Thơ không vần cha ông - thơ vô lối - thi tặc hôm nay!

Chủ nhật - 30/03/2025 11:47
THƠ KHÔNG VẦN CHA ÔNG – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC HÔM NAY
Đỗ Hoàng
諭諸裨將檄文-
Dụ chư tỳ tướng hịch văn - HỊCH ĐỘNG VIÊN TƯỚNG LĨNH – Thống úy Trần Quốc Tuấn
Nguyên bản Việt cổ (chữ Nho)
Phiên âm tiếng Việt
余常聞之
Dư thường văn chi:
紀信以身代死而脫高帝
Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế;
由于以背受戈而蔽昭王
Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương.
豫讓吞炭而復主讎
Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù;
申蒯断臂而赴國難
Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn.
敬德一小生也 身翼太宗而得免世充之圍
Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi;
杲卿一遠臣也 口罵禄山而不從逆賊之計
Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế.
自古忠臣義士 以身死國 何代無之
Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi?
設使數子區區為兒女子之態
Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thái,
徒死牖下 烏能名垂竹白
Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch,
與天地相為不朽哉
Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai!
汝等世為將種 不曉文義
Nhữ đẳng thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa,
其聞其說 疑信相半
Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán.
古先之事姑置勿論
Cổ tiên chi sự cô trí vật luận.
今余以宋韃之事言之
Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi:
王公堅何人也
Vương Công Kiên hà nhân dã?
其裨將阮文立又何人也
Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã?
以釣魚瑣瑣斗大之城
Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đẩu đại chi thành,
當蒙哥堂堂百萬之鋒
Đương Mông Kha đường đường bách vạn chi phong,
使宋之生靈至今受賜
Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ!
骨䚟兀郎何人也
Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã?
其裨將赤脩思又何人也
Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã?
冒瘴厲於萬里之途
Mạo chướng lệ ư vạn lý chi đồ,
獗南詔於數旬之頃
Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh,
使韃之君長至今留名
Sử Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh!
況余與汝等生於擾攘之秋
Huống dư dữ nhữ đẳng, Sinh ư nhiễu nhương chi thu;
長於艱難之勢
Trưởng ư gian nan chi tế.
竊見偽使往來 道途旁午
Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ.
掉鴞烏之寸舌而凌辱朝廷
Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình;
委犬羊之尺軀而倨傲宰祔
Ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ.
托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅求
Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu;
假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥庫
Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng hố.
譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉
Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai?
余常臨餐忘食 中夜撫枕
Dư thường lâm xan vong thực, Trung dạ phủ chẩm,
涕泗交痍 心腹如搗
Thế tứ giao di, Tâm phúc như đảo.
常以未能食肉寢皮 絮肝飲血為恨也
Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã.
雖余之百身高於草野
Tuy dư chi bách thân, cao ư thảo dã;
余之千屍裹於馬革
Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách,
亦願為之
Diệc nguyện vi chi.
汝等久居門下 掌握兵權
Nhữ đẳng cửu cư môn hạ, Chưởng ác binh quyền.
無衣者則衣之以衣
Vôy giả tắc ý chi dĩ y;
無食者則食之以食
Vô thực giả tắc tự chi dĩ thực.
官卑者則遷其爵
Quan ti giả tắc thiên kỳ tước;
祿薄者則給其俸
Lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng.
水行給舟 陸行給馬
Thủy hành cấp chu; Lục hành cấp mã.
委之以兵則生死同其所為
Ủy chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi;
進之在寢則笑語同其所樂
Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc.
其是公堅之為偏裨 兀郎之為副貳亦未下爾
Kỳ thị Công Kiên chi vi thiên tì, Ngột Lang chi vi phó nhị, Diệc vị hạ nhĩ.
汝等坐視主辱曾不為
Nhữ đẳng tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu;
身當國恥曾不為愧
Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý.
為邦國之將侍立夷宿而無忿心
Vi bang quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm;
聽太常之樂宴饗偽使而無怒色
Thính thái thường chi nhạc, yến hưởng ngụy sứ nhi vô nộ sắc.
或鬥雞以為樂或賭博以為娛
Hoặc đấu kê dĩ vi lạc; Hoặc đổ bác dĩ vi ngu.
或事田園以養其家
Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia;
或戀妻子以私於己
Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ.
修生產之業而忘軍國之務
Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ;
恣田獵之遊而怠攻守之習
Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập.
或甘美酒或嗜淫聲
Hoặc cam mỹ tửu; Hoặc thị dâm thanh.
脱有蒙韃之寇來
Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai,
雄雞之距不足以穿虜甲
Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp;
賭博之術不足以施軍謀
Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu.
田園之富不足以贖千金之軀
Điền viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu;
妻孥之累不足以充軍國之用
Thê noa chi lụy, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng.
生產之多不足以購虜首
Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ;
獵犬之力不足以驅賊眾
Liệp khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng.
美酒不足以沈虜軍
Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ quân;
淫聲不足以聾虜耳
Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ.
當此之時 我家臣主就縛 甚可痛哉
Đương thử chi thời, Ngã gia thần chủ tựu phọc, Thậm khả thống tai!
不唯余之采邑被削
Bất duy dư chi thái ấp bị tước,
而汝等之俸祿亦為他人之所有
Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở hữu;
不唯余之家小被驅
Bất duy dư chi gia tiểu bị khu,
而汝等之妻孥亦為他人之所虜
Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ;
不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵
Bất duy dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn xâm,
而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘
Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật;
不唯余之今生受辱 雖百世之下 臭名難洗 惡謚長存
Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường tồn,
而汝等之家清 亦不免名為敗將矣
Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi bại tướng hĩ!
當此之時汝等雖欲肆其娛樂得乎
Đương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu lạc, đắc hồ?
今余明告汝等
Kim dư minh cáo nhữ đẳng,
當以措火積薪為危
Đương dĩ thố hỏa tích tân vi nguy;
當以懲羹吹虀為戒
Đương dĩ trừng canh xuy tê vi giới.
訓練士卒習爾弓矢
Huấn luyện sĩ tốt; Tập nhĩ cung thỉ.
使
Sử
人人逄蒙家家后羿
Nhân nhân Bàng Mông; Gia gia Hậu Nghệ.
購必烈之頭於闕下
Cưu Tất Liệt chi đầu ư khuyết hạ;
朽雲南之肉於杲街
Hủ Vân Nam chi nhục ư cảo nhai.
不唯余之采邑永為青氈
Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên,
而汝等之俸祿亦終身之受賜
Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ tứ;
不唯余之家小安床褥
Bất duy dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục,
而汝等之妻孥亦百年之佳老
Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão;
不唯余之宗廟萬世享祀
Bất duy dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự,
而汝等之祖父亦春秋之血食
Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết thực;
不唯余之今生得志
Bất duy dư chi kim sinh đắc chí,
而汝等百世之下芳名不朽
Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ;
不唯余之美謚永垂
Bất duy dư chi mỹ thụy vĩnh thùy,
而汝等之姓名亦遺芳於青史矣
Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh sử hĩ.
當此之時汝等雖欲不為娛樂得乎
Đương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu lạc, đắc hồ!
今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略
Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư, danh viết Binh thư yếu lược.
汝等或能專習是書 受余教誨 是夙世之臣主也
Nhữ đẳng hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã;
或暴棄是書 違余教誨 是夙世之仇讎也
Hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã.
何則
Hà tắc?
蒙韃乃不共戴天之讎
Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù,
汝等記恬然不以雪恥為念 不以除凶為心
Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm,
而又不教士卒 是倒戈迎降 空拳受敵
Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch;
使平虜之後 萬世遺羞
Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu,
上有何面目立於天地覆載之間耶
Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da?
故欲汝等明知余心 因筆以檄云
Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm, Nhân bút dĩ hịch vân.
Đỗ Hoàng dịch từ nguyên bản
“Ta từng nghe: Kỷ Tín quên mình cứu thoát vua Cao-đế;
Do Vu giơ lưng chịu giáo dâm che chở được vua Chiêu-vương;
Dự Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ;
Thân Khoái chặt tay để gánh nạn cho nước;
Uất Trì Cung một viên tướng nhỏ, còn biết che đỡ vua Đườn thoát khỏi khỏi vòng vây của Thế Sung;
Nhan Cảo Khanh là bầy tôi xa, còn biết mắng chửi Lộc Sơn, không nghe lời nghịch-tặc.
Từ xưa, những bậc trung-thần nghĩa-sĩ, quên thân vì nước, đời nào cũng có.
Nếu mấy người kia, chăm chăm học thói nhút nhát của con gái trẻ con, chẳng qua cũng đến chết rũ ở nơi xó bếp, đâu được ghi tên vào trong thẻ tre lụa trắng, danh tiếng cùng trời đất lâu bền?
“Các người đời đời là con nhà võ, không biết chữ nghĩa, nghe những chuyện ấy, thảy đều nửa tin nửa ngờ.
Thôi thì những việc cổ xưa, hãy để đó không nói đến nữa.
Nay ta hãy đem chuyện nước Tống, giống Thát (là chuyện gần đây) kể cho các người cùng nghe: Nguyễn Văn Lập tỳ-tướng của y lại là người thế nào?,
Chỉ có vòng thành Điếu Ngư nhỏ như cái đấu mà hai người ấy chống nổi toán quân trăm vạn của Mông Kha,
khiến cho con dân nước Tống, đến nay hãy còn nhớ ơn!
Đường ngột Ngại là người gì?
Xích tu Tư tỳ tướng của y lại là người gì?
xông pha lam-chướng trên đuờng muôn dặm,
hai người ấy đánh được quân Nam-chiếu trong vài tuần,
khiến cho vua chúa giòng Thát nay còn để tiếng!
“Huống chi ta với các ngươi,
sinh ở buổi rối ren,
lớn lên nhằm khi khó nhọc,
chính mắt ngó thấy sứ ngụy đi lại, đường xá nghẽn-ngang,
chúng uốn cái lưỡi cú diều bắt nạt tể phụ,
chúng giơ cái thân chó dê, kiêu ngạo với quan triều đình
; chúng nhờ mệnh lệnh của chúa Mông-Cổ,
mà đòi nào ngọc nào lụa, sự vòi vĩnh thật vô cùng;
chúng mượn danh hiệu của vua Vân-nam mà hạch nào bạc nào vàng; của kho đụn đã hồ hết Cung-đốn cho chúng giống như đem thịt mà liệng cho cọp đói, sao cho khỏi lo về sau?
“Ta thường thì tới bữa quên ăn, giữa đêm vỗ gối, nước mắt tràn xuống đầy mép, tấm lòng đau như bị đâm, vẫn lấy cái sự chưa thể ăn thịt nằm da, nuốt gan uống máu của chúng làm tức.
Dẫu cho một trăm cái thân của ta phải đem đốt ở đồng cỏ,
một nghìn cái thân của ta phải đem bọc vào da ngựa, ta cũng vui lòng.
Các ngươi lâu nay ở dưới cửa ta cầm giữ binh-quyền, thiếu áo thì ta cho áo ,
thiếu ăn thì ta sẽ cho ăn
quan nhỏ thì ta thăng chức, bổng lôc ít ta cho thêm lương,
đi thủy cấp thuyền, đi bộ cấp ngựa, n
những khi trận mạc, sự sống thác cùng nhau xông pha,
lúc nhà hạ cung nhau vui cười vui cười !
So vớ Vương Công Kiên, Ngột Ngại ở ngôi phó nhị, có khác gì đâu.
“Thế mà các ngươi thấy chủ bị nhục chẳng bận tâm;gặp nước bị dơ chẳng lấy làm thẹn,
làm tướng nhà nước phải hầu mấy đứa chum mường, mà không có lòng căm hờn,
nghe khúc nhạc Thái thường đem thết một tên ngụy sứ, mà không có vẻ tức giận;
kẻ thì chọi gà cho thích, kẻ thì đánh bạc mua vui,
có người chỉ chăm vườn ruộng, cốt nuôi được nhà; có người chỉ mến vợ con, lấy mình làm trọng; cũng có kẻ chỉ lo làm giàu làm có,
việc quân quốc chẳng thèm đoái hoài,
cũng có người chỉ ham về săn bắn mà quên việc binh, hoặc là đam mùi rượu ngọt, hoặc là mê tiếng hát hay.
“Một khi giặc Mông đến nơi, thì cựa con gà trống không đâm thủng áo giáp
Mẹo cò bạc không mưu lược nhà binh.
Dẫu rằng ruộng lắm, vương nhiều
tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc;
vợ con tuy sẳn, trong đám ba quân khó dùng,
của cải tuy nhiều, không thể mua được đầu giặc;
chó săn tuy giỏi , không thể đuổi được quân thù,
rượu ngon không đủ để cho giặc phải mê;
hát hay không đủ làm cho giặc phải chết mêt;
lúc đó thầy trò ta sẽ cùng bị trói, đáng đau đớn biết chừng nào!
Nếu thế, chẳng những là thái ấp của ta không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng bị kẻ khác chiếm mất;
chẳng những là gia quyến của ta phải đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi;
chẳng những xã tắc của tổ tông ta sẽ bị dày xéo, mà đến mồ mả của cha mẹ các ngươi cũng sẽ bị kẻ khác đào lên,
chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, và trăm kiếp khác tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu vẫn còn, mà gia thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng là nhà bại tướng.
Đã đến khi đó các ngươi muốn chơi bời cho thỏa, được chăng?
“Nay ta bảo rõ các ngươi: cái chuyện dấm lửa đống củi phải lo, mà câu sợ canh thổi rau nên nhớ.
Các ngươi hãy nên huấn luyện quân-sĩ, rèn-tập cung tên, khiến cho người người giỏi như người người như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ,
Để bêu đầu Tất-Liệt dưới cửa khuyết, ướp thịt Thoát-Hoan trong trại rơm.
Như thế chẳng những là thái-ấp của ta mãi mãi còn, mà bổng-lộc các ngươi cũng được suốt đời hưởng thụ;
chẳng những gia-quyến của ta được yên giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng được sum họp đến già;
chẳng những là tông-miếu ta sẽ được muôn đời tế lễ,
mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm;
chẳng những thân ta kiếp này đắc chí,
mà đến các người dưới trăm đời nữa tiếng thơm vẫn lưu truyền;
chẳng những tên tuổi ta không bị mai một, mà đến tên họ các người cũng để tiếng thơm trong sử xanh.
Khi ấy các ngươi không muốn vui chơi, được chăng?
“Nay ta lựa chọn binh pháp các nhà, làm một quyển sách, đặt tên là sách "Binh-thư yếu-lược".
Nếu các ngươi biết chuyên-tập sách ấy, nghe lời dạy-bảo của ta, ấy là duyên thầy trò thuở xưa;
Nếu các ngươi bỏ bê sách ấy, trái lời dạy-bảo của ta, ấy là mối cựu thù kiếp trước,
Sao vậy?
Bởi vì như vậy tức là kẻ thù không đội chung trời,
Thế mà các ngươi không nghĩ tới, điềm nhiên không lo đến sự rửa thẹn, không tinh; đến việc trừ hung, không nhớ đến chuyện dạy tập quân-sĩ.
Thế là giở giáo hàng giặc, nắm tay chống giặc
Rồi đây, sau khi dẹp yên quân giặc, các ngươi sẽ phải thẹn muôn đời,
còn mặt-mũi nào đứng giữa khoảng trời đất che chở?
Nay ta làm bài hịch này để các ngươi biết bụng ta!

THƠ VÔ LỐI – Thi tặc
Nguyễn Quang Thiêu
Ltg; - Tôi làm việc nay thật xúc phạm cha ông. Đưa loại châu chấu , bọ giòi đặt trên bàn thờ. Nhưng không làm không được được! Cái đời nhố nhăng này đang tôn vinh bọn giòi bọ, châu châu , cao cào đặt chúng trên cả bàn thờ


BỎ BÀI “TIẾNG VỌNG” RA KHỎI SÁCH GIÁO KHOA
(Tiếng Việt - Lớp 5 tập một)
Những tác phẩm được tuyển chọn vào sách giáo khoa là những tác phẩm tinh hoa kinh điển có giá trị cao về nội dung tư tưởng, nghệ thuật được thử thách qua thời gian và phù hợp tâm lý lứa tuổi học sinh. Chúng ta ai cũng có tuổi thơ cắp sách đến trường và những bài văn, bài thơ từ thuở ấu trò được ăn sâu trong trí nhớ và đi theo suốt cuộc đời của chúng ta, nó là mẫu mực trong sáng về tình yêu quê hương, đất nước, về tình cảm yêu thương không thể xóa nhòa:
"Bờ cỏ còn hơi sương
Nắng vàng trải trên đường
Cành cao chim chào đón
Chúng em đi tới trường
Một hồi kẻng khua vang
Từng đội đứng xếp hàng
Mắt nghiêm nhìn cờ đỏ
Phấp phới ánh sao vàng
Em hứa thầm cùng Bác
Năm nay cháu học ngoan!"
(Tập đọc cấp một những năm học thập kỷ 60 thế kỷ trước)
Lứa tuổi năm sáu mươi hôm nay không ai là không nhớ bài thơ tới trường này!
Thế hệ sau này, các em cũng được học những bài thơ rất hay, những vần thơ chan chứa tình cảm, hàm súc, âm vang và ngân xa:
"Hôm qua em tới trường
Mẹ dắt tay từng bước
Hôm nay mẹ lên nương
Một mình em tới lớp
Hương rừng đưa thơm ngát
Nước suối trong thì thầm
Cọ xòe ô che nắng
Râm mát đường em đi!..."
Hay:
"Rừng cọ ơi rừng cọ
Lá đẹp xanh ngời ngời
Khi yêu thường vẫn gọi
Mặt trời xanh của tôi!"
Thế mà sang thế kỷ XXI, trong sách giáo khoa lại có tuyển chọn những bài thơ không ra thơ, văn không ra văn, có những bài đang ở dạng thể nghiệm chưa được công chúng thẩm định, thế mà lại được đưa vào sách giáo khoa ở tuổi ấu trò giảng dạy. Điển hình là bài "Tiếng vọng' của Nguyễn Quang Thiều - sách giáo khoa Tiếng Việt - lớp 5 tập một - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tái bản lần thứ 5 - tháng 1 năm 2011).
Nguyên bản:
Nguyễn Quang Thiều
TIẾNG VỌNG
Con chim sẻ nhỏ chết rồi
Chết trong đêm cơn bão về gần sáng
Đêm ấy tôi nằm trong chăn nghe tiếng chim đập cửa
Sự ấm áp gối chăn đã giữ chặt tôi
Và tôi ngủ ngon lành đến lúc bão vơi.
Chiếc tổ cũ trong ống tre đầu nhà chiều gió hú
Không còn nghe tiếng cánh chim sẻ về
Và tiếng hót mỗi sớm mai trong vắt
Nó chết trước cửa nhà tôi lạnh ngắt
Một con mèo hàng xóm lại tha đi
Nó để lại trong ổ những quả trứng
Những con chim non mãi mãi chẳng ra đời
Đêm đêm tôi vừa chợp mắt
Cánh cửa lại rung lên tiếng đập cánh
Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ
Tiếng lăn như đá lở trên ngàn ./.
ĐỖ HOÀNG DỊCH RA THƠ VIỆT
TIẾNG VỌNG
Chim sẻ mẹ mất rồi
Đêm bão về gần sáng
Tôi nằm trong chăn ấm
Ngon lành đến bão vơi!
Thế mà ở ngoài trời
Tổ chim đầy gió hú
Con mèo như thú dữ
Cắp sẻ mẹ chạy dài!
Từ nay không còn nữa
Cánh chim vờn ban mai!
Và vầng trăng của trứng
Mãi mãi chẳng ra đời!
Đêm đêm tôi chợp mắt
Cánh cửa nhà rung vang
Trứng lăn vào giấc ngủ
Như đá lở trên ngàn

CÂU HỎI CUỐI NGÀY
Nguyễn Quang Thiều

Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan tầm
Đó là khoảng thời gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày

Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên

Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào

Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.

Quán Sứ - Hà Đông, 1991
BÌNH GIẢNG
Câu mở đầu không có gì gọi là câu thơ. Một câu nói đơn sơ như các ông, các bà quét rác ở các công ty Vệ sinh môi trường, sau ngày làm mệt nhọc vẫn thường nói. Mà nói hay hơn, thơ hơn:
“Ngày dài mưa nắng trên đường
Mong về có đọi cơm thương ở nhà”.
Tiếp theo 5 câu sau có tới 31 từ mà lại là 5 câu rất vô nghĩa, vô bổ không nói lên được điều gì:
“Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi không biết tên
Phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng rụng xuống
Cơn mưa buổi chiều vàng thẳm dâng lên”
Trong khi tiền nhân chỉ 20 từ đã làm nên thi phẩm bất hủ muôn đời!
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Lưu Vũ Tích
飲酒看牡丹
劉禹錫)

飲酒看牡丹
今日花前飲,
甘心醉數杯。
但愁花有語,
不為老人開。
Lưu Vũ Tích
Ẩm tửu khán mẫu đơn
Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm tuý sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ:
Bất vị lão nhân khai.
Đỗ Hoàng dịch thơ:
UỐNG RƯỢU NGẮM HOA
Trước hoa giờ được uống
Mấy chén ngất ngư say
Sợ rằng hoa sẽ nói:
Không nở cho già này!

Cao điểm chốt 176 –
Biên giới Việt Lào 1972
Tiếp đến 6 câu sau là những câu có ý nghĩ dục tình rất bậy bạ, ý nghĩ khiên cưỡng mang tính hiếp dâm cao:
“Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua
Như dao sắc phất vào tôi tứa máu
Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào”
Những người con gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua có sao đâu. Họ làm đẹp cho phố phường đường làng có cuộc đời khởi sắc mà ông bà váy cồng lộn ngược, mò cua bắt ốc không có đôi dép mo cau mà đi thì sao? Tại sao lại nói “Như dao sắc phất vào tôi tứa máu”? Một câu khẩu phàm, hàm hồ, hàm chứa, căm giận cái đẹp còn hơn phát xít Hitle bắn đại bác vào Viện Bảo tàng nghệ thuật Paris (Pháp) những năm 1940 – 1942. Người ta cưỡi xe máy, một nét đẹp của con gái Việt Nam thời đổi mới nghìn đời mới có, sao mình lại có cái nhìn thù hận như vậy?
Bên châu Âu như bà Angela Dorothea Merkel, thủ tướng Đức mặc váy cởi xe máy phóng qua anh cũng tứa máu như dao sắc phất vào người chăng?
Đúng là điên rồ!
Cha ông nói:
“Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc áo hở lườn mới xinh!”
Bây giờ người đẹp mới mặc váy cưỡi xe máy phóng qua mà mình đã hồng hộc sôi máu lên như đỉa phải vôi? Anh lại còn “ nấc “ lên như bị nghẹn. Việc chi mà anh ghen tức lồng lộn với cái đẹp như thế? Cái đẹp vĩnh cửu của thời đổi mới nước ta có phương hại gì đến thẫm mỹ, đến thuần phong mỹ tục gì đâu?
Người đẹp mặc thế là quá kín đáo, bây giờ chúng nó còn mặc quần đùi lên tận bẹn cởi xe máy nữa đấy. Chỉ những đám vua quan dâm dục vô độ “ Nhất dạ lục giao hoan, sinh ngũ tử” nhưng lại căm thù cái đẹp:
“Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng”
(Ca dao)
Chưa hết, anh còn đặt ra ảo tưởng rất bậy bạ, của đám cái bang, homeless people, vô lương tri:
“Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ thế nào “
Rằng anh làm sao lấy họ được. Anh Vua chúa sao mà lấy họ dễ dàng như thế. Anh không phải Đặng Mậu Lân em gái Đặng Thị Huệ khênh giường đi giữa Thăng Long thấy gái đẹp là kéo lên làm tình, cũng không phải Beria (Nga) có xe đặc chúng đóng giường chiếu riêng để đi trên phố hễ thấy nữ sinh viên là kéo lên giao hợp… Đến như vua Napoleon cũng phải lấy mạ giòng (đàn bà có con riêng), thứ gì anh thấy người đẹp mặc váy cưỡi xe máy đi trên phố thoáng qua mà đã đòi làm tình! Anh có nứng cặc thì anh chạy vào gốc cây thủ dâm cho nó hạ hỏa, chứ làm sao tiếp cận với người ta!
Anh còn chưa biết, biết đâu trong đám đàn bà, cả đẹp cả xấu đó là tình báo viên, đặc tình, đặc vụ của Công an cài cắm, mà ngành anh theo học. Anh bờm xơm họ sẽ cho một lưỡi dao găm thì anh đi đời, không họ sẽ điện đàm trực tuyến đến bộ phận tham mưu cho anh vào Hỏa Lò! Anh có dám không?
Tiếp đến là đoạn kể như học sinh lớp 2 Hà Nội thời miền Bắc hòa bình mới lặp lại tả cảnh các bà, các cô buôn vịt, buôn cá khô, buôn nước mắm đi trên tàu điện:
“Và chuyến xe tan tầm lại đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai quấn áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia”
Rồi anh lại lần nữa nổi máu Sở Khanh không phải lối:
“Và lòng tôi nhói một câu hỏi
Rằng nếu tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ với họ như thế nào.”
Thật là một ý nghĩ tà dâm rất bậy bạ!
Đến như Nguyễn Du chỉ mới nói, dù tên Mã Giám Sinh vô cùng mất dạy, bất lương, không còn luân thường đạo lý:
“Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến duyên”
Đó là đã có ba trăm lạng vàng nhé. Còn anh bô xu dính tíu sao anh có ý nghĩ hoang dâm vô độ ấy được?
Khi tập “ Sự mất ngủ của lửa” được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng, ngay năm1993, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết “ Nguyễn Quang Thiều tự dịch thơ mình ra tiếng Việt” và phong cho ông nhà “ Khóc Học” . Tôi nghĩ rất đúng mà chưa hết. Nguyễn Quang Thiều có du học học ngành Công an chuyên nghiệp, nhưng Nguyễn Quang Thiều không biết làm thi ca, nhất là thơ tiếng Việt. Tập “Sự mất ngủ của lửa” đầy hàng chục chữ khóc, riêng bài này đã hơn bốn chữ gần khóc: tôi nấc lên, tôi sặc khói, tôi sẽ ngủ, tôi nhói lên…
Người ta chẳng thấy nấc, sặc, nhói, ngủ… như thế nào!
Nói chung Nguyễn Quang Thiều Thiều không biết làm thơ tiếng Việt, viết rất kém, dẫu sau này anh có sáng tác lục bát “ Dâng trà”, “Con đường”…
Hội NhàVăn Việt Việt Nam thời ấy (1993) tặng giải thướng cho Nguyễn Quang Thiều là có tội với nhân dân, với lịch sử!
(còn nữa)

(còn tiếp)
Cha ông làm thơ không vần cùng nhân loại - tè thuở khai sơn lập địa.

Tác giả: duyprint

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

GẦN 700 NGƯỜI (Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam) ĐƯỢC ƠN GỌI, KHÔNG ĐƯỢC ƠN CHỌN VÀO “CHÂN DUNG 810 VĂN SĨ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI!”

Gaanf 700 ngwowi laf Hooij vieen Hooij  Nhaf vawn Vieetj Nam khoong ddwowcj chonj vao "Chaan dung 810 vi Vawn six Vieetj ddwowng ddaij"

Thăm dò ý kiến

Bạn biết gì về NukeViet 4?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập10
  • Hôm nay441
  • Tháng hiện tại30,835
  • Tổng lượt truy cập84,846
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi