Văn Ngăn đã rất nể trọng những anh lính Việt Cộng dù ông chưa một lần giáp mặt. Việc này bắt nguồn từ một câu chuyện kể của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Hoạt động nghệ thuật cùng lứa với các đồng hương Trịnh Công Sơn, Tôn Thất Lập… nhưng Lê Văn Ngăn “lặng lẽ như một kẻ thơ thẩn tìm thơ”, trong lòng ông lúc nào cũng dành một góc trang trọng cho người nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh mà ông luôn coi là bậc đàn anh đáng kính.
“Gần như không dám so sánh mình Trịnh Công Sơn mà thi sĩ họ Lê chỉ ngậm ngùi “anh Sơn là người hay, gia cảnh sang giàu, không vướng víu nên anh trốn đi lính Cộng hòa nhẹ như lông hồng. Còn moa vướng mẹ già, em dại, gia cảnh bần hàn nên không theo được anh Sơn. Đau dễ sợ!” - Thi sĩ Lê Văn Ngăn
(Theo Dân Việt)
Sóng vẫn đập vào eo biển – Lê Văn Ngăn – Chung chung , nhạt nhẽo
“…vâng, điều ấy
giữa những khung cửa đầy bóng tối, hàng me cao
giữa mùi bánh nướng báo tin một ngày quang đãng
giữa tiếng xe thổ mộ lúc bình minh, vẫn còn những kẻ phản bội em
vẫn còn những kẻ từng sống bên em, nay đã mặc cho những kẻ xâm chiếm dày vò
vẫn còn những kẻ man trá, những kẻ thỏa hiệp, những kẻ dã tâm yêu hết mọi giống nòi
vâng, điều ấy
khi bạo lực còn bắt tay nhau
khi bạo lực còn dẫn quân đi nhục mạ quyền làm người
khi ấy, bằng chất liệu gì để rửa sạch thân em
đây là điều tôi dứt khoát
quê hương quê hương, nơi trái tim tôi rung động dưới bầu trời sao
nơi tôi muốn nhắm mắt dưới lòng đất quen thuộc
chết cho tình yêu
đấy là việc của con người
bao nhiêu năm ở gần em, những chiếc phi cơ đáp xuống buổi mai
rời khi trời tối
bao nhiêu năm, những chiếc xe lam, những thỏi đường mới lọc, những bàn tay trong những bàn tay
bao nhiêu năm em chưa trả lời cho tôi biết
nhưng tôi tin
dù nơi nào, trong ngục tù hay giữa cánh đồng
bằng tín hiệu của sóng biển
em vẫn cần gọi tôi về, lấy thân làm vật cản che chở em
3
Qui Nhơn Qui Nhơn, đồng ruộng mía phía Tây
phất phới vườn bông gòn
những cửa hàng lấm bụi, những chiếc ga tạm hoang tàn, những người định cư, những người tứ chiếng
nơi em
quê hương chẳng phải điều trừu tượng
điều ấy, tôi giữ trong lòng
và đi xa em. Tiếng sóng vẫn đập vào eo biển.”
Thơ Vô lối Lê Văn Ngăn
Khi dịch bài Vô lối Chị Ba ở Phan Rang của Lê Văn Ngăn tôi những tưởng Lê Văn Ngăn trốn được lính ngụy. Nhưng khi đọc lại tiểu sử Báo điện tử Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh thì nói Lê Văn Ngăn từng là trung sỹ quân tiếp vụ quân đội Sài Gòn. Sau này Lê Văn Ngăn vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Lình ngụy hay bộ đội Cụ Hồ thì cũng là một thời đã qua. Cái đáng nói là Lê Văn Ngăn viết những thứ vô lối không phải văn chương, thơ ca. Đã không phải thì phải lên án những nơi lăng xê.
VÔ LỐI
Lê Văn Ngăn
Nguyên bản:
THƠ TẶNG CHỊ BA Ở PHAN RANG (1)
Bác Hồ có viêt:
...Nói về văn nghệ, Bác thú thật có ít thì giờ xem các bài văn nghệ. Có lẽ vì thế mà có lúc xem đến thì thấy cách viết thường ba hoa, dây cà, dây muống; và hình như viết là để đếm dòng lấy tiền, có những bài nhạt nhẽo thế nào ấy.
Còn viết về chính trị thì khô khan và có hai cái tệ: một là rập khuôn, hai là dùng quá nhiều chữ nước ngoài. Cái bệnh dùng chữ, là phổ biến trong tất cả các ngành. Đáng lẽ báo chí phải chống lại cái bệnh đó, nhưng trái ngược lại báo chí lại tuyên truyền cho cái tệ đó. Cố nhiên, có những chữ không thể dịch được thì ta phải mượn chữ nước ngoài. Ví dụ: những chữ kinh tế, chính trị... thì ta phải dùng. Hoặc có những chữ nếu dịch ra nếu dịch ra thì mất cả ý nghĩa, như chữ “độc lập”. Nếu “Việt Nam độc lập” mà nói “Việt Nam đứng một” thì không thể nghe được.
Nhưng có những tiếng ta sẵn có, thì tại sao lại dùng chữ nước ngoài. Ví dụ: vì sao không nói “đường to” mà lại nói “đại lộ”, không nói “người bắn giỏi” mà lại nói “xạ thủ”, không nói “hát múa” mà lại nói “ca vũ”?... Những ví dụ như vậy nhiều lắm, nhiều lắm. Các báo Nhân dân, Thời mới, Quân đội nhân dân... đều dùng chữ nhiều lắm.
Tóm lại chúng ta dùng chữ nhiều quá, có khi lại còn dùng sai nữa. Mong rằng báo chí cố gắng sửa đổi cái tệ ấy đi. Tiếng nói là một thứ của rất quý báu của dân tộc, chúng ta phải hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi.
Khoa học ngày càng phát triển, có những chữ mới mà ta chưa có, thì ta phải mượn. Ví dụ: ta phải nói “kilô”, vì nếu nói chữ “cân”, thì không đúng nghĩa là 1.000 gram. Song những chữ dùng tiếng ta cũng đúng nghĩa thì cứ dùng tiếng ta hơn. Có những người hình như sợ nói tiếng ta thì nói xấu hổ thế nào ấy! Họ làm cho các cháu học sinh cũng bị lây bệnh nói chữ, như “phụ đạo”, “giáo cụ trực quan”... Thật là tai hại!
HỒ CHÍ MINH
Trích bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ hai Hội nhà báo Việt Nam, 16-4-1959
Hồ Chí Minh toàn tập
Bài "Thơ tặng chị Ba ở Phan Rang" của Lê Văn Ngăn in trong chùm 6 bài trên báo Nghệ thuật mới, Phụ trương báo Người Hà Nội ra số 1 tháng 2 năm 2012. Lê Văn Ngăn được nhiều báo, nhiều tổ chức lăng xê và tự gọi cách viết của mình là thơ. Cá nhân tôi, tôi cho đó là một kiểu viết vô lối, vô cảm, dây cà, ra dây muống, nhạt nhẽo, cũ rích đang thịnh hành làm tổn hại đến thẫm mỹ của người đọc, đúng như Bác Hồ đã nhắc nhở cách viết của báo chi, văn nghệ sỹ hơn 50 năm trước đây.
Thêm đề dẫn này để cho người đọc rõ nguồn xuất xứ.
Đỗ Hoàng
VÔ LỐI Lê Văn Ngăn
Nguyên bản:
THƠ TẶNG CHỊ BA Ở PHAN RANG (1)
Phan Rang, những năm ấy, có lẽ chị Ba không nhớ nữa
nhưng tôi kẻ từng chịu ơn chị, tôi không thể nào quên quá khứ.
Năm ấy, tôi đến từ phương xa
không giấy tờ, không người quen, không nhà không cửa
và tương lai tôi
tương lai ở trong tay những kẻ bố ráp bắt người đi đánh thuê cho quân xâm lược
tương lai buồn tênh như con đường bụi khô ngoài quán cà phê chiều hôm gió cuốn.
Có thể tôi rơi vào bước đường cùng
nếu không tình cớ gặp chị
Dưới rặng me già bên chiếc xe những ổ bánh mì lặng im
chị ngồi trông khách đến
Và chiều hôm ấy
kẻ lỡ bước được chị mướn về nhà dạy kèm con cái chị học hành.
Từ ấy, tôi biết thế nào là hạnh phúc khi được sống dưới mái nhà
được chiếc bàn bên khoảng trời xanh khung cửa sổ
được ăn cơm mỗi ngày hai bữa
được uống vị dịu dàng trong đôi mắt chị dịu dàng.
Cuộc bố ráp và sự chết
Có thể đầy tung cánh cửa vào đây lúc nào
Nhưng trước thời khắc đó, tôi vẫn còn một ít ngày tháng êm đềm.
tâm hồn không lạnh lẽo
Bây giờ chị còn sống không chị Ba
Bao nhiêu năm, dù chưa trở lại mái nhà xưa
Tôi vẫn nhìn thấy chị mỗi ngày qua những người lao động bình thường
Những người lao động bình thường ấy
không bao giờ tầm thường trong đôi mắt nhìn đời.
Viết liền văn xuôi:
THƠ TẶNG CHỊ BA Ở PHAN RANG
Phan Rang, những năm ấy, có lẽ chị Ba không nhớ nữa, nhưng tôi kẻ từng chịu ơn chị, tôi không thể nào quên quá khứ. Năm ấy, tôi đến từ phương xa, không giấy tờ, không người quen, không nhà không cửa và tương lai tôi, tương lai ở trong tay những kẻ bố ráp bắt người đi đánh thuê cho quân xâm lược. Tương lai buồn tênh như con đường bụi khô ngoài quán cà phê chiều hôm gió cuốn.
Có thể tôi rơi vào bước đường cùng nếu không tình cờ gặp chị. Dưới rặng me già bên chiếc xe những ổ bánh mì lặng im, chị ngồi trông khách đến. Và chiều hôm ấy kẻ lỡ bước được chị mướn về nhà dạy kèm con cái chị học hành. Từ ấy, tôi biết thế nào là hạnh phúc khi được sống dưới mái nhà, được chiếc bàn bên khoảng trời xanh khung cửa sổ, được ăn cơm mỗi ngày hai bữa, được uống vị dịu dàng trong đôi mắt chị dịu dàng.
Cuộc bố ráp và sự chết có thể đầy tung cánh cửa vào đây lúc nào! Nhưng trước thời khắc đó, tôi vẫn còn một ít ngày tháng êm đềm.. Tâm hồn không lạnh lẽo!
Bây giờ chị còn sống không chị ba! Bao nhiêu năm, dù chưa trở lại mái nhà xưa., tôi vẫn nhìn thấy chị mỗi ngày qua những người lao động bình thường. Những người lao động bình thường ấy, không bao giờ tầm thường trong đôi mắt nhìn đời.
Nhận xét:
Về thơ ca cho điếm Zê rô
Không bàn!
Một bức thư gửi người thân có chút chịu ơn hết sức bình thường của lúc trốn llính nguỵ mà người Việt nào ở miền Nam thời tạm bị chiếm cũng viết được, nếu biết đọc và biết viết.
Người có kỷ niệm và tâm hồn có thể viết hay hơn vì thật hơn, tình cảm hơn.
Đây là kiểu sám hối của nhiều trí thức công chức trong vùng miền Nam tạm chiếm. Khi Quân đôi nhân dân Việt Nam giải phóng miền Nam, hỏi ai cũng nói tôi bị bắt lính, tôi trốn lính. Điều đó có thật trong trong một số tầng lớp trí thức và thanh niên miền Nam vùng tạm chiếm trước đây, chứ không phải tất cả.
Miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa không có nhiều trường hợp này, nhưng miền Nam thì nhan nhản.
Bây giờ đất nước thống nhất lâu rồi, người đọc có thể chất vấn: “Thế miền Nam buông lỏng vậy sao? Ông chạy không giấy tờ, không căn cước mà vẫn được mời dạy học thì xứ sở đó là Thiên Đàng rồi!”
Ở miền Bắc ông gắn với Hợp tác xã, với tem, phiếu gạo, ông chạy đi đâu, giáo dục phổ thông, ai được dạy ngoài. Cụ Diệm quá "dân chủ"!
Chưa nói đến cái tệ nghĩa tình, tác giả ở Quy Nhơn vào Phan Rang mấy cây số mà không vào thăm ân nhân cứu mạng mình được - Giả dối hết sức, sến hết sức!
Ở miền Bắc hầu hết không ai trốn đi bộ đội, có người còn viết đơn bằng máu mình chích ra từ cổ tay. Anh hùng Lê Mã Lương là một ví dụ. (Bây giờ là Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam)
Cái bức thư của Lê Văn Ngăn mà ai đó gọi là thơ thì sỷ nhục cho nền văn chương nước nhà!
Đỗ Hoàng
Dịch ra thơ Việt
THƯ GỬI CHỊ BA Ở PHAN RANG
Phan Rang, năm ấy chị Ba!
Chị còn có nhớ hay là đã quên?
Em chịu ơn chị bề trên,
Một thời quá khứ đảo điên thế mà.
Thời em tơi tả phương xa,
Giấy tờ nỏ có, cửa nhà cũng không.
Tương lai quả thật phiêu bồng,
Tương lai ở kẻ tay không bắt người.
Những phường dạ thú đười ươi,
Tóm dân, đôn lính cho loài xâm lăng.
Tương lai buồn tẻ, lặng tăm,
Con đường bụi đỏ, quán tăng, gió nồng.
Số em đến bước đường cùng,
Nếu không gặp chị, tình chung đồng bào.
Mẹ già, xe nặng, bánh bao,
Chị ngồi trông có khách nào đến xơi,
Và chiều hôm ấy, ai ơi!
Cầm tay chị dẫn về nơi nhà mình.
Bảo kèm con cái học hành,
Hạnh phúc tôi có nên thành từ đây.
Chiếc bàn học, bên trời mây,
Được ăn uống thoả mỗi ngày hai ca,
Dịu dàng thấm thịt thơm da,
Trông đôi mắt chị như là trăng sao!
Dễ chết, bọn ráp ập vào,
Đẩy tung cánh cửa thế nào cũng xong.
Trước thời khắc của tồn vong,
Tôi còn dan díu trong vòng ấm êm!
Bây giờ, chị đâu? Chị hiền?
Bao năm chưa lại bên thềm nhà xưa.
Tôi nhìn sớm nắng, chiều mưa
Chị trong những kẻ cày bừa cần lao.
Bình thường, cam chịu, nhường bao
Đôi mắt nhân ái như sao siêu phàm!
Toàn giả dối, sáo sến. Quy Nhơn cách Phan Rang mấy cây số mà khi Lê Văn Ngăn nịnh Cộng được làm công chức, vào Đảng Cộng sản Việt Nam, phó tổng tạp chí tỉnh có xe pháo mà không lần thăm lại?
Vô lối- Thi tăc Lê Văn Ngăn
Vô lối Lê Văn Ngăn thừa chữ, thừa lời, thiếu chữ thiếu lời, hết sức nhạt nhẽo, kể lễ dài dòng, không có một tí gì gọi là thơ.
Vừa rồi, Tạp chí Thơ Hội Nhà văn Việt Nam tháng 10 – 2013 giới thiệu một chùm 7 bài Vô lối Lê Văn Ngăn, xin trích dịch bài.
Ở QUÁN CƠM BÌNH DÂN
Nguyên bản Lê Văn Ngăn
Ở một quán cơm bình dân
Quán cơm bình dân ấy mở cửa bên lề đường đô thị
cô chủ quán vừa nhen bếp lửa cho bữa ăn chiều
chẳng bao lâu nữa, mưa sẽ thôi rơi trên ngọn cây cao
và những người khách nghèo sẽ lần lượt đến
Chúng tôi, những người sinh viên xa quê hương
chúng tôi đến đây mỗi ngày bên đĩa cơm, chậm rãi nhai và không nói
Để có thêm chữ nghĩa và tương lai
đành phải sống những ngày ở trọ
Trong những đôi mắt thỉnh thoảng ngước nhìn lên
thường thấp thoáng hình bóng mái nhà riêng ở cuối chân trời
Người mẹ già thức dậy giữa đêm khuya
thầm hỏi về con cái mình nơi xứ lạ
Còn mối tình đầu mới chỉ được nối kết bằng chiếc khăn thêu
vẫn mỏng manh như niềm hy vọng
Quê hương xa xôi
chúng tôi tin hơi ấm của người sẽ sưởi ấm những ngày tạm trú
Cô chủ quán xinh đẹp
xin cô bước lại gần đây và đừng lo ngại
Khẩu phần này, giá cả đã được thỏa thuận từ đầu
Chúng tôi không thể đòi thêm thức ăn mới
Chúng tôi chỉ mong
một nụ cười xinh đẹp
vài câu nói dịu dàng
Với vẻ đẹp, dù vẻ đẹp có phần bán mua
chiếc quán sẽ có thêm hơi ấm
những ngày tạm trú sẽ có thêm giây phút êm đềm
Dịch ra thơ Việt
Đỗ Hoàng dịch:
QUÁN CƠM NGHÈO
Quán nghèo mở bên lề phố
Cô chủ nhen bửa ăn chiều
Cây cao mưa không rơi nữa
Khách nghèo đổ đến liêu xiêu!
Chúng tôi sinh viên xa xứ
Úp mặt xuống sát đĩa cơm
Hy vọng tương lai nghĩa chữ
Những ngày ở trọ u buồn!
Đôi tròng ngước lên thi thoảng
Mơ bóng nhà riêng cuối trời
Mẹ già sớm khuya loạng quạng
Thương con xa lạ xứ người!
Cô chủ quán cơm xinh đẹp
Xin cô bước lại gần đây
Giá cơm đã được thỏa thuận
Ngại chi rau cỏ vơi đầy!
Sinh viên là loài nghèo kiết
Nhưng mà chúng tôi thường mong
Nụ cười cô luôn xinh đẹp
Dịu dàng câu nói, má hồng!
Vẽ đẹp trên đời vô giá
Mặc đời vẫn đem bán mua
Quán nghèo thêm hơi ấm lạ
Êm đềm thường trú nắng mưa!”
(còn nữa )

Các tin khác

Thơ

CMS là gì? CMS là từ viết tắt từ Content Management System. Theo wikipedia Định nghĩa. Hệ quản trị nội dung, cũng được gọi là hệ thống quản lý nội dung hay CMS (từ Content Management System của tiếng Anh) là phần mềm để tổ chức và tạo môi trường cộng tác thuận lợi nhằm mục đích xây dựng một...

Thăm dò ý kiến

Bạn biết gì về NukeViet 4?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập14
  • Hôm nay668
  • Tháng hiện tại3,120
  • Tổng lượt truy cập106,069
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi