VĂN CHƯƠNG GIẬT LÙI
Đỗ Hoàng
Trong sinh vật, muôn loài phát triển, người ta càng phân chia nhánh, giống, loài, bộ….Văn chương cũng vậy! Người ta chia ra văn vần (thơ), văn viết (nói và viêt). Về thơ cũng chia ra nhiều thể loại thơ (như thơ ngắn, lục bát, song thất lục bát, đường luật, thơ dài (trường ca)…
Đến thế kỷ XIV, XV, XVI…ở châu Âu, nhất là các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha …các nhà thơ bỏ vần điệu để cảm hứng trọn ven!
Nước ta, từ rất sơm cha ông chúng ta đã phân chia thể loại khá chính xác! Các Cụ phân ra văn viết, văn vần (thơ). Văn “Vần” gọi thơ! Còn những loại thơ bỏ vần điệu, đối…các Cụ gọi: Hịch, Chiều, Tụng, Cáo, Sắc, Phú, Sấm, …
Những nước có dân tộc nói (phát âm) đa âm , mỗi từ của họ như một câu tho cua người đơn âm bỏ vần điệu còn có thành côn. Những nước phát âm đơn âm như các nước phương Đông thì thơ bỏ vần điệu khó thành công.
Việt Nam cũng là nước đơn âm. Giữa thế ký XX đến nay các cây bút làm thơ không vần bùng phát rầm rộ.
“Mẹ đã hóa vào cao xanh kia
Cao sang và hư ảo
…
Đó là gương mặt thật của mẹ
Gương mặt của người mẹ vỹ đại đã sinh ra con
Tiếp đoạn sau lại rất thủ phận, người mẹ vỹ đại biến mất, chỉ còn:
“Bởi vì mẹ ơi mẹ con mình thật nhỏ bé
Chỉ như cái bòng côi cút trong cuộc đời”
Giáng Vân
“tôi kêu toáng lên thức giấc mơ vẫn
cứ thấp lùn chạy xộc vào nhà trong
……
soi lại trăm lẻ lần mới đốn ngộ
ra rằng làng nước quỷ thần ơi cả
xóm đang sống bằng đầu gối.”
(Đầu gối 1) – Inrasara Phú Trạm
Sóng vẫn đập vào eo biển - Lê Văn Ngăn
1.
Tôi thầm hỏi có phải em đang gửi lòng mình qua sóng biển
nhắn cho tôi biết
rằng nỗi đau đớn em vẫn còn mang nặng
Qui Nhơn Qui Nhơn đồng ruộng mía phía Tây
phất phới vườn bông gòn
những đầm nước mặn
im bóng cửa nhà
Qui Nhơn Qui Nhơn trên thảm nước xanh rờn của thuyền đánh cá và chim én
Buổi sáng hay chiều hôm từng chuyến phi cơ
Vô lối – Phản lại thơ ca!
Vô lối manh nha và xuất hiện ở Việt Nam trên dưới nửa thế kỷ từ giữa thập kỷ 50 thế kỷ trước cho đến hôm nay. Nó bùng phát như nấm độc mọc sau mưa là từ thập kỷ 90 thế kỷ trước và nhất là khi Hội Nhà văn Việt Nam trao giải cho tập Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều. Và nó bị kết liễu khi Hội Nhà văn Việt Nam trao giải cho nó vào năm 2010 – 2011 với 4 tập Vô lối của Mai Văn Phấn, Từ Quốc Hoài, Đỗ Doãn Phương, Đinh Thị Như Thúy.
Thời gian Vô lối bùng phát đến nay đã trên dưới 20 năm (1992 – 2012) nhưng nó không gây được tiếng vang, không dấy lên một phong trào thơ ca nào cả. Nó có cách cảm, cách nghĩ tù mù, rối rắm, khập khà khập khễnh, kênh kiệu, lôm nhôm, loam nhoam, lộn xà lộn xộn… với một loại hình câu chữ dài dòng lê thê lếch thếch hoặc kể lể con cà con kê, hoặc nói năng lảm nhảm rối rắm, hoặc làm duyên làm dáng vô bổ, hoặc uốn éo da lươn, hoặc tịch mịch tối bưng, hoặc đen ngòm da gấu, hoặc đa ngôn đa quái, hoặc lai căng chữ nghĩa nước ngoài một cách thô thiển đàng điếm hoặc mê muội bệnh hoạn về tình dục thể hiện trong câu viết, trong tâm tưởng ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nó bị đại đa số công chúng, bạn đọc của toàn dân tộc phản bác dù nó được báo chí chính thống, cục vụ viện chính thống, giáo sư, tiến sỹ văn chương, học giả đầu ngành, cánh hẩu lăng xê, tán tụng đưa lên mây xanh và dành không ít tiền thuế của dân đeo vòng “nguyệt quế” rởm cho nó!
Xin nhắc lại một vài nhận dạng Vô lối.
Đó là một loại hình không có trong tất các loại thể văn học nước nhà và thế giới. Nó dịch không ra dịch, mô phỏng không ra mô phỏng, không phải phú, không phải tế, không phải hát nói, không phải kịch, không phải ca từ, không phải ngâm, không phải vịnh, không phải hát vui chơi, không phải hát ru em, không phải nói lối, không phải văn xuôi, không phải kể chuyện, nó là một loại quái thai của văn chương! Nó chính là Vô lối!
Đặc điểm của Vô lối là: Thứ nhất là nó chối bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, chối bỏ thẩm mỹ của loài người; thứ hai là triệt tiêu một trăm phần trăm vần điệu; thứ ba là viết dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống; thứ tư là tù mù, tịch mịch, rối rắm, đánh đố mình, đánh đố người đọc; thứ năm là đại ngôn, sáo rỗng, trống hơ, trống hoắc, hô khẩu hiệu; thứ sáu là dung tục bẩn thỉu và tình dục bệnh hoạn; thứ bảy là sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, chưa Việt hóa…
Gooki nhà văn Xô viết (Liên Xô cũ) đã từng nói: “Nhà văn không biết đến văn học dân gian là một nhà văn tồi”. Đến Kalinin lãnh tụ của Liên Xô cũ cũng nói đại ý: “ Nội dung và hình thức văn học dân gian là thiên tài, các tài năng lơn về văn học đều biết tiếp thu và học tập thành công văn học dân gian. Bao nhiều tài năng lớn trong nước và thế giới đã minh chứng điều đó: Puskin, Lecmongtop, Bairon, Oma Khayam, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ…
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẻ ngược xuôi hở chàng
Đưa nhau một bước lên đàng
Cỏ xanh hai dãy mấy hàng châu sa
(Ca đao)
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Đoạn trường tân thanh – Nghuyễn Du)
Sinh vi vạn nhân thê
Tử vi vô phu quỷ
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chống
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
Những người viết Vô lối chổi bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và dân tộc, chối bỏ cách nói cách cảm của ông cha. Trước tiên, Vô lối triệt tiêu 100% vần điệu nhưng câu viết thì cứng cỏi, khô khan, không có một chút truyền cảm, không rung động lòng người. giống như ông nói gà, bà nói vịt, tù mù, hủ nút. Đọc nó có cảm giác lê thê, vô bổ:
“…Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
(nếu đời người không có những sớm mai)
anh trở dậy
đọc thơ Nguyễn Du
những câu lục bát buồn rưng rưng cuối đường của một ngày
chợt anh muốn viết tặng em
không thể được
em làm con tin ở một thế giới
(Thanh Tâm Tuyền)
…
Phan Rang, những năm ấy, có lẽ chị Ba không nhớ nữa
nhưng tôi kẻ từng chịu ơn chị, tôi không thể nào quên quá khứ.
Năm ấy, tôi đến từ phương xa
không giấy tờ, không người quen, không nhà không cửa
và tương lai tôi
tương lai ở trong tay những kẻ bố ráp bắt người đi đánh thuê cho quân xâm lược
tương lai buồn tênh như con đường bụi khô ngoài quán cà phê chiều hôm gió cuốn.
(Lê Văn Ngăn)
…
Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Đêm ấy tôi nằm trong chăn nghe tiếng chim đập cửa
Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi
(Nguyễn Quang Thiều)
…
Tôi đã làm khổ cô láng diềng niên
khóa cuối trung học trước khi làm lang
thang. Năm năm nàng chờ, thằng Wang nói
mầy quá tệ làm nó khổ mầy ngủ
ngon ăn khỏe còn nhăn răng cười như
khỉ. Ôi em còn hay đã thành ma,
hôm nay trời trăng nào biết? Tôi đã
chửi tệ bà nhà quê đáng tuổi mẹ
….
Ông không làm gì cả, đi loanh
quanh. Ông không đi đến đâu cả,
đi rồi về. Ông không làm gì
cả, ông suy nghĩ – không nghĩ ra
cái gì cả. Con cháu nói thứ
ăn hại, ông cười buồn. Lối xóm
bảo đồ lười biếng, ông nín lặng.
(In ra sa ra)…
Bây giờ là lúc có thể chia tay với điện thoại để bàn, cá vi dít, nắm đấm mi crô
Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường
Một mình một ba lô với xe đạp
Bây giờ gió gọi anh đi
Mặt trời đánh nhịp về tám hướng
Từ giã cà vạt, giày đen lời trịnh trọng
Anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ
Hò hét một mình, đọc những gì mình yêu thích, ghi chép những gì cần ghi chép
(Nguyễn Khoa Điềm)
Thành đôi môi đẫm rượu
Lênh đênh qua hàng quán tàn phai
Với cái nhìn bạc màu kiêm ái
Anh nhận ra tro tàn kim cương
Sau chớp mắt chậm như vĩnh cửu
Còn nhớ chăng bầu trời quạnh hiu
Trong thân thể gầy gò nơi giam giữ phận anh thoáng chốc
Em hay vầng trăng khiến nó mịt mù
(Nguyễn Bình Phương )
thanh tẩy (2) mãi vẫn không thấy sạch
quay về tắm bằng ngọn đèn
thử đưa bờ vai về phía ánh sáng
rồi cả hai tay
bàn chân, cằm, đầu gối
cả đôi tròng mắt và tiếng ho khan
xối ánh sáng vào từng góc khuất
gốc khuất như lò thúc mầm (3)
như thép nóng đem tôi vào nước
như quả trứng trong ổ đang ấp
rễ thân cành đã chết đâm ngang
(Mai Văn Phấn)
Trăng sáng
Ngư dân ở nhà chơi với vợ
đợi đêm còn ra với phong ba
Trăng sáng
ước bạc, lưới không sao giấu mắt
Cá băng tung tẩy từng đàn
Ngộp thở
Phố cổ oi, đèn lồng vàng và đỏ
Người đi từng đang đổ về phía bờ sông
(Phan Thị Vàng Anh)
Vô lối viết câu dây cà ra dây muống, dài dòng văn tự mà lại không có một thông tin, một ý nghĩa, đọc lên như hủ nút, rối rắm, ngúc nga, ngúc ngắc, tâm thần, đa số các câu dài câu dài 30 , 40 chữ, thậm chí có câu dài đến 40, 50 chữ. Đặc biệt có câu dài 41, 58 chữ, như điển hình các câu sau: câu trong bài “Sinh ngày 4 – 4”. Câu này đã vượt câu thơ Nguyễn Thị Kiêm thời Thơ mới 15 chữ;
Trò Domino với hiệu ứng lan truyền, đổ sang nhau những ăn năn – bất cần, trong sạch – vấy bẩn, ý nghĩa – vô bổ, cạn kiệt – lấp đầy, tuyệt vọng và ngộ nhận, đoàn tụ và lưu lạc, trấn tỉnh và hoảng loạn.
(Vi Thùy Linh)
Câu của Nguyễn Quang Thiều trong Cây ánh sáng đạt kỷ lục, vượt Nguyễn Thị Kiêm đến 31 chữ (!) tức là 58 chữ.
Cả những người đàn bà tội lỗi và thánh thiện vẫn vuốt ve con đỉa khổng lồ bám chặt bộ xương chàng và thì thầm run rẩy với con đỉa ấy, bị hành hạ vì con đỉa ấy, tự vẫn vì con đỉa ấy và tìm thấy một chút ý nghĩa đầy ảo giác với con đỉa ấy
(Nguyễn Quang Thiều)
Người đọc nào kiên nhẩn đọc câu trên chắc cũng phải điên lên cùng kẻ viết!
Trong khi đó thơ ca tinh hoa của thế giới phương Tây hay phương Đông chỉ một bài thơ 20 chữ đã sống mài hơn 2 000 năm và còn sồng lâu hơn nữa:
“Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm túy sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai”
(Lưu Vũ Tích – Đời Đường)
Trước hoa giờ nâng chén
Mấy chén ngất ngư say
Chỉ buồn hoa lại nói
Không nở cho lão này!
(Đỗ Hoàng dịch)
27 chữ của Nguyễn Thị Kiêm thời Thơ mới đã không còn thì câu 41 chữ của Vi Thùy Linh và câu 58 chữ của Nguyễn Quang Thiều thời Vô lối sẽ tan như bong bóng xà phòng!
Những người làm Vô lối bây giờ ngoài việc chối bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, họ còn dấn thêm một bước là dung tục hóa câu viết mà các sách dâm thư cổ ( Nhục bồ đoàn) kim (các trang mạng đen bẩn thỉu ) hiện nay cũng còn thua, cái nhìn rất bệnh hoạn vào người khác giới:
Mặt hồ thủ dâm nỏi sóng
(Nguyễn Quang Thiều)
Một bài thơ viết ở Hà nội
Có một bài thơ tôi viết
Trong bóng tối
Của thành phố này
Đấy không phải là đêm
Tôi vẫn nhìn thấy những đám mây nặng
Bò trên những mái nhà thành phố
Và vẫn nhìn thấy
Một người đàn bà
Tắm trong một toilet không có rèm che
Kỳ cọ như tuốt hết da thịt mình
Và vẫn nhìn thấy
Cuộc làm tình ban ngày
Của những kẻ thất nghiệp
Trong chính công sở của họ
Viết lúc 10 giờ 13 phút
H ngủ muộn. 10h13 phút chưa dậy.
Những sự sống trôi qua chiếc giường.
Những cái chết trôi qua chiếc giường.
Và H nhìn thấy trong giấc ngủ
Một tấm thân đàn ông nóng rừng rực
Trôi qua chiếc giường và dừng lại
ở một khoảng trên đầu
lúc 10h13 một người đàn bà khác
khoả thân trong một chiếc giường
đặt ở giữa thành phố
(Nguyễn Quang Thiều)
Nhắc bọn vô lối - thi tặc thật bẩn bút, mất thời gian!
(còn nữa)
Đ - H
Lược borvaanf điều là một thiệt thòi cho người lmf thơ! Bởi ca dao, tục ngữ nói một hay mười!