Thơ không vần thế giơi...

 21:40 25/03/2025

THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI – THƠ VÔ LỐI – THI TẶC VIỆT NAM
(tiếp theo)
Đô Hoàng

SO SANH TIÊNG NGƯỜI “XỈ ÂM” VÀ NGƯỜI “HẦU ÂM”.
Đỗ Hoàng
Tôi đã có nhiều chuyên luận viết về tiếng nói người người “xỉ âm”(phát âm qua kẻ răng) và người “hầu âm”(phát âm qua thực quản (cổ họng âm)..Giờ chỉ dẫn chứng so sánh:
Tiếng Anh
America – Ơ re mi cần –Mỹ
Television – Televísần -Tivi
have breakfast- Het bơretphat – Ăn sáng
daily conversation – đàm thoại hàng ngày
Tiếng Việt: Mỳ, Vô tuyên , Ăn sáng, Nói hàng ngày!
Tiếng Trung : Mỹ, Vô tuyến, Tảo thực, Đàm thoại nhật
Tiếng Pháp:
la maison – cái nhà
la cochon – lợn
boutique – cửa hàng
numéro un – số một
Tiếng Việt : nhà, lợn, cửa hàng, số một
Tiếng Anh và tiêng Pháp những từ rời rac trên khi đọc, xêp lại như một bài thó tứ tuyệt của phương Đông,, còn tiếng Việt và tiêng Trung nó không có ngữ nghĩa gì!
Vây vần điệu trong thó người phát « xỉ âm » rất quan trọng !

THƠ KHÔNG VẦN NƯỚC TA TỪ CỔ ĐẾN NAY
Vì lý do « xỉ âm » nên từ cổ cha ông ta gọi làm thơ không vần là :chiếu, biểu, cáo, thư, tụng, biểu, tế, đói, sấm, hich, tô tụng, trát, phú, lệnh…Điển hình nhát là ‘BÌNH NGÔ DẠI CAO » - Bái cáo bình Ngô) của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo 平吳大告 • Đại cáo bình Ngô
蓋聞:
仁義之舉,要在安民,
弔伐之師,莫先去暴。
惟,我大越之國,
實為文獻之邦。
山川之封域既殊,
南北之風俗亦異。
自趙丁李陳之肇造我國,
與漢唐宋元而各帝一方。
雖強弱時有不同
而豪傑世未常乏。
故劉龔貪功以取敗,
而趙禼好大以促亡。
唆都既擒於鹹子關,
烏馬又殪於白藤海。
嵇諸往古,
厥有明徵。
頃因胡政之煩苛。
至使人心之怨叛。
狂明伺隙,因以毒我民;
惡黨懷奸,竟以賣我國。
Đỗ Hoàng trích dịch
Thế trời làm việc, Vua truyền rằng.
Đã nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.

Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.

Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà bán nước cầu vinh… »
Phú
Tú Xương
Phú hỏng khoa Canh Tý
Đau quá đòn hằn
Rát hơn lửa bỏng.
Hổ bút hổ nghiên;
Tủi lều tủi chõng.
Nghĩ đến chữ “lương nhân đắc ý” thêm nỗi thẹn thùng;
Ngắm đến câu “quyển thổ trùng lai” nói ra ngập ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng;
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.
Có một thầy:
Dốt chẳng dốt nào;
Chữ hay, chữ lỏng.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu;
Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng.
Quanh năm phong vận, áo hàng tầu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh;
Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng.
Tú rốt bảng giữa năm Giáp Ngọ, nổi tiếng tài hoa;
Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng.
Năm vua Thành Thái mười hai;
Lại mở khoa thi Mĩ Trọng.
Kỳ đệ tam văn đã viết rồi;
Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem giò;
Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng.
Sáng đi lễ Phật, còn kỳ này kỳ nữa là xong;
Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.
Nào ngờ:
Bảng nhỏ có tên,
Ngoại hàm còn trống.
Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang;
Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.
Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?
Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với bóng!
Giá cứ chăm nghề đèn sách thì mười lăm mười sáu đỗ tự bao giờ;
Những là mải việc đùa chơi nên một tuổi một già, hoá ra lóng đóng.
Thôi thì thôi:
Sách vở mập mờ;
Văn chương lóng ngóng.
Khoa trước đã chầy;
Khoa sau hẳn chóng.
Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;
Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!
Canh Tý tức năm 1900.
Chiếu
Thiên đô chiếu (chữ Hán: 遷都詔) tức Chiếu dời đô là một đoạn văn được Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ 15 trong sách Đại Việt sử ký toàn thư[1], bài văn này được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ra Đại La.
Theo ý kiến của sử gia Trần Quốc Vượng, Chiếu dời đô đã khẳng định được vai trò của kinh đô Thăng Long,[3] là tác phẩm văn học khai sáng của nhà Lý. Tuy nhiên, Chiếu dời đô chưa nêu bật được chủ nghĩa dân tộc và khát vọng độc lập, hơn nữa ngôn ngữ sử dụng trong văn bản này mang đượm màu sắc dị đoan, phong thủy.
昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億萬世子孫之計。上謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。筭數短促。百姓耗損。萬物失宜。朕甚痛之。不得不徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。萬物極繁阜之豐。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要會。爲萬世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。
Bản dịch tiếng Việt:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà 2 nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)
Sắc
Những người làm quan từ tứ phẩm trở lên, xưa được nhà vua ban sắc phong tặng cho cha mẹ, ông bà cụ kỵ tùy theo phẩm tước của mình. Nhất phẩm được triều đình truy phong đến cao tổ, nhị phẩm được truy phong đến ông bà, tam tứ phẩm được truy phong đến cha mẹ.
Trong sắc phong có kể lại công trạng chức tước của người làm quan, rồi suy âm truy phong đến cha mẹ, ông bà hay các cụ. Sắc phong được báo về dân làng, dân làng phải tổ chức đi rước sắc về nhà chủ. Nếu những người được phong còn sống, sẽ có lễ khao dân làng, cùng với cáo yết gia tiên và lễ thần linh tại đình.
(Theo Từ điển Lễ tục Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, 1996)
Sắc chí vua Tự Đức
“Thí sai Suất đội Lê Non thuộc đội 5 đội thủy vệ Bình Thuận đã kinh qua chức Thí sai do viên Cai tỉnh đề cử. Nay Bộ binh đồng ý chuẩn y bổ thụ giữ chức Chánh đội trưởng Suất đội Suất nội đội binh thủy đồng thời cai quản việc điều động người thi hành công vụ. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 29 tháng 5 năm Tự Đức thứ 17 (1863).
“Hiệp quản Lê Non thuộc Tinh binh Suất đội thủy vệ Bình Thuận đã được ân chuẩn thăng một trật, nay Cai tỉnh y theo đó chuẩn thăng làm Cai đội tinh binh đồng thời cai quản đội biện binh. Phàm mọi việc cứ y theo lệ mà thừa hành. Nhược bằng không làm tròn nhiệm vụ thì theo luật binh mà xử phạt. Kính đấy!”. Ngày 8 tháng 5 năm Tự Đức thứ 23 (năm 1869).
(còn nữa)
Đ - H

Thơ không vần thế giơi-thơ vô lối - thi tặc Việt

 06:09 25/03/2025

THƠ KHÔNG VẦN THẾ GIỚI
VÀ THƠ VÔ LỐI - THI TẶC VIỆT NAM
Đỗ Hoàng
Thơ không vần là thơ được viết bằng những dòng thơ có vần điệu đều đặn nhưng không có vần , thường là theo nhịp thơ iambic pentameter (nhịp thơ iambic năm âm tiết). Thơ này được mô tả là "có lẽ là hình thức phổ biến và có ảnh hưởng nhất mà thơ tiếng Anh đã có kể từ thế kỷ 16", và Paul Fussell ước tính rằng "khoảng ba phần tư tổng số thơ tiếng Anh là thơ không vần".
Người đầu tiên sử dụng thơ không vần trong tiếng Anh là Henry Howard, Bá tước Surrey trong bản dịch Aeneid của ông (sáng tác khoảng năm  1540 ; xuất bản sau khi ông mất, 1554–1557. Ông có thể đã lấy cảm hứng từ bản gốc tiếng Latin vì thơ cổ điển tiếng Latin không sử dụng vần điệu, hoặc có thể ông đã lấy cảm hứng từ thơ Hy Lạp cổ đại hoặc dạng thơ versi sciolti của Ý , cả hai đều không sử dụng vần điệu.
Vở kịch Arden of Faversham (khoảng năm 1590 của một tác giả vô danh) là một ví dụ đáng chú ý về thơ không vần .
Vở kịch Gorboduc của Thomas Norton và Thomas Sackville năm 1561 là vở kịch tiếng Anh đầu tiên sử dụng thể thơ không vần.
Christopher Marlowe là tác giả người Anh đầu tiên đạt được danh tiếng phê bình vì sử dụng thơ không vần.’ Những thành tựu chính trong thơ không vần tiếng Anh được thực hiện bởi William Shakespeare , người đã viết phần lớn nội dung các vở kịch của mình bằng nhịp thơ iambic không vần , và John Milton , người đã viết Paradise Lost bằng thơ không vần. Thơ không vần Milton đã được bắt chước rộng rãi vào thế kỷ 18 bởi các nhà thơ như James Thomson (trong The Seasons ) và William Cowper (trong The Task ). Các nhà thơ Anh lãng mạn như William Wordsworth , Percy Bysshe Shelley và John Keats đã sử dụng thơ không vần như một hình thức chính. Ngay sau đó, Alfred, Lord Tennyson đã trở nên đặc biệt tận tụy với thơ không vần, sử dụng nó chẳng hạn như trong bài thơ tự sự dài " The Princess ", cũng như cho một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông: " Ulysses ". Trong số các nhà thơ người Mỹ, Hart Crane và Wallace Stevens nổi tiếng vì sử dụng thơ không vần trong các sáng tác mở rộng vào thời điểm nhiều nhà thơ khác đang chuyển sang thơ tự do .
Marlowe và sau đó là Shakespeare đã phát triển tiềm năng của nó rất nhiều vào cuối thế kỷ 16. Marlowe là người đầu tiên khai thác tiềm năng của thơ không vần để tạo nên bài phát biểu mạnh mẽ và sâu sắc:
“Hỡi những vì sao đã ngự trị trong ngày sinh của tôi,
Những vì sao đã gây ra cái chết và địa ngục,
Giờ hãy kéo Faustus lên như một làn sương mù
Vào bên trong những đám mây đang lao động kia,
Để khi chúng phun ra không trung,
Tứ chi của tôi có thể nhô ra khỏi miệng khói của chúng,
Để linh hồn tôi có thể bay lên Thiên đường.
—  Bác sĩ Faustus
Shakespeare đã phát triển đặc điểm này, cũng như tiềm năng của thơ không vần cho lời nói đột ngột và bất quy tắc. Ví dụ, trong cuộc trao đổi này từ Vua John , một dòng thơ không vần bị ngắt giữa hai nhân vật:
“Chúa tể của tôi?”
—  Vua John
Shakespeare cũng sử dụng kỹ thuật ngắt dòng ngày càng thường xuyên hơn trong thơ của mình, và trong những vở kịch cuối cùng của ông đã sử dụng các âm cuối giống cái (trong đó âm tiết cuối của câu không được nhấn mạnh, ví dụ như dòng 3 và 6 trong ví dụ sau); tất cả những điều này làm cho thơ không vần sau này của ông trở nên vô cùng phong phú và đa dạng.
“Hỡi các yêu tinh của những ngọn đồi, những con suối, những hồ nước đứng và những lùm cây,
Và những kẻ trên bãi cát với bàn chân không dấu chân
Đang đuổi theo thần Neptune đang rút lui, và xua đuổi ngài
Khi ngài quay trở lại; các ngươi là những con rối nửa người nửa thú,
Nhờ ánh trăng tạo nên những lọn tóc xoăn xanh chua Mà
con cừu cái không cắn; và các ngươi có trò tiêu khiển
Là làm nấm lúc nửa đêm, vui mừng
Khi nghe lệnh giới nghiêm trang trọng; với sự giúp đỡ của các ngươi,
Mặc dù các ngươi là những chủ nhân yếu đuối, Ta đã làm
tối Mặt trời giữa trưa, triệu hồi những cơn gió nổi loạn,
Và giữa biển xanh và vòm trời xanh ngắt
Gây ra chiến tranh dữ dội - trước tiếng sấm rền đáng sợ
Ta đã ban lửa, và rạch cây sồi chắc khỏe của thần Jove Bằng chính
tia chớp của mình;’’’”..
—  Bão tố ,
Cách xử lý thơ không vần rất tự do này đã được những người cùng thời với Shakespeare bắt chước, và dẫn đến sự lỏng lẻo về nhịp điệu chung trong tay những người dùng ít kỹ năng hơn. Tuy nhiên, thơ không vần của Shakespeare đã được John Webster và Thomas Middleton sử dụng thành công trong các vở kịch của họ. Trong khi đó, Ben Jonson đã sử dụng thơ không vần chặt chẽ hơn với ít ngắt dòng hơn trong các vở hài kịch Volpone và The Alchemist của ông .
Thơ không vần không được sử dụng nhiều trong thơ phi kịch của thế kỷ 17 cho đến Paradise Lost , trong đó Milton sử dụng nó một cách thoải mái. Milton đã sử dụng tính linh hoạt của thơ không vần, khả năng hỗ trợ sự phức tạp về cú pháp của nó, ở mức tối đa, trong các đoạn văn như sau:
“....Vào Hố nào ngươi thấy
Từ độ cao nào rơi xuống, Người mạnh hơn đã cung cấp rất nhiều
Sấm sét của Người: và cho đến lúc đó, ai biết
Sức mạnh của những Vũ khí khủng khiếp đó? nhưng không phải vì những điều đó Cũng không
phải vì những gì Người chiến thắng quyền năng trong cơn thịnh nộ của Người
Có thể gây ra cho ta sự hối hận hoặc thay đổi,
Mặc dù đã thay đổi vẻ hào nhoáng bên ngoài; rằng tâm trí cố định
Và sự khinh miệt cao độ, từ cảm giác công trạng bị tổn thương,
Đã cùng với những kẻ mạnh nhất nâng ta lên để đấu tranh,
Và mang theo
sức mạnh vô số của các Linh hồn được trang bị
Những kẻ dám không thích sự cai trị của Người, và ta thích hơn,
Quyền năng tối cao của Người với quyền năng đối nghịch
Trong Trận chiến đáng ngờ trên Đồng bằng Thiên đàng,
Và làm rung chuyển ngai vàng của Người. Mặc dù chiến trường đã mất?
Không phải tất cả đều mất; Ý chí bất khuất,
Và nghiên cứu về sự trả thù, lòng căm thù bất tử,
Và lòng dũng cảm không bao giờ khuất phục hoặc đầu hàng:
—  Thiên Đường Đã Mất ,
Milton cũng viết Paradise Regained và một số phần của Samson Agonistes bằng thơ không vần. Trong thế kỷ sau Milton, có rất ít cách sử dụng thơ không vần kịch tính hoặc không kịch tính; để phù hợp với mong muốn về tính đều đặn, hầu hết thơ không vần của thời kỳ này đều có phần cứng nhắc. Những ví dụ hay nhất về thơ không vần từ thời kỳ này có lẽ là bi kịch All for Love của John Dryden và The Seasons của James Thomson . Một ví dụ đáng chú ý không chỉ vì sự thất bại của nó với công chúng mà còn vì ảnh hưởng tiếp theo của nó đối với hình thức này là The Fleece của John Dyer .

Vào cuối thế kỷ 18, William Cowper đã mở ra một cuộc đổi mới cho thơ không vần với tập thơ chiêm nghiệm Vạn hoa của ông, The Task , xuất bản năm 1784. Sau Shakespeare và Milton, Cowper là người có ảnh hưởng chính đến các nhà thơ lớn tiếp theo trong thơ không vần, những thiếu niên khi Cowper xuất bản kiệt tác của mình. Đó là các nhà thơ vùng Hồ William Wordsworth và Samuel Taylor Coleridge . Wordsworth đã sử dụng hình thức này cho nhiều tác phẩm Lyrical Ballads (1798 và 1800) và cho những tác phẩm dài nhất của ông, The Prelude và The Excursion . Thơ của Wordsworth lấy lại được một số nét tự do của Milton, nhưng nhìn chung đều đặn hơn nhiều:
“Năm năm đã trôi qua; năm mùa hè, với chiều dài
Của năm mùa đông dài! Và một lần nữa tôi nghe
Những dòng nước này, chảy từ các suối trên núi
Với tiếng thì thầm nhẹ nhàng trong đất liền. – Một lần nữa
Tôi lại nhìn thấy những vách đá dựng đứng và cao ngất này...”

—  Những dòng được viết cách Tu viện Tintern vài dặm , dòng 1–5
Thơ không vần của Coleridge mang tính kỹ thuật hơn thơ của Wordsworth, nhưng ông viết rất ít:
“Vâng, họ đã đi rồi, và tôi phải ở lại đây,
Cái chòi cây chanh này là nhà tù của tôi! Tôi đã mất đi
Những vẻ đẹp và cảm xúc, những thứ sẽ
ngọt ngào nhất trong ký ức của tôi ngay cả khi tuổi tác
đã làm mờ mắt tôi đến mức mù lòa! Trong khi đó, chúng...”

—  “ Cây chanh này là nhà tù của tôi ”
Những bài thơ đối thoại của ông như " The Eolian Harp " và " Frost at Midnight " là những tác phẩm thơ không vần nổi tiếng nhất của ông. Thơ không vần của Keats trong Hyperion chủ yếu được mô phỏng theo thơ của Milton, nhưng ít tự do hơn với nhịp thơ năm âm và sở hữu đặc điểm của thơ Keats. Thơ không vần của Shelley trong The Cenci và Prometheus Unbound gần với thực hành của Elizabeth hơn là của Milton.
Trong số các nhà văn thời Victoria viết thơ không vần, nổi bật nhất là Tennyson và Robert Browning . Thơ không vần của Tennyson trong các bài thơ như "Ulysses" và "The Princess" có nhạc tính và đều đặn; lời bài hát " Tears, Idle Tears " của ông có lẽ là ví dụ quan trọng đầu tiên về bài thơ khổ thơ không vần. Thơ không vần của Browning, trong các bài thơ như " Fra Lippo Lippi ", thì đột ngột và mang tính đối thoại hơn. Vở opera năm 1884 của Gilbert và Sullivan , Princess Ida , dựa trên "The Princess" của Tennyson. Lời thoại của Gilbert hoàn toàn là thơ không vần (mặc dù 13 vở opera khác của Savoy có lời thoại bằng văn xuôi). Dưới đây là một đoạn trích do Princess Ida nói sau khi hát aria nhập cuộc "Oh, goddess wise".
“Phụ nữ của Adamant, những người mới vào nghề xinh đẹp—
Những người khao khát sự chỉ dạy như chúng tôi đưa ra,
Hãy lắng nghe, trong khi tôi mở ra một câu chuyện ngụ ngôn.
Con voi mạnh hơn Con người,
Nhưng Con người chế ngự nó. Tại sao? Con voi
Ở khắp mọi nơi đều giống voi trừ nơi này (vỗ trán)
Và Con người, người có bộ não bằng con voi
Như bộ não của Phụ nữ bằng Bộ não của Đàn ông—(đó là quy tắc của ba),—
Chinh phục gã khổng lồ ngốc nghếch của khu rừng,
Khi Phụ nữ, đến lượt mình, sẽ chinh phục Đàn ông.
Trong Toán học, Phụ nữ dẫn đầu:
Kẻ học đòi hẹp hòi vẫn tin
Rằng hai cộng hai bằng bốn! Tại sao, chúng ta có thể chứng minh,
Chúng ta là phụ nữ—những người làm việc nhà như chúng ta—
Rằng hai cộng hai bằng năm—hoặc ba—hoặc bảy;
Hoặc hai mươi lăm, nếu trường hợp đòi hỏi!’’’
Thơ không vần, với nhiều mức độ đều đặn khác nhau, đã được sử dụng khá thường xuyên trong suốt thế kỷ 20 trong thơ gốc và trong các bản dịch thơ tự sự. Hầu hết các bài thơ tự sự và thơ đối thoại của Robert Frost đều là thơ không vần; cũng như các bài thơ khác như " The Idea of Order at Key West " và " The Comedian as the Letter C " của Wallace Stevens , " The Second Coming " của WB Yeats , "The Watershed" của WH Auden và " Summoned by Bells " của John Betjeman . Không thể liệt kê đầy đủ, vì một loại thơ không vần rời rạc đã trở thành một phần chính của thơ trữ tình, nhưng có thể nói một cách an toàn rằng [ từ ngữ hoa mỹ ] thơ không vần hiện đang nổi bật như bất kỳ thời điểm nào trong ba trăm năm qua.
Bằng tiếng Đức
Thơ không vần cũng phổ biến trong văn học Đức . Nó được Gotthold Ephraim Lessing sử dụng trong vở bi kịch Nathan der Weise ( Nathan the Wise ) năm 1779, trong đó các dòng thơ dài 10 hoặc 11 âm tiết:
“Ja, Daja; Gott sei Dank! Doch warum endlich?
Hab ich denn eher wiederkommen wollen?
Bạn có muốn biết không? Babylon
Ist von Jerusalem, wie ich den Weg,
Seitab hói rechts, hói liên kết, zu nehmen bin
Genötigt worden, gut zweihundert Meilen;
Und Schulden einkassieren, ist gewiss
Auch kein Geschäft, das merklich fördert, das
So von der Hand sich schlagen lässt.Cha ông ta”
Vần hay không vần
Posted on 18.02.2008 by admin
THƠ, VẦN HAY KHÔNG VẦN
“Nếu không có thơ vần, tất cả chúng ta đều là thiên tài”. Oscar Wilde khẳng định như thế. Một khẳng định không phải không nguyên do, trong tình hình các người làm thơ phương Tây đầu thế kỉ XX đổ xô làm thơ không vần, kịch liệt chống đối thơ vần.
1. Bài thơ “Mouvement” (Chuyển động) trong tập thơ-văn xuôi Illuminations của A. Rimbaud được xem là bài thơ tiếng Pháp đầu tiên có những câu ngắn dài không đồng đều và không vần, ảnh hưởng trực tiếp đến G. Apollinaire, nhà thơ tự do hàng đầu của Pháp, đã khai mào cho Thơ Tự do phương Tây. Từ đó, thơ không vần nẩy nở và phát triển mạnh mẽ. Từ đầu thế kỉ XX, thơ không vần chiếm lĩnh áp đảo thi đàn Pháp.
Ở Mỹ, W. Whitman được xem là nhà cách mạng, đưa thơ Mỹ vượt qua thẩm mỹ thơ đương thời, trong đó vần là yếu tố bị trừ khử đầu tiên.
“Ở Nhật, từ năm 1945, vần điệu dễ dãi của những đoản ca, hài cú đã bị công kích và khước từ. Ở Trung Quốc, Đài Loan các nhà thơ hiện đại đã dẹp bỏ vần điệu, niêm luật xưa. Các thi sĩ Ả Rập, Ấn Độ cũng đã đổi mới triệt để cú điệu và hình thức trong sáng tác thi ca của họ”. Chân Phương viết thế.
Rồi ông đặt vấn đề: “Truyền thống chỉ có giá trị thật khi được tra cứu và chất vấn với ý thức và thời đại ta đang sống. Khi văn học toàn cầu, bất kể nước lớn hay nhỏ, đang chuyển động mạnh trong sự tiếp nhận, học hỏi lẫn nhau ngày càng nhiều, chẳng lẽ các nhà thơ Việt Nam lại ôm mãi mấy gốc cây đa của vần điệu thời thơ văn truyền khẩu?”
2. Nguồn sữa nuôi dưỡng thơ Việt chính là ca dao, nghĩa là văn chương truyền khẩu. Mà văn chương truyền khẩu không thể đi chệch khỏi vần: dễ thuộc, dễ nhớ và, dễ ngâm. Tiếp nhận Thơ Đường của Trung Hoa, ta cứ vậy, cho tận khi phong trào Thơ Mới xuất hiện. Nhưng Thơ Mới, một biến thái của ca dao, Hát nói qua ảnh hưởng của Trường Lãng mạn và Hiện thực Pháp, dù đã làm nên cuộc cách mạng trong thơ Việt, vẫn không một lần từ bỏ vần.
Ý hướng cắt đứt thơ vần được Nguyễn Đình Thi khơi mào vào những năm 50, đã bị chống đối kịch liệt, đành nửa đường đứt gánh. Nỗ lực này chỉ đạt một vài thành tựu hiếm hoi qua các thi sĩ thuộc Nhóm Nhân văn-Giai phẩm ở miền Bắc và Nhóm Sáng tạo ở miền Nam những năm 60. Chúng ta thử nêu vài trích dẫn:
“Ở cuối đêm
em rũ tóc nói những lời mê sảng
những ám hiệu
của mặt biển đen khôngtình yêu tuyệt vọng
anh xé tóc em cùng những cánh lá chết
mùa thu
gây thương tích nơi cườm tay
anh xô ngã em tờ chóp đỉnh hạnh phúc”
(Thanh Tâm Tuyền, “Đêm”, Tôi không còn cô độc)
“Tôi nhớ không còn gì
Khoảng cách trần truồng vô nghĩa
Tờ giấy trắng bọc gọn trái tim
nét chữ bôi lên kín cả
Tôi nhớ không còn gì
(Thơ Duy Thanh)
Thế rồi tất cả đều trở lại vạch xuất phát. Dẫu các sáng tác sau đó có câu ngắn dài không đồng đều, sử dụng vần buông hay cả khi từ bỏ vần, thơ Việt vẫn cứ bị ám ảnh bởi vần. Trúc Thông ám ảnh vần đã đành:
“xuyên bức tường vô tận nhất – thời gian
một mũi tên bay mãi
hôm nay nó xâu táo quả tim ba chúng ta
giữa ngày tôi gặp nạn lẳng lặng mũi tên xuyên
ba chàng trai đã sống trên đời
nửa thế kỉ
ba phương trời…”
:

Nến được đốt lên sớm hơn mọi thế kỉ trước
Những vết rạn dương gian chầm chậm tràn tràn đầy
Ánh hoàng hôn – đấy bình minh linh ẩn
Dâng ngập những mái nhà, những vòm cây,
những đỉnh núi u trầm(3)
Không phải không lí do khi có người cho đại bộ phận thơ hiện đại Việt Nam chỉ dừng lại ở dạng Thơ Mới biến thể (hay phá thể). Không hơn.Trong lúc ở Pháp, sau hơn một thế kỉ phiêu lưu (và gặt hái không biết bao nhiêu là thành tựu) với thơ không vần, các nhà thơ trẻ hiện nay đang quay trở lại với thơ vần!
3. May, thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số, do bắt nguồn từ dòng chảy thẩm mĩ khác, ít bị thao túng/quy định bởi vần. Ngoại trừ vài nhà thơ tiếp nhận nguồn thơ Việt, từ đó khá nhuyễn với các thể thơ Việt như: Lương Định, Mai Liễu, Y Phương,… Còn lại, đa phần đều sáng tác theo truyền thống “dân tộc thiểu số”. Và, rất ít vướng víu bởi vần. Lò Ngân Sủn có “Người đẹp” và các bài thơ hay khác của anh.
“Cây lim đứng như một kẻ chôn chân dưới đất
(Chất cây lim bất chấp loài sâu mọt)
Ngọn vầu, bương uốn lượn như tua còn tua khăn
Thảm cỏ non ươm xanh ngọn gió
Cây dát, cây dổi vân nổi như sóng cuộn mây vờn
Cây đá cuội ngụy trang như hòn cuội
Cây tấu mặt quỷ
Cây sến vỏ nứt ô bàn cờ…”
Bước đạp vạm vỡ hơn. Tôi thấy – dứt khoát hơn
thế giới vỡ vụn và ráp lại qua hơi thở gấp
lửa hấp hối.Ông bị quăng ra khỏi vùng lửa – mình đầy thương tích
cả thế giới thương tích – chỉ nụ cười vẹn nguyên
niềm vui vẹn nguyên
triệu triệu giọt nước bay về giập tắt tia lửa sống sót
toan gượng dậy lần cuối cùng
giập tắt khổ sở, thất vọng trên những khuôn mặt. Tôi thấy.

Ở bên kia niềm vui
Sự chịu đựng vẹn nguyên họ lại bắt đầu bén rễ.(6)
4. Tại sao vần có mặt và bám trụ dài dặc thế trong thơ Việt? Truyền thống ca dao, thơ Đường luật, Thơ Mới quy định lề thói sáng tác và thưởng thức của chúng ta. Người viết bị quy định đã đành, trầm trọng hơn cả là vần tồn tại dai dẳng trong việc cảm nhận thơ của người đọc. Cái mới xuất hiện chẳng những không được đón nhận mà còn bị dị nghị, dị ứng rồi bị tẩy chay. Vụ án thơ không vần ở trường hợp Nguyễn Đình Thi là một ví dụ(7).
Đành rằng tâm lí chung của người đọc là ít chịu chấp nhận ngay tức thời cái mới khi nó xuất hiện. Ở đâu cũng vậy, nhưng tại Việt Nam, do truyền thống văn hóa văn chương, nên nó càng bị cự tuyệt quyết liệt hơn. Và, trước thái độ không thiện chí của người đọc, cả người đọc được cho là ưu tú như các nhà phê bình chẳng hạn, kẻ sáng tác cũng rất dễ mất hứng thú trong phiêu lưu sáng tạo. Hệ quả: thơ vần mãi có mặt!
Nhưng có phải bởi vần mà nền thơ Việt không lớn?
Theo thiển ý, vần không là một tội phạm khiến thơ bị nhàm. Vần hay một thể thơ nào bất kì luôn phát triển theo chu kì: tìm tòi – hoàn chỉnh và ổn định – phiêu lưu phá giới – rồi trở lại tìm tòi để ổn định. Hành trình từ Thơ Cổ phong Trung quốc đến trước thời Đường, sang Sơ Đường mày mò rồi mới đạt tới luật tắc ổn định và nghiêm ngặt của Thịnh Đường, để sau đó lại tiếp tục… phá thể (ví như bài “Hoàng Hạc lâu” thời Sơ Đường, dẫu hay đến đâu nhưng xét về luật thơ, nó cũng chưa thật chặt chẽ như chuẩn mực đòi hỏi của thơ Đường).
André Gide nói: “Nghệ thuật sống nhờ luật tắc, và chết vì buông thả”. Sự “buông thả” của các nhà thơ phương Tây thời gian qua đã gây dị ứng nơi người thưởng thức. Họ tẩy chay thơ, từ đó thơ đánh mất người đọc: các nhà thơ quay lại đọc của nhau, hay chỉ đọc chính thơ mình! Hình thành thứ tâm lí tự yêu nguy hiểm. Khủng hoảng thơ đang kì báo động đây đó, là thực. Cả ở Việt Nam. Thơ không vần Việt chưa phát triển đến đầu đến đũa, nhưng cũng đã có dấu hiệu của buông thả.
5. Lại may! Thơ dân tộc thiểu số không bị dính vào trào lưu cách tân ấy. Nhưng không phải vì thế mà thơ chúng ta thiếu nhảm, nhàm và không tránh nguy cơ bị lạnh nhạt. Sáng tác bằng tiếng Việt, lặp lại truyền thống vần Việt là điều thậm nguy: chúng ta rơi tõm vào lối mòn mà không hay! Còn theo học trùng trùng các trào lưu thơ phương Tây, chúng ta mãi mãi là học trò đứng cuối lớp.
Tô Thùy Yên: “Thơ tự do, cũng như thơ mới trước kia, ra đời vì sự thay đổi của hồn thơ, chớ không phải chỉ đơn thuần là sự thay đổi của luật thơ
Như vậy, “sự thay đổi hồn thơ” hay “một tinh thần mới cho thơ” có vai trò quyết định cái hay và cái mới “lớn” của thơ, chứ không phải vần hay luật tắc của một thể thơ nào đó: từ lục bát, tám chữ, Thơ Mới phá thể hay cả Thơ Tự do. Vần, nguy cơ đánh lừa người đọc dễ tính rằng như thế mới là thơ. Nhà thơ dễ làm vần: chẳng nỗ lực gì cả nhưng chúng ta vẫn “hoàn thành” một bài thơ có vần: ta quay lại tự đánh lừa. Và thơ cứ dậm chân tại chỗ!
Vần hay không vần, không hề gì cả, quan trọng là tinh thần mới. Tinh thần mới đặt trên nền đất vững chắc của văn hóa, suy tư nền tảng qua tiếp nhận luồng gió từ trăm phương thổi tới bằng nhậy cảm bắt nhịp cuộc sống hiện đại. Làm thành nhịp điệu của tâm hồn người thi sĩ.
Chính nhịp điệu này quyết định vần hay không vần của một bài thơ, thậm chí một đoạn/câu thơ. Nhịp điệu tùy thuộc vào “miền dao động và rung động”

“Không phải mọi thứ được in ra đều là tuyệt phẩm”, ...Từ lâu lắm tôi mới được đọc một tập thơ như CƠTGBBNEC (Cảm ơn tháng giêng biêng biếc ngực em cười) của Hải Phương”.
Hẳn bạn đọc và những người làm thơ, yêu thơ đã từng (hơn một lần) đọc một, hai, ba bài thơ siêu thực, thơ cách tân, thơ dung tục và đã cảm nhận được “cái hay, cái đẹp” của nó như thế nào so với loại thơ vần trong Truyện Kiều, trong Cung oán Ngâm khúc, trong thơ của Vũ Hoàng Chương, của Xuân Diệu...
Lâu nay người ta đã bàn luận nhiều đến Thơ Vần và thơ không vần, một đề tài đã “xưa như trái đất”, nhưng xem ra vẫn luôn luôn mới, bởi bộ môn Thơ là một phần của đời sống tinh thần trong sinh họat văn học nghệ thuật của nhân loại. Ở Pháp vào thời vua Louis 14 đã có những thi đàn do các nhà quý tộc lập ra để giới trí thức lịch duyệt, được nhà vua nể trọng họp nhau nghe thơ, bàn luận về thơ và để đánh giá mà thừa nhận danh xưng thi sĩ cho những người xứng đáng. Ở Trung Hoa, vào thời thịnh Đường, nhiều nhà thơ không chấp nhận những ràng buộc của Khổng giáo như Đào Tiềm, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên... đã để lại hàng ngàn bài thơ cho gia tài văn học Trung Quốc.
Đó là loại thơ vần mà văn học Việt Nam coi như kế thừa đã mấy nghìn năm. Chúng ta không bao giờ chấp nhận sự “kế thừa” này, vì vậy Thơ Đường đã bị trào lưu thơ Mới đẩy lùi vào bóng mờ của dĩ vãng. Hoài Thanh đã gọi đó là “một cuộc cách mạng thi ca (đã nhóm dậy vào tháng 3 -1932) ”.
Văn học, thi ca cũng như khoa học luôn luôn đòi hỏi con người đi tìm cái mới, cái hay, cái hoàn mỹ, hoàn thiện hơn. Người ta thấy sự thay thế vị trí của thơ - từ cũ sang mới - sau thời kỳ Tự Lực Văn Đoàn cho đến thời kỳ văn học miền Nam (1954-1975), nhưng dù là cũ hay mới thì thơ vẫn là thơ vần, với đầy đủ tính nghiêm chỉnh của vần điệu, của nhạc tính, của thi tứ và thi ngữ.
Thời kỳ thăng hoa của thơ Việt có lẽ phải kể là vào thời kỳ này với Thi Văn Tao Đàn, với các giải thơ toàn quốc. Ngay cả một số nhà thơ ở miền Bắc sau thời kỳ thơ mới như Hoàng Cầm với Bên Kia sông Đuống, Hữu Loan với Màu Tím Hoa Sim, và các nhà thơ khác trong Nhân Văn, Giai Phẩm đều là những nhà thơ mới, đều có làm những bài thơ phá thể, thơ tự do nhưng nhạc tính và vần điệu vẫn rất hoàn chỉnh, vẫn có thể đọc, có thể ngâm để mà cảm nhận, mà thưởng thức.
Cùng lúc với Thơ Mới chiếm lĩnh vị trí trong thơ Việt, thơ mới “giành được quyền sống”; thơ cũ “mất quyền sống” trong làng thơ, cũng là lúc có những người phỏng theo thơ Pháp làm thơ tự do, thơ phá thể, thơ không vần, nhưng không phổ biến nhiều, không lớn lên được, và không thể tồn tại. Mãi đến sau năm 1954, sau cuộc di cư của gần một triệu người từ Bắc vào Nam, Thanh Tâm Tuyền là người chủ trương khuynh hướng sáng tác thơ tự do, được nhóm Sáng Tạo hưởng ứng và cổ vũ. Từ đó cho tới nay, sau hơn nửa thế kỷ thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền vẫn là... của Thanh Tâm Tuyền, chưa bao giờ nhân rộng ra thành một trường phái có tác phẩm hẳn hòi. Người ta thừa nhận cái công của Thanh Tâm Tuyền hô hào cho khuynh hướng thơ tự do, nhưng không ai thừa nhận cái thành công của khuynh hướng này.
Nhà thơ Hà thượng Nhân, một nhà thơ kỳ cựu trong làng thơ miền Nam, có lần cho chúng tôi biết, trong một lần ông được mời vào Ban giám khảo chấm thi một giải thơ toàn quốc (VNCH), khi biết trong số các tác giả được đề nghị có Thanh Tâm Tuyền, ông đã nói với Vũ Hoàng Chương và Cao Tiêu xin từ chối vào Ban Giám Khảo. Ông Hà vẫn thường nói với chúng tôi: “Ai bảo Thanh Tâm Tuyền là nhà thơ, là thi sĩ, dù ông ta là một người có kiến thức, có tài...”
Trở lại với bài viết của Ông Lâm Văn Sang trên VTimes số 31, quả thật tôi không hiểu được lý do gì đã gây nên cái cảm giác “bất an” cho tác giả bài báo, khi ông viết:
“Những người làm thơ khác ở San Jose (và một phần khác ở hải ngoại, những người có dịp ghé qua thành phố này ra mắt sách của họ), những thi tập khác (cá nhân hay tập thể) vẫn tạo cho tôi cảm giác bất an”.
Chúng ta biết ở hải ngoại và cả trong nước hiện nay thơ đã lạm phát đến mức báo động, nhưng thực ra chẳng hề hấn gì. Ít năm trước thời kỳ thơ mới, tờ “Đông Pháp” ở Hà Nội mở cuộc thi thơ đã có đến 1.500 người dự thi. Hồi đó Hoài Thanh đã tự hỏi: “nước ta có bao nhiêu thi sĩ? 40 ngàn hay 400 ngàn? và ông cho biết 4.000 người có thơ đăng báo, in sách nhưng có chừng 40 người có thơ đưa vào “Thi Nhân Việt Nam”. Số 4.000 hay 40 ngàn hay 400 ngàn người làm thơ thời đó đến nay không ai biết tên tuổi họ (ngoại trừ một số trong “Thi nhân Việt Nam”). Và trong con số 40 người đó cho tới nay cũng chỉ một số ít người đi vào văn học, đếm được đầu ngón tay, được người đời nhắc đến.

Sự sàng lọc, đào thải của thời gian và công luận, của ngườiø đọc là một “cán cân công lý” vô tư nhất.
Tiếp đến, ông LVS viết: “Chúng ta vẫn tự hào một cách chung chung về chuyện đã mang cả sinh hoạt văn hóa (văn học nghệ thuật) của miền Nam ra hải ngoại và từ đó đã tiếp tục phát triển sinh họat này. Tin tưởng như thế và tiếp tục bịt mắt mình, chúng ta đã đi một đoạn đường khá dài, hơn 30 năm”.
Không rõ tác giả bài báo đã có hay sẽ có chương trình, đề án nào cho sinh hoạt và việc nối dài của VHNT miền Nam ở hải ngoại? Và ông LVS cũng dư biết tất cả mọi sinh hoạt chính trị, văn nghệ, văn chương học thuật ở hải ngoại đều là những hoạt động tự phát của từng nhóm, từng hội đoàn, tùy theo khả năng và tấm lòng của họ đối với nghĩa lớn của cộng đồng, của dân tộc, mà phần lớn đều cùng một hoàn cảnh là lực bất tòng tâm. Người đọc bài viết của Ông LVS dù vô tư đến mấy cũng cảm thấy bị xúc phạm, khi mình bị gán ghép cho hành vi “tự bịt mắt” với thái độ “tự hào chung chung”.
Có phải tác giả bài báo cho rằng “Tự bịt mắt mình” nghĩa là mù quáng, là không nhìn về phía trước mà đi tới, dù phía trước đó là cái gì, là nơi chốn nào. Cứ đi tới, đừng nhìn lại quá khứ, vứt bỏ hết quá khứ, dù quá khứ đó như thế nào. Trong khi người sáng tác lại rất cần chất liệu của quá khứ để viết, để suy gẫm và để rút tỉa làm bài học cho chính mình và cho người đi sau. Tôi tin trong chúng ta không ai tán thành việc tiếc nuối quá khứ, khóc than dĩ vãng. Không ai chủ trương hằn học hận thù với quá khứ, nhưng nhất định không ai có thể quên được quá khứ. Quá khứ chính là vốn sống của hiện tại, là bài học lớn và là kinh nghiệm cho hướng đi trong tương lai.
Một đoạn khác trong bài báo:
“Đọc thơ ở đây, người ta sẽ kinh hoàng chợt nhận ra thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954, đã bị xóa trắng một cách oan uổng.”
Thật tình, tôi không hiểu ý của tác giả bài báo muốn nói gì về nhận định này.
“Thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954” mà ông LVS nói đến là thế giới những gì? Theo sự hiểu biết thô thiển của tôi thì “thế giới thơ” từ năm 1954 đến 1975 là một “thế giới” thơ của hai ba thế hệ người làm thơ Bắc (di cư) Trung, Nam, phong phú và đa dạng cả về nội dung tư tưởng đến hình thức. Nói đến “thế giới thơ” miền Nam là nói đến Thi Văn Tao đàn, đến các giải thi thơ toàn quốc, đến các thi văn đoàn và không thể không nói đến những tên tuổi như Quách Tấn, Á Nam Trần Tuấn Khải (thơ Đường), Vũ Hoàng Chương Đinh Hùng, Tạ Ký, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Hà Thượng Nhân, Trần Tuấn Kiệt, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Diên Nghị, Tuệ Nga, Quỳ Hương... Thơ tự do có Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp...
Sau 75 “thế giới thơ” đó đã bị chế độ XHCN với văn hóa Mac-xit xóa trắng một cách không thương tiếc ở trong nước. Vũ Hoàng Chương ra khỏi tù, mấy ngày sau qua đời. Tạ Ký chết bụi chết bờ, Hồ Điệp chết trên đường vượt biên. Tác phẩm của họ bị cho là sản phẩm văn hóa đồi trụy, bị cấm đọc, cấm lưu truyền, cấm lưu trữ... Đó mới chính là sự xóa trắng đáng kinh hoàng, chứ ở hải ngoại người ta vẫn trân trọng, vẫn đọc và vẫn kế tục trong sáng tác, trong lưu hành, và phổ biến.
Có phải cái “xóa trắng” mà tác giả bài báo muốn nói là từ sau 75, ra hải ngoại, và riêng tại San Jose không ai nối nghiệp Thanh Tâm Tuyền, không phát động trào lưu sáng tác thơ văn xuôi, thơ tự do, thơ không vần? Có phải vì suy nghĩ như vậy mà ông LVS giáng bút một cách chủ quan và mỉa mai rằng: “San Jose từ lâu nay đã trở thành một xí nghiệp thơ, sản xuất ra những vần điệu nghiêm chỉnh đóng thành tập”.
Một ý niệm rất đơn giản mà phổ quát đã có từ xa xưa là khi nói đến thơ là nói đến vần điệu. Từ xưa nay, một câu nói, một đoạn viết mà không có vần có điệu thì không ai gọi là thơ.
Tuân Tử trong thiên Nho Hiệu đã phân biệt Thi (là thơ) với Thư (là văn xuôi). Với sự phân định rạch ròi đó, trong văn học cổ Trung Hoa có hai bộ sách - Kinh Thi và Kinh Thư.
Một số người ngày nay hoặc do không phân biệt được, hoặc do quá dễ dãi, thường nói “viết thơ cho gia đình”, “đi lấy thơ ở bưu điện”, thay vì nói viết thư, đi lấy thư... nhưng một người hiểu biết bình thường không ai lầm lẫn giữa thư và thơ; giữa văn xuôi và văn vần.
Như một nguyên tắc bất di bất dịch, từ lâu đời: Thơ không phải và không thể là văn xuôi; Thư không phải/và không thể là văn vần. Nay khuynh hướng thơ cách tân, thơ siêu thực, thơ dung tục muốn làm một cuộc “cách mạng” thi ca bằng cách tạo ra một loại thơ tối nghĩa, không vần, không điệu, một mớ chữ nghĩa xà bần, thanh ít tục nhiều, nhằm biểu lộ hoặc để thỏa mãn tính lập dị, khoa trương kiến thức, đem chữ nghĩa ra thách đố người đọc, mà có khi chính người làm ra bài thơ đó cũng không hiểu mình muốn nói gì.
Bạch Cư Dị của Trung Hoa cách đây hơn 1.100 năm lúc làm xong một bài thơ, đọc cho người vú già nghe rồi hỏi: “Có hiểu không?”. Nếu đáp “hiểu” thì ông mới chép lại (bằng không thì vứt bỏ).
Xin quý vị nhà thơ cách tân trước khi đạp đổ cái cũ (thơ vần) hãy từ trong cái cũ bước ra, ít nữa phải là một người đã từng sành sỏi thơ vần và hãy chỉ ra cho mọi người biết và hiểu được cái hay cái dở của cái vần và cái không vần.
Trích dẫn lời nói của nhà văn Ba Lan Witold Gombrowicz “văn chương không phải là một xí nghiệp, cũng không phải là một sản phẩm xí nghiệp”, bài báo viết tiếp “Không phải mọi thứ được in ra đều là tuyệt phẩm”, và trước đó ông viết: “Từ lâu lắm tôi mới được đọc một tập thơ như CƠTGBBNEC (Cảm ơn tháng giêng biêng biếc ngực em cười) của Hải Phương”.
Ý kiến này của tác giả bài báo cho người ta cảm tưởng tập thơ của Hải Phương không là tuyệt phẩm thì cũng là một thi tập vượt lên trên tất cả những tập thơ khác, “từ lâu lắm”.
Tôi hoàn toàn không có ác cảm nào với cá nhân các “nhà thơ cách tân, siêu thực”, cũng mong quý vị thực hiện thành công cuộc “cách mạng thi ca” mà quý vị chủ trương. Riêng loại thơ dung tục thì xung quanh tôi rất nhiều người tỏ ra ngại ngùng khi liếc mắt tới loại thơ trần truồng giả hiệu này. Dư luận chung cho rằng cũng chỉ vì muốn mua chút danh bằng tính lập dị, không giống ai, một số người đã tạo ra một loại “dâm thư” qua thơ, một cách bệnh hoạn. Tôi gọi đó là loại thơ trần truồng giả hiệu, bởi vì tôi tin một cách chắc chắn rằng quý vị “nhà thơ dung tục” ấy chỉ bày biện chữ nghĩa trần truồng lên giấy, nhưng không bao giờ dám bày những thứ đó trước mặt gia đình, con cái, thân nhân, người quen kẻ lạ... Chỉ khi nào quý vị ấy trút bỏ hết y phục, bày mọi thứ... ra trước thiên hạ như quý vị đã viết ra trên giấy thì bấy giờ loại thơ kia mới có “cầu chứng” (với tác giả của nó).
Thử hỏi nếu gia tài thi ca Việt Nam từ Cung Oán Ngâm khúc, rồi Chinh Phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều, sang tới thi ca thế kỷ 19 cho đến tận thời kỳ thơ Mới của Tự Lực Văn đoàn và “thế giới thơ miền Nam” mà tất tất đều là “thơ cách tân”, thơ “tân hình thức”, thơ siêu thực thì văn học Việt Nam ngày nay sẽ ra sao? Và nếu hôm nay thơ siêu thực thay thế toàn bộ thơ “vần điệu nghiêm chỉnh” thì các thế hệ sau này làm thế nào để tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi? Hay đến lúc bấy giờ tất cả mọi người đều đã trở thành những “siêu nhân”, có thể đọc và hiểu được thứ ngôn ngữ thần chú, huyền bí, hiểm hóc ấy! Giả dụ vị khai quốc công thần Lý Thường Kiệt làm bốn câu tứ tuyệt “Nam quốc sơn hà Nam đế cư...” bằng loại thơ cách tân siêu thực thì đã có được tác dụng gì với lòng dân, với triều đình nhà Hán, và còn tồn tại đến ngày nay không?
Có thể là quá đáng, trong khi tác giả bài báo hết lời tán tụng tập thơ “siêu thực” có tên “Cám ơn tháng giêng biêng biếc ngực em cười” của Hải Phương thì ông lại nặng lời với những người làm thơ khác ở San José một cách qua đáng: “Nhiều người khác ở đây (San Jose) cũng móc gan ruột ra tuyên bố tương tự như một nhãn hiệu cầu chứng cho những gì phát xuất từ 1954 cho đến 1975 mới là chính hiệu”.
“Kế thừa là chuyện dễ nói hơn dễ làm trong văn chương nhắm mắt và bịt mắt. Thế giới thơ ở San Jose đã không tiếp nối trào lưu sáng tác thơ đa dạng ở miền Nam trước 1975. Đọc thơ ở đây, người ta sẽ kinh hoàng chợt nhận ra thế giới thơ từ 1975 cho đến trước đó, năm 1954, đã bị xóa trắng một cách oan uổng”.
Không ai có quyền bắt buộc một người khác thích cái này hay không thích cái kia. Một bức tranh đối người này cho là đẹp, người kia phê bình là xấu. Một bài thơ người này khen hay, người khác chê dở; một thiếu nữ đi ngang qua, người này khen là đẹp, duyên dáng, người kia cho là “thường”.
Cũng vậy, môt người có thể cảm khoái với loại tranh lập thể, trừu tượng, nhưng xin đừng quay sang chỉ trích trường phái “cổ điển” mà cho rằng (ví dụ): “San Jose lâu nay đã trở thành một xí nghiệp tranh vẽ, được lắp ráp cảnh trí với chân dung nghiêm chỉnh, dùng sơn màu và cọ đưa lên khung vải...”. Như thế có ổn không?
Theo tôi, ranh giới giữa các trường phái nghệ thuật cũng như giữa thơ siêu thực và thơ vần có hai dạng thái rõ rệt.(Có tham khảo người viết trên mạng)…(còn nữa)
Đ - H

Khi Thi tặc cầm chịch...

 00:20 25/03/2025

Khi Thi tặc Nguyễn Quang Thiều lên cầm trịch Hội Nhà văn(Chủ tịch)Viêt Nam, 27 tên Thi tặc lên báo,(in bài&lăng xê), lên ngôi nữa là đám nhà văn nửa mùa, chúng chuyển văn đồng nát của chúng ra Vô lối( thơ không vần) như: Nguyễn Thị Ngọc Tư, Trịnh Bích Ngân, Nguyễn Nhật Ánh(thằng này viết lừa trẻ con), Thụy Dương, Phạm Ngọc Tiến..,
Ảnh: Đỗ Hoàng
Nhà văn Minh Cao chụp

Thi ca nông nhàn

 08:38 20/03/2025

THI CA NÔNG NHÀN LÀ THƯỜNG NGHIỆM
THI CA SIÊU ĐẰNG LÀ SIÊU NGHIỆM
( Tôi đưa ra thước đo cứng đầu tiên trên thế giới )
Paul Nguyễn Hoàng Đức
Người ta tiến hành trải nghiệm (cũng là thường nghiệm) bằng ngũ giác. Ngũ giác gửi các thông số như mùi vị, âm thanh, sắc thái… lên não. Não là bộ tham mưu của trực giác để cấu kết thành tri thức và tư tưởng. Vì vậy Não nằm trên đầu cao nhất cũng là bộ chỉ huy cao nhất. Tư tưởng đó là Siêu nghiệm vì nó đã thoát khỏi sắc thái trực tiếp của ngũ giác để biến thành tư tưởng. Não phải cao hơn ngũ giác là các chòi canh của cơ thể. Sáng tạo bằng tư tưởng là cao nhất và luôn đóng vai bậc thầy. Sáng tạo bằng ngẫu hứng cảm xúc là thấp nhất vì mới chỉ ở vai lính canh thấy gì nói nấy. Đây là điều hiển nhiên mấy anh cảm xúc chớ cãi chầy cãi cối?!
Sáng tạo thường nghiệm là thấy gì nói nấy, như thần đồng Trần Đăng Khoa viết: “cua ngoi lên bờ, mẹ em xuống cấy”
hay “hạt gạo làng ta có bão tháng bảy có mưa tháng ba”.
Nguyên chủ tịch Hữu Thỉnh thì viết: “Còn chút lửa hoa rong giềng cuối giậu”.
Chủ tịch tại vị Nguyễn Quang Thiều: “Những người đàn bà đánh giậm đi thành hàng dọc trên đại lộ”…
Còn thơ siêu nghiệm thì sao? Tất nhiên đó là cái vượt lên thường nghiệm, người ta không thể dùng ngũ quan để tiếp cận nó, mà phải dùng sự cô thấu của tinh thần. Chẳng hạn:
Nhà thơ Quang Dũng “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”…
Hoặc của Không Lộ Thiền Sư: “Một tiếng kêu vang lạnh cả trời” …
Chúng ta hãy đến với vài câu thơ Trung Hoa cổ:
“Mái chèo chém vòm trời trên sóng biếc
Thuyền lướt lên trăng theo dòng nước nổi”
Hay:
“Trong ánh kiếm bóng dòng sông vẫn chảy”

Thơ thường nghiệm như Vũ Hoàng Chương tả:
Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
Tay mềm mại bước chân còn chưa chuếnh choáng
Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời phóng đãng
Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men
Say đi em, say đi em
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết…
Nhưng bài thơ bước tới siêu nghiệm, bước tới thứ “thành sầu” chưa ai thấy ở thế gian này:
Nhưng em ơi
Ðất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Ðất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ, em ơi!
Thơ triết lý cao nhất (Hegel) cũng là cách mà thơ siêu nghiệm bởi vì triết lý luôn chầu quanh những tâm điểm của nguyên lý, cái không thấy được: cục sắt ném xuống nước sẽ chìm, nhưng tầu thủy vỏ sắt làm theo luật Ac-si-met thì chúng ta không thể thấy. Chúng ta đến với hai câu thơ cực đỉnh của thi hào Mỹ Whitman:
“Tôi cùng anh không xu dính túi
Vẫn mua được hương thơm của cả trái đất này”
Một câu thơ vừa khiêm nhường vừa kiêu hãnh, ngay tức thời nó quẳng tất cả lũ trọc phú “dùi đục chấm mắm cáy” không biết thưởng thức cái đẹp vào hố rác vật chất không biết đến hương hoa. Rồi câu:
“Nếu bạn muốn tìm tôi
“Hãy tìm dưới đế giày của bạn”
Một câu thơ khiêm nhường tuyệt đối, hết chỗ để lùi.
Một câu thơ của một danh thi khác (tôi tạm quên tên):
“Đau khổ đầu tiên siêu thoát
Và khoái lạc đầu tiên sợ hãi”
Nếu không phải siêu nghiệm, thì có giác quan thường nghiệm nào viết được như vậy?!
Nhân đây tôi cũng xin giới thiệu vài vần thơ siêu nghiệm của mình:
“Bàn chân đâu chặng đường chưa tới
Và chân lý hằng đau mùa gặt”

Và kia, cả chuỗi tương lai
Rợp trời vỗ cánh ùa về
Cố lách mình qua khe cửa
Phút giờ hiện tại
Đòi xem những bản hợp đồng
Cho dự án của ngày mai

Trước cửa luân hồi
Khi vĩnh cửu nghiêng đầu khẽ hỏi
Ngươi có đem theo ngày tháng đặt tên mình
Vào vương quốc của ta chăng?

Tiểu thuyết hay thi ca toàn thể cũng thế, Iliad và Odyssey tạo ra thế giới của người cùng của thánh ngự trên đỉnh Ô-lanh-pơ chính là cách giao duyên thường trực giữa cái thường nghiệm và siêu nghiệm. Cuốn trường ca thần học “Thần Khúc” của Dante nhắm về thế giới siêu nghiệm. Hoặc các tiểu thuyết “Anh em nhà Caramadốp” hay “Tội ác và trừng phạt” của Doistoevsky…
Cái siêu nghiệm thường bắt nguồn và hướng tới Tư tưởng (nó nằm trên ngũ quan trực giác), chân lý, nguyên lý, công lý, thần thánh… tất cả được đặt trên trí tuệ nghiêm túc. Người Đức có câu “cười một lúc đã nhạt, nhưng khóc cả ngày không nhạt”, ở đó họ cũng tôn vinh Bi kịch lớn hơn Hài kịch. Từ xưa người Hy Lạp cũng xác định Bi kịch chỉ giành cho đàn ông để chuẩn bị đức hiến dâng. Còn hài kịch giành cho đàn bà và trẻ con.
Những nhân vật chọc cười thường là thằng gù hay thằng ngọng, hoặc khuyết tật khó có thể mang tầm vóc dính dấp vào công lý hay Chúa Trời, bởi vì ngay việc hiến tế cho thánh thần người đời đã phải chọn gái đồng trinh… thì những ngọng nghịu, đùa cợt sao có thể vươn tới CHÂN THIỆN MỸ để bước vào thế giới của tư tưởng – tức những siêu nghiệm mang lý tưởng thần thánh.
Tôi muốn đưa ra kết luận cho thước đo của mình: Tầm vóc của một bài thơ, tác phẩm, cũng như tác giả của nó phải là, khả năng siêu nghiệm của anh ta đến đâu thì tầm vóc của anh ta đến đó?!
Paul Đức 14/3/2022
#paulducthicasieunghiem

Nguyễn Xuân Phúc vịnh

 08:23 20/03/2025

ách diện vịnh
Nguyễn Xuân Phúc vịnh
Vừa mới lên chức đã tác oai.
Xe về phố cổ nát môn khoai!
Tò te kèn thổi kinh miền đước,
Chí chọe kẻng kêu khiếp miệt xoài!
Công nợ quốc gia còn ngắc nhé,
Tội tình trời biển chửa nguôi ngoai!
Vênh vang chi để người ta chưởi
Tiền thuế dân thu chảy máu hoài!
Hà Nội 2015
Đỗ Hoàng

Nguyễn Xuân Phúc vịnh

 08:23 20/03/2025

ách diện vịnh
Nguyễn Xuân Phúc vịnh
Vừa mới lên chức đã tác oai.
Xe về phố cổ nát môn khoai!
Tò te kèn thổi kinh miền đước,
Chí chọe kẻng kêu khiếp miệt xoài!
Công nợ quốc gia còn ngắc nhé,
Tội tình trời biển chửa nguôi ngoai!
Vênh vang chi để người ta chưởi
Tiền thuế dân thu chảy máu hoài!
Hà Nội 2015
Đỗ Hoàng

Nhà thơ Trần Hậu...

 08:18 20/03/2025

Nhà thơ Trần Hậu (20 năm trước):
“Nếu tập thơ Tâm sự người lính được dịch sang tiếng Anh, được chuyển đến các thành viên giám khảo giải Nobel, chắc chắn đoạt giải. Chỉ chừng ấy thôi đã vinh dự tuyệt trần!”
Đỗ Hoàng
MỘNG KHÔNG THÀNH
Đề từ:
mình biết cái mộng khởi nghĩa kia của mình sẽ khômg thánh
mình biết được khi mình chưa hô hào cầm gươm súng
mình biết được khi mình chưa báo động
để lật đổ thế giới này đổi lại những dòng sông!
quy luật con người sớm làm cho mình nản lòng
mình chán ngán không muốn làm gì cả
bởi thực chất mình có thành công khi khởi nghĩa
liệu con người có sung sướng hơn không?
Ta nằm nghĩ mãi không ra lối
Buồn chán đời nay đến vạn đời
Cái khổ, cái giàu ghen ghét mãi
Triệu năm chưa một phút nào ngơi!
Ta nghĩ nếu ta giành chính quyền
Thì ta cũng phải có ưu tiên
Cũng ra đạo luật phòng ai phản
Cũng sống nhàn mọi kiếp phiền
Rồi bao toà án với nhà lao
Ai chống thì ta nhét chặt vào
Đến mọt gông cùm ta mới thả
Nghìn đời ai phản được ta đâu!
Nghĩ chị không chán cho trần tục
Cả phút người ta muốn vươn minh
Cũng phải ra tay làm điều ác
Cũng phải sống thành kẻ cuồng điên!
Cho nên mộng tưởng ta tan vỡ
Chỉ nghĩ mà chưa kịp khởi hành
Con người ghê lăm trên trần thế
Cứ tự chôn mình tuổi đang xanh!
Tiểu đoàn 3
Ngày 6/11/1973
Đ - H
Ảnh cuối:
Nhà thơ Trần Hậu châm thuốc (phải) cho Đỗ Hoàn

Đỗ Lai Thúy không hiểu thơ phú, văn chương...

 08:12 20/03/2025

Đỗ Lai Thúy không hiểu thơ phú, văn chương nịnh thối thơ Nguyễn Quang Thiều
Chủ nhật - 04/10/2020 16:22
Trước đây tôi đọc bài Đỗ Lai Thúy viết khen "Thơ Vô lối" Hoàng Vũ Thuật. Tôi biết ông này không hiểu gì thơ phú văn chương, khen bừa khen ẩu. Từ đó tôi không bào giờ đọc Đỗ Lại Thúy nữa. Ngay cả khi ông viết thơ đời Trần, đời Lý...được đám nịnh bút như Vũ Bình Lục tâng bốc, tôi cũng không thèm để mắt tới! Ông này loại "tầm chương trích cú dở hơi!". Loại mà thời Lý Bạch, tiên sinh hết sức chê bai:
Đỗ Lai Thúy không hiểu thơ phú, văn chương nịnh thối thơ Nguyễn Quang Thiều
vòng tròn phân chia
ĐỖ LAI THÚY KHÔNG HIỂU THƠ PHÚVĂN CHƯƠNG, NỊNH THỐI NGUYỄN QUANG THIỀU
Đỗ Hoàng
Trước đây tôi đọc bài Đỗ Lai Thúy viết khen "Thơ Vô lối" Hoàng Vũ Thuật. Tôi biết ông này không hiểu gì thơ phú văn chương, khen bừa khen ẩu. Từ đó tôi không bào giờ đọc Đỗ Lại Thúy nữa. Ngay cả khi ông viết thơ đời Trần, đời Lý...được đám nịnh bút như Vũ bình Lục tâng bốc, tôi cũng không thèm để mắt tới! Ông này loại "tầm chương trích cú dở hơi!". Loại mà thời Lý Bạch, tiên sinh hết sức chê bai:
魯叟談五經,
白髮死章句。
問以經濟策,
茫如墜煙霧。
嘲魯儒
李白
..."Lỗ tẩu đàm ngũ kinh
Bạch phát tử chương cú
Vấn dĩ kinh tế sách
Mang nhiên trụy yên vụ..."
Đô Hoàng dịch thơ:
Nho Lỗ bàn ngũ kinh
Bạc đầu vì chương cú
Hỏi ông cách cứu đời
Ông như mây vần vụ...
Nhại Đỗ Lai Thúy:
"Lai Thúy viết để xin.
Bạc đầu vì câu chữ
Hỏi ông câu thơ tình
Ông như cọng đu đủ!"
Nay lại phải viết bài phê phán Đỗ Lai Thúy vì một sự bất đắc dĩ! Đó là Đỗ Lại Thúy nịnh thối cái gọi là thơ Nguyễn Quang Thiều bằng một giọng điệu rất là "mắm cáy"
Nguyễn Quang Thiều đang chuẩn bị ứng cử cho chức "Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam" nên các báo chí văn nghệ chính thống, các cây bút nịnh thối được huy động ra quân tối đa.
Trước Viện Văn học tổ chức diễn đàn " Thơ Nguyễn Quang Thiều - lộ trình cách tân", tiếp tạp chí Nhà văn & Tác phẩm in bài của Văn Chinh bốc thơm thơ Thiều, tiếp tạp chí Thơ in bài bốc thơm thơ Thiều của Hữu Thỉnh...nay tạp chí Nhà văn & Tác phẩm tuyên truyền đậm hơn in bài của Đỗ Lại Thúy và của Lê Hoài Lương...coi Thiều như "Thi hào: (Su hào)!
Nhiều nhà văn, nhà thơ chân chính mỉa mai: "Chúng nó đang dọn sẵn bàn ghế, dán khẩu hiệu tâng bốc Nguyễn Quang Thiều. Sau này Thiều ngồi lên chức Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam có mâm bát ăn uống lẽ nào không nhớ đến đám khuyển mã chúng nó!". Đúng miếng ăn miếng nhục!
Thực ra chức Chủ tịch Hội Nhà văn như nhóm trưởng, tổ trưởng của một số nhà văn, nhà thơ cùng chí hướng, thời trước, hội họp với nhau, ai tài đức được anh em tôn lên làm trưởng!
Nay trong chế độ mới, chức này trước ngang Vụ trưởng, nay ngang Tổng cục trưởng nhưng "riêng một biên thùy, thiều gì cô quả, thiếu gì bá vương" có trụ sở, xe pháo, biên chế, có nữ có nam hầu hạ, lương hướng, bổng lộc, tiêu chuẩn chế đúng như một ông quan "tứ phẩm"! Ông quan văn nghệ này được tổ chức Đảng , Nhà nước chọn kỹ không khác gì bên các cơ quan đảng công quyền. Bổng lộc vật chất thì vừa phải, bỗng lộc tinh thần rất lớn nên tranh đoạt chức này cũng sinh tử như bên đảng, bên chính quyền! Nguyễn Quang Thiều công an gia truyền, bản thân cũng là công an chuyên nghiệp (ngoại tuyến) ở trong tầm ngắm "tổ chức đảng".
Họ ngửi thấy Thiều đủ cân lạng vào cuộc đua nên mới "thổi kèn" hết công năng cho ứng cử viên Nguyễn Quang Thiều! Loại hèn hạ, đê tiện như Văn Chinh, Thiên Sơn, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thụy Kha, Lê Hồ Quang, Hồ Thế Hà, Lê Hoài Lương... không nói làm gì, loại có chức như Hữu Thỉnh, loại có "chữ" như Đỗ Lai Thúy cũng khom mình tâng bốc Nguyễn Quang Thiều vì quyền lợi hay vì ngu dốt đều thật là mạt hạng!
Bài bốc thơm của Đỗ Lai Thúy " Thế giới thơ Thiều, một lối vào" (1) bốc mùi rất khó chịu!
Mới vào bài Thúy khoe cái "nghiên cứu" để dọa người ít chữ: "Thơ Việt Nam từ đầu thế kỷ đến nay, đã hai lần thay đổi hệ hình từ tiền hiện đại sang hiện đại và từ hiện đại sang hậu hiện đại. Lần thứ nhất từ mô hình thơ nghĩa (mũi tên) đến chữ sang chữ (mũi tên ) đến nghĩa, dù vẫn là thiểu số, nhưng coi như hoàn tất. Lần thứ 2 từ mô hình thơ chữ (mũi tên) đến nghĩa sang chữ (mũi tên) đến nghĩa (mũi tên) chữ, thì còn đang tiếp diễn, định hướng nhưng chưa hẳn định hình. Có điều những chuyển đổi ấy không nối tiếp mà gối tiếp, nên trong mỗi dòng thơ, thậm chí trong mỗi nhà thotonf tại một lúc cả ba hệ hình Bởi thế, đọc thơ Nguyễn Quang Thiều, nhất là định dạng thơ ông, tôi lại phải lần dở đường đi của thơ, để tìm một lối vào thơ ông"
Nguyễn Quang Thiều không phải làm thơ, Thiều là đại biểu của Vô lối.
"Đặc điểm của Vô lối là: Thứ nhất là nó chối bỏ truyền thống thơ ca của dân tộc và nhân loại, chối bỏ thẩm mỹ của loài người; thứ hai là triệt tiêu một trăm phần trăm vần điệu; thứ ba là viết dài dòng văn tự, dây cà ra dây muống; thứ tư là tù mù, tịch mịch, rối rắm, đánh đố mình, đánh đố người đọc; thứ năm là đại ngôn, sáo rỗng, trống hơ, trống hoắc, hô khẩu hiệu; thứ sáu là dung tục bẩn thỉu và tình dục bệnh hoạn; thứ bảy là sính dùng chữ nước ngoài một cách tùy tiện, chưa Việt hóa… (Vô lối phản lại thơ ca - Đỗ Hoàng)
Câu thơ Nguyễn Quang Thiều:" Câu của Nguyễn Quang Thiều trong Cây ánh sáng đạt kỷ lục, vượt Nguyễn Thị Kiêm đến 31 chữ (!) tức là 58 chữ.
"Cả những người đàn bà tội lỗi và thánh thiện vẫn vuốt ve con đỉa khổng lồ bám chặt bộ xương chàng và thì thầm run rẩy với con đỉa ấy, bị hành hạ vì con đỉa ấy, tự vẫn vì con đỉa ấy và tìm thấy một chút ý nghĩa đầy ảo giác với con đỉa ấy"
(Nguyễn Quang Thiều)
Người đọc nào kiên nhẩn đọc câu trên chắc cũng phải điên lên cùng kẻ viết!
Nó dài hơn câu :" Song of Myself "
I celebrate myself, and sing myself,
And what I assume you shall assume,
For every atom belonging to me as good belongs to you.
I loafe and invite my soul,
I lean and loafe at my ease observing a spear of summer grass.
My tongue, every atom of my blood, form’d from this soil, this air,
Born here of parents born here from parents the same, and their parents the same,
I, now thirty-seven years old in perfect health begin,
Hoping to cease not till death.
Creeds and schools in abeyance,
Retiring back a while sufficed at what they are, but never forgotten,
I harbor for good or bad, I permit to speak at every hazard,
Nature without check with original energy.
Nguyễn Viết Thắng dịch:
Bài hát chính tôi
"Tôi ca tụng mình, tôi hát về mình
Và cái tôi nhận về thì quí vị cũng nhận về mình như thế
Vì mỗi nguyên tử thuộc về tôi, cũng thuộc về quí vị.
Tôi là người lữ thứ, tôi gọi hồn tôi về
Tôi, kẻ vô công rồi nghề, cúi nhìn hoa cỏ mùa hè.
Lưỡi tôi, mỗi nguyên tử trong máu tôi là từ đất đai, từ không khí này
Sinh ra từ cha mẹ ở đây, và họ cũng sinh ra ở đây
Năm này tôi 37, cái tuổi tràn trề sinh lực
Và hy vọng sẽ không ngừng cho đến ngày tôi chết.
Những giáo điều và những trường học sẽ trống không
Cứ để cho quay lại một thời gian, chúng tốt đẹp ở nơi cần, nhưng ta sẽ không quên
Tôi tiếp nhận Tự nhiên như vốn có, thừa nhận mọi nơi, mọi lúc
Nói hết mọi điều với sức lực buổi đầu tiên."
Walt Whitman
Cầu dài nhất thơ của Walt Whitma là 15 từ, câu vô lối của Nguyễn Quang Thiều gấp 58: 15 = 4 (lần) câu của Walt Whitman!
Trong khi đó thơ ca tinh hoa của thế giới phương Tây hay phương Đông chỉ một bài thơ 20 chữ đã sống mài hơn 2 000 năm và còn sồng lâu hơn nữa:
飲酒看牡丹
今日花前飲,
甘心醉數杯。
但愁花有語,
不為老人開
(劉禹錫)
“Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm túy sổ bôi
Đãn sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai”
(Lưu Vũ Tích – Đời Đường)
Trước hoa giờ được uống
Mấy chén ngất ngư say
Chỉ buồn hoa lại nói
Không nở cho lão này!
(Đỗ Hoàng dịch)
古池
カエル飛び込む
水の音!
"Ao xưa
Con ếch nhảy vào
Tiếng nước!"
Thơ Hai ku - Nhật Bản - 8 chữ)
"27 chữ của Nguyễn Thị Kiêm thời Thơ mới đã không còn thì câu 41 chữ của Vi Thùy Linh và câu 58 chữ của Nguyễn Quang Thiều thời Vô lối sẽ tan như bong bóng xà phòng!" (Vô lối phản lại thơ ca - Đỗ Hoàng)
Vào bài Đỗ Lai Thúy đã dẫn ra khổ thơ coi là tiêu biểu cho thơ Nguyễn Quang Thiều để nịnh thối:
"Dây vĩ cẩm cuối cùng trăng đêm vụt đứt
Bức phong đen tụt xuống lõa lồ
Ôi vở kịch cuộc đời...
Màn cuối
Tiếng hề cười
Băm chả những u mê
Con bống đen đẻ trứng - Nguyễn Quang Thiều)
Đây không có gì là thơ cả, chỉ là một sự nói lảm nhảm làm dáng, ởm ờ ra vẽ chữ nghĩa tìm tòi, cách tân nhưng bẩn thỉu, dung tục, Những "tụt", "lõa lồ", trườn, ..đầy rẩy trong thơ vô lối của Thiều, nhưng kiểu nói ra vẻ "cách tân" nhưng cũ mèn, sống sượng, ngu độn "băm chả những u mê" cũng mãn tải trong thơ vô lối Nguyễn Quang Thiều và đám làm thơ vô lối hiện hành. Nó không đem đến một chút gì gọi là thẩm mĩ thơ ca! Trong sáng chữ Việt.
Thẳng thắn nói rằng Đỗ Lại Thuý không biết thẩm thơ, lại vụ lợi, phản khoa học, táng tận lương tâm!
Thơ vô lối Nguyễn Quang Thiều, Đỗ Lai Thúy gọi là thơ hậu hiện đại và vẽ biểu đồ để minh họa. Thế thì ta phải tìm hiểu "hiện đại" và"hậu hiện đại" là gì!. Đỗ Lai Thúy biết chứ Hán nên không phải giải thích dông dài về nghĩa của chữ này.
Định nghĩa của "Từ điển tiếng Việt" (NXB Khoa học Xã hội năm 1967): Hiện Đại "1- Thời đại ngày nay. 2 - Áp dụng những phát minh mới của khoa học bao gồm những phát kiến mới nhất..Máy móc hiện đại, Vật lý hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại..."
Tiếng Hán: Hiện: 现 1. xuất hiện, tồn tại
2. bây giờ, nay...
Hiện đại 现代: hiện đại, hiện nay, thời nay, tân thời
Hậu: 后, 後 nghìa là: 1. Sau, 2. phía sau
後现代 后现代 (Hậu hiện đại): Ở phía sau thời bây giờ.
Thơ hậu hiện là cách gọi, cách nói của những kẻ làm thơ tắc tỵ hủ nút, lòe thiên hạ. Ông sống hiện nay mà ông làm thơ để cho đời sau đọc, thưởng thức thì chó nào đọc và mèo nào thưởng thức cho ông (!). Ngụy biện , giả dối để bưng bít cho cái phi thơ ca!
Tổ tiên nhân loại và tổ tiên chúng ta, các cụ đều làm thơ cho đương thời họ sống mà đến nay con cháu đọc vẫn lôi cuốn, vẫn còn nhiều bài học để cho đời sau nữa. Các ông bà vô lối nhân danh viết cho đời sau"hậu hiện đại" phải nói tục cho sướng mồm, người bây giờ đọc như vấp phải cứt chó!
Đỗ Lai Thúy, người nghiên cứu văn hóa mà không hiểu thuật ngữ "hậu hiện đại" mà cổ cổ súy cho cái gọi là "thơ hậu hiện đại" thì bàn làm gì! Ông Thúy cố trình bày sơ đồ vòng tròn của mình để nói về "thơ hậu hiện đại":
" Thơ tiền hiện đại là vòng tròn số 1, chiếm vị trí trung tâm, gồm các nhà thơ chính thống hoặc phong trào, xoay quanh các hội nhà văn trung ương hoặc địa phương. Thơ hiện đại là vòng tròn số 2 ôm lấy vòng tròn thứ nhất và mỏng hơn nhiều so với vòng tron này. Các nhà thơ hiện đại thế hệ hai này cũng có thể là thành viên của các tổ chức chính thức, ít nhiều lệch chuẩn, nhưng chưa thể trở thành đối trọng nghệ thuật như Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng...nên chưa tạo ra một thúc đấy thẩm mỹ cho xã hội và quan trọng hơn cho bản thân họ. Thơ hậu hiện đại là vòng tròn thứ 3, mới định hướng nhưng (có thể còn) chưa định hình. Bởi vậy, tôi thể hiện nó bằng những nét đứt. Cấc nhà thơ hậu hiện đại của ta hiện nay còn đang ở giai đoạn dọn mặt bằng. Họ đả phá cấc quan niệm cũ về thơ, chức năng thơ, ngôn ngữ bằng một đối lập cực đoan; tự gọi mình là thơ dơ, thơ rác, thơ nghĩa đại..- Đ L T." Đám ấy đang sống thời hiện đạ (bây giờ)i, viết thời hiện đại (bây giờ) sao gọi họ viết cho "hậu hiện đại" - thời sau thời bây giờ (!). Quan niệm có thơ "hậu hiện đại" của ông Đỗ Lai Thúy sai hoàn toàn. Ông đã khẳng định thơ họ viết cho thời sau người, vạn vật sống! Cho dù không có thơ sau thời hiện đại, chỉ là cách gọi để chỉ đám làm thơ hủ nút - thơ vô lối cũng không được gọi tên "thơ hậu hiện đại"!
Những phỏng đoán, giả tưởng "hậu hiện đại" (sau thời ta sống ) ở tất cả các lĩnh vực khoa học, văn học, văn hóa nghệ thuật đều có, nhưng những tác phẩm văn chương, nhất là thơ viết sau thời ta sống thì không có giá trị gì và không ai làm việc ấy.
Đám làm thơ tự gọi "hậu hiện đại" và một số ông phê binh, phê chén gọi phong cho họ là "thơ hậu hiện đại " là việc làm lố bịch!
Như nhiều tiểu luận đã phân tích, chứng mính trước, Nguyễn Quang Thiều không biết làm thơ, không hiểu phép tắc tối thiểu của thơ ca. Ông ta viết ra đúng như đám vô lối viết "hầm bà làng", dở dơi, dở chuột. Đám Vô lối ấy giờ đông như kiến cỏ: Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Phú Trạm Inrasara, Trúc Thông, Nguyễn Quang Thiều, Hoàng Vũ Thật, Nguyễn Khoa Điềm, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Trần Hùng, Mai Quỳnh Nam, Tuyết Nga, Vi Thùy Linh.. Vô lối của họ phải dịch ra thơ Việt mới đọc được!
Đỗ Lai Thúy không hiểu văn chương nhất là không hiểu biết thơ ca.Ông Thúy đi khen bừa khen ẩu, tâng bốc những sản phẩm phi văn chương, thơ ca hết sức sai trái!
Hà Nội tháng 10/ 2020
Đ - H
(1) Bài trên tạp chí Nhà văn & Tác phẩm số 42 - tháng 7 + 8 / năm 2020
Người đăng: do hoang vào lúc 05:16
Gửi email bài đăng này

Thi tặc (tiếp)

 23:45 09/03/2025

nsdrtepooSf9g93i7577l6aclgfg75c9f36flc31i3909
i
muh

u91854
1

1
g
·
Đã chia sẻ với Công khai
THI TẶC PHÁ NAT THƠ VIỆT (tiếp theo)
Đỗ Hoàng
Thi tặc viết không vần, không điệu, tư duy méo mó, bệnh hoạn, giả dối, lươn lẹo, đánh trống bỏ dùi, cướp công, đổ lỗi , ngụy ngôn, ngụy tặc, dâm tặc, xú uế ….kém nát thơ Việt…..tứ chưng nan y! Tôi đã có nhiều chuyên luân, bài viết về bọn này, nay chỉ nhắc thêm một vài điểm cho rõ hơn!
Viết về mẹ mà rất giả dối, làm xiễc: “quẳng gánh bôn ba phiêu bạt” (Phan Hoàng); giả dối báo công phụng sự đất nước của đứa cả đời “dánh giặc trên giường”: “qua ải Bắc, qua đèo Nam, anh là một người con trai suốt đời đi đánh giặc (Cây nhạc ngựa – thơ đoạt giải báo Văn nghệ năm 1986 – Hoàng Vũ Thuật); giả dối, chung chung, man khai giả dối vào Dảng Cộng sản Viêt nam - Nguyễn Khoa Điểm:
“Chiếc đồng hồ vàng như vành hào quang tỏa sáng
Cho những ai biết sống ngẩng cao đầu
Mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu
Tôi đã hát trong buổi mình kết nạp?
--------------------------------------------
Tôi nhớ bạn bè phút giây sống chết
Nhớ quê hương cuộc sống mới bắt đầu
Nghe chuông ngân trên tháp Xpat-xkai-a
Tháng chạp, ở Hồng Trường, tôi trở lại
(Matxcova 12/1975 - Thâng Chạp Hồng trường)
Dâm dật tột cùng bệnh hoan:”Dây phơi nhà ai ,chiếc nịt vú thơm lừng nhìn đã thấy no nê” - Thi Hoàng- “Các cô gái buôn chuyến trên tàu nghẹo đầu ngủ, tóc tai bốc mùi cá khô/nều tôi laayss họ, tôi phải ngủ vơi hj như thề nào/ Nguyễn Quang Thiều – thơ giải thường Hội nhà văn Việt Nam năm 1993.
(con nữa)
Đ - H
Ảnh: Nguyễn Quang Thiều và tập thi tặc Người đếm ngược kim đồng hồ"

Phan Hoàng nên theo đít trâu suốt đời

 22:20 25/02/2025

TÊN PHU YÊN - DỐT NÁT - THI TẶC - BÂ XẠO - SÁO SẾN...
PHAN HOÀNG PHẢI THEO ĐÍT TRÂU SUỐT ĐỜI
Đỗ Hoàng
Ltg: Gần thế kỷ qua, bọn thơ Vô lối hoành hành tác oai, tác quái trên cõi Việt. Chúng là loại thi tặc – giặc thơ – phá hoại thi ca tổ tiên. Từ thằng thủy tổ Thanh Tâm Tuyền , phó thủy tổ Lê Văn Ngăn, đến Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Hoàng, Trần Hùng, In ra sa ra, Mai Quỳnh Nam, Mã Giang Lân, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Vũ Thuật, Mai Văn Phấn, Mai Quỳnh Nam, Tuyết Nga, Nguyễn Phan Quế Mai, Văn Cầm Hải, Trúc Thông, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Phan Thị Vàng Anh, Từ Quốc Hoài, Đinh Thị Như Thúy, Đỗ Doãn Phương, Thi Hoàng, Hoàng Hưng… đến đám hậu sinh, đám chíp hôi … tác phẩm của chúng cả nội dung và hình thức không đem đến điều gì mới mẻ cho văn chương mà lại phá hoại văn chương Việt! Phan Hoàng là một tên như thế: giả dối, sáo, sến, viết về mẹ mà cũng đóng kịch, nhạt nhẽo, gượng gạo…đầy chất Tàu ô!
Nguyên bản:
Phan Hoàng
TIẾNG THỞ MẸ NHỌC NHẰN
(Văn nghệ số28 /9/7/2022)
Thẫn thờ đêm tiếng thở mẹ nhọc nhằn
tiếng cánh cò rã rời trăm năm âm thầm mưa nắng
tiếng kết tủa buồn vui đời sông chạm biển về nguồn
Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh
gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức
như con bò đi hoang trở về hít thở mùi chuồng quen thuộc
cúi đầu tạ lỗi nghĩa trọng tình thâm
đêm đêm canh giữ tiếng thở mẹ nhọc nhằn
lòng nặng trĩu ngọn núi tuyết đông suy tư nhức nhói
Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca
đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất
gió rón rén ép mình hơi ấm se thắt sinh thành
nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm
rơi theo tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo
Ước gì ngọn gió ta như mầm non mới cựa mình trong lòng đất
và cơ thể mẹ là ngôi vườn thanh xuân ấm áp tiếng hoang sơ.
BÌNH GIẢNG:
Tôi đã nhiều lần nói: - Đọc đám thơ Vô lối – thi tặc – giặc thơ như đi hội nghị sang trọng mà dẫm phải cứt người! Khó chịu, tởm lợm! Thật ra không nên đọc nhưng vì văn chương, vì thơ nước nhà phải đọc, phải bình bởi bọn thi tặc cầm chịch văn nghệ mậu dịch tác oai, tác quái trên thi đàn nên tôi lại động bút.
Bọn thi tặc chuyên làm “vô lối – ( thơ không vần). Bọn chúng không biết là thơ không vần nhân loại và cha ông ta làm từ thuở khai thiên lập địa. Ngay khi ngồi trên ghế nhà trường các thầy đã nói làm thơ không vần như đi xiếc trên dây, rất dễ thất bại. Trí tuệ lớn, trái tim lớn mới có bài đứng lại, còn bọn “chấu cẩu” (chó) làm sao thành công!
Phan Hoàng là tay trong đám Vô lối – thi tặc – giặc thơ ấy viết loăng quăng, uốn éo, làm bộ, làm tịch, dùng đầy Hán tự… thế mà chúng lăng xê hết lượt này đến lượt khác trên các báo mậu dịch chính thống. Tay này có đi bệnh viện lắp phải trái tim chó hay không sao mà viết như robot?
…“Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh
gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức
như con bò đi hoang trở về hít thở mùi chuồng quen thuộc
cúi đầu tạ lỗi nghĩa trọng tình thâm
đêm đêm canh giữ tiếng thở mẹ nhọc nhằn
lòng nặng trĩu ngọn núi tuyết đông suy tư nhức nhói”…
Đọc khổ này thấy lợm mửa của một thằng kịch hề giả dối!
…“Quẳng gánh bôn ba phiêu bạt hư danh…”
Câu cũ như trái đất, vô bổ, không có chút tình nào,giả vòe, giả vịt…
Câu tiếp lại còn cũ hơn, lại làm bộ làm tịch hơn:
“gió bay về ngôi nhà ký ức tuổi thơ độc thoại gió xuân ký ức”
Câu cú nặng nề, lặp đi lặp lại!
Khổ tiếp cũng viết ỏn ẻn, sáo rồng:
…”Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca
đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất
gió rón rén ép mình hơi ấm se thắt sinh thành
nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm
rơi theo tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo…”
Toàn giọng điệu giả dối, không trái tim người!
Đây là bài vô lối làm xiếc chữ về Mẹ, chứ có tình mẫu tử gì đâu!
Thơ viết mề mẹ in chật trái đất, toàn bài hay, chứ có như bài này của Phan Hoàng.
Nông phu thì có:
Cơm người khổ lắm mẹ ơi
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi, vừa ăn”
Hay:
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng mem cơm tấm lưỡi lừa cá xương
Người có chữ:
Du tử ngâm -遊子吟 - Mạnh Giao - 孟郊
遊子吟
慈母手中線, 遊子身上衣;
臨行密密縫, 意恐遲遲歸。
誰言寸草心, 報得三春輝?
Du tử ngâm
Từ mẫu thủ trung tuyến
Du tử thân thượng y
Lâm hành mật mật phùng
Ý khủng trì trì quy
Thùy ngôn thốn thảo tâm
Báo đắc tam xuân huy.
Đỗ Hoàng dịch nghĩa
Sợi chỉ trong tay mẹ hiền,
Nay đang ở trên áo người đi xa.
Lúc mới lên đường, mẹ khâu kỹ càng,
Có ý sợ con chậm trễ trở về.
Ai dám nói rằng tấm lòng của một tấc cỏ,
Lại có thể báo đáp được ánh nắng của ba xuân?
Đỗ Hoàng dịch thơ:
KHÚC NGÂM CỦA CON ĐI XA
Mẹ hiền khâu sợi chỉ
Trên áo con đi xa
Lên đường mẹ khâu kỹ
Sợ con chậm về nhà
Ai dám một tấc cỏ
Báo đáp ba xuân qua!
Phan Hoàng cũng như bọn giặc thơ đềuTàu hóa, dùng tràn lan âm Hán Việt chưa được Việt hóa! Nhiều bài trước Phan Hoàng đã dùng hàng chục âm Hán Việt, bài này dùng trên 30 chữ (36 chữ). Một thứ Tàu ô!
1, kết tủa -結瑣
2,bôn ba - 奔波
3,phiêu bạt -漂犮
4,hư danh - 虛名
5,độc thoại-獨話
6,ký ức, ký ức记忆
7, thân thuộc 親屬
8,tạ lỗi 謝誄
9, nghĩa trọng 義重
10, tình thâm 情深
11, côn trùng 昆蟲
12, mê mãi 迷買
13,sinh thành 生成
14, dự báo 預報
15,thế gian 世間
16, thanh xuân 青春
17, hoang sơ 荒初
18, đông 冬
19, xuân 春
Bài phê bình trước,tôi đã nói Phan Hoàng nên rèo bò (theo đít trâu) Bài này nhắc lại – chữ nghĩa kiều Phan Hoàng và bọn “thi tặc – giặc thơ” nên cho theo đít trâu suốt đời. Chúng không được bén mảng đến Văn chương !

Tên PHan Hoàng - Phú Yên - Thi tặc

 22:17 25/02/2025

ĐỌC THƠ “LÒ MỔ” CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU
PHẦN III: TIẾP BƯỚC NGUYÊN NGỌC
Hôm nay tôi sẽ “viết nốt” về “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều.
Trong Chương 9, khi Nàng, thấy cuộc sống hiện tại như “sự giam cầm. Sao chúng ta không ra đi?”, “Chúng ta không thể yêu nhau giữa những con ruồi”, “Bầy ruồi đang bu kín chúng ta”, “Bầy ruồi sẽ ăn thịt em”, “Bầy ruồi khao khát đẻ trứng vào giấc mơ của em, chúng muốn em mang thai cho chúng”, v.v… thì Chàng nói về “Một bến bờ xa xôi. Một ngôi nhà xa xôi”, “Em có nhìn thấy những cánh đồng giàn giụa xanh liền với chân trời”, “Tiếng gió vọng vang. Ngập tràn những ô cửa nắng”, v.v…
Vậy “Một bến bờ xa xôi. Một ngôi nhà xa xôi” ở đâu?
Tôi cũng không biết đó là ở đâu. Nhưng tôi biết với văn chương, Thiều đã làm gì, đã có những quan điểm “đổi mới” để mơ tưởng cái gì? Hôm nay tôi sẽ nhắc lại vài chuyện có liên quan.
***
Nhà thơ Nguyễn Chí Hiếu, nguyên TBT Báo Văn nghệ TpHCM, từng nhắn tin cho tôi:
“Đông La vào FB cậu Thiều đọc bài " Cho cuộc gặp gỡ văn chương năm 2025 tại Mỹ" đi. Mình thấy xu hướng của cậu Thiều ngày càng lệch lạc. Chẳng lẽ nền văn chương Viêt Nam không "lương tri", không "can đảm" sao & Y muốn mời mấy tên "nhà văn chống cộng" chuồn qua Mỹ từ 1975 tham dự để làm gì? Đông La nên viết bài vạch trần bộ mặt của tên Thiều này để anh chị em hội Nhà văn biết. Mình tiếc mình đã già, không còn làm gì được. Buồn quá !”
Hướng về Mỹ và Phương Tây là con đường mà Đảng viên, Bí thư Đảng Đoàn Hội Nhà Văn VN Nguyễn Quang Thiều hướng tới. Đó cũng chính là con đường mà Nguyên Ngọc đã vạch ra.
Nguyên Ngọc là người đã phất cờ "lộn ngược văn chương" nhằm “rửa mặt” cho Pháp và Mỹ từng gây ra và duy trì chiến tranh tại VN. Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, v.v… đã đi theo con đường này và đã được “ăn tiền”. Nguyên Ngọc không ngờ rằng người kế tục nhiệt thành và hiệu quả nhất con đường của mình lại chính là Nguyễn Quang Thiều, trong đó có chuyện vọng ngoại, phản lại lịch sử và nền văn học cách mạng.
***
Nhớ lại lần tôi dự Hội nghị Lý luận Phê bình của Hội Nhà Văn VN ở Tam Đảo, ngày 7 -7-2016, tôi gặp Nhà văn Nguyễn Bảo, đại tá, nguyên là Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Anh nói rất thích đọc tôi viết và khoe anh có viết một bài liên quan đến hai ông Nguyên Ngọc và Nguyễn Chí Trung. Anh kể hồi chiến tranh Nguyễn Chí Trung và Nguyên Ngọc ở cùng Ban văn học Cục chính trị Quân khu V. Một lần anh Nguyễn Bảo và Nguyên Ngọc vào viện 108 thăm Nhà Văn, nguyên là Trợ lý TBT Lê Khả Phiêu, Tướng Nguyễn Chí Trung nằm viện, Nguyên Ngọc nói: “Này những điều bọn mình nói (Chủ nghĩa Mác Lê Nin) với các cậu trước đây hãy quên đi nhé!”. Nguyễn Chí Trung giật áo anh Nguyễn Bảo: “Những điều bọn anh nói trước đây cơ bản đúng cả đấy”.
Hai người khác nhau từ đấy. Nguyên Ngọc phản trắc, trở cờ, còn Nguyễn Chí Trung có lần nói: “Có người bảo chậm nhất là 10 năm nữa, Chủ nghĩa xã hội sẽ không còn ở Việt Nam. Sợ tôi không sống được đến 10 năm nữa, nhưng nếu tôi chết mà lời nói kia là sự thật, xin các người cứ đái vào mộ tôi”.
***
Hồi 1979, khi Nguyên Ngọc được giao làm Bí thư Đảng Đoàn Hội Nhà Văn VN từng có tham vọng phất cờ đổi mới văn chương, từng tuyên ngôn “Cái cốt lõi của văn nghệ là tính nhân đạo”, nhưng thực tế lại ca ngợi văn chương của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều chi tiết bất hảo, bất nhân, trái luân thường đạo lý, xuyên tạc sự thật, phản lịch sử dân tộc. Nguyên Ngọc cũng từng đấu tranh để cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh được giải thưởng, một cuốn sách xuyên tạc sự thật về đội quân cách mạng và cuộc kháng chiến. Nguyên Ngọc cũng ca ngợi Dương Thu Hương, con mụ ba xạo kể trong ngày giải phóng 30-4-1975 ngồi trên vỉa hè Sài Gòn khóc như cha chết vì thấy phe chiến thắng của mình là đội quân man rợ. Với cuốn “Bên thắng cuộc” của thằng Huy Đức San “hô”, cả hai phía “bên thắng” và “bên thua” đều thấy Huy Đức xuyên tạc sự thật thì Nguyên Ngọc lại cho là “rất trung thực”. Cô Nhã Thuyên đã làm một cái luận văn thạc sĩ ca ngợi thơ của nhóm “Mở miệng” chuyên làm thơ mất dạy, bố láo, kích động lật đổ thể chế. Khi cái luận văn đã bị thu hồi, Nguyên Ngọc lại cho sự phê phán và thu hồi là “vụ đả kích luận văn Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên) đã đưa chúng ta «về thời kỳ đồ đá, nhất là trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa»”.
***
Thời Nguyên Ngọc nắm quyền, Thiều không lọt được vào “mắt xanh” Nguyên Ngọc như Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh, nhưng rồi Nguyên Ngọc không thể ngờ rằng người tiếp bước mình lại chính là Thiều, và còn cao tay hơn, khi Nguyên Ngọc bị thất sủng, thành kẻ bên lề, bất mãn, quấy phá thì Thiều lại trở thành Chủ tịch Hội Nhà Văn VN, tiếp bước Nguyên Ngọc một cách bài bản, đàng hoàng. Và với tài véo von, Thiều còn biến những chuyện sai trái độc hại trở thành “nên thơ”. Như ông Lê Cao Tâm tố cáo Thu Uyên trên truyền hình “Lợi dụng nhân đạo móc túi bá tánh” thì Thiều nói ý là cần phải giúp Thu Uyên “cứu lấy lòng nhân ái”; hai tài năng độc hại, nhân cách hôi thối là Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh thì Thiều cho Thiệp là “Nhà văn tìm đạo cho dân”, cho “Nỗi buồn chiến tranh” là “chạm vào mẫu số chung nhân loại”; v.v…
***
Đời luôn có những kẻ xu nịnh bất chấp đúng sai tốt xấu. Thiều là Chủ tịch Hội Nhà Văn VN tất những kẻ như thế phải nịnh. Một bạn đọc vào thảo luận bài tôi viết cho biết thằng Phạm Lưu Vũ đã ca ngợi “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều. Một thằng ngu xuẩn, lưu manh tất phải vậy, bởi nó từng tuỳ tiện tâng bốc thơ Thiều thế này: “Bài thơ tả bầy chó của Thiều hay đến kinh người. Mỗi lần sủa là một lần lóe chớp, không lần nào giống với lần nào. Sủa lần đầu là kiếp súc sinh, sủa lần sau là kiếp con người, sủa lần tiếp theo là hiền nhân quân tử, sủa tiếp nữa là triết gia, thi sĩ… cứ thế sủa cho tới bậc… thánh nhân”. Viết vậy, Phạm Lưu Vũ đúng là mất dạy hết nấc, ngu xuẩn hết nấc, trái Đạo hết nấc, bởi theo Đạo Phật, chúng sinh phải tu tập tỷ tỷ kiếp, loại hết nghiệp tham, sân, si, mới có thể đạt được quả vị thánh, chứ không phải chỉ sủa như chó tranh ăn điên cuồng là sẽ thành thánh! Đáp lại sự tâng bốc của Phạm Lưu Vũ, theo Nhà Văn Trúc Phương cho biết, Nguyễn Quang Thiều đã cướp quyền duyệt bài của TBT Báo Văn nghệ, đã cho in sớm truyện “Ba viên xá lợi” cực kỳ phản động của Phạm Lưu Vũ.
Tôi không nhớ ở đâu, Thiều từng tự cho mắt mình như “mắt trâu”, cô em thân thiết của Thiều là Dạ Thảo Phương thì tả mắt “ông anh” như “hai cái chén tống”, vậy mà cô Lương Lan Hương lại cho tôi biết thằng Nguyên Hùng ca ngợi Thiều như “người mẫu” (xem ảnh).
Thật hết sức kinh tởm bọn xu nịnh này.
26-2-2025
ĐÔNG LA / Nguyễn Văn Hùng— với Paul Nguyễn Hoàng Đức và Phạm Lưu Vũ.

Dịch Vô lối Nguyễn Quang Thiều

 21:09 15/02/2025

Nhưng từ khi thi tặc – vô lối Nguyễn Quang Thiều (Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam), thi tặc – vô lối Nguyễn Bình Phương (Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam) cùng bảy, tám thi tặc khác ơ trong lãnh đạo Ban chấp hành Hội Nhà văn thực hiện công an hóa Văn nghệ cầm chịch văn chương nước nhà thì bọn thi tặc áp đảo văn đàn ! Đám thi tặc được in ấn tràn lan trên báo chí chính thống. Không một ai dám hở hơi răng lạnh! Mình để thời gian học các thi hào có phải hay hơn không:
“Nàng đột ngột đổi tiếng chàng trống rỗng
Thành tiếng anh thân thiết đậm đà
Thưa em, em đẹp lắm.
Mà thâm tâm anh chưa thể nói ra!”
(Puskin)
Có hơn đọc loại viết như cứt chó,, cứt người của lũ thi tặc dâm loạn bệnh hoạn, gian manh, xảo trá, dốt năt, tệ tàn: Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Thi Hoàng, Vi Thùy Linh, Hoàng Vũ Thuật, Mai Văn Phấn, Phan Hoàng, Đinh Thị Như Thúy, Phạm Đương…
Như bài thi tặc sau đây của thi tặc Nguyễn Quang Thiều thì ai mà ngửi được. Thế mà nó được chọn in, được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng (năm 1993), được tuyển chọn 100 bài thơ hay thế kỷ XX, được Comlombi ai trao giải thưởng (!). Nhục cho thơ phú nước Việt không nói nổi!
Người mới tập làm thơ cũng không viết kém nát như thế này!
Ai đi nói cí xấu xa của bà con cô bác – người sinh thành ra mình con hơn con mụ ăn trộm, mần đĩ!
“Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái”
Đồ loại vô học!
Rồi còn vô học tiếp:
“ Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy”
Người ta chỉ cần nói: « Nửa đòi tôi thấy” là đủ rồi !
Thế đẻ tâm trí, thời gian thưởng thức thi hào đông, tây có hơn không?
NHỨNG NGƯỜI ĐÀN BÀ GÁNH NƯỚC SÔNG
Nguyễn Quang Thiều
Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bám vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết nổi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi lăm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.
1992
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt
CHỊ EM GÁNH NƯỚC SÔNG

Văn Chinh bôc thơm Nguyễn Quang Thiều

 21:28 08/02/2025

Văn Chinh là một gã làm tiền trong Văn chương

Không chọn khoảng 700 người Hôi viên Hội Nhà văn vào Chân dung 810 Văn sx Việt đương đại

 04:49 07/02/2025

Không chọ khoảng 700 người vào Chân dung 810 Văn sĩ Việt đương đạ

Không chọn khoảng 700 người Hôi viên Hội Nhà văn vào Chân dung 810 Văn sx Việt đương đại

 04:49 07/02/2025

Không chọ khoảng 700 người vào Chân dung 810 Văn sĩ Việt đương đạ

Không chọn khoảng 700 người Hôi viên Hội Nhà văn vào Chân dung 810 Văn sx Việt đương đại

 04:49 07/02/2025

Không chọ khoảng 700 người vào Chân dung 810 Văn sĩ Việt đương đạ

Gan 400 vij khong phai hoi vien hoi Nha van Viet Nam duoc chon vao Chan dung 810 vij Van si Viet duong dai

 05:14 25/01/2025

Bạn bè
4.996 người bạn
Hoai Quang Phuong
Ngọc Lan
Phan Ngoc Minh Art
Trương Thu Huyền
Quyền riêng tư · Điều khoản · Quảng cáo · Lựa chọn quảng cáo · Cookie · · Meta © 2025
Bài viết
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Facebook
Do Hoang
oeotrpSsdnh6
3
711fa2a416cau6
h
3204i
ú
p
ch2tgch8
t
2t1a838gi
0
5

tl6m
·
Đã chia sẻ với Bạn bè của bạn
Gần 400 vị ( Không Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam) được chọn vào”Chân dung 810 Văn sĩ Việt đương đại”- Đỗ Hoàng
Tiếp theo
Phần Văn:
1 - Cung Tích Biền thấm ba đào
Nước mát nhân thế thấm vào còn cay!
2 - Kẻ ma làm như ăn mày
Trần Kim Trắc có những ngày đảo điên!
3 - Nguyễn Đỗ Phú đêm đợi tàu
Rồi xuống ga lẻ biết đâu mà tìm!
5 - Trùng Dương đổi cả đời minh
Cho câu văn được hiển linh phận hèn!
(còn nữa)

Loai bo gan 700 nguoi la Hoi vien hoi Nha van Viet Nam

 08:39 22/01/2025

Loại bỏ dần những thằng Văn nô ngu dốt, xu thời ra khỏi “ Chân dung 810 vị Văn sĩ Việt:”
1 - Khuất Bình Nguyên thơ à uôm
Chạy giải thưởng hơn con buôn chạy tà
2 - Lanh chanh Nguyễn Thị Ngọc Hà
Thơ vè thấp thoáng ta bà gian thương
3 - Thơ vô lối Nguyễn Bình Phương
Vì dốt nát phá văn chương nước mình!
(còn nữa 600 tên hơn)
Đỗ Hoàng

Vô lối ngu độn Nguyễn Bình Phương

 06:17 20/01/2025

Vô lôi vô học, ngu độn Nguyễn Bình Phương
Lts:
Chưa bao giờ trong cõi Việt sau thời hậu chiến nồi da xáo thịt tang thương cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI lại xuất hiện một kiểu viết phi văn chương, dài dòng nhạt nhẽo gượng gạo như Nguyễn Quang Thiều, cụt lủn vô cảm, vô tình như Thanh Tâm Tuyền, sơ sài lòng thòng, kể lể báo công xu thời như Lê Văn Ngăn, kệch cởm khệnh khạng khô khan như Nguyễn Khoa Điềm, điên loạn như Mai Văn Phấn, rối rắm, uốn éo, nông cạn, tù mù , ngu độn như Nguyễn Bình Phương, tắc tỵ như Văn Cầm Hải, hủ nút như Hoàng Vũ Thuật, Văn Cầm Hải, đơn điệu cọc lóc như Dư Thị Hoàn, dục cảm bệnh hoạn như Vi Thùy Linh…
vannghecuocsong.com
Nguyên bản:
MÙA THU ĐẦU TIÊN (*)
Mang xống áo mùa thu
Làm mùa thu
Nhớ giấc ngủ ngàn thu trong đài sen úa
Nhớ giọng nói mềm mại như bóng râm
Chảy vào căn nhà đổ
Ngày nào về đây xem rùa nổi giữa hồ
Sông Ngân xuống sông Hồng lên tiếng kêu xé ruột
Ngày nào ngó cơn giông trong suốt
Ta cầm tay ta hôn nhau
Tựa hoa nở thật nhẹ nhàng thật chậm
Ngày nào theo em đi lấy rau cần
Gặp mái tóc rủ buồn mệt mỏi
Con diều vàng bén lửa giữa hoàng hôn
Vừa trăng trăng rập rờn
Đã chuông rền loang loáng sóng Hồ Tây
Mùa thu len lén ra khỏi cây
Đi nào đi với anh xuống đáy hồ xa thẳm
(*) Bài in trên báo Văn Nghệ tết Bính Thân số: 5+6+7/2016
BÌNH GIẢNG:
Đỗ Hoàng
Tôi cũng nhiều lần nói, in một bài thơ tốn không bao nhiêu tiền trên báo nhưng nó không phải thơ thì nguy hại vô cùng cho độc giả, rộng hơn là cho nên văn chương nước nhà. Điều này thật đúng cho tình trạng in thơ ở nước ta trong nhiều thập kỷ qua khi các tờ báo (báo in, báo mạng) công quyền , tư quyền lăng xê những tác phẩm phi văn chương. Và bài vô lối Mùa thu đầu tiên của Nguyễn Bình Phương là một trường hợp như thế.
Nguyễn Bình Phương với kiểu viết tù mù, tắc tỵ, ẻo ợt, uốn éo, giả vờ lên gân, làm bộ, làm tịch, vô nghĩa, vô hồn, ngu độn, khô khan đại hạn, cụt là cụt lụt, ngô ngô ngọng ngọng, làm duyên, làm dáng, điệu đàng, khoe mẽ, tối mò mò, không một tí tơ lòng rung động lan truyền đến người đọc. Người đọc cảm thấy bực bội, khó chịu thậm chí phẩn nộ như ăn phải thực phẩm bẩn của một lối lập ngôn cổ quái. một thứ viết đồng bóng thô lậu kém văn hóa, vô học thiếu từng trải làm băng hoại tiếng Việt và thơ Việt như vậy. Bài “Mùa thu đầu tiên” vừa dẫn ra là một kiểu viết như thế của Nguyễn Bình Phương.
Ngay đặt tên tựa đề đã thấy chung chung, đánh đố. Mùa thu đầu tiên gì? Mùa thu đầu tiên mình có bạn tình, mùa thu đầu tiên mình có nhà mới, mùa thu đầu tiên mình có con trai... Thơ không thể chưa viết đã hiểu và cũng không thể “viết không ai hiểu”?
Vào hai câu mở đề đã chệch chọac:
“Mang xống áo mùa thu
Làm mùa thu” .
Anh ở đâu mà chạy tới được mang xống áo mà thu? Anh là là thằng ăn cắp?
Rồi lại làm mùa thu?
Anh thá gì mà làm được mùa thu? Trái đất hàng

VÔ LỐI NGUYỄN KHOA ĐIỀM- Dichj tho

 19:42 19/01/2025

VÔ LỐI NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Nguyên văn:
CÕI LẶNG
Nguyễn Khoa Điềm
Cõi lặng. Anh soi thấy mặt mình
Với nỗi buồn trong sạch
Cõi lặng. Không tiếng động nào khác
Tiếng đập trái tim anh
Người ơi, tôi yêu người tha thiết
Tôi sống với người, chết vì người
Cõi lặng. Tôi vượt qua ghềnh thác
Đến những miền trong xanh
Ngày 17-1-2003
Nguồn: Thơ Nguyễn Khoa Điềm, tuyển tập 40 năm do tác giả chọn, NXB Văn học, 2012
BÌNH GIẢNG:
Chuyển sang Văn xuôi:
Cõi lặng. Anh soi thấy mặt mình. Với nỗi buồn trong sạch. Cõi lặng. Không tiếng động nào khác, Tiếng đập trái tim anh. Người ơi, tôi yêu người tha thiết. Tôi sống với người, chết vì người. Cõi lặng. Tôi vượt qua ghềnh thác. Đến những miền trong xanh!
Chuyển sang văn xuôi mới biết nó không ra thẻ loại gì, phú không ra phú, sớ không ra sớ, tế không ra tế, bản tự kiểm điểm trước chi bộ không ra bản kiểm điểm trước chi bộ . Bản khai tù không ra bản khai tù. Nó là một quái thai, quỷ ba đầu sáu chân Văn chương Việt Nam ở thời Đảng Cộng sản Việt Nam bạo quyền toàn trị!
Tôi đã có chuyên luận “ Cõi Lặng – tập sách yếu kém dưới trung bình” – in trên vannghecuocsong.com. Nay chỉ bình bài Cõi Lặng.
Nguyễn Khoa Điềm lúc đương chức thì có trùng trùng điệp các nhà học giả, học thật, tiến sĩ bò, tiến sõ trâu, tiến sĩ vịt, tiến sĩ chó… bốc thơm, đễn cục cứt của Điềm cũng thơ hay! Duy một người phản bác lại thơ Vô lối Nguyễn Khoa Điềm là tôi - Đỗ Hoàng
Nguyễn Du có phóng dịch một câu rât hợp cảnh trong Kiều lúc này:
“Đã rằng bứng kín miệng bình
Nào ai có khảo mà mình lại xưng.”
Anh về Cõi lặng, anh mới soi thấy mặt mình, còn Cõi ồn thì theo lý trên, anh không bao giờ soi thấy được. Điều ấy quá đủng, nhân gian ai cũng biết, Cõi ồn anh làm sao soi thấy mặt mình. Vì mặt anh phải hóa trang, đeo mặt nạ. Cõi ồn không phải một mình anh, ai nhập hội Cõi ồn đều phải như vậy! Nhân gian biết tỏng tòng tong. Người ta phán lâu rồi: “Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”! Còn cụ Tổ nhà anh nói: Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ hựu nô lệ”. Ai chả biết. Nhưng anh giả đeo mặt nạ để hưởng đầy đặc quyền, đặc lợi trong ấy , giờ anh mới ngộ ra, dù ngộ chưa đủ, người ta mới chú ý.
Câu trên không phải thơ, nó là bản tự kiểm điểm công tác của con chiên, phật tử. Đảng Cộng sản Việt Nam không bao giờ có kiểu đảng viên sám hối và thú tội được câu như thế này..
Thôi thế cứ cho anh là thành thật đi. Vì mặt giả của anh đã làm bao nhiều điều tệ hại, nhưng mặt thật của anh và nỗi buồn trong sạch của anh có thật không? Làm sao mà thật được? Anh cũng ngoắng lên. Chúa và Phật cũng không dám tự xưng mình “ có nỗi buồn trong sạch”, thứ gì anh, một con người trần đang đầy tham , sân, si :
“Làm người chưa trọn kiếp người
Còn mơ kiếp Phật cao vời thế kia
Kiếp người đâu dễ dứt đi
Cõi trần những thứ tham si hại mình”
(Đỗ Hoàng)
Buồn anh sao mà trong sạch được. Anh đang oán bọn lại quả cho anh không như cam kết trong phim “ Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Không” anh ký duyệt trên triệu đô, “ Làng văn hóa các dân tộc” 2 triệu đô, Phim “ Dòng sông phẳng” lặng nửa triệu đô”, và nhiều dự án ma khác! Có dự án anh cuỗm hết không chia chác cho bọn chúng, chúng đang muốn xin tí tiết anh! Buồn anh làm sao mà trong sạch. Rồi cái buồn cố hữu sẽ theo anh về nấm mồ trong lăng mộ họ Nguyễn Khoa là anh không phải Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam mà anh man khai lý lịch để luồn sâu leo cao lên đến Nhất phẩm triều đình. Dù hồi hưu rồi nhưng anh vẫn nơm nớp lo âu. Vi ông cậu bên vợ anh là Nguyễn Đức Đạo nguyên Trưởng Phân xã TTX Trị -Thiên thời chống Mỹ, giờ ở Huế cách nhà anh không đầy cây số đã lên tận triều đình gặp Vua Lê Khả Phiêu là bạn chiến đấu của mình ở chiến trường Trị - Thiên tố cáo anh man khai lý lịch Đảng luồn sâu leo cao! Anh làm sao có nỗi buồn trong sạch? Rồi nhà báo Nguyễn Quang Vinh tức Nhà thơ Vĩnh Nguyên bị anh danh nhân bí thư Chi bộ Hội Văn nghệ Bình Tri Thiên khai trừ ra khỏi Đảng tố cáo anh “ Giấy chuyển sinh hoạt Đảng đi không hợp lệ, thì giấy chuyến sinh hoạt Đảng về không hợp lệ, sao anh dám nhận Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng?”. Buồn anh là buồn con chuột, vớ vẩn!
Tiếp đến là hai câu vô lối sượng sạo, giả dối, sáo rỗng, miệng nam mô, bụng bồ dao găm, hô khẩu hiệu, nhạt nhẽo, xơ cứng, khô khan đại hạn, vờ vịt,.. vừa kém tình nhân loại, vừa gượng gạo, vừa sến, vừa đóng kịch ti vi.. bậc nhất trong tiếng nói nhân loại:
Người ơi, tôi yêu người tha thiết
Tôi sống với người, chết vì người
Câu kết sám hối rất bậy bạ:
Cõi lặng. Tôi vượt qua ghềnh thác
Đến những miền trong xanh
Nhân quần ai cũng biết miền anh dựng nên nó chẳng trong xanh gì. Người ta có quyền chối bỏ nó. Nhưng anh đã hưởng thành quả trong cái miền không lấy gì trong xanh ấy. Nhà anh có có lính gác, đất được phong tước vài trăm triệu đô, con cái vào làm những nơi lầu son, gác tía, chỗ hái ra vàng, ra bạc. Giờ về Cõi lặng, anh lại đạp đỗ Cõi ồn của Anh sao?
Tóm lại bài Vô lối Cõi Lặng không phải THƠ CA NÊN KHÔNG NÊN MẤT THÌ GIỜ TÌM HIỂU NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT DÙNG TỪ, ĐẶT CÂU. Nó cũng là một loại quái thái Văn chương đương đại!
Hà Nội 12 – 12 – 2017
Đ - H
DỊCH RA THƠ VIỆT
Đỗ Hoàng dịch ra thơ Việt
CÕI LẶNG
Cõi lặng, anh soi thật mình
Nỗi buồn trong sạch, trắng trinh giữa đời
Cõi lặng, không tiếng nào rơi
Tiếng tim anh đập muôn đời nào yên
Yêu người tha thiết thiêng liêng
Nguyện cùng sống chết, đảo điên vì người
Cõi lặng, ghềnh thác vượt rồi
Đến miền thanh sạch, tuyệt với trong xanh!
Hà Nội quang 2012
do hoang vào lúc 15:13

RÁNH HÁO DANH

Nguyên Tài Cẩn là nhà nghiên cứu văn học tài năng.

Thăm dò ý kiến

Lợi ích của phần mềm nguồn mở là gì?

Left-column advertisement
Thống kê
  • Đang truy cập5
  • Hôm nay347
  • Tháng hiện tại1,621
  • Tổng lượt truy cập19,045
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi